You are on page 1of 23

MÔN : CÔNG PHÁP QUỐC TẾ

ĐỀ TÀI: NGUYÊN TẮC KHÔNG SỬ DỤNG VŨ LỰC VÀ

ĐE DỌA SỬ DỤNG VŨ LỰC- LIÊN HỆ THỰC TIỄN

GVHD: LÊ THỊ XUÂN PHƯƠNG

NHÓM : 2

LỚP: LAW 323 A

ĐÀ NẴNG ,THÁNG 11 NĂM 2021


DANH SÁCH NHÓM 2

STT MSSV HỌ VÀ TÊN NỘI DUNG CÔNG ĐÁNH


VIỆC GIÁ
1 2971 Phan Thị Thanh Nga Tổng hợp word, slide, 100%
Thực tiễn tranh chấp
2.1
2 3861 Lê Thị Quỳnh Thực tiễn hiện nay 2.1 100%

3 8560 Đặng Thị Minh Ngọc Thực tiễn hiện nay 2.2 100%

4 3134 Nguyễn Thị Bích Ngọc Một số kiến nghị 100%

5 1740 Nguyễn Thị Thanh Nhi Một số kiến nghị 100%

6 6608 Phan Hoài Duyên Nội dung của nguyên 100%


tắc
7 3868 Nguyễn Diễm Quỳnh Nội dung của nguyên 100%
tắc
8 6388 Nguyễn Thị Thanh Xuân Mở đầu, kết thúc, 100%
thuyết trình
9 5624 Nguyễn Thị Thanh Xuân Nguồn gốc hình thành 100%
của nguyên tắc
10 5281 Phan Thị Thuỳ Trang Ngoại lệ của nguyên 100%
tắc
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...................................................................................................................4
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC CẤM SỬ DỤNG VŨ LỰC
VÀ ĐE DỌA DÙNG VŨ LỰC TRONG QUAN HỆ QUỐC TẾ:........................5
1.1. Nguồn gốc hình thành nguyên tắc không sử dụng vũ lực và đe dọa sử
dụng vũ lực.............................................................................................................5
1.2. Nội dung và cơ sở pháp lý của nguyên tắc không sử dụng vũ lực và đe
dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế:.............................................................7
1.3. Ngoại lệ của nguyên tắc không sử dụng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực.........11
II. THỰC TIỄN QUAN HỆ PHÁP LÝ QUỐC TẾ VỀ THỰC HIỆN
NGUYÊN TẮC KHÔNG SỬ DỤNG VŨ LỰC VÀ ĐE DỌA SỬ DỤNG
VŨ LỰC..................................................................................................................13
2.1. Tranh chấp biên giới Ấn Độ và Trung Quốc.................................................13
2.2. Trung Quốc đưa giàn khoan Hải Dương 981 vào vùng đặc quyền kinh
tế và thềm lục địa của Việt Nam..........................................................................15
2.3. Một số khuyến nghị.......................................................................................17
KẾT LUẬN............................................................................................................20
Danh mục tài liệu tham khảo:..............................................................................21

3
MỞ ĐẦU
Từ thời kì cổ đại cho tới những năm đầu của thế kỉ XXI hiện nay, thế
giới liên tục phải trải qua các cuộc chiến tranh lớn nhỏ từ nội chiến trong
nước, giữa các quốc gia với nhau hoặc xung đột của các phe đồng minh,…
mà tiêu biểu nhất là 2 cuộc chiến tranh thế giới ở nửa đầu thế kỉ XX. Với mục
tiêu cao cả là “phòng ngừa cho thế hệ mai sau khỏi thảm họa chiến tranh”,
Liên hợp quốc đã quy định “Nguyên tắc Cấm sử dụng vũ lực và đe dọa dùng
vũ lực trong quan hệ quốc tế” trong Hiến chương của Liên hợp quốc. Với
mục tiêu cao cả là “phòng ngừa cho thế hệ mai sau khỏi thảm họa chiến
tranh”. Cùng với sự phát triển của xã hội loài người, các văn kiện của Liên
hợp quốc sau này đã góp phần bổ sung, làm sáng tỏ hơn những tư tưởng tiến
bộ của nguyên tắc nói trên thông qua một số văn kiện như Tuyên ngôn 1970
của Liên hợp quốc, Nghị quyết Liên hợp quốc 1974, Công ước Luật biển
1982...

4
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC CẤM SỬ DỤNG VŨ LỰC
VÀ ĐE DỌA DÙNG VŨ LỰC TRONG QUAN HỆ QUỐC TẾ:
1.1. Nguồn gốc hình thành nguyên tắc không sử dụng vũ lực và đe dọa sử
dụng vũ lực.
Nguyên tắc cấm sử dụng vũ lực và đe dọa dùng vũ lực được xem là
nguyên tắc có tầm quan trọng bậc nhất trong tất cả các nguyên tắc cơ bản của
luật pháp quốc tế. Luật pháp nói chung được đặt ra để con người có thể sống
với nhau trong xã hội một cách hòa bình, hay ít nhất không xung đột một mất
một còn. Nếu vũ lực được sử dụng một cách không hạn chế, thì từ thời điểm
đó luật pháp chỉ là trò cười, một đống giấy lộn mà thôi. Luật pháp quốc tế
cũng là luật pháp và do đó cũng tương tự như thế.1

Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 – 1918) đã xuất hiện Quy
chế Hội Quốc Liên. Điều 12 Quy chế Hội Quốc Liên quy định các nước thành
viên không được sử dụng chiến tranh khi chưa áp dụng các biện pháp hòa
bình. Như vậy, mặc dù đã có bước tiến mới so với Công ước Lahay 1899 và
Công ước năm 1907 nói trên nhưng Quy chế Hội Quốc Liên vẫn chưa đưa ra
quy định cấm dùng vũ lực, vẫn coi việc áp dụng vũ lực là phương pháp cuối
cùng để giải quyết các tranh chấp quốc tế. Tiếp đến là Hiệp định Paris 1928
về khước từ chiến tranh. Hiệp định này xác định: “Các quốc gia thành viên
lên án việc sử dụng chiến tranh để giải quyết các tranh chấp, xung đột quốc tế
và cam kết không dùng chiến tranh như một công cụ quốc sách trong quan hệ
với nhau”. So với các công ước quốc tế về vấn đề cấm sử dụng hoặc đe dọa
sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế thì Hiệp định Paris 1928 quả là một
bước tiến quan trọng.

