You are on page 1of 18

Là gì: Pháp luật là một hệ thống các quy tắc xử sự do Nhà nước đặt ra (hoặc thừa nhận) có tính

quy phạm phổ


biến, tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức và tính bặt buộc chung thể hiện ý chí của giai cấp nắm quyền lực
Nhà nước và được Nhà nước đảm bảo thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội.

Vì sao: Pháp luật ra đời vì nhu cầu của xã hội để quản lý một xã hội đã phát triển ở một mức độ nhất định. Khi
xã hội đã phát triển quá phức tạp, xuất hiện những giai cấp mang lợi ích đối lập với nhau và nhu cầu về chính trị
– giai cấp để bảo vệ lợi ích cho giai cấp, lực lượng thống trị về chính trị và kinh tế trong xã hội.
Vai trò: Đối với Nhà nước thì pháp luật được coi là công cụ hữu hiệu nhất để quản lý tất cả các vấn đề trong xã
hội– Đối với công dân thì pháp luật là phương tiện quan trọng để mọi người dân bảo vệ được các quyền và lợi
ích hợp pháp của mình– Đối với toàn xã hội nói chung thì pháp luật đã thể hiện được vai trò của mình trong việc
đảm bảo sự vận hành của toàn xã hội, tạo lập và duy trì sự bình đẳng trong cộng đồng

quy phạm PL : Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền ban hành hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí và lợi ích của giai cấp cầm quyền trong xã hội, được cơ cấu chặt
chẽ để mọi người có thể đối chiếu với hành vi của mình mà có sự xử sự phù hợp trong đời sống.

quan hệ PL: Quan hệ pháp luật là tất cả những quan hệ xã hội được xác lập, tồn tại và phát triển cho đến khi
chấm dứt trên cơ sở các quy định của pháp luật thông qua các quy phạm pháp luật.Các yếu tố cấu thành quan hệ
pháp luật là gì bao gồm: Chủ thể, Khách thể và Nội dung.

Chế định PL: Chế định pháp luật hay còn gọi là định chế pháp luật hoặc chế định là tập hợp một nhóm quy
phạm pháp luật có đặc điểm giống nhau để điều chỉnh về nhóm quan hệ xã hội tương ứng trong phạm vi một
ngành luật hoặc nhiều ngành luật. Chế định có thể được hiểu theo nghĩa rộng hoặc có thể nghĩa hẹp. Nghĩa
chung và rộng là những yếu tố cấu thành cơ cấu pháp lý của thực tại xã hội và nghĩa hẹp là tổng thể các quy
phạm, quy tắc của một vấn đề pháp lý.
Ví dụ: ngành luật dân sự có các chế định pháp luật như chế định quyền sở hữu, chế định thừa kế, chế định quyền
tác giả, chế định hợp đồng,… Ngành luật hình sự có những chế định như các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ,
nhân phẩm, danh dự của con người; các tội xâm phạm an ninh quốc gia; các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ
của công dân…
ngành luật: Ngành luật là đơn vị cấu trúc bên trong của hệ thống pháp luật bao gồm các quy phạm pháp luật
điều chỉnh một loại quan hệ xã hội có cùng tính chất, nội dung thuộc một lĩnh vực đời sống xã hội nhất định.
Hệ thống PL: Hệ thống pháp luật là tập hợp tất cả các quy phạm, văn bản pháp luật tạo thành một cấu trúc tổng
thể, được phân chia thành các bộ phận có sự thống nhất nội tại theo những tiêu chí nhất định như bản chất, nội
dung, mục đích.

Kinh doanh là các hoạt động đầu tư, sản xuất, mua bán, cung ứng dịch vụ do các chủ thể kinh doanh tiến hành
một cách độc lập, thường vì mục đích tạo ra lợi nhuận.Kinh doanh Quốc tế là các hoạt động trao đổi, giao dịch
diễn ra giữa các quốc gia.
Theo thông tin từ mạnuộc phải đóng toàn bộ số thuế (kể cả thuế chống phá giá bị áp lên sản phẩm catfish) nhập
khẩu trong khoảng thời gian từ tháng 5- 2002 đến tháng 4-2005. Theo lời một giám đốc DN thủy sản, có thể
những tài liệu mà cơ quan Mỹ nắm được là từ năm 2002-2003, khi sản phẩm cá tra, cá basa của VN không bán
được vào thị trường Hoa Kỳ do mức thuế mới áp chống bán phá giá quá cao. Các nhà nhập khẩu Mỹ đã chủ
động liên hệ với DN VN, cung cấp bao bì, thùng hàng đóng gói với tên gọi khác để tiêu thụ. DN VN không liên
quan đến việc trốn thuế. Theo các luật sư, những cáo buộc trên cũng chỉ là cáo trạng của phòng chưởng lý bang
Florida. Các nghi can hoàn toàn có thể kiện và chứng minh vô tội tại tòa án. Tuy nhiên, vụ kiện phải được chuẩn
bị kỹ, với những tài liệu và minh chứng thuyết phục. Các đương sự phải thuê luật sư cả ở châu Âu và Hoa Kỳ.
Còn việc tác động bằng ngoại giao thì khó có thể, vì đây là vấn đề liên quan đến pháp lý.

Điều ước quốc tế là gì?


Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật Điều ước quốc tế 2016quy định về khái niệm điều ước quốc tế cụ
thể rằng:

Điều ước quốc tế là thỏa thuận bằng văn bản được ký kết nhân danh Nhà nước hoặc Chính phủ nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam với bên ký kết nước ngoài, làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ
của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo pháp luật quốc tế, không phụ thuộc vào tên gọi là hiệp ước,
công ước, hiệp định, định ước, thỏa thuận, nghị định thư, bản ghi nhớ, công hàm trao đổi hoặc văn kiện có tên
gọi khác.

Theo đó, điều ước quốc tế là thỏa thuận bằng văn bản được ký kết nhân danh Nhà nước hoặc Chính phủ nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với bên ký kết nước ngoài, làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền,
nghĩa vụ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo pháp luật quốc tế.

Danh nghĩa ký kết điều ước quốc tế của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được quy định như thế nào?
Điều 4 Luật Điều ước quốc tế 2016, danh nghĩa ký kết điều ước quốc tế của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam được quy định như sau:

(1) Các điều ước quốc tế được ký kết nhân danh Nhà nước

- Điều ước quốc tế do Chủ tịch nước trực tiếp ký với người đứng đầu Nhà nước khác;

- Điều ước quốc tế liên quan đến chiến tranh, hòa bình, chủ quyền quốc gia của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam;

- Điều ước quốc tế về việc thành lập, tham gia tổ chức quốc tế và khu vực nếu việc thành lập, tham gia, rút khỏi
tổ chức đó ảnh hưởng đến chính sách cơ bản của quốc gia về đối ngoại, quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế -
xã hội, tài chính, tiền tệ;

- Điều ước quốc tế làm thay đổi, hạn chế hoặc chấm dứt quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân theo quy định của luật, nghị quyết của Quốc hội;

- Điều ước quốc tế được ký kết nhân danh Nhà nước theo thỏa thuận với bên ký kết nước ngoài.

