Professional Documents
Culture Documents
Vấn đề 1: Khác biệt giữa Luật Quốc gia và Luật Quốc tế.
Định nghĩa: Nguồn của pháp luật là tất cả các yếu tố chứa đựng hoặc cung cấp
căn cứ pháp lý để các chủ thể thực hiện hành vi thực tế. Nói cách khác, nguồn của
pháp luật là tất cả các yếu tố chứa đựng hoặc cung cấp căn cứ pháp lý cho hoạt động
của CQNN, nhà chức trách có thẩm quyền cũng như các chủ thể khác trong xã hội.
2. Luật Quốc tế
Định nghĩa: Nguồn của LQT là những hình thức biểu hiện hoặc chứa đựng
những QPPL quốc tế, do các chủ thể của LQT thỏa thuận xây dựng nên.
Cơ sở pháp lý: Điều 38 Quy chế Tòa án công lý quốc tế (Tòa án với chứng
năng là giải quyết phù hợp với luật quốc tế các vụ tranh chấp được chuyển đến Tòa
án, sẽ áp dụng: các điều ước quốc tế, các tập quán quốc tế, nguyên tắc chung.
Nguồn cơ bản
Phán quyết của Tòa án Công lý quốc tế và các thiết chế tài phán quốc tế
Nghị quyết của các tổ chức quốc tế liên chính phủ
Học thuyết, các công trình nghiên cứu của các học giả luật quốc tế
II. Con đường hình thành
Do NN đặt ra các quy tắc xử sự mới để điều chỉnh các quan hệ xã hội mà các
quy tắc xử sự khác (đạo đức, tập quán, tôn giáo, tín ngưỡng) không điều chỉnh
hết hoặc điều chỉnh không có hiệu quả hoặc không điều chỉnh được.
NN thừa nhận các quy tắc xử sự có sẵn trong xã hội phù hợp với ý chí NN nâng
lên thành luật; thừa nhận cách giải quyết các vụ việc cụ thể trong thực tế sử
dụng làm khuôn mẫu để giải quyết các vụ việc khác có tính tương tự (án lệ).
2. Luật Quốc tế
Được hình thành một cách khách quan dựa trên cơ chế thỏa thuận trong quá
trình hình thành LQT.
Thừa nhận thỏa thuận là phương thức duy nhất để hình thành hệ thống các
nguyên tắc và quy phạm LQT – duy trì trật tự pháp lý cần thiết đối với cộng đồng
quốc tế.
Hình thành LQT là quá trình mang tính chất tự nguyện của các quốc gia, thể
hiện ở sự tự điều chỉnh quan hệ lập pháp mà các quốc gia tiến hành theo phương thức
thỏa thuận công khai bằng quan hệ điều ước hoặc thừa nhận quy tắc xử sự trong luật
tập quán.
Giai đoạn thỏa thuận giữa các nước về nội dung quy tắc.
Giai đoạn thỏa thuận công nhận tính ràng buộc của các quy tắc đã được hình
thành.
Là sự tự nguyện thỏa thuận của các quốc gia dựa trên nguyên tắc bình đẳng về
chủ quyền.
Quân đội, công an, cảnh sát, tòa án, nhà tù…
2. Luật Quốc tế
Được bảo đảm thi hành bằng những biện pháp cưỡng chế riêng lẻ hoặc tập thể
do chính các chủ thể luật quốc tế thi hành hoặc bằng sức đấu tranh của nhân dân cùng
dư luận tiến bộ thế giới.
IV. Cấp bậc của nguồn luật
Do cơ quan lập pháp của quốc gia đó xây dựng, được sắp xếp theo các trình tự,
thứ bậc từ cao xuống thấp.Ví dụ: Hiến pháp là do Quốc hội ban hành; Chủ tịch nước
có quyền đề nghị QH bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm CATANDTC, VTVKSNDTC..
2. Luật Quốc tế
Do không có cơ quan lập pháp, cơ quan cưỡng chế chung nên các quy phạm
thành văn hay bất thành văn chủ yếu do các chủ thể có chủ quyền quốc gia thỏa thuận
trên sự bình đẳng, hợp tác cùng nhau xây dựng.
I. Điều ước quốc tế được hiểu như thế nào? Điều kiện để ĐUQT trở
thành nguồn?
1. Khái niệm
Điều ước quốc tế là VBPL Quốc tế do các chủ thể LQT thỏa thuận ký kết trên
cơ sở tự nguyện, bình đẳng, nhằm thiết lập những quy tắc pháp lý bắt buộc để ấn định,
thay đổi hoặc hủy bỏ những quyền và nghĩa vụ với nhau.
Phải được ký kết phù hợp với quy định của các bên ký kết về thẩm
quyền và thủ tục ký kết.
Phải được ký kết trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện và bình đẳng về quyền
và nghĩa vụ..
Phải có nội dung phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của Luật quốc
tế.
1. Giai đoạn 1: Đàm phán, soạn thảo (Xây dựng văn bản điều ước quốc tế)
a. Đàm phán
Thông qua các cá nhân, phái đoàn đại diện của các quốc gia hoặc chủ thể khác.
Đàm phán được coi là quá trình đấu tranh, thương lượng để đi đến thỏa thuận
các quyền và nghĩa vụ của các bên ký kết điều ước.