Tuy nhiên, trước khi vấn đề này được cả thế giới công nhận, loài người
đã phải trải qua những thảm họa kinh hoàng của cuộc Chiến tranh thế giới thứ
hai (1939 –1945). Sau hai cuộc thế chiến, đặc biệt là Chiến tranh Thế giới thứ
2, con người đã phải chịu đựng “nỗi đau đớn không nói thành lời” hai lần
1
Lời nói đầu, Hiến chương Liên hợp quốc năm 1945.
5
trong cuộc đời ngắn ngủi của họ. Do đó, vũ lực cần phải được hạn chế mạnh
mẽ hơn và hiệu quả hơn, không chỉ bằng quy định mà còn bằng một cơ chế
bảo đảm và giám sát thực hiện hiệu quả. Và để đáp ứng suy nghĩa đó, Hiến
chương Liên hợp quốc năm 1945 đã quy định nguyên tắc cấm đe dọa sử dụng
hay sử dụng vũ lực là một trong những nguyên tắc của Tổ chức này, giao cho
Hội đồng Bảo an trách nhiệm chính yếu để giám sát thực thi nhằm bảo đảm
duy trì hòa bình và an ninh quốc tế. Nguyên tắc này cũng được cụ thể hóa
trong một loạt các văn kiện quốc tế quan trọng khác như: Tuyên bố của Đại
hội đồng Liên hợp quốc 1974 về định nghĩa "xâm lược", Định ước của Hội
nghị Hensinki 1975 về an ninh và hợp tác của các nước châu Âu, Công ước
Lahay năm 1899 về hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế, Công ước năm
1907 về hạn chế sử dụng vũ lực đối với quốc gia vi phạm cam kết quốc tế,
Tuyên bố năm 1987 về việc nâng cao hiệu quả của nguyên tắc khước từ đe
dọa dùng vũ lực hoặc dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế…

Cùng với đó là sự ra đời của Liên hợp quốc và bản Hiến chương của
liên hợp quốc đã nêu rõ tại khoản 4 điều 2 quy định rằng: “Trong quan hệ
quốc tế, các hội viên Liên hợp quốc không được có hành động đe dọa bằng vũ
lực hay dùng vũ lực để chống lại quyền bất khả xâm phạm về lãnh thổ hay
nền độc lập chính trị của bất cứ một nước nào, hoặc bằng cách này hay cách
khác làm trái với những mục đích của Liên hợp quốc”.

Ngoài được quy định tại khoản 4 Điều 2 Hiến chương, nguyên tắc này
còn tồn tại trong tập quán quốc tế. Trong phán quyết của Tòa án Công lý quốc
tế (ICJ) trong vụ những hoạt động quân sự chống lại Nicaragua (Nicaragua
kiện Mỹ năm 1986). Tòa đã xem xét và lập luận những hành vi của Mỹ đã vi
phạm nguyên tắc cấm dùng vũ lực và đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ quốc
tế nêu ra tại Điều 2.4 Hiến chương LHQ trong việc thực hiện các hành vi giúp
đỡ các nhóm phiến loạn tấn công, xâm nhập lãnh thổ Nicaragua. Tòa cũng đã
bác bỏ lập luận của Mỹ trong việc thực hiện “quyền tự vệ tập thể” với lý do
Nicaragoa đã có thái độ thù địch với các nước láng giềng là Honduras và El
6
Sanvador. Đồng thời, hành vi ủng hộ, giúp đỡ tài chính, huấn luyện và trang
bị cho tổ chức Contras được Tòa xác định là sự vi phạm nguyên tắc không
can thiệp vào công việc nội bộ của một quốc gia có chủ quyền. Trên cơ sở
những lập luận đó, Tòa đã kết luận Mỹ đã vi phạm các nguyên tắc cơ bản của
luật pháp quốc tế và xử cho Nicaragua thắng kiện. Đây là lần đầu tiên công
nhận nguyên tắc này là một quy phạm tập quán quốc tế, ràng buộc tất cả các
quốc gia trên thế giới.2 Hơn thế nữa, vì tầm quan trọng không thể chối cãi của
nguyên tắc mà nguyên tắc cấm sử dụng vũ lực còn được công nhận là một
quy phạm mệnh lệnh bắt buộc chung (quy phạm jus cogens) 3– một trong
những quy phạm hiếm hoi được xem có giá trị pháp lý cao nhất. Jus cogens
xuất hiện lần đầu trong Công ước Viên về Luật điều ước quốc tế nằm 1969.
Điều 53 Công ước quy định “quy phạm mệnh lệnh bắt buộc chung là quy
phạm được chấp nhận và công nhận bởi toàn thể cộng đồng quốc tế của các
quốc gia như một quy phạm mà không cho phép bất kỳ quy định trái ngược,
và chỉ có thể thay đổi bằng một quy phạm sau đó của luật pháp quốc tế chung
có tính chất tương tự.”