(2) Điều ước quốc tế được ký kết nhân danh Chính phủ

- Điều ước quốc tế không thuộc trường hợp tại mục (1);

- Điều ước quốc tế được ký kết nhân danh Chính phủ theo thỏa thuận với bên ký kết nước ngoài.

Ngôn ngữ, hình thức của điều ước quốc tế được quy định như thế nào?
Đối với quy định về ngôn ngữ, hình thức của điều ước quốc tế thì tại Điều 5 Luật Điều ước quốc tế 2016 quy
định:
- Điều ước quốc tế hai bên phải có văn bản bằng tiếng Việt, trừ trường hợp có thỏa thuận khác với bên ký kết
nước ngoài.

- Trong trường hợp điều ước quốc tế được ký kết bằng nhiều thứ tiếng thì các văn bản có giá trị ngang nhau, trừ
trường hợp có thỏa thuận khác với bên ký kết nước ngoài.

- Trong trường hợp điều ước quốc tế chỉ được ký kết bằng tiếng nước ngoài thì trong hồ sơ đề xuất ký kết phải
có bản dịch bằng tiếng Việt của điều ước quốc tế đó.

- Trong trường hợp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo lưu, chấp nhận hoặc phản đối bảo lưu của
bên ký kết nước ngoài, tuyên bố đối với điều ước quốc tế nhiều bên thì trong hồ sơ trình phải có dự thảo văn bản
liên quan đến bảo lưu, tuyên bố đó bằng tiếng Việt và tiếng nước ngoài được sử dụng để thông báo cho cơ quan
lưu chiểu điều ước quốc tế nhiều bên.

- Bản chính điều ước quốc tế hai bên của phía Việt Nam phải được in trên giấy điều ước quốc tế, đóng bìa theo
mẫu do Bộ Ngoại giao ban hành, trừ trường hợp có thỏa thuận khác với bên ký kết nước ngoài.

Hiệu lực của điều ước quốc tế được quy định như thế nào?
Về hiệu lực của điều ước quốc tế thì tại Điều 52 Luật Điều ước quốc tế 2016 quy định cụ thể như sau:

Điều ước quốc tế có hiệu lực đối với nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo quy định của điều ước
quốc tế đó hoặc theo thỏa thuận giữa bên Việt Nam và bên ký kết nước ngoài.

Áp dụng điều ước quốc tế trong những trường hợp nào?


Áp dụng tạm thời điều ước quốc tế

Tại Điều 53 Luật Điều ước quốc tế 2016 quy định về áp dụng tạm thời điều ước quốc tế cụ thể như sau:

- Điều ước quốc tế hoặc một phần của điều ước quốc tế có thể được áp dụng tạm thời trong thời gian hoàn thành
thủ tục để điều ước quốc tế có hiệu lực theo quy định của điều ước quốc tế đó hoặc theo thỏa thuận giữa bên
Việt Nam và bên ký kết nước ngoài.

- Việc áp dụng tạm thời điều ước quốc tế chấm dứt nếu bên Việt Nam thông báo cho bên ký kết nước ngoài hoặc
bên ký kết nước ngoài thông báo cho bên Việt Nam về việc chấm dứt áp dụng tạm thời điều ước quốc tế đó, trừ
trường hợp điều ước quốc tế có quy định khác hoặc bên Việt Nam và bên ký kết nước ngoài có thỏa thuận khác.

- Cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định ký điều ước quốc tế có quyền quyết định áp dụng tạm thời và
chấm dứt áp dụng tạm thời điều ước quốc tế đó.

- Hồ sơ trình về việc chấm dứt áp dụng tạm thời điều ước quốc tế tương tự hồ sơ quy định tại Điều 16 và Điều
17 của Luật này.

Áp dụng điều ước quốc tế trong pháp luật Việt Nam

Về trường hợp áp dụng điều ước quốc tế trong pháp luật Việt Nam thì tại Điều 6 Luật Điều ước quốc tế 2016
quy định:

- Trường hợp văn bản quy phạm pháp luật và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
thành viên có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của Điều ước quốc tế đó, trừ Hiến
pháp.

- Căn cứ vào yêu cầu, nội dung, tính chất của điều ước quốc tế, Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ khi quyết
định chấp nhận sự ràng buộc của điều ước quốc tế đồng thời quyết định áp dụng trực tiếp toàn bộ hoặc một phần
điều ước quốc tế đó đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong trường hợp quy định của điều ước quốc tế đã đủ rõ,
đủ chi tiết để thực hiện;

Ngoài ra còn có thể quyết định hoặc kiến nghị sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp
luật để thực hiện điều ước quốc tế đó.

Để một điều ước quốc tế trở thành nguồn pháp luật Việt Nam về hợp đồng,
điều ước quốc tế đó phải có hiệu lực ràng buộc đối với Việt Nam thông
qua việc được ký kết nhân danh Nhà nước hoặc Chính phủ nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
1. Tập quán thương mại quốc tế là gì?

Tập quán thương mại quốc tế là thói quen thương mại được hình thành lâu đời, có nội dung cụ thể, rõ ràng, được
áp dụng liên tục và được thừa nhận trong quan hệ thương mại quốc tế.

Tập quán thương mại quốc tế được áp dụng phổ biến nhất trong thương mại quốc tế là các điều kiện giao hàng
trong INCOTERMS do Phòng thương mại quốc tế (ICC) phát hành.

2. Các loại tập quán quốc tế

Thông thường, các tập quán quốc tế chia làm 03 loại sau:

+ Tập quán có tính nguyên tắc: Là những tập quán được hình thành trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản tôn
trọng chủ quyền quốc gia và bình đẳng giữa các dân tộc. Ví dụ: Toà án (hoặc trọng tài) của nước nào thì có
quyền áp dụng các quy tắc tố tụng của nước đó khi giải quyết những vấn đề về thủ tục tố tụng trong các tranh
chấp về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế.

+ Tập quán quốc tế chung: Là tập quán được nhiều nước công nhận và áp dụng. Ví dụ: Incoterms 2000.

+ Tập quán mang tính khu vực: Là tập quán được áp dụng cho từng nước hoặc từng khu vực. Ví dụ: ở Hoa Kỳ
cũng có điều kiện cơ sở giao hàng FOB. Điều kiện FOB Hoa Kỳ được đưa ra trong “Định nghĩa ngoại thương
của Mỹ sửa đổi năm 1941”, theo đó có 6 loại FOB mà quyền và nghĩa vụ của bên bán, bên mua rất khác biệt so
với điều kiện FOB trong Incoterms năm 2000. Chẳng hạn, với FOB người chuyên chở nội địa quy định tại điểm
khởi hành nội địa quy định (named inland carrier at named inland point of departure), người bán chỉ có nghĩa vụ
đặt hàng hoá trên hoặc trong phương tiện chuyên chở hoặc giao cho người chuyên chở nội địa để bốc hàng.