Có thể được tiến hành tại các hội nghị quốc tế hoặc các tổ chức quốc tế và các
bên có thể tổ chức hội nghị đàm phán song phương hoặc đa phương tùy thuộc vào sự
thỏa thuận của các bên ký kết.
Soạn thảo là bước chuyển hóa của quá trình đàm phán, việc soạn thảo có thể do
hai bên thành lập ban soạn thảo văn bản hoặc một bên soạn thảo sau đó hai bên sẽ
thống nhất nội dung văn bản điều ước quốc tế ( ít xảy ra).
Việc thông qua văn bản sẽ tiến hành theo cách thức được các bên thỏa thuận.
Có nhiều cách thông qua như: bỏ phiếu kín và biểu quyết (đa phương).
Ngoài ra các chủ thể còn thường áp dụng quy tắc đồng thuận, văn bản điều ước
được thông qua khi không có quốc gia nào phản đối.
Các bên tham gia điều ước có thể thỏa thuận một trong ba hình thức: ký tắt, ký
ad referendum và ký đầy đủ (chính thức).
Phân Các loại điều ước quốc tế phải phê Trừ trường hợp thuộc thẩm
loại chuẩn: quyền phê chuẩn của Quốc
- Điều ước quốc tế có quy định hội, các điều ước quốc tế sau
phải phê chuẩn. đây phải được phê duyệt:
- Điều ước quốc tế nhân danh Nhà - Điều ước quốc tế nhân danh
nước. Chính phủ có quy định phải
- Điều ước quốc tế nhân danh phê duyệt hoặc phải hoàn
Chính phủ có quy định trái với thành thủ tục pháp lý theo quy
luật, nghị quyết của Quốc hội định của mỗi nước để có hiệu
lực
- Điều ước quốc tế nhân danh
Chính phủ có quy định trái với
quy định trong văn bản quy
phạm pháp luật của Chính phủ.
Công ước Viên 1969 về Luật điều ước quốc tế ghi nhận “Bảo lưu điều ước
quốc tế là hành động đơn phương bất kể cách viết hoặc tên gọi như thế nào của một
quốc gia đưa ra khi ký, phê chuẩn, phê duyệt hoặc gia nhập điều ước đó, nhằm qua đó
loại trừ hoặc thay đổi hiệu lực của một hoặc một số quy định của điều ước trong việc
áp dụng chúng đối với quốc gia đó”. Như vậy, bảo lưu được thừa nhận là quyền của
các chủ thể luật quốc tế, tuy nhiên quyền này không phải là tuyệt đối. Quốc gia có thể
đưa ra tuyên bố bảo lưu vào thời điểm quốc gia thực hiện các hành vi nhằm xác nhận
sự ràng buộc của một điều ước đối với quốc gia đó.
Cũng theo Công ước Viên 1969, quốc gia chỉ được phép đưa ra tuyên bố bảo
lưu khi sự bảo lưu đó:
Không bị cấm ngay trong điều ước (Ví dụ: Công ước Luật Biển cấm các quốc
gia bảo lưu bất kỳ điều khoản nào của Công ước);
Phù hợp với đối tượng và mục đích của điều ước;
Việc bảo lưu điều ước quốc tế chỉ có thể được thực hiện đối với các điều ước
quốc tế đa phương;
Đối với các điều ước quốc tế song phương, việc một bên đưa ra tuyên bố bảo
lưu sẽ được coi như một đề nghị thỏa thuận lại, ký kết điều ước mới.
Vừa đảm bảo giá trị của điều ước mà vẫn còn bảo vệ lợi ích các quốc gia, chế
định bảo lưu xuất hiện, đảm bảo một quốc gia vì lợi ích riêng của mình có thể thay đổi
một hoặc một số điều khoản của điều ước.
Căn cứ vào Điểm d Khoản 1 Điều 2 Công ước viên 1969 về Luật Điều ước
quốc tế: “Thuật ngữ bảo lưu dùng để chỉ một tuyên bố đơn phương, bất kể cách viết
hoặc tên gọi như thế nào, của một quốc gia đưa ra khi ký kết, phê chuẩn, chấp thuận,
phê duyệt hoặc gia nhập điều ước quốc tế, nhằm qua đó loại bỏ hoặc sửa đổi hiệu lực
pháp lý của một số quy định của điều ước trong việc áp dụng chúng đối với quốc gia
đó”.
Có thể hiểu, thứ nhất, tuyên bố bảo lưu được đưa ra tại thời điểm quốc gia thực
hiện các hành vi mà thể hiện sự ràng buộc với một điều ước, cụ thể như ký, phê
chuẩn, phê duyệt hay gia nhập điều ước quốc tế. Ví dụ dựa trên thực tế về công cụ
Chat GPT hiện nay, liệu những bài viết nhờ trí tuệ nhân tạo có được công nhận về
quyền tác giả hay không? Luật sở hữu trí tuệ của quốc gia sẽ có những điều khoản về
việc công nhận về quyền tác giả bài viết nhờ công cụ Chat GPT hay không? Điều này
sẽ ảnh hưởng đến những quốc gia đang cho phép người dân sử dụng công cụ Chat
GPT. Trên thực tiễn, không phải quốc gia nào cũng thật sự quan tâm đến công cụ Chat
GPT và tận dụng vào đời sống để phục vụ nhu cầu làm việc. Vì vậy, tại thời điểm này
họ có thể đưa ra tuyên bố bảo lưu về vấn đề quyền tác giả của những bài viết do công
cụ chat GPT tạo ra.