1.2. Nội dung và cơ sở pháp lý của nguyên tắc không sử dụng vũ lực và
đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế:
Cơ sở pháp lý của nguyên tắc cấm dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực
trong quan hệ quốc tế được ghi nhận cụ thể trong Khoản 4 Điều 2 Hiến
chương Liên hợp quốc: “Tất cả các quốc gia thành viên Liên hợp quốc từ bỏ
đe dọa bằng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế nhằm chống lại
sự bất khả xâm phạm về lãnh thổ hay nền độc lập chính trị của bất kỳ quốc
gia nào cũng như bằng cách khác trái với những mục đích của Liên hợp
quốc”.

Hiệp định Paris 1928 về khước từ chiến tranh: “Các quốc gia thành
viên lên án việc sử dụng chiến tranh để giải quyết các tranh chấp, xung đột
2
Vụ Hoạt động quân sự và bán quân sự trên lãnh thổ Nicaragua (Nicaragua v Mỹ) [1986] (Phán quyết về nội
dung) ICJ.
3
ILC, Draft Articles on the Law of Treaties with Commentaries, 1966, tr. 247. Cho đến hiện nay, chỉ có Pháp
từ chối công nhận sự tồn tại của quy phạm jus cogens trong luật pháp quốc tế.
7
quốc tế và cam kết không dùng chiến tranh như một công cụ quốc sách trong
quan hệ với nhau”.

Việc tuyên bố rõ nguyên tắc này trong Hiến chương Liên hợp quốc,
điều ước quốc tế này cơ bản có giá trị làm nền tảng cho luật pháp quốc tế hiện
đại đã chứng tỏ mong muốn của cộng đồng quốc tế: việc sử dụng vũ lực hoặc
đe dọa sử dụng vũ lực cần phải bị nghiêm cấm và loại bỏ trong quan hệ quốc
tế. Nguyên tắc được thể hiện qua ba vấn đề: cấm xâm lược vũ trang; Cấm
xâm lược gián tiếp, xâm lược về kinh tế và xâm lược về tư tưởng; Cấm đe dọa
sử dụng vũ lực.

Thứ nhất, việc cấm vũ trang xâm lược. Đó là nội dung chính của
nguyên tắc cấm sử dụng vũ lực và đe dọa vũ lực. Bởi lẽ, hành động gây hấn
có vũ trang là hành động nguy hiểm nhất đe dọa trực tiếp đến hòa bình và an
ninh. Xâm lược có vũ trang là tội ác quốc tế nghiêm trọng nhất chống lại loài
người và do đó, thủ phạm của nó phải chịu trách nhiệm lớn nhất trước nhân
loại. Các văn bản pháp luật có thể là: Hiệp ước Pa-ri ngày 27/8/1928 cấm
chiến tranh xâm lược và cấm sử dụng chiến tranh làm công cụ chính trị quốc
gia để giải quyết các tranh chấp quốc tế. ; Phán quyết của Tòa án Công lý
Quốc tế Niu-răm-be cho rằng "chiến tranh xâm lược không chỉ là hành vi bất
hợp pháp mà còn là tội phạm", "gây chiến tranh xâm lược không chỉ là tội
phạm quốc tế mà còn là tội phạm quốc tế". . nghiêm trọng hơn "; Hiến
chương Liên hợp quốc, 1970 Tuyên bố của Đại hội đồng Liên hợp quốc
nghiêm cấm các quốc gia sử dụng vũ lực để đạt được những mục đích trái với
những gì của Hiến chương Liên hợp quốc

Thứ hai, cấm xâm lược gián tiếp, xâm lược về kinh tế và xâm lược về
tư tưởng. Như đã trình bày, theo Luật quốc tế hiện đại các quốc gia có nghĩa
vụ không được tiến hành những hành động xâm lược vũ trang và cả các hình
thức xâm lược khác, cụ thể là xâm lược về kinh tế và xâm lược về tư tưởng..

8
Xâm lược gián tiếp: là phương pháp hoạt động phá hoại phổ biến của
chủ nghĩa đế quốc và bọn phản động quốc tế chống lại các quốc gia khác.
Xâm lược gián tiếp khác với xâm lược vũ trang ở chỗ quốc gia xâm lược hoạt
động giấu mặt thông qua người khác. Những hành động sau đây có thể gọi là
xâm lược gián tiếp:

1) Xúi giục, giúp đỡ các quốc gia khác đi xâm lược để thực hiện mưu đồ
chính trị của mình.
2) Khuyến khích các hành động phá hoại như khủng bố, tàn sát chống
nước khác.
3) Khích động gây nội chiến ở nước khác.
4) Hoạt động lật đổ chính quyền ở các nước khác một cách có lợi cho
mình.

Xâm lược kinh tế: là phương pháp hoạt động phá hoại phổ biến của các
nước đế quốc và nhóm phản động quốc tế nhằm gây sức ép đối với các nước
yếu thế hơn bắt các nước này phải phụ thuộc vào chúng về kinh tế và chính
trị. Những hình thức xâm lược kinh tế có thể là:

1) Áp đặt những điều ước kinh tế thương mại không bình dẳng, mang tính
nô dịch.
2) Trao đổi kinh tế không ngang giá.
3) Cản trở quốc gia khác thực hiện quốc hữu hóa tài nguyên thiên
nhiên của mình.
4) Phong tỏa kinh tê và nhiều hình thức cản trở hoạt động kinh tế của
quốc gia khác

Xâm lược về tư tưởng: là phương pháp hoạt động phổ biến của bọn chủ
nghĩa đế quốc và phản động nhằm gây hoang mang, lo sợ, thù hằn trong quần
chúng nhân dân. Những hình thức cấm xâm lược tư tưởng phổ biến hiện
nay là:

1) Tuyên truyền chiến tranh.


9
2) Kích động tư tưởng thù hằng dân tộc.
3) Tuyên truyền, ca tụng vũ khí giết người hàng loạt.