3. Vai trò của tập quán trong thương mại quốc tế


- Trong một số trường hợp, Tập quán thương mại quốc tế đóng vai trò là một nguồn luật, cùng với các nguồn
luật khác giải quyết các vấn đề phát sinh trong hợp đồng;

- Đóng vai trò bổ trợ, tập quán thương mại quốc tế giúp giải thích, hướng dẫn việc thực hiện các hợp đồng đồng
thời bổ sung cho hợp đồng những điều khoản mà các bên không chưa quy định hoặc quy định chưa cụ thể;

- Hình thành nên các quyết định xét xử với ý nghĩa là một loại nguồn phổ biến;

4. Khi nào tập quán quốc tế về thương mại sẽ được áp dụng ?

Tập quán quốc tế về thương mại sẽ được áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế khi:

-Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế quy định.

- Các điều ước quốc tế liên quan quy định.

- Luật thực chất (luật quốc gia) do các bên lựa chọn không có hoặc có nhưng không đầy đủ.

Tập quán quốc tế về thương mại chỉ có giá trị bổ sung cho hợp đồng. Vì vậy, những vấn đề gì hợp đồng đã quy
định thì tập quán quốc tế không có giá trị, hay nói cách khác, hợp đồng mua bán hàng hóa có giá trị pháp lý cao
hơn so với tập quán thương mại quốc tế. Khi áp dụng, cần chú ý là do tập quán quốc tế về thương mại có nhiều
loại nên để tránh sự nhầm lẫn hoặc hiểu không thống nhất về một tập quán nào đó, cần phải quy định cụ thể tập
quán đó trong hợp đồng.

Ví dụ: điều khoản giá: giá hàng là 250 USD/MT FOB Hải Phòng Incoterms năm 2000.Incoterms năm 2000
được hiểu là áp dụng bản Quy tắc của ICC về các điều kiện thương mại quốc tế, bản sửa đổi năm 2000. Việc nêu
cụ thể Incoterms 2000 sẽ giúp chúng ta tránh áp dụng nhầm các bản sửa đổi Incoterms trước đó, như bản sửa đổi
năm 1980, 1990…
Khi áp dụng tập quán quốc tế về thương mại, các bên cần phải chứng minh nội dung của tập quán đó. Do đó,
nếu các bên biết trước những thông tin về tập quán thương mại quốc tế đó trước khi bước vào đàm phán sẽ rất
thuận lợi. Các thông tin đó các bên có thể tìm hiểu thông qua sách báo, tài liệu hoặc ở các văn bản của các
Phòng Thương mại (Phòng Thương mại và Công nghiệp), ở các Thương vụ của Việt Nam ở nước ngoài…

Khi áp dụng tập quán thương mại quốc tế, cần phải tiến hành phân loại tập quán quốc tế. Nếu có tập quán chung
và tập quán riêng thì tập quán riêng có giá trị trội hơn: ví dụ: FOB Incoterms năm 2000 là tập quán chung; FOB
cảng đến (shipment to destination) của Hoa Kỳ là tập quán riêng nên FOB shipment to destination của Hoa Kỳ
sẽ được ưu tiên áp dụng. Nếu có tập quán mặt hàng và tập quán ngành hàng thì tập quán mặt hàng sẽ được ưu
tiên áp dụng.

7. Câu hỏi thường gặp về tập quán thương mại quốc tế


7.1 Tập quán thương mại quốc tế áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế chủ yếu là?
Áp dụng pháp luật lựa chọn trước

Nếu ko có Quy phạm thực chất thống nhất mà có Quy phạm xung đột thống nhất. Nếu các bên có lựa chọn theo
sự lựa chọn, nếu ko lựa chọn thì áp dụng quy định mà QP đã chỉ sẵn

Nếu ko có Quy phạm thực chất thồng nhất lẫn Quy phạm xung đột thống nhất => áp dụng Quy phạm thực chất
thông thường.

7.2 Khi nào áp dụng điều ước quốc tế, tập quán và thông lệ quốc tế liên quan đến hải quan?

- Trong trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác
với quy định của Luật này thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó.

- Đối với những trường hợp mà Luật hải quan, văn bản pháp luật khác của Việt Nam, điều ước quốc tế mà Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên chưa có quy định thì có thể áp dụng tập quán và thông lệ quốc tế
liên quan đến hải quan, nếu việc áp dụng tập quán và thông lệ quốc tế đó không trái với những nguyên tắc cơ
bản của pháp luật Việt Nam.

6. Tóm tắt các điều khoản Incoterms 2020

- EXW | Ex Works – Giao hàng tại xưởng

Nếu bên bán muốn xuất khẩu nhưng không đủ khả năng làm bất cứ việc gì liên quan đến lô hàng như: thủ tục
hải quan, vận tải, mua bảo hiểm… do thiếu kinh nghiệm xuất khẩu thì nên đề nghị ký hợp đồng theo điều kiện
EXW. Với điều kiện này bên bán chỉ cần đặt hàng tại nhà xưởng của mình, bên mua sẽ trả tiền hàng (giá trị
Invoice) và cho người đến mang hàng đi.

- FCA | Free Carrier – Giao cho người chuyên chở

Nếu bên bán có khả năng làm thủ tục hải quan xuất khẩu, để thuận tiện bên bán nên nhận làm việc này (tự chịu
chi phí phát sinh là thuế xuất khẩu) và đề nghị ký hợp đồng theo điều kiện FCA. Bên bán thường dự tính trước
tiền thuế xuất khẩu phải nộp và tính vào tiền hàng phải thu bên mua.

- CPT | Carriage Paid To – Cước phí trả tới

Nếu bên mua muốn nhận hàng như điều kiện FCA nhưng lại không có khả năng thực hiện vận tải hàng thì có thể
đàm phán ký hợp đồng theo điều kiện CPT. Bên bán thường dự tính trước các chi phí vận tải phát sinh và tính
vào tiền hàng phải thu bên mua.

- CIP | Carriage & Insurance Paid to – Cước phí và bảo hiểm trả tới
Nếu bên mua muốn nhận hàng như điều kiện CPT nhưng cũng cần thêm việc người bán mua bảo hiểm cho lô
hàng thì ký hợp đồng với điều kiện CIP. Bên bán mua bảo hiểm và chịu chi phí bảo hiểm nhưng bên mua chịu
rủi ro về mất mát hoặc hư hỏng của lô hàng trong quá trình vận tải.

- FAS | Free Alongside Ship – Giao dọc mạn tàu

Nếu bên bán có thêm khả năng đưa hàng ra cầu tàu tại cảng xuất khẩu, bên bán nên làm việc này (tự chịu chi phí
và rủi ro phát sinh phát sinh, tính trước các chi phí này vào tiền hàng) và ký hợp đồng theo điều kiện FAS.

- FOB | Free On Board – Giao hàng trên tàu

Nếu bên bán có thêm khả năng đưa hàng lên boong tàu an toàn tại cảng xuất khẩu, bên bán nên làm việc này (tự
chịu chi phí và rủi ro phát sinh, tính trước chi phí này vào tiền hàng) và ký hợp đồng theo điều kiện FOB.