Thứ hai, trong một số trường hợp, bảo lưu điều ước có thể được thực hiện sớm
hơn, ngay khi đàm phán tại hội nghị hoặc khi soạn thảo, thông qua điều ước quốc tế.
4. Tại sao bảo lưu được xem là một quyền nhưng không tuyệt đối
Về bản chất, bảo lưu bản thân của nó được coi là một tuyên bố đơn phương nên
được coi là một quyền và các quốc gia trong quá trình ký kết điều ước quốc tế có
quyền bảo lưu hoặc không bảo lưu điều ước quốc tế. Nhưng đây không phải là một
quyền tuyệt đối bởi hạn chế trong các vấn đề sau:
Có nghĩa là các quốc gia chịu sự ràng buộc của các điều ước này thì không
được đưa ra các biện pháp bảo lưu mà phải tuân thủ thực hiện theo điều ước đã qui
định. Ví dụ: Công ước Luật biển năm 1982 cấm các quốc gia bảo lưu (Đ.309).
Điều này đặt ra cho các quốc gia có sự lựa chọn. Đó là ác quốc gia có thể chọn
không tham gia điều ước hoặc tham gia điều ước nhưng không có điều kiện bảo lưu
nào.
b. Điều ước chỉ cho phép bảo lưu những điều khoản cụ thể
Ở những điều ước này sẽ quy định cụ thể các điều khoản mà các quốc gia được
bảo lưu.
c. Nội dung bảo lưu trái với đối tượng và mục đích của điều ước
Khi một quốc gia đưa ra một tuyên bố bảo lưu thì tuyên bố bảo lưu đó sẽ được
luân chuyển đến các quốc gia ký kết khác để phê chuẩn, đánh giá, xem xét hiệu quả,
nội dung mà đối tượng hướng đến có phù hợp với tình hình quốc gia đó. Bảo lưu sẽ
không có giá trị nếu như ít nhất ⅔ thành viên phản đối.
Có nghĩa không được áp dụng với điều ước song phương. Về bản chất, điều
ước song phương là sự thỏa thuận, thống nhất ý kiến trực tiếp giữa các bên ký kết. Về
bản chất của việc bảo lưu là loại trừ, thay đổi hiệu lực của các nội dung được quy định
trong điều ước. Như vậy, kết quả của việc bảo lưu sẽ làm việc áp dụng điều ước của
các quốc gia bị thay đổi. Trong trường hợp một bên nào đó không thực hiện nổi một
số điều của điều ước thì đây là lời đề nghị mới của bên đối phương, nếu được bên đối
phương đồng ý. Nếu không đồng ý thì không thực hiện được quyền bảo lưu.
Quan hệ giữa quốc gia bảo lưu và quốc gia chấp thuận bảo lưu => thực hiện
bằng các điều ước quốc tế áp dụng bảo lưu.
- Điều ước sẽ được áp dụng có tính đến nội dung bảo lưu mà quốc gia đó đưa
ra. Lấy ví dụ: Quy định rằng thuế nhập khẩu đối với mặt hàng gạo là 5% giữa các bên
ký kết. Tuy nhiên, bên quốc bảo lưu đưa ra tuyên bố rằng họ muốn thế suất này chỉ
còn 2%. Vì vậy bên quốc gia bảo lưu tạm gọi là A và các bên chấp thuận việc bảo lưu
tạm gọi là B C và D sẽ áp dụng điều ước với điều khoản thuế suất nhập khẩu về 2 mặt
hàng gạo là 2% chứ không phải 5% như nguyên thủy ban đầu.
Quan hệ giữa quốc gia tuyên bố bảo lưu và quốc gia chống lại việc bảo lưu =>
điều chỉnh bằng điều ước mà không áp dụng bảo lưu.
- Khi điều ước quốc tế được áp dụng thì bên quốc gia phản đối phải áp dụng
điều ước quốc tế nguyên thủy. Nói theo cách khác, điều ước quốc tế sẽ được áp dụng
mà không tính đến nội dung được bảo lưu theo quy định của điều khoản.
Một ví dụ điển hình là việc Quốc hội ban hành Nghị quyết số 71/2006/QH11
ngày 29 tháng 11 năm 2006 về việc Phê chuẩn Nghị định thư gia nhập Hiệp định
thành lập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, trong đó quyết định : "Áp dụng trực tiếp các cam kết của Việt Nam được
ghi tại Phụ lục đính kèm Nghị quyết này và các cam kết khác của Việt Nam với Tổ
chức thương mại thế giới được quy định đủ rõ, chi tiết trong Nghị định thư, các Phụ
lục đính kèm và Báo cáo của Ban công tác về việc Việt Nam gia nhập Hiệp định thành
lập Tổ chức thương mại thế giới. Trong trường hợp quy định của pháp luật Việt Nam
không phù hợp với quy định của Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới,
Nghị định thư và các tài liệu đính kèm thì áp dụng quy định của Hiệp định thành lập
Tổ chức thương mại thế giới, Nghị định thư và các tài liệu đính kèm”.