Thứ ba, cấm đe dọa sử dụng vũ lực. Luật quốc tế hiện đại xem việc đe
dọa sử dụng vũ lực chống lại quốc gia khác là một tội ác quốc tế, là một loại
vi phạm pháp luật quốc tế riêng biệt. Những hành động đe dọa sử dụng vũ lực
phổ biến trong thực tiễn quan hệ quốc tế hiện nay là:

1) Tập trung quân đội (lục quân, hải quân, không quân) ở biên giới giáp
với quốc gia khác.
2) Tập trận ở biên giới giáp với quốc gia khác.
3) Gửi tối hậu thư đe dọa quốc gia khác.

Những hành động này đều trái với tinh thần và nội dung của Hiến
chương Liên hợp quốc. Các quốc gia gây ra những hành động như vậy phải
chịu trách nhiệm theo qui định của luật quốc tế

Nguyên tắc cấm dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực được khái quát
hóa trong Tuyên bố 1970 ở những nội dung sau:

1) Cấm xâm chiếm lãnh thổ quốc gia hoặc sử dụng lực lượng vũ trang
vượt qua biên giới tiến vào lãnh thổ quốc gia khác;
2) Cấm cho quân vượt qua biên giới quốc tế, trong đó có giới tuyến hòa
giải;• Cấm các hành vi đe dọa trấn áp bằng vũ lực;
3) Không cho phép quốc gia khác sử dụng lãnh thổ của mình để tiến hành
xâm lược chống nước thứ ba;
4) Không tổ chức, khuyến khích, xúi giục, giúp đỡ hay tham gia vào nội
chiến hay các hành vi khủng bố tại quốc gia khác;
5) Không tổ chức, giúp đỡ các băng đảng vũ trang, nhóm vũ trang, lính
đánh thuê đột nhập phá hoại lãnh thổ quốc gia khác;
6) Cấm tuyên truyền chiến tranh xâm lược
7) Cấm dùng vũ lực để ngăn cản các dân tộc thực hiện quyền tự quyết
của mình;
10
1.3. Ngoại lệ của nguyên tắc không sử dụng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực
Do việc sử dụng vũ lực đã bị nghiêm cấm, mọi thành viên của Liên hợp
quốc trong quan hệ đối ngoại của mình, đều không được phép sử dụng vũ lực
hoặc đe dọa dùng vũ lực. Tuy nhiên cùng với xu thế phát triển của thời đại,
các quan hệ quốc tế ngày càng phức tạp. Nhằm đối phó với tình hình, bảo vệ
nền hòa bình và an ninh quốc tế, bên cạnh nguyên tắc “cấm dùng vũ lực hoặc
đe dọa bằng vũ lực”

Thứ nhất, theo Hiến chương Liên hợp quốc, các quốc gia vẫn được phép
sử dụng vũ lực ít nhất trong hai trường hợp.

Một là, quyền được phòng vệ chính đáng. Điều 51 của Hiến chương
Liên hợp quốc quy định: Khi nói đến quyền tự vệ của một quốc gia, Liên hợp
quốc đã nhấn mạnh rằng quyền này chỉ tồn tại trong trường hợp bị tấn công
vũ trang, tức là chỉ khi quốc gia đó bị tấn công. bằng vũ lực, chỉ quốc gia bị
tấn công mới có quyền chống lại cuộc tấn công này bằng vũ lực. Điều này có
nghĩa là Hiến chương cấm một bang sử dụng bạo lực vũ trang chống lại quốc
gia khác khác khi quốc gia này chỉ sử dụng các biện pháp kinh tế hoặc chính
trị. Quyền tự vệ chính đáng của nhà nước được thực hiện trong khuôn khổ
pháp luật, điều kiện: quốc gia bị tấn công từ một cuộc xung đột vũ trang; mức
độ phòng vệ chính đáng phải nhỏ hơn hành vi vi phạm. Theo tinh thần của
Hiến chương Liên hợp quốc, quyền tự vệ chính đáng của quốc gia chỉ được tự
do trong một thời gian tạm thời. Một khi Hội đồng Bảo an đã quyết định hành
động, vụ việc sẽ do họ quyết định. Các dân tộc thuộc địa, phụ thuộc cũng có
quyền dùng bạo lực cách mạng để giải phóng dân tộc, ,giành độc lập, tự do.
Đó là quyền tự vệ chính đáng của các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc, phù hợp
với nguyên tắc dân tộc tự quyết và không trái với nguyên tắc sử dụng hoặc đe
dọa bạo lực.

Hai là, việc sử dụng vũ lực theo quyết định của Hội đồng Bảo an. (quy
định tại Chương VII của Điều lệ) và Điều 39 của Hiến chương. Hiến chương
trao cho các lực lượng quân sự của Liên hợp quốc quyền sử dụng vũ lực để
11
loại bỏ mối đe dọa, theo quyết định của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Hòa
bình và An ninh thế giới

Như vậy, dựa theo tinh thần của Hiến chương Liên hợp quốc, quyền tự
do hành động của quốc gia để tự vệ là tạm thời. Một khi Hội đồng Bảo an đã
quyết định về biện pháp, vụ việc sẽ đặt dưới quyền của cơ quan đó. Trong
thực tiễn quan hệ quốc tế, quyền tự vệ là cách duy nhất mà các quốc gia có
thể sử dụng vũ lực một cách hợp pháp, và sự can thiệp của Hội đồng Bảo an
trong trường hợp này được coi là một cơ chế kiểm soát hữu hiệu để tránh các
quốc gia lạm dụng vũ lực.Tuy nhiên, sự can thiệp trên chỉ thực sự phát huy
tác dụng nếu có sự đồng ý từ các nước lớn cùng nhau hành động để ngăn chặn
việc sử dụng vũ lực, Hội đồng bảo an sẽ không áp đặt bất kỳ biện pháp trừng
phạt nào thông qua việc sử dụng vũ lực. Nếu như hành vi của bên vi phạm
không đủ để gây nguy hiểm cho hòa bình và an ninh thế giới.