- CIF | Cost, Insurance & Freight – Tiền hàng, bảo hiểm và cước phí

Nếu bên bán có thêm khả năng mua bảo hiểm cho lô hàng khi hàng được vận tải trên tàu biển, bên bán nên làm
việc này (tự chịu chi phí phát sinh để mua bảo hiểm, tính trước chi phí này vào tiền hàng) và ký hợp đồng theo
điều kiện CIF.

- DAP | Delivered At Place – Giao tại địa điểm

Nếu bên mua không có khả năng hoặc kinh nghiệm đưa hàng về đến nội địa nhập khẩu của mình, bên bán có thể
làm thêm việc này (tính trước chi phí này vào tiền hàng) và ký hợp đồng theo điều kiện DAP.

- DPU | Delivery at Place Unloaded – Giao tại địa điểm đã dỡ xuống

Nếu bên mua không có khả năng hoặc kinh nghiệm đưa hàng về đến kho nhập khẩu đồng thời cũng không có
khả năng hoặc kinh nghiệm dỡ hàng xuống khỏi phương tiện vận tải chở đến, bên bán có thể làm thêm việc này
(tính trước chi phí này vào tiền hàng) và ký hợp đồng theo điều kiện DPU.

- DDP | Delivered Duty Paid – Giao đã trả thuế

Nếu bên mua không có khả năng hoặc kinh nghiệm làm thủ tục hải quan nhập khẩu cho lô hàng, bên bán có thể
làm thêm việc này (tính trước số tiền thuế nhập khẩu … phải nộp này vào tiền hàng) và ký hợp đồng theo điều
kiện DDP.

1. Khái niệm pháp luật quốc gia

Pháp luật quốc gia là hệ thống các quy phạm pháp luật có mối liên hệ nội tại thống nhất với nhau được phân
định thành các chế định pháp luật, các ngành luật và được thể hiện trong các văn bản do nhà nước ban hành theo
những trình tự thủ tụ và hình thức nhất định.
Pháp luật quốc gia là hệ thống các quy phạm pháp lý, thành văn hoặc không thành văn do nhà nước đặt ra hoặc
công nhận nhằm điều chỉnh quan hệ pháp lý giữa các chủ thể của pháp luật và về nguyên tắc những quan hệ đó
phát sinh trong lãnh thổ hoặc quyền tài phán của quốc gia đó. Pháp luật trong nước có hiệu lực trực tiếp trên
lãnh thổ của quốc gia ban hành ra nó.

Nguồn của pháp luật quốc gia hiện nay bao gồm:

– Điều ước quốc tế

– Văn bản quy phạm pháp luật

– Tập quán pháp

– Tiền lệ pháp

– Các bản án, quyết định của tòa án, trọng tài quốc tế…

2. Sự hình thành pháp luật quốc gia

Pháp luật quốc gia được hình thành bằng hai con đường:

- Thứ nhất, do nhà nước đặt ra các quy tắc xử sự mới để điều chỉnh các quan hệ xã hội mà các quy tắc xử sự
khác (đạo đức, tập quán, tôn giáo, tín ngưỡng) không điều chỉnh hết hoặc điều chỉnh không có hiệu quả hoặc
không điều chỉnh được.

- Thứ hai, Nhà nước thừa nhận các quy tắc xử sự có sẵn trong xã hội phù hợp với ý chí nhà nước nâng lên thành
luật; thừa nhận cách giải quyết các vụ việc cụ thể trong thực tế sử dụng làm khuôn mẫu để giải quyết các vụ việc
khác có tính tương tự (án lệ).

3. Đặc điểm của pháp luật quốc gia

- Pháp luật quốc gia thể hiện ý chí nhà nước của mỗi quốc gia - ý chí của giai cấp cầm quyền hoặc liên minh giai
cấp cầm quyền.

- Phạm vi điều chỉnh của pháp luật quốc gia là các quan hệ xã hội phát sinh trong mỗi quốc gia.

- Chủ thể của pháp luật quốc gia bao gồm các tổ chức và cá nhân (cá nhân, pháp nhân, tổ chức và nhà nước).

Phương thức thực hiện bằng các thiết chế riêng của từng quốc gia như Quân đội, Cảnh sát, Tòa án… do Nhà
nước bảo đảm thực hiện.
- Nguồn cơ bản của pháp luật quốc gia bao gồm: tập quán pháp, tiền lệ pháp, văn bản quy phạm pháp luật thành
văn.

Các nguồn khác của pháp luật quốc gia: điều ước quốc tế, các quan niệm và chuẩn mực đạo đức xã hội; đường
lối, chính sách của đảng cầm quyền; các quan điểm, tư tưởng, học thuyết của các nhà khoa học pháp lý nổi
tiếng; tín điều tôn giáo; hợp đồng trong lĩnh vực thương mại, pháp luật nước ngoài...

– Luật quốc tế là gì?


Luật quốc tế có thể hiểu là tổng thể những nguyên tắc, những quy phạm pháp luật quốc tế do các chủ thể tham
gia vào quan hệ pháp luật quốc tế xây dựng trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng, thông qua đấu tranh, thương lượng
nhằm điều chỉnh mối quan hệ nhiều mặt (chủ yếu là quan hệ chính trị) giữa các chủ thể luật quốc tế với nhau
trong những trường hợp cần thiết cần thiết luật quốc tế được bảo đảm thi hành bằng những biện pháp cưỡng chế
riêng lẻ hoặc tập thể do chính các chủ thể luật quốc tế thi hành hoặc bằng sức đấu tranh của nhân dân cùng dư
luận tiến bộ Thế giới.

Việc so sánh luật quốc tế và luật quốc gia thể hiện rõ hơn qua điểm khác nhau giữa luật quốc tế và luật quốc
gia. Cụ thể các tiêu chí để thấy sự khác nhau giữa luật quốc tế và luật quốc gia như sau:

Thứ nhất: Về mục đích


Luật quốc tế được dùng để điều chỉnh các quan hệ quốc tế. Còn luật quốc gia được dùng để điều chỉnh các quan
hệ trong phạm vi quốc gia.

Thứ hai: Về đối tượng điều chỉnh


Đối tượng điều chỉnh pháp luật quốc tế điều chỉnh các mối quan hệ giữa các quốc gia với nhau, điều chỉnh
những quan hệ xã hội phát sinh trong đời sống sinh hoạt quốc tế giữa các chủ thể còn Luật quốc gia điều chỉnh
những quan hệ xã hội phát sinh trong nội bộ phạm vi lãnh thổ.

Thứ ba: Về chủ thể


Chủ thể của luật quốc tế là các quốc gia có chủ quyền, các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập, các tổ chức liên
chính phủ & các chủ thể khác. Còn chủ thể luật quốc gia là thể nhân, pháp nhân & nhà nước tham gia với tư
cách là chủ thể đặc biệt khi nhà nước là một bên trong quan hệ,

Thứ tư: Về trình tự xây dựng pháp luật


Trình tự xây dựng pháp luật luật quốc tế do không có cơ quan lập pháp nên khi xây dựng các quy phạm thành
văn hay bất thành văn chủ yếu do sự thỏa thuận giữa các chủ thể có chủ quyền quốc gia. Còn trình tự xây dựng
pháp luật luật quốc gia do cơ quan lập pháp của quốc gia đó xây dựng.