Việc Quốc hội thông qua Nghị quyết số 71/2006/QH11 đã đánh dấu một bước
quan trọng trong sự phát triển pháp luật về điều ước quốc tế của Việt Nam trong quá
trình hội nhập. Lần đầu tiên một Nghị quyết của Quốc hội khẳng định việc áp dụng
trực tiếp các cam kết của Việt Nam trong Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế
giới mà không cần phải thực hiện phương thức chuyển hoá.
- Được áp dụng qua một thời gian dài trong thực tiễn pháp lý quốc tế.
Có nghĩa là tập quán đó phải được các chủ thể luật quốc tế áp dụng lặp đi lặp
lại nhiều lần, trong một quá trình lâu dài, liên tục trong thực tiễn quan hệ quốc tế.
- Thừa nhận rộng rãi như những quy phạm pháp lý có tính chất bắt buộc
Tức là tập quán đó được nhiều chủ thể thừa nhận và áp dụng, đồng thời phải tin
rằng xử sự như vậy là đúng về mặt pháp lý và có tính chất bắt buộc. Tuy nhiên trong
thực tế có những quy tắc xử sự được áp dụng nhưng chưa được các quốc gia thừa
nhận có giá trị pháp lý bắt buộc như là nghi thức đón, tiễn đại biểu của các nước viếng
thăm lẫn nhau, các quy định về lễ tân ngoại giao… Các quy tắc này không phải là tập
quán quốc tế mà chỉ là các quy tắc lễ nhượng quốc tế.
- Nội dung phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế hiện đại
Không trái với các nội dung nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế.
* Điểm khác
ĐƯQT TQQT
Phương Thỏa thuận, bình đẳng Đa dạng từ:
thức hình của hai hay nhiều chủ Nghị quyết của tổ chức quốc tế
thành thể Tiền lệ
Thời gian hình thành Hành vi pháp lý đơn phương của
nhanh hơn các quốc gia
Quy trình hình thành Thực tiễn thực hiện điều ước quốc
chặt chẽ, rõ ràng tế
Áp dụng lâu dài, ổn Quá trình hình thành lâu dài và
định và thống nhất đòi hỏi phải có sự liên tục
Quy trình hình thành không rõ
ràng, mang tính ngầm hiểu
Áp dụng không thống nhất bằng
Hình Là sự thỏa thuận công khai Mang tính ngầm định, bất thành văn
thức thông qua đàm phán và ký (không có văn bản nào tập hợp tất cả
kết, thể hiện dưới dạng văn các tập quán, chỉ có những tiền lệ áp
bản (thành văn) dụng có thể nhắc tới làm cơ sở cho
nội dung cần giải quyết)
Giá trị áp Chiếm ưu thế hơn TQQT. Có giá trị áp dụng thấp hơn ĐƯQT.
dụng (Khi các chủ thể đã tham (Khi không có điều ước các bên mới
gia ký kết thì bắt buộc phải lựa chọn áp dụng tập quán hay
áp dụng trong hoạt động không)
hợp tác quốc tế)
Nếu ĐƯQT và TQQT cùng điều chỉnh vấn đề thì trong TH này các bên sẽ vận dụng
nguồn nào? Ưu tiên các bên thỏa thuận chọn áp dụng nguồn, thông thường các bên
thỏa thuận sử dụng ĐƯQT.
Kể tên các phương tiện bổ trợ cho nguồn LQT và lý giải ngắn gọn: tại sao gọi là
phương tiện bổ trợ, điều kiện chung để trở thành ĐƯQT (ĐK nguồn LQT và
TQQT).
CHƯƠNG 3
DÂN CƯ TRONG LUẬT QUỐC TẾ
1. Luật quốc tịch VN 2008 sửa đổi, bổ sung 2014 điều 13
Vấn đề trọng tâm
Hai bộ phận cấu thành dân cư
I. Dân cư nước sở tại.
Công dân (người mang quốc tịch của quốc gia đó): là bộ phận quan trọng nhất
và chiếm đại đa số trong thành phần dân cư của một quốc gia. Chịu sự điều chỉnh của
pháp luật tại quốc gia công dân mang quốc tịch. (Nếu mang nhiều quốc tịch trong đó
có quốc tịch của nước đang cư trú thì cá nhân chịu điều chỉnh bởi pháp luật của những
quốc gia đồng thời mang quốc tịch;). Người không quốc tịch: chỉ chịu sự điều chỉnh
của quốc gia nơi họ đang cư trú.
Ví dụ: A mang QT Pháp, Mỹ sinh sống trên VN thì chịu sự điều chỉnh PL của
nơi đang cư trú và nơi họ mang QT.
Câu hỏi: Công dân Việt Nam chỉ chịu sự điều chỉnh của PLVN.
Nhận định này sai.
Vì về mặt nguyên tắc, cư dân Việt sống trong phạm vi lãnh thổ thì chịu sự điều
chỉnh của pháp luật Việt Nam hoặc công dân Việt Nam đi cư trú, học tập ở nước ngoài
thì cũng sẽ chịu ảnh hưởng của nơi cư trú.
CSPL: Theo Khoản 5 Điều 3 Luật Quốc tịch 2014.
II. Người nước ngoài sinh sống trên lãnh thổ nước sở tại
Người mang quốc tịch nước ngoài: là người mang hai hoặc nhiều quốc tịch.