Thứ hai, ngoại lệ khác: can thiệp nhân đạo và sự đồng ý của quốc gia
liên quan. Can thiệp nhân đạo có thể được tiến hành và tiến hành hợp pháp
theo luật pháp quốc tế, nếu thỏa mãn 03 điều kiện:

1) Có bằng chứng thuyết phục, được toàn thể công đồng quốc tế
công nhận rộng rãi về sự tồn tại của thảm họa nhân đạo cần thiết phải
được loại trừ ngay;
2) Hoàn cảnh của vụ việc rõ ràng và khách quan là không có bất kỳ
biện pháp thay thế nào ngoài sử dụng vũ lực – sử dụng vũ lực là biện pháp
cuối cùng khả thi;
3) Việc sử dụng vũ lực ở mức cần thiết tối thiểu và tương xứng để
loại trừ thảm họa nhân đạo đó.

Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại, quan điểm về ngoại lệ này vẫn còn
nhiều tranh cãi, cụ thể là những vấn đề liên quan đến việc chủ thể nào sẽ là
bên có thẩm quyền đánh giá về sự tồn tại của thảm họa nhân đạo, hay việc sử
vũ lực là biện pháp cuối cùng khả thi trong trường hợp đó, hoặc là mức độ sử

12
dụng vũ lực như thế nào được xem là tối thiểu và tương xứng. Rõ ràng, cho
đến khi các vấn đề pháp điểm hóa ngoại lệ trên được thực hiện thì can thiệp
nhân đạo sẽ không được chấp nhận rộng rãi như một quy định tập quán quốc
tế – một ngoại lệ mới của nguyên tắc cấm sử dụng vũ lực.

II. THỰC TIỄN QUAN HỆ PHÁP LÝ QUỐC TẾ VỀ THỰC HIỆN


NGUYÊN TẮC KHÔNG SỬ DỤNG VŨ LỰC VÀ ĐE DỌA SỬ DỤNG
VŨ LỰC
2.1. Tranh chấp biên giới Ấn Độ và Trung Quốc.
Tranh chấp giữa Ấn Độ và Trung Quốc về các khu vực giáp với gần
3.500 km dọc theo biên giới Himalaya không có gì mới, nhưng chúng đã diễn
ra trong 8 thập kỷ và châm ngòi cho chiến tranh giữa hai nước vào năm 1962.
Từ đó đến nay, chuyện phân định lãnh thổ, dù đã trải qua hơn 20 vòng đàm
phán giữa hai bên nhưng cuối cùng biên giới trên bộ giữa Ấn Độ và Trung
Quốc vẫn chưa được giải quyết. Tranh chấp biên giới là một trong những
nguyên nhân gây căng thẳng giữa hai nước và trong 10 năm trở lại đây. Tình
hình bỗng trở nên căng thẳng kể từ đầu tháng 5/2020 khi liên tiếp xảy ra 2
vụ làm hàng trăm người bị thương tại khu vực biên giới. Sự kiểm soát của Ấn
Độ đối với khu vực biên giới ở Cao nguyên Ladakh ở phía tây dãy Himalaya.
Cho đến nay vẫn chưa rõ căng thẳng xuất phát từ đâu; chính phủ Ấn Độ đã
lên tiếng tố cáo binh lính Trung Quốc đã ném đá vào các binh sĩ Ấn Độ mà
không có lý do vào đầu tháng Năm. Bắc Kinh đánh trả ngay sau đó, cáo buộc
quân đội Ấn Độ xâm nhập lãnh thổ Trung Quốc một cách bất hợp pháp.

Trong khi truyền thông Ấn Độ đưa tin về các hoạt động xây dựng tại
một căn cứ ở Trung Quốc chỉ cách biên giới 195 km, bao gồm cả đường băng
cho máy bay chiến đấu, thì Bộ Ngoại giao Trung Quốc nhấn mạnh: "Trung
Quốc cam kết đảm bảo an ninh chủ quyền và lãnh thổ quốc gia cũng như
đảm bảo Hòa bình và ổn định ở khu vực biên giới giữa Trung Quốc và Ấn
Độ. Việc Ấn Độ tích cực xây dựng đường xá và sân bay dọc biên giới với
Trung Quốc nên thể hiện sự kiểm soát mạnh mẽ hơn, khiến Bắc Kinh phẫn
13
nộ. Ấn Độ cũng đã triển khai lực lượng vũ trang và hỏa lực ở khu vực biên
giới

Cuộc xung đột biên giới của ngày 15 tháng 6 năm 2020 có thể được coi
là sử dụng vũ lực vì: nó phát sinh giữa quân đội hai nước; có yếu tố vũ lực; có
hy sinh, một số dữ liệu cho thấy vũ khí được sử dụng không phải là vũ khí
quân sự mà là đá và dính đinh. Điều này không thay đổi bất cứ điều gì ở kết
luận trước, vì bạo lực không phải từ vũ khí quân dụng n phải đi ra ngoài và
chiếm giữ đá và gậy cũng là một dạng vũ khí. Kết luận không có nghĩa là liên
kết với một quốc gia sử dụng vũ lực là không chính xác. Tuyên bố trái ngược
nhau của hai quốc gia khiến việc xác minh thông tin vụ việc phản ánh là gì.