Thứ năm: Về biện pháp bảo đảm thi hành


Đối với luật quốc tế không tồn tại cơ quan chuyên biệt để đảm bảo thi hành cũng như không có bộ máy cưỡng
chế tập trung thường trực mà chỉ có 1 số biện pháp cưỡng chế nhất định mang tính tự cưỡng chế dưới hình thức
riêng rẽ hoặc tập thể. Còn biện pháp bảo đảm thi hành của Luật quốc gia là các cơ quan chuyên biệt như quân
đội, cảnh sát, tòa án, nhà tù…

Thứ sáu: Về phương pháp điều chỉnh


Các ngành luật trong hệ thống pháp luật quốc tế thì chỉ có một phương pháp điều chỉnh là sự thỏa thuận. Còn
đối với luật quốc gia thì các ngành luật trong hệ thống pháp luật quốc gia có phương pháp điều chỉnh khác nhau.

- Nếu điều ước quốc tế dẫn chiếu tới luật quốc gia, thì luật quốc gia sẽ trở
thành luật điều chỉnh hợp đồng.

Khái niệm xung đột pháp luật trong tư pháp quốc tế


Xung đột pháp luật là hiện tượng hai hay nhiều hệ thống pháp luật khác nhau cùng có thể
được áp dụng để điều chỉnh quan hệ xã hội phát sinh trong đó có thể sẽ xảy ra các kết quả
không giống nhau, phụ thuộc vào việc hệ thống luật pháp nào được áp dụng.

Ví dụ: Cùng điều chỉnh quan hệ hôn nhân gia đình trong việc quy định độ tuổi đăng ký kết
hôn thì Luật Hôn nhân và gia đình tại Anh có quy định về độ tuổi kết hôn đối với nam và nữ
là đủ 16 tuổi trong khi Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam thì quy định rằng nam từ đủ 20
và nữ từ đủ 18 tuổi mới đủ điều kiện về độ tuổi để kết hôn. Nếu công dân Anh và công dân
Việt Nam đều trên 20 tuổi => kết hôn ở Anh theo luật Anh hay kết hôn ở Việt Nam theo luật
Việt Nam đều không ảnh hưởng gì vì đều đáp ứng độ tuổi quy định. Nhưng giả sử, nếu công
dân nam người Anh mới đủ 18 tuổi và công dân nữ người Việt mới 17 tuổi thì sao? Họ có
được kết hôn không và pháp luật nước nào sẽ điều chỉnh vấn đề này ? Nếu kết hôn tại Việt
Nam thì chắc chắn không được vì cả hai không đủ điều kiện kết hôn theo quy định của luật
Việt Nam. Nhưng nếu kết hôn ở Anh, việc kết hôn sẽ được thực hiện nhưng liệu có được
pháp luật Việt Nam công nhận hay không? Theo quy định tại Điều 34 Nghị định
123/2015/NĐ-CP, việc kết hôn này chỉ được cơ quan có thẩm quyền công nhận nếu:

- Đủ điều kiện kết hôn.

- Việc ghi chú là nhằm bảo vệ quyền lợi của công dân Việt Nam và trẻ em.

- Không vi phạm điều cấm của pháp luật.

Như vậy, nhìn chung, xung đột pháp luật hiểu đơn giải là một vụ việc có yếu tố nước ngoài,
cùng nằm trong sự điều chỉnh của pháp luật nhiều nước, cách giải quyết vấn đề khác nhau
dẫn đến xung đột pháp luật.

Nguyên nhân dẫn đến hiện tượng xung đột pháp luật là gì ?
Hiện tượng xung đột pháp luật nói trên có thể xuất phát từ những nguyên nhân sau đây:

- Trên thực tế, mỗi nước có điều kiện cơ sở hạ tầng khác nhau, bởi vậy pháp luật của các
nước được xây dựng trên các nền tảng đó cũng có sự khác nhau.
- Các điều kiện khác nhau về chính trị, kinh tế – xã hội phong tục tập quán, truyền thống lịch
sử thậm chí là sự khác nhau về đặc điểm thể chất, tâm lý của công dân cũng dẫn đến sự khác
nhau trong các quy định pháp luật cùng điều chỉnh một vấn đề.

Phạm vi xảy ra xung đột pháp luật


Về cơ bản, hiện tượng xung đột pháp luật chỉ xảy ra trong các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng
có yếu tố nước ngoài thuộc lĩnh vực điều chỉnh của tư pháp quốc tế. Còn trong các lĩnh vực
quan hệ pháp luật khác như hình sự hoặc hành chính, đặc biệt là hành chính không xảy ra
xung đột pháp luật bởi vì:

- Những ngành luật đó gần như mang tính hiệu lực lãnh thổ rất nghiêm ngặt đặc biệt là các
vấn đề liên quan tới quyền tài phán công, chính trị quốc gia có tính lãnh thổ rất chất chẽ.

- Vì mang tính chất lãnh thổ chặt chẽ nên tất nhiên không một quốc gia nào muốn và cho
phép áp dụng luật nước ngoài vào nội bộ của quốc gia mình.

- Trong các quan hệ về quyền tác giả và quyền sở hữu công nghiệp có yếu tố nước ngoài
thường không làm phát sinh vấn đề xung đột pháp luật vì các quy phạm pháp luật trong lĩnh
vực này mang tính tuyệt đối về lãnh thổ. Các quốc gia chỉ cho phép áp dụng pháp luật nước
ngoài để điều chỉnh các quan hệ trong trường hợp có điều ước quốc tế mà quốc gia đó đã
tham gia kí kết đã quy định hoặc theo nguyên tắc có đi có lại.

3.1. Xung đột pháp luật về địa vị pháp lý của các chủ thể trong kinh doanh quốc tế

Xung đột pháp luật về địa vị pháp lý của các chủ thể là một trong những mặt biểu hiện cơ bản của
xung đột pháp luật trong kinh doanh quốc tế nói riêng. Khi tìm hiểu và nghiên cứu vấn đề xung đột
pháp luật về địa vị pháp lý của các chủ thể trong kinh doanh quốc tế, chúng ta cần xác định rõ chủ thể
trong kinh doanh quốc tế bao gồm những người cụ thể nào. Trước hết, chủ thể trong kinh doanh quốc
tế được hiểu là người tham gia vào các quan hệ kinh doanh quốc tế, thực hiện các hoạt động thương
mại nhằm mục đích sinh lời.

Theo quy định của pháp luật thương mại các quốc gia trên thế giới nói chung, các chủ thể đó được gọi
là thương nhân. Thương nhân có thể là cá nhân hay tổ chức thỏa mãn đầy đủ các điều kiện do pháp
luật quy định để tiến hành hoạt động kinh doanh, thương mại nói chung và kinh doanh quốc tế nói
riêng.

a. Đối với thương nhân là cá nhân:

Đối với thương nhân là cá nhân, các xung đột pháp luật thường biểu hiệu ở các mặt sau:

– Xung đột pháp luật về năng lực pháp lý và năng lực hành vi của cá nhân.

ví dụ: Một ví dụ về xung đột pháp luật giữa năng lực pháp lý và năng lực hành vi của cá nhân trong lĩnh vực kinh doanh
quốc tế có thể là về việc tuân thủ luật pháp về đề xuất và chấp nhận hối lộ trong giao dịch kinh doanh.