Bộ phận dân cư này chịu sự điều chỉnh của pháp luật quốc gia đang cư trú đồng thời
chịu sự điều chỉnh của pháp luật của quốc gia mà họ là công dân. Ngoài ra, khái niệm
“người nước ngoài” còn bao gồm những người không quốc tịch, đây là những người
không có một quốc tịch nào, họ là những người được hưởng quy chế pháp lý do quốc
gia nơi họ đang cư trú.
? Nguyên tắc áp dụng quốc tịch ở Việt Nam là nguyên tắc nào, 1 quốc tịch hay đa
quốc tịch.
Việt Nam áp dụng nguyên tắc một quốc tịch dựa trên linh động và mềm dẻo.
VI. Thực tiễn Việt Nam có cá nhân có nhiều quốc tịch không? Nguyên nhân?
1. Thực tiễn Việt Nam có cá nhân mang nhiều quốc tịch
Luật quốc tịch Việt Nam có 4 trường hợp công dân Việt Nam được phép có hai
quốc tịch, theo đó Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam công nhận công dân
Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam. Trừ trường hợp Luật này có quy
định khác, nên trong một số trường hợp ngoại lệ, Việt Nam vẫn cho phép công dân
được mang quốc tịch kép.
Bốn trường hợp là:
1. Trường hợp người Việt Nam định cư ở nước ngoài nhưng vẫn còn quốc tịch
Việt Nam (khoản 2 Điều 13 Luật Quốc tịch Việt Nam 2008, sđ, bs 2014)
2. Trường hợp được nhập quốc tịch Việt Nam mà không phải thôi quốc tịch nước
ngoài (3 Điều 19 Luật Quốc tịch Việt Nam 2008; Điều 9 Nghị định
16/2020/NĐ-CP )
3. Trường hợp người xin trở lại quốc tịch Việt Nam nhưng không phải thôi quốc
tịch nước ngoài (khoản 5 Điều 23 Luật Quốc tịch Việt Nam 2008; Điều 14
Nghị định 16/2020/NĐ-CP)
4. Trường hợp trẻ em Việt Nam được người nước ngoài nhận làm con nuôi ( Điều
37 Luật Quốc tịch Việt Nam 2008)
Nguyên nhân
Do sự xung đột pháp luật của các nước khi quy định về các trường hợp hưởng
và mất quốc tịch
Do hành vi kết hôn, nhận con nuôi trong quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài
hoặc được QG nước ngoài tặng, thưởng QT do có công lao đóng góp đối với
QG thưởng QT
Do một cá nhân được hưởng quốc tịch mới nhưng chưa xin thôi QT cũ hoặc
QT cũ không đương nhiên bị chấm dứt. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là
do luật quốc tịch của nước họ không có quy định về việc đương nhiên mất quốc
tịch khi vào quốc tịch mới.
Thực trạng
Xuất phát chủ yếu bởi VN không có điều khoản khi công dân nhập quốc tịch
mới phải thôi quốc tịch Việt Nam. Căn cứ theo Điều 13 Luật Quốc tịch VN
2014.
Người nước ngoài nhập Điều 19 Luật Quốc tịch VN 2014
Xin trở lại quốc tịch Việt Nam căn cứ khoản 5 Điều 23 Luật QT VN 2014.
Trẻ em nhận làm con nuôi. Căn cứ Điều 37 Luật Quốc tịch VN 2014.
Người phụ nữ được mang quốc tịch của người chồng. Căn cứ vào Điều 9.
Giải pháp (Điều 12 Luật Quốc tịch)
Tại sao Việt Nam không áp dụng triệt để tình trạng nhiều quốc tịch ở Việt Nam?
Như điều 4, “trừ TH..”. NN cho phép mang nhiều QT nhằm mục đích gì (cơ hội cho
người nước ngoài quay trở về VN)
Thực tiễn hiện nay còn nhiều người Việt nam không có quốc tịch hoặc mang
nhiều quốc tịch. Ví dụ như:
Năm 2018 ghi nhận 3 anh em sinh ra và lớn lên ở tỉnh Quảng Nam hơn 50 năm,
nhưng vật vã nhiều năm nhập quốc tịch không được.
Năm 2019 ghi nhận ông Trần Quyết Chiến (SN 1978), tạm trú tại Sa Thôn, xã
Xuân Lâm huyện Tĩnh Gia, Thanh Hóa, năm 1985 đi làm bên Trung Quốc, nay
trở về cùng con, đã 7 năm sống "chui" không quốc tịch.
Giải pháp của NN VN (bữa cuối cô giải đáp)
VIII. Pháp luật quy định như thế nào về cá nhân có nhiều và không có
quốc tịch.
Trường hợp 1: Khoản 1 Điều 672 BLDS 2015
Pháp luật được dẫn chiếu đến là pháp luật của nước mà cá nhân có quốc tịch
nhưng cá nhân đó là người không quốc tịch thì pháp luật áp dụng là pháp luật
của nước nơi người đó cư trú vào thời điểm phát sinh quan hệ dân sự có yếu
tố nước ngoài. Nếu người đó có nhiều nơi cư trú hoặc không xác định được
nơi cư trú vào thời điểm phát sinh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài thì
pháp luật áp dụng là pháp luật của nước nơi người đó có mối liên hệ gắn bó
nhất.