Sự đối đầu thường xuyên giữa Ấn Độ và Trung Quốc phải được nhìn
nhận trong bối cảnh hiện nay. Mặc dù có một số thỏa thuận và giao ước chính
thức nhằm giải quyết tranh chấp biên giới Ấn Độ - Trung Quốc, hai nước đã
không thể giải quyết xung đột, dù về mặt pháp lý hay ngoại giao. Kể từ năm
1993, cả hai này đã tham gia vào một loạt các thỏa thuận song phương cung
như những quy định của luật pháp quốc tế. Một trong những hiệp ước đầu
tiên trong số nhiều hiệp ước giữa Ấn Độ và Trung Quốc là Hiệp định hòa
hoãn năm 1993, sau đó là Hiệp định về các biện pháp xây dựng lòng tin năm
1996, Hiệp định về thiết lập cơ chế làm việc về các vấn đề biên giới năm
2012 và Hiệp định về phòng thủ biên giới. Hợp tác vào năm 2013. Năm 2005,
một Nghị định thư đối với Thỏa thuận năm 1996 đã được thực hiện để tạo cho
nó một hình dạng cấu trúc. Ngoài các công cụ pháp lý này, hai quốc gia đã
tiến hành một số hội nghị thượng đỉnh không chính thức trong những năm gần
đây, chủ yếu nhằm mục đích thiết lập sự hiểu biết về tranh chấp biên giới, dựa
trên việc tuân thủ lỏng lẻo các quy tắc nghiêm ngặt về hình thức pháp lý.
Chúng bao gồm “Tinh thần Vũ Hán” và “Đồng thuận Astana”, cả hai đều tập
trung vào các phương pháp tiếp cận dựa trên nguyên tắc để giải quyết các vấn
đề biên giới và tìm cách khôi phục lại các luật hiệp ước hiện có. Nhưng cuối

14
cùng điều này lại tỏ ra vô ích, đặt ra câu hỏi về tính hiệu quả của các hiệp ước
trong việc giải quyết những thực tế có tính phức tạp như vấn đề này.

Ứng xử quốc tế của Ấn Độ luôn bị chi phối bởi các cách tiếp cận chính
thức, chẳng hạn như đưa ra kiến nghị, nộp hồ sơ và thực hiện luật hiệp ước.
Tuy nhiên, điều này không mang lại hiệu quả tốt, vì cách tiếp cận của Trung
Quốc là bảo thủ hoặc bất chấp các truyền thống và chuẩn mực đã được thiết
lập. Ấn Độ cần khám phá những con đường thay thế để giải quyết vấn đề ranh
giới một cách hiệu quả hơn. Sự thành công của bất kỳ thỏa thuận hiệp ước
nào phụ thuộc vào các diễn giải thuận lợi của nó, và một chính sách đối ngoại
thành công trước hết phải ngăn chặn được xung đột. Ấn Độ phải từ bỏ cách
tiếp cận duy tâm và đánh giá lại chính sách đối ngoại của mình đối với Trung
Quốc để phù hợp với thực tế cơ bản.

2.2. Trung Quốc đưa giàn khoan Hải Dương 981 vào vùng đặc quyền
kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.
Ngày 02/5/2014, Trung Quốc ngang nhiên kéo giàn khoan Hải Dương
981 tới vị trí cách đảo Tri Tôn thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam 17 hải
lý về phía Nam, cách đảo Lý Sơn của tỉnh Quảng Ngãi, Việt Nam khoảng 120
hải lý về phía Đông. Đây là vị trí nằm hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế
200 hải lý của Việt Nam theo Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển quốc tế
năm 1982. Theo quy định Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982, một
quốc gia ven biển có quyền có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa rộng
200 hải lý tính từ đường cơ sở. Trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa,
quốc gia ven biển hoàn toàn có quyền khai thác tài nguyên trên biển cũng như
dưới đáy biển. Các quốc gia khác chỉ có quyền qua lại vô hại trên biển và nếu
muốn thực hiện hoạt động kinh tế trong khu vực này phải được sự đồng ý của
quốc gia ven biển. Hoàng Sa không phải là của Trung Quốc và Trung Quốc
cũng không thể lập luận rằng giàn khoan Hải Dương - 981 nằm trong vùng
đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Hoàng Sa theo quy định của Công ước
Liên hợp quốc về Luật Biển 1982. Nghị quyết 2625 ngày 24/10/1970 của Đại
15
hội đồng Liên hợp quốc quy định rõ: “Lãnh thổ của một quốc gia không thể là
đối tượng của một cuộc chiếm đóng quân sự do sử dụng vũ lực trái với các
quy định của Hiến chương Liên hợp quốc. Lãnh thổ của một quốc gia không
thể là đối tượng của một sự chiếm hữu từ một quốc gia khác sau khi dùng vũ
lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực. Bất kỳ sự thụ đắc lãnh thổ nào đạt được bằng
đe dọa hay sử dụng vũ lực sẽ không được thừa nhận là hợp pháp”.

Không chỉ vậy Trung Quốc còn quyết liệt hơn là dùng vũ lực để đe dọa
các tàu thuyền đánh cá của ngư dân Đà Nẵng cách giàn khoan 17 hải lý ở khu
vực phía Nam Tây Nam, đây là là ngư trường truyền thống, thuộc vùng đặc
quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam. Càng nghiêm trọng hơn, các tàu của
Trung Quốc chủ động, cố tình đâm va, làm hư hại nhiều tàu thuyền của lực
lượng thực thi pháp luật của Việt Nam, thậm chí đã đâm chìm tàu đánh cá của
ngư dân Việt Nam, làm bị thương nhiều cán bộ thuộc các cơ quan thực thi
pháp luật của Việt Nam và nhiều ngư dân đang hoạt động tại ngư trường
truyền thống trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Đây là các hành
động sử dụng vũ lực trên thực tế. Điều 301 Luật biển 1982 cũng quy định
rằng: “Trong việc thực hiện các quyền và làm tròn nghĩa vụ của mình, các
quốc gia thành viên tránh dựa vào việc đe dọa sử dụng hay sử dụng vũ lực để
xâm phạm toàn vẹn lãnh thổ hay độc lập chính trị của mọi quốc gia, hoặc
tránh dùng bất kỳ cách thức nào khác không phù hợp với các nguyên tắc của
pháp luật quốc tế đã được nêu trong Hiến chương Liên hợp quốc”. Vì những
lẽ nêu trên nên các hành động này của Trung Quốc là hết sức nguy hiểm, đe
dọa trực tiếp hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn hàng hải ở biển Đông.