Trong nhiều quốc gia, hối lộ được xem là hành vi vi phạm pháp luật và luật pháp quốc tế, và các doanh nghiệp và cá nhân
đều bị nghiêm cấm tham gia vào hoạt động này. Tuy nhiên, trong một số quốc gia hoặc vùng lãnh thổ, việc trao đổi tiền tệ
hay quà tặng có thể là một phần không thể thiếu của văn hóa kinh doanh để giữ mối quan hệ hoặc đạt được thỏa thuận.

Xung đột có thể xảy ra khi một doanh nghiệp quốc tế hoạt động ở một quốc gia có văn hóa kinh doanh truyền thống của việc
trao quà tặng hay tiền lẻ cho các quan chức công quyền như một phần của việc thúc đẩy giao dịch hoặc mở cửa cơ hội kinh
doanh. Tuy nhiên, quá trình này có thể bị xem là vi phạm luật pháp quốc tế về chống tham nhũng và hối lộ.

Do đó, doanh nghiệp và cá nhân trong tình huống như vậy phải đối mặt với xung đột giữa năng lực pháp lý (việc tuân thủ
luật pháp chống tham nhũng và hối lộ) và năng lực hành vi (tuân theo văn hóa kinh doanh truyền thống). Việc quyết định
làm thế nào để giữ cân bằng giữa các yếu tố này có thể có tác động lớn đến uy tín, pháp lý và tương lai kinh doanh của họ.

Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi người đó chết.
Năng lực hành vi dân sự của cá nhân có khi cá nhân đạt đến độ tuổi và trí tuệ nhất định, có thể hiểu và
làm chủ được hành vi của mình khi xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự và tự chịu trách nhiệm
về hành vi đó.

– Xung đột pháp luật về điều kiện nghề nghiệp để một cá nhân trở thành thương nhân.

Ví dụ: Một ví dụ về xung đột pháp luật về điều kiện nghề nghiệp để một cá nhân trở thành thương nhân trong lĩnh vực kinh
doanh quốc tế có thể liên quan đến việc một người muốn tham gia vào ngành công nghệ thông tin (IT) ở một quốc gia khác.

Trong một số quốc gia, để làm việc trong ngành công nghệ thông tin, có thể yêu cầu các điều kiện nghề nghiệp như bằng cấp
chuyên ngành, chứng chỉ hoặc khả năng làm việc theo các tiêu chuẩn quốc tế. Tuy nhiên, xung đột pháp luật có thể nảy sinh
nếu một cá nhân muốn tham gia vào lĩnh vực này ở một quốc gia khác mà có các yêu cầu khác biệt.
Ví dụ, một người muốn làm việc trong lĩnh vực IT tại một quốc gia A, nhưng họ không có bằng cấp chuyên ngành hoặc
chứng chỉ cần thiết mà quốc gia A yêu cầu. Tuy nhiên, họ có kinh nghiệm và năng lực thực tế trong ngành IT. Trong trường
hợp này, họ sẽ đối mặt với xung đột giữa năng lực pháp lý (đáp ứng yêu cầu nghề nghiệp của quốc gia A) và năng lực hành
vi (năng lực thực tế và kinh nghiệm trong ngành IT).

Cá nhân này có thể đối mặt với khó khăn trong việc tìm việc làm hoặc làm việc hợp pháp tại quốc gia A nếu họ không đáp
ứng đủ các yêu cầu nghề nghiệp. Tuy nhiên, họ cũng có thể đối mặt với tình huống khó khăn trong việc chứng minh năng lực
của mình để được chấp nhận làm việc trong lĩnh vực IT mà không đáp ứng đủ yêu cầu pháp luật.

3.Các điều kiện để trở thành thương nhân

Thương nhân bao gồm hai nhóm là tổ chức kinh tế và cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có
đăng ký kinh doanh. Các chủ thể được công nhận là thương nhân thì phải đáp ứng Các điều kiện để trở thành thương
nhân là: có đăng ký kinh doanh và hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên.

​ Thương nhân phải là chủ thể có đăng ký kinh doanh: Tư cách thương nhân được xác lập bước đầu thông qua thủ
tục đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh. Quy định về đăng ký kinh doanh là điều kiện để trở thành thương
nhân và nó là bước khai sinh ra chủ thể thương nhân, đồng nghĩa với việc những chủ thể không tiến hành đăng ký
với cơ quan có thẩm quyền thì sẽ không được gọi là thương nhân. Từ đây có thể suy ra câu trả lời cho câu hỏi
Đăng ký kinh doanh là điều kiện trở thành thương nhân đúng hay sai? Đăng ký kinh doanh là điều kiện bắt
buộc đối với cá nhân, tổ chức có thể để trở thành thương nhân.

Đăng ký kinh doanh là sự ghi nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về mặt pháp lý sự ra đời của một thương nhân, kể
từ thời điểm được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh thì tư cách thương nhân được xác lập và
khi đó thương nhân mới có quyền thực hiện các hoạt động thương mại để kiếm lợi nhuận. Việc đăng ký kinh doanh phải
được thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định. Tổ chức kinh tế thực hiện việc đăng ký kinh doanh tại
phòng đăng ký kinh doanh thuộc sở kế hoạch và đầu tư. Cá nhân thực hiện việc đăng ký kinh doanh tại phòng đăng ký kinh
doanh cấp huyện. Như vậy có thể thấy rằng đăng ký kinh doanh là một trong Các điều kiện để trở thành thương nhân,
việc nhận giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh là văn bản khai sinh ra chủ thể pháp luật mới là thương nhân.

​ Điều kiện về chủ thể: Theo quy định của pháp luật thì thương nhân có thể là tổ chức kinh tế hoặc cá nhân có hoạt
động thương mại. Theo đó, các chủ thể này cần đáp ứng các điều kiện về chủ thể sau:
​ Đối với thương nhân là tổ chức kinh tế: chỉ những tổ chức kinh tế được thành lập một cách hợp pháp theo quy định
của Luật doanh nghiệp năm 2020 thì mới được xác định là thương nhân.
​ Đối với thương nhân là cá nhân: thì cá nhân trở thành thương nhân phải đảm bảo những chủ thể này có năng lực
hành vi dân sự đầy đủ, có đủ điều kiện kinh doanh thương mại theo quy định của pháp luật.
​ Điều kiện về việc thương nhân phải hoạt động thương mại. Hoạt động thương mại với thương nhân là mối quan hệ
gắn bó không thể tách rời bởi không thể gọi là thương nhân khi mà chủ thể này không thực hiện các hoạt động
thương mại. Hoạt động thương mại của thương nhân phải là những hoạt động thương mại được thực hiện một cách
thường xuyên, lặp đi lặp lại, tạo ra thu nhập chính và là những hoạt động được thực hiện một cách độc lập. Hoạt
động thương mại của thương nhân là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi và phải là hoạt động liên tiếp, mang tính
nghề nghiệp và là công việc tạo ra nguồn thu nhập chính, thường xuyên cho thương nhân đó. Đồng thời, thương
nhân phải thực hiện hành vi thương mại của mình một cách tự thân, nhân danh chính mình, vì lợi ích của bản thân
mình và tự chịu trách nhiệm về hành vi thương mại của mình.