Trường hợp 2: Khoản 2 Điều 672 BLDS 2015
Pháp luật được dẫn chiếu đến là pháp luật của nước mà cá nhân có quốc tịch
nhưng cá nhân đó là người có nhiều quốc tịch thì pháp luật áp dụng là pháp
luật của nước nơi người đó có quốc tịch và cư trú vào thời điểm phát sinh
quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Nếu người đó có nhiều nơi cư trú hoặc
nơi cư trú và nơi có quốc tịch khác nhau vào thời điểm phát sinh quan hệ dân
sự có yếu tố nước ngoài thì pháp luật áp dụng là pháp luật của nước mà người
đó có quốc tịch & có mối liên hệ gắn bó nhất.
Pháp luật được dẫn chiếu đến là pháp luật của nước mà cá nhân có quốc tịch
nhưng cá nhân đó là người có nhiều quốc tịch, trong đó có quốc tịch Việt
Nam thì pháp luật áp dụng là pháp luật Việt Nam.
IX. Chế độ đối với công dân là người nước ngoài tại nước sở tại
1. Chế độ đãi ngộ như công dân
Là chế độ đãi ngộ giống công nhân nước sở tại, được hưởng quyền và lợi ích
giống công nhân nước sở tại nhưng chỉ mang tính chất tương đối nhưng cũng chịu 1
vài hạn chế. Cân bằng giữa quyền và nghĩa vụ của CD nước sở tại và người nước
ngoài. Tuy nhiên điều này không triệt để, chỉ mang tính chất tương đối. VD:
Chỉ có ở CD nước sở tại: bầu cử, khắc con dấu,..
Nghĩa vụ mà người nước ngoài được miễn: NVQS
2. Chế độ tối huệ quốc
3. Chế độ đãi ngộ đặc biệt
Giới hạn đối tượng: viên chức ngoại giao, viên chức lãnh sự
Theo điều 29 CƯV 1961 về ngoại giao, 1963 về lãnh sự.
4. Chế độ có đi có lại
5. Chế độ trả đũa
X. Cư trú chính trị. Liên hệ Việt Nam. So sánh tội phạm chính trị, tội phạm
hình sự và tội phạm hình sự quốc tế.
1. Khái niệm và CSPL
Pháp luật Việt Nam:
Cư trú chính trị (tị nạn chính trị) có thể được định nghĩa là việc 1 quốc gia cho
phép người nước ngoài đang bị truy nã ở ngay trên đất nước họ do những quan điểm
và hoạt động về chính trị, khoa học và tôn giáo…. được nhập cảnh và cư trú ở trên
lãnh thổ của mình.
Điều kiện để một người nước ngoài có thể được 1 quốc gia khác cho phép cư
trú chính trị trên lãnh thổ mình nếu như theo quan điểm của quốc gia chấp nhận cư
trú chính trị, họ có sự bất đồng về quan điểm hoặc có những hoạt động về chính trị,
khoa học, tôn giáo ở ngay chính quốc gia mà họ đang là công dân và vì lý do này họ
đang bị truy nã ở quốc gia đó hoặc có khả năng bị đe dọa bắt giữ hoặc áp dụng chế tài.
(Tóm lại: Người có các quan điểm bất đồng về chính trị, tôn giáo, khoa học trên
chính quốc gia họ sinh sống và người đó bị chính quốc gia của họ bị truy nã, bị
bức hại trong quá trình bỏ trốn).
Việc cho phép người nước ngoài cư trú chính trị có ảnh hưởng trực tiếp đến
quan hệ giữa quốc gia cho phép cư trú chính trị và quốc gia mà người này là công
dân .
CSPL: Điều 82 hiến pháp 1992 của Việt Nam quy định: “Người nước ngoài
đấu tranh vì tự do độc lập dân tộc, chủ nghĩa xã hội, dân chủ và hoà bình hoặc vì sự
khoa học mà bị bức hại thì được nhà nước Cộng hoà chủ nghĩa VN xem xét việc cho
cư trú”.
(CSPL: Điều 49 HP 2013 “Người nước ngoài đấu tranh vì tự do và độc lập dân tộc, vì
chủ nghĩa xã hội, dân chủ và hòa bình hoặc vì sự nghiệp khoa học mà bị bức hại thì
được Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xem xét cho cư trú.”).