Để bảo vệ quyền chủ quyền, quyền tài phán của mình trong vùng đặc
quyền kinh tế theo đúng quy định của luật pháp quốc tế, lực lượng thực thi
pháp luật của Việt Nam tích cực tuyên truyền, kêu gọi Trung Quốc chấm dứt
ngay hành vi vi phạm pháp luật quốc tế, rút giàn khoan ra khỏi vùng biển Việt
Nam. Chính phủ Việt Nam đã can thiệt và đã có thư gửi phản đối hành động
phía Trung Quốc cũng như là tổ chức họp báo, và Thủ tướng Việt Nam
16
Nguyễn Tấn Dũng lần đầu tiên công khai tố cáo Trung Quốc về việc đưa giàn
khoan Hải Dương 981 cùng hơn 80 tàu hộ tống đi vào vùng biển Việt Nam và
kêu gọi sự ủng hộ của quốc tế. Việt Nam đã tích cực tuyên truyền, giải thích
rõ lập trường của mình cũng như cập nhật tình hình trên biển cho bạn bè quốc
tế, để dư luận các nước hiểu rõ sự vi phạm của Trung Quốc trong vùng đặc
quyền kinh tế của Việt Nam. Cộng đồng quốc tế đã có những phản ứng quyết
liệt trước cách hành xử của Trung Quốc trên Biển Đông. Một loạt các quốc
gia như Mỹ, Nhật Bản, Philippines, Indonesia, Ấn Độ đã lên án các hành
động bất chấp luật pháp quốc tế, gây mất ổn định và làm gia tăng căng thẳng
trong khu vực của Bắc Kinh. Trước những sức ép ngày càng lớn đến từ dư
luận trong nước và quốc tế, ngày 16/7/2014, Trung Quốc đã quyết định rút
giàn khoan phi pháp Hải Dương 981 ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế của Việt
Nam. Từ đó, trong con mắt của công luận quốc tế, Trung Quốc đã trở thành
một nước ngày càng hung hăng, vi phạm luật pháp quốc tế, đe dọa an ninh,
hòa bình và ổn định khu vực.

Việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương - 981 trong vùng đặc
quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam là đã vi phạm nghiêm trọng luật
pháp quốc tế. Cụ thể, Trung quốc đã vi phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền
và quyền tài phán của Việt Nam theo Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển
1982; vi phạm luật pháp quốc tế về cấm sử dụng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ
lực trong quan hệ quốc tế nói chung và trong việc giải quyết tranh chấp nói
riêng; vi phạm Tuyên bố về ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC) mà
Trung Quốc là bên tham gia ký kết; trái với Thỏa thuận về những nguyên tắc
cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam - Trung Quốc ký năm
2011.

2.3. Một số khuyến nghị


Quy định về cấm sử dụng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực đã được quy
định trong hiến chướng Liên Hợp Quốc là nguyên tắc có tầm quan trọng bậc
nhất trong tất cả các trong tất cả các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế.
17
Nhưng thực tế đã chứng minh, sử dụng vũ lực vẫn là một hiện tượng thường
thấy hiện nay.Những cuộc chiến tranh gần đây càng thúc đẩy hành vi sử dụng
vũ lực tới đỉnh điểm. Điều này khiến chúng ta cần phải xem xét lại vấn đề sử
dụng vũ lực và luật quốc tế. Tại khoản 2 điều 2 Hiến chương đã quy định về
nghĩa vụ của các nước thành viên “Tất cả các quốc gia thành viên Liên hợp
quốc đều phải làm tròn những nghĩa vụ mà họ phải đảm nhận theo Hiến
chương này để được đảm bảo hưởng toàn bộ các quyền và ưu đãi do tư cách
thành viên mà có”,nhưng vấn đề tuân thủ đúng theo quy định này vẫn còn là
vấn đề nan giải. Bởi lẽ từ trước đến nay luật quốc tế vẫn bị coi là “luật mềm”
bởi việc chấp hành pháp luật trong nước luôn được bảo đảm bằng quyền lực
tối cao của nhà nước là chủ quyền quốc gia, còn cộng đồng quốc tế khó có
một quyền lực có đủ sức mạnh tối cao như vậy để bảo đảm việc chấp hành
pháp luật quốc tế. Do đó, tự giác tuân thủ là cách bảo đảm có hiệu quả nhất
đối với luật quốc tế. Tự giác tuân thủ là một việc làm rất có ý nghĩa trong
quan hệ quốc tế.

Thực hiện sự giám sát thông qua Liên Hợp Quốc. Trong thời gian qua
Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc đã có những nỗ lực rất lớn khi thực hiện sự
giám sát đối với nguyên tắc này. Tuy nhiên trong tình hình một số siêu cường
đang thực thi chủ nghĩa bá quyền với nguyên tắc “các nước lớn nhất trí” thì
vai trò của Hội đồng Bảo an trong một số trường hợp đã không phát huy hết
hiệu lực của mình khi giám sát việc thực hiện nguyên tắc “cấm sử dụng vũ
lực”. Vì vậy, hiện nay, đối với những trường hợp tương tự cần phải có một tổ
chức cao hơn Hội đồng Bảo an, cụ thể là Đại hội đồng của Liên Hợp Quốc ,
đứng ra tổ chức, thực hiện sứ mạng giám sát này.