– Xung đột pháp luật về nghĩa vụ đăng ký kinh doanh của thương nhân.

ví dụ: Trong nhiều quốc gia, việc đăng ký kinh doanh là một yêu cầu pháp luật cần thiết để doanh nghiệp được hoạt động
hợp pháp. Tuy nhiên, các quốc gia có thể có các quy định và thủ tục đăng ký khác nhau, và xung đột pháp luật có thể nảy
sinh khi một doanh nghiệp quốc tế muốn hoạt động tại một quốc gia mới và phải tuân theo các quy định nghĩa vụ đăng ký
kinh doanh khác biệt.

Ví dụ, một tập đoàn đa quốc gia muốn mở chi nhánh tại một quốc gia B. Quốc gia B yêu cầu tất cả các doanh nghiệp phải
đăng ký và cung cấp thông tin chi tiết về hoạt động kinh doanh của họ trước khi được phép hoạt động tại đây. Tuy nhiên, tập
đoàn này đã hoạt động ở nhiều quốc gia và có một cơ cấu tổ chức phức tạp. Việc đáp ứng đủ yêu cầu đăng ký và cung cấp
thông tin có thể là một nhiệm vụ khó khăn và tốn kém thời gian.

Tập đoàn này có thể đối mặt với xung đột giữa năng lực pháp lý (tuân thủ yêu cầu đăng ký kinh doanh của quốc gia B) và
năng lực hành vi (khả năng cung cấp thông tin đăng ký từ toàn bộ cơ cấu tổ chức). Họ có thể phải cân nhắc giữa việc tuân
thủ pháp luật và đáp ứng đủ yêu cầu để được phép hoạt động tại quốc gia B, hoặc đối mặt với hình phạt hoặc hạn chế nếu
không tuân thủ.

b. Đối với thương nhân là pháp nhân:

Thương nhân là pháp nhân tham gia vào hoạt động kinh doanh gồm các loại hình công ty, doanh
nghiệp, tập đoàn, hãng,… Trên thực tế khi các pháp nhân tham gia vào hoạt động kinh doanh quốc tế
thì vấn đề xung đột pháp luật thường nảy sinh, cụ thể trong trường hợp xác định quốc tịch của pháp
nhân và xác định địa vị pháp lý của pháp nhân.

– Xung đột pháp luật về xác định quốc tịch của pháp nhân.

ví dụ: Trong lĩnh vực kinh doanh quốc tế, việc đăng ký một doanh nghiệp trong một quốc gia cụ thể có thể đòi hỏi các thông
tin về quốc tịch của các cổ đông hoặc thành viên trong doanh nghiệp. Tuy nhiên, xung đột pháp luật có thể nảy sinh khi quốc
tịch của các cổ đông hoặc thành viên không rõ ràng hoặc khi họ có nhiều quốc tịch.

Ví dụ, một tập đoàn đa quốc gia muốn mở chi nhánh tại một quốc gia C. Quốc gia C yêu cầu rằng tất cả các cổ đông hoặc
thành viên trong doanh nghiệp phải có cùng một quốc tịch và chỉ chấp nhận doanh nghiệp có cổ đông hoặc thành viên có
quốc tịch của quốc gia C. Tuy nhiên, trong tập đoàn này, có các cổ đông hoặc thành viên có quốc tịch khác nhau từ nhiều
quốc gia khác nhau.
Tập đoàn này có thể đối mặt với xung đột giữa năng lực pháp lý (tuân thủ yêu cầu quốc tịch của quốc gia C) và năng lực
hành vi (các cổ đông hoặc thành viên có quốc tịch khác nhau từ nhiều quốc gia). Họ có thể phải đối mặt với tình huống phải
điều chỉnh cơ cấu cổ đông hoặc thành viên để tuân thủ yêu cầu quốc tịch của quốc gia C hoặc chấp nhận không được phép
hoạt động tại quốc gia này nếu không đáp ứng được yêu cầu.

– Xung đột pháp luật về địa vị pháp lý của pháp nhân.

Ví dụ, một tập đoàn đa quốc gia muốn mở chi nhánh tại một quốc gia D. Quốc gia D có quy định rằng chỉ chấp nhận doanh
nghiệp hoạt động dưới dạng công ty cổ phần, và không cho phép các loại hình khác như công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc
doanh nghiệp tư nhân.

Tập đoàn này có lịch sử hoạt động dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn trong một số quốc gia khác và có lợi ích cụ
thể từ cách tổ chức này. Tuy nhiên, tại quốc gia D, họ buộc phải tuân theo quy định về hình thức công ty cổ phần để được
chấp nhận hoạt động.

Tập đoàn này có thể đối mặt với xung đột giữa năng lực pháp lý (tuân thủ yêu cầu hình thức công ty cổ phần của quốc gia D)
và năng lực hành vi (ưu điểm và lợi ích của hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn mà họ đã sử dụng ở các quốc gia khác).
Họ có thể phải cân nhắc giữa việc tuân thủ yêu cầu pháp luật của quốc gia D hoặc chấp nhận thay đổi cơ cấu tổ chức kinh
doanh để hoạt động hợp pháp tại đây.

3.2. Xung đột pháp luật về hợp đồng kinh doanh quốc tế

Khi thực hiện hoạt động kinh doanh quốc tế, các chủ thể tiến hành ký kết nhiều loại hợp đồng thương
mại khác nhau như hợp đồng mua bán hàng hóa, hợp đồng cung ứng dịch vụ (hợp đồng chuyên chở
hàng hóa quốc tế, hợp đồng bảo hiểm hàng hóa quốc tế,…), hợp đồng li xăng, hợp đồng chuyển giao
công nghệ quốc tế, hợp đồng hợp tác kinh doanh giữa các nhà đầu tư trong nước và các nhà đầu tư
nước ngoài… Các hợp đồng này đều là những hợp đồng có yếu tố nước ngoài, do đó khi chúng có thể
được điều chỉnh bởi pháp luật của nhiều quốc gia khác nhau: pháp luật quốc gia của các chủ thể hợp
đồng, pháp luật của nước nơi ký kết hợp đồng, nơi thực hiện hợp đồng, nơi nảy sinh tranh chấp, nơi
có tài sản là đối tượng của hợp đồng…

Khi pháp luật các quốc gia này có những quy định khác nhau về cùng một vấn đề đang tranh chấp thì
sẽ làm phát sinh vấn đề xung đột pháp luật. Xung đột pháp luật về hợp đồng thương mại quốc tế
thường được biểu hiện qua các mặt sau: xung đột pháp luật về hình thức hợp đồng, xung đột pháp luật
về nội dung của hợp đồng, xung đột pháp luật về thời hiệu khởi kiện các tranh chấp có liên quan đến
hợp đồng.
Cộng đồng quốc tế hiện nay có hơn 239 quốc gia và mỗi nước có những luật pháp riêng điều chỉnh
hoạt động của cư dân và các mối quan hệ với bên ngoài. Hiện nay, nhìn chung các hệ thống pháp luật
trên thế giới gồm: Hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa (Civil Law), Hệ thống pháp luật Anh Mỹ
(Common Law) và Hệ thống pháp luật Hồi giáo (Islamic Law).