3. So sánh tội phạm chính trị, tội phạm hình sự, tội phạm hình sự quốc tế
Tội phạm Tội phạm Tội phạm hình
chính trị hình sự sự quốc tế (tội
phạm có tính
quốc tế)
Là 1 người bị giam Hay còn gọi là tội phạm Hay còn gọi là tội
giữ trong nhà tù hay nói chung, là nhóm tội phạm theo công
quản thúc tại gia do phạm không xâm phạm ước là tội phạm
hình ảnh hay chính đến trật tự pháp lý quốc tế xâm phạm trật tự
kiến, hành động của và không đụng chạm đến pháp lý quốc gia
KHÁI người này bị chính các quyền lợi của cộng và an ninh, hòa
NIỆM quyền xem là đe doạ đồng quốc tế bình quốc tế, gây
hay thách thức đến ảnh hưởng tiêu
quyền lực của chính cực tới đời sống
quyền hay an ninh của cộng đồng
và chủ quyền quốc quốc tế
gia
CHỦ THỂ Những người có đủ Theo quy định của pháp Những người có
năng lực trách luật quốc gia đủ năng lực trách
nhiệm hình sự và đạt nhiệm hình sự và
độ tuổi theo luật đạt độ tuổi theo
định luật định
MỨC ĐỘ Mức độ nguy hiểm Mức độ nguy hiểm ít hơn Mức độ không
NGUY cao nhất quá nguy hiểm
HIỂM nhưng hậu quả
nghiêm trọng
Cư trú Có thể được cư trú Không cho phép cư trú Không cho phép
chính trị chính trị và được nhập cư trú
QT
I. Lãnh thổ quốc gia và các yếu tố cấu thành nên quốc gia
1. Khái niệm
Lãnh thổ là một trung 4 điều kiện cơ bản và chủ yếu cấu thành nên một quốc gia, bao
gồm: vùng đất, vùng nước, vùng lòng đất và vùng trời.
Vùng lãnh thổ quốc gia có chủ quyền hoàn toàn và tuyệt đối: duy nhất có toàn
quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với lãnh thổ thuộc chủ quyền của
mình.
Vùng lãnh thổ quốc gia có chủ quyền hoàn toàn và đầy đủ: Có nhiều quốc gia
sở hữu chung, khai thác chung như vùng nước có nhiều quốc gia ven bờ.
Bổ sung và làm rõ đặc trưng của 4 yếu tố trên. Liên hệ Việt Nam.
Vùng đất: Ở Việt Nam, là một nước ven biển, lãnh thổ vùng đất của nước ta bao gồm
toàn bộ dải đất hình chữ “S” nằm ở lục địa đông nam châu Á và các đảo quần đảo gần
bờ hoặc xa bờ như đảo Thổ Chu, Bạch Long Vĩ, Côn Đảo, Phú Quốc,... và hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Vùng nước:
Mặc dù đều là bộ phận lãnh thổ quốc gia nhưng tính chất chủ quyền của quốc
gia đối với mỗi vùng nước này có sự khác nhau nhất định. Ở vùng nước nội thủy, chủ
quyền của quốc gia ven biển là hoàn toàn và tuyệt đối. Còn ở vùng nước lãnh hải, chủ
quyền của quốc gia ven biển chỉ là hoàn toàn và đầy đủ (tàu thuyền nước ngoài được
qua lại vô hại quy định tại điều 17, công ước 1982)
Có phải 4 quốc gia thì có 4 vùng này hết không?
Nhận định sai. Vì sẽ có những QG không có giáp biển: Lào, Nepal nên sẽ không có
vùng nội thủy, lãnh hải do không có biển.
Nội địa khác nội thủy: khác về vị trí, một cái nằm trên biển, một cái trên đất
liền. Tính chất chủ quyền hoàn toàn và tuyệt đối.
Nội thủy khác lãnh hải (điều 17, 18, 19 Công ước UNCLOS 1982): về vị trí;
vị trí sát bờ, gắn liền với đất liền, toàn bộ phần nước biển nằm tiếp liền với nội thủy
một bên là đường cơ sở và đường biên giới trên biển. Khác lớn nhất: tính chất chủ
quyền, vùng NT hoàn toàn tuyệt đối, lãnh hải là hoàn toàn và đầy đủ: do Công ước
1982 thừa nhận quyền qua lại vô hại lãnh hải của tàu thuyền nước ngoài. Đây chính là
sự thỏa hiệp giữa các quốc gia ven biển và các cường quốc hàng hải trong việc thừa
nhận quốc gia ven biển có vùng lãnh hải rộng 12 hải lý (trước đây, thông thường lãnh
hải của quốc gia ven biển chỉ rộng 3 hải lý). Điều 17 (qua lại không gây hại nhưng
không đồng nghĩa với tự do qua lại) nhằm mục đích bảo vệ lợi ích cho tất cả các quốc
gia cho dù có biển hay không có biển.
Xác định nội thủy và lãnh hải: phải xác định được đường cơ sở (Điều 5,7
UNCLOS 1982)
Tại sao phải có 2 pp xác định cơ sở: là do không phải bờ biển của mỗi quốc
gia đều có cấu trúc địa hình giống nhau (đơn giản hay phức tạp). Thậm chí là
kết hợp cả 2 cơ sở (Điều 14 công ước UNCLOS 1982).
Việt Nam có 4 vùng nước: vùng nội địa, vùng biên giới, vùng nội thủy, vùng
lãnh hải.
VD vùng nước biên giới Việt Nam: Sông Mê Kông
Việt Nam đã tham gia và ký kết nhiều hiệp định quốc tế liên quan đến vấn đề
vùng nước như Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS).
Ví dụ cụ thể: Trong Luật Biển UNCLOS, tranh chấp với Trung Quốc về chủ
quyền trên Biển Đông. Việc Trung Quốc xây dựng các đảo nhân tạo và các cơ
sở quân sự trên vùng biển mà Việt Nam có chủ quyền là một hoạt động vi
phạm UNCLOS và các nguyên tắc của Luật Biển Quốc tế.