Đặc biệt là trước những tình hình phức tạp trên Biển Đông hiện nay,
việc tôn trọng luật pháp quốc tế ngày càng được các quốc gia, tổ chức quốc
tế trong và ngoài khu vực cần được coi trọng, đồng thời cùng chung quan
điểm bác bỏ mọi hành động sử dụng vũ lực. Nhấn mạnh rằng:” việc sử dụng
vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực để giải quyết các tranh chấp đều bị cấm”.
18
Một trong những yếu tố cấp thiết phải xử lý là siết chặt pháp lý nhằm
tránh tình trạng lạm dụng các “kẽ hở”. Trong đó, cần chú trọng ngăn chặn các
hành động bất hợp pháp hoặc cản trở tiến trình đàm phán COC để không làm
gia tăng căng thẳng trên Biển Đông. Điển hình như các động thái phớt lờ,
không tôn trọng quyền hợp pháp và lịch sử của các nước có tuyên bố chủ
quyền ở Biển Đông. Đặc biệt là việc quân sự hóa các lực lượng trên biển. Mọi
động thái của tất cả các nước liên quan hiện nay cần bắt buộc phải tuân thủ
những nguyên tắc quan trọng trong UNCLOS 1982, Hiến chương Liên hợp
quốc và luật pháp quốc tế nói chung về việc sử dụng đại dương vì mục đích
hòa bình và không sử dụng vũ lực. Bởi lẽ, những hành động này sẽ làm gia
tăng căng thẳng trên Biển Đông và có thể dẫn tới xung đột vũ lực.

Mọi hoạt động của tất cả các bên trên Biển Đông cần phải đóng góp
vào mục tiêu chung là duy trì hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn, tự do hàng
hải và hàng không, tôn trọng nguyên tắc không sử dụng vũ lực và đe dọa vũ
lực, phù hợp với các quy định của luật pháp quốc tế. Kêu gọi các nước có
trách nhiệm tuân thủ nghiêm và thiện chí với luật pháp quốc tế, không được
có những hành động làm gia tăng căng thẳng, mặt khác tích cực đóng góp vào
việc tạo dựng lòng tin, thúc đẩy trật tự dựa trên luật lệ quốc tế, đảm bảo an
ninh, an toàn và tự do hàng hải ở Biển Đông.

19
KẾT LUẬN
Nguyên tắc cấm đe dọa sử dụng hay sử dụng vũ lực được xem là
nguyên tắc có tầm quan trọng bậc nhất trong tất cả các nguyên tắc cơ bản của
luật pháp quốc tế. Luật pháp nói chung được đặt ra để con người có thể sống
với nhau trong xã hội một cách hòa bình, hay ít nhất không xung đột một mất
một còn. Ngày nay, trong các mối quan hệ quốc tế, với xu thế toàn cầu hóa,
các quốc gia ngày càng xích lại gần nhau, không một quyết định chính trị nào
có thể trở thành niềm hy vọng và mang ý nghĩa trong đời sống quốc tế nếu nó
không được xây dựng trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế. Tuy
nhiên vấn đề làm thế nào để nguyên tắc đó thực sự đi vào đời sống, được chấp
hành nghiêm chỉnh là vấn đề đáng quan tâm. Do bất cứ lĩnh vực nào trong
quan hệ giữa các quốc gia hiện nay đều có thể bị đe dọa bởi việc sử dụng vũ
lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực nên việc tuân thủ nguyên tắc không dùng vũ
lực hoặc đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế là điều hết sức cần thiết
cho sự ổn định, phát triển trong hòa bình an ninh của thế giới ngày nay.

20
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Văn bản pháp luật

1. Công ước Lahay 1899

2. Công ước năm 1907

3. Định ước của Hội nghị Hensinki 1975

4. Hiệp định Paris 1928

5. Hiến chương Liên hợp quốc 1945

B. Tài liệu điện tử.

1.Nguyễn Đình Chiến (2018), Nhìn lại sự kiện Hải Dương 981 và bài học
kinh nghiệm trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo,
https://canhsatbien.vn/portal/nghien-cuu-trao-doi/nhin-lai-su-kien-hai-duong-
981-va-bai-hoc-kinh-nghiem-trong-dau-tranh-bao-ve-chu-quyen-bien-dao,
truy cập ngày 19/11/2021.

2. Nguyễn Thị Hồng Vân (2016), về nguyên tắc cấm dùng vũ lực hoặc đe dọa
dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế,
https://tailieunghiencuuluat.blogspot.com/2016/06/ve-nguyen-tac-cam-dung-
u-luc-hoac-e.html, truy cập ngày 19/11/2021.

3. Nguyễn Hùng Cường (2014), Chủ quyền không thể xác lập bằng vũ lực,

[https://vnexpress.net/chu-quyen-khong-the-xac-lap-bang-vu-luc
2940476.html], truy cập ngày 19/11/2021.

4. Trần Minh (2017), Nguyên tắc cấm đe dọa sử dụng vũ lục hay vũ lực,
https://iuscogens-vie.org/2017/03/28/12/, truy cập ngày 19/11/2021.

5. Trần Thăng Long (2012), “vai trò của án lệ đối với sự phát triển của pháp
luật quốc tế và sự cần thiết của việc sử dụng án lệ vào nghiên cứu và giảng

21
dạy luật quốc tế tại Việt Nam”, tạp chí khoa học pháp lý Việt Nam, truy cập
ngày 19/11/2021.

22
6. Utkarsh Pandey (2020), The India-China Border Question: An Analysis of
International Law and State Practices, ORF Occasional Paper No. 290,
December 2020, Observer Research Foundation.

23

You might also like