Thứ nhất: Hệ thống pháp luật Civil Law


Đây là hệ thống pháp luật của phần lớn các nước châu Âu lục địa như Pháp, Đức, Italia và một số
nước châu Mỹ Latinh.

Hệ thống này có một số đặc trưng:

– Chịu ảnh hưởng sâu sắc của pháp luật dân sự La Mã cổ đại. Điều này có nguyên nhân là vì luật La
Mã mà đặc biệt là luật dân sự đã phát triển và rất hoàn thiện ở châu Âu lục địa trong thời kì cổ đại và
trung đại. Pháp luật La Mã đã được nghiên cứu và giảng dạy, được các quốc gia khác ở châu Âu lục
địa sao chép, áp dụng trong một thời gian khá dài.

– Nguồn luật chủ yếu là văn bản quy phạm pháp luật được hệ thống hoá (pháp điển hoá) cao với sự
hiện diện của nhiều văn bản luật có giá trị pháp lí cao như luật, bộ luật. Ngoài ra các tư tưởng pháp
luật, học thuyết chính trị pháp lí và các nguyên tắc pháp luật ở châu Âu lục địa cũng được coi là
nguồn quan trọng của pháp luật. Án lệ được áp dụng rất hạn chế ở các nước châu Âu lục địa và không
có tính ràng buộc chính thức. Án lệ thường có vai trò quan trọng trong việc thống nhất giải thích các
quy định pháp luật thành văn.

– Pháp luật được phân định thành công pháp và tư pháp, mặc dù việc phân định này không tuyệt đối.
Tuy nhiên, hiện nay ranh giới giữa công pháp và tư pháp ở các nước nói trên không còn đậm nét như
trước đây.

– Hệ thống pháp luật Civil Law dựa trên quy trình tố tụng thẩm vấn, các thẩm phán chỉ tiến hành hoạt
động xét xử mà không được tham gia hoạt động lập pháp, họ không được tạo ra các chế định, các quy
phạm pháp luật.

Thứ hai: Hệ thống pháp luật Common Law


Đây là hệ thống pháp luật của các nước Anh, Mỹ và các nước chịu ảnh hưởng của Anh như: Canada,
Úc,…

Hệ thống pháp luật này có các đặc trưng

– Hình thành và phát triển trên cơ sở pháp luật dân sự của nước Anh là pháp luật coi trọng tiền lệ. Hệ
thống pháp luật Common Law ít chịu sự ảnh hưởng của pháp luật La Mã bởi tính phức tạp và chặt chẽ
trong thủ tục tố tụng truyền thống của pháp luật Anh đã cản trở việc tiếp nhận luật La Mã vào lãnh thổ
nước Anh.

– Nguồn pháp luật chủ yếu của hệ thống pháp luật Common Law là án lệ, phần lớn các chế định và
quy phạm pháp luật được hình thành không phải bằng việc ban hành văn bản pháp quy mà bằng án lệ.
Các phán quyết tại các toà án cấp cao thường được coi là án lệ và có giá trị bắt buộc đối với các toà án
địa phưcmg. Hiện nay mặc dù các văn bản quy phạm pháp luật ở các nước này cũng được ban hành
khá nhiều, nhưng các thẩm phán vẫn dựa vào cả án lệ, văn bản quy phạm pháp luật và những căn cứ
thực tế để xét xử.

– Hệ thống pháp luật Common Law bao gồm hai bộ phận là tiền lệ pháp luật và luật công bình. Nếu
tiền lệ pháp luật các vụ việc được xem xét giải quyết trên cơ sở các án lệ thì luật công bình lại xem xét
và giải quyết các vụ việc trên cơ sở các nguyên tắc công bằng, công lí. Những nguyên tắc công bằng,
công lí thường khá trừu tượng và khó định lượng vì vậy chủ yếu phụ thuộc vào niềm tin nội tâm, vào
lương tâm và đạo đức của các thẩm phán. Hệ thống pháp luật Common Law không chia pháp luật
thành công pháp và tư pháp như pháp luật châu Âu lục địa.

– Ở hệ thống pháp luật Common Law nguyên tắc tranh tụng được áp dụng rộng rãi trong quá trình tố
tụng. Trong quá trình tố tụng các bên (bên nguyên đơn và bên bị đơn; bên công tố và bên bào chữa…)
luôn có sự tranh tụng, đấu trí và chứng cứ với nhau, còn thẩm phán chỉ có vai trò như người trọng tài
lắng nghe ý kiến của các bên và đưa ra phán quyết. Do việc sử dụng rộng rãi án lệ nên trong những
trường hợp nhất định các thẩm phán của toà án tối cao vừa là người xét xử vừa là người sáng tạo ra
pháp luật một cách gián tiếp.

Thứ ba: Hệ thống pháp luật Islamic Law


Islam giáo là quốc giáo của Saudi Arabia, Qatar, các Tiểu vương Ả rập thống nhất, Oman, Yemen,
Syria, Jordan, Kuwait, Iran, Iraq, Afghanistan, Pakistan, Thổ Nhĩ Kỳ, Ai Cập, Sudan, Somalia, Libya,
Algeria, Tunisia, Niger, Mali, Marốc, Mauritania, Bangaladesh, Malaysia, và Indonesia. Luật Islam
giáo là nguồn luật chính của Saudi Arabia và được chấp nhận trong những chừng mực khác nhau, ở
các nước khác vừa kể.

Hệ thống pháp luật Islam giáo được gọi là Shari’a, theo tiếng Á Rập có nghĩa là Luật học hay pháp
luật. Nội dung của luật Islam giáo được lấy từ 4 nguồn, xếp theo thứ tự quan trọng là: Kinh Koran,
Sunnah, tức là các lời dạy của Tiên tri Muhammad, các bài viết của học giả Islam giáo giải thích và
rút ra các qui định từ trong kinh Koran và trong Sunnah, và các điều được cộng đồng thừa nhận về
mặt pháp lý.
Đây là hệ thông pháp luật chứa đựng nhiều quy định mang tính đạo đức và tôn giáo mà ít quy định về
thương mại và kinh doanh.

Những quy định pháp luật của hệ thống này không thay đổi qua hàng nghìn năm mà không sửa đổi
hoặc bổ sung. Điều này không phải vì hệ thống Islam giáo đã quá hoàn thiện mà do giới luật gia thuộc
hệ thống pháp luật này chủ trương “đóng cửa” đối với các hệ thống pháp luật khác.

You might also like