Vùng trời:
Vùng trời quốc gia là khu vực không gian bao trùm trên vùng đất và vùng nước
của một quốc gia, thuộc chủ quyền và kiểm soát tối đa của quốc gia đó. Các quy định
về vùng trời quốc gia thường được quy định trong các điều lệ pháp lý, hiệp định và
các công ước quốc tế.
Vùng trời là khoảng không bên trong đường biên giới quốc gia. Giới hạn bên
ngoài vùng trời của một quốc gia được xác định bởi mặt phẳng thẳng đứng, vuông góc
từ đường biên giới quốc gia trên đất liền, từ ranh giới phía ngoài vùng tiếp giáp lãnh
hải của đất liền và các hải đảo hướng lên khoảng không vũ trụ. Đa số các nước trên
thế giới xác định độ cao cùng vùng trời là 100 đến 110 km từ mực nước biển trở lên.
Khái niệm và các chế định pháp lý của vùng trời được hình thành từ cuối thế kỷ thứ
19 khi xuất hiện các thiết bị bay.
Các quốc gia đều có chủ quyền hoàn toàn, tuyệt đối và toàn vẹn đối với vùng
trời của mình. Xâm phạm vùng trời được công pháp quốc tế thừa nhận là xâm phạm
toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia.
Dựa trên nguyên tắc chủ quyền hoàn toàn và riêng biệt của quốc gia đối với
vùng trời, các quốc gia có toàn quyền quy định chế độ sử dụng và khai thác vùng trời
quốc gia. Nội dung của quy chế gồm:
Các chuyến bay của phương tiện bay (phương tiện bay) nước ngoài chỉ được
thực hiện trên cơ sở giấy phép hàng không;
Điều ước quốc tế hàng không là cơ sở pháp lý để cấp giấy phép cùng các điều
kiện thực hiện giấy phép này;
Trong quá trình khai thác vùng ười quốc gia, các phương tiện bay nước ngoài
phải chấp hành các quy định về cửa khẩu hàng không, hành lang bay, độ cao bay và
sân bay hạ cánh;
Quốc gia sở tại có quyền quy định vùng cấm bay hoặc hạn chế bay, các phương
tiện bay nước ngoài phải có nghĩa vụ tôn trọng các quy định này;
Tất cả hành vi vi phạm chủ quyền quốc gia trong vùng trời đều sẽ bị trừng phạt
nghiêm khắc theo quy định và các điều khoản có liên quan của luật quốc gia cũng như
luật quốc tế.
Trong tuyên bố ngày 5/6/1984 của Việt Nam về vùng trời đã thể hiện rõ ràng
nội dung các quy định nêu trên, theo đó:
Các chuyến bay của phương tiện bay nước ngoài chỉ được thực hiện
trong vùng trời Việt Nam trên cơ sở các điều ước quốc tế hàng không
hoặc trên cơ sở cho phép của Chính phủ Việt Nam.
Các phương tiện bay nước ngoài phải tuân theo các quy định của Việt
Nam về đường bay, sân bay hàng không; phải chịu mọi sự kiểm soát và
hướng dẫn của các cơ quan có thẩm quyền Việt Nam.
Phương tiện bay nước ngoài không được tiến hành dưới bất kỳ hình thức
nào các hoạt động xâm phạm tới vùng trời Việt Nam.
=> Tất cả các hành vi vi phạm các quy định về vùng trời Việt Nam sẽ bị xử lý theo
pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Liên hệ Việt Nam:
Luật Hàng không dân dụng năm 2014: Luật này quy định về vùng trời quốc gia
của Việt Nam, bao gồm quyền sở hữu, quản lý, điều hành, kiểm soát không
lưu, cấp phép bay và giám sát an toàn hàng không.
Nghị định số 92/2018/NĐ-CP ngày 07/06/2018 của Chính phủ về việc quản lý
an ninh hàng không dân dụng: Nghị định này quy định về việc đảm bảo an ninh
hàng không, bao gồm việc quản lý và kiểm soát các hoạt động trên vùng trời
quốc gia của Việt Nam.
Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015: Luật này quy định về chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và tổ chức của Chính phủ Việt Nam, bao gồm cả lĩnh vực hàng
không và vùng trời quốc gia.
Hiến pháp năm 2013: Quy định rõ việc bảo vệ chủ quyền, thống nhất lãnh thổ
và vùng trời quốc gia của Việt Nam.
Ví dụ cụ thể: Hiệp định MHA được ký kết năm 1987 với mục đích kiểm soát các chất
làm hủy ozon như CFC và HCFC với một tiêu chuẩn cho toàn cầu. Việt Nam cũng
tham gia Hiệp định này và đã tiến hành thực hiện quy định về các chất hủy hoại tầng
ozon. Một trong những nỗ lực đã được thực hiện là ngừng nhập khẩu và sử dụng CFC
và HCFC từ năm 2010 và thay thế chúng bằng các chất thân thiện với môi trường.
Liên hệ VN: Vì vùng lòng đất thuộc chủ quyền hoàn toàn và tuyệt đối của QG nên
theo Điều 227 Bộ Luật hình sự: Người nào vi phạm quy định về nghiên cứu, thăm dò,
khai thác tài nguyên trong đất liền, hải đảo, nội thủy, vùng lãnh hải, vùng đặc quyền
kinh tế, thềm lục địa và vùng trời của Việt Nam thì bị phạt tiền lên tới 3 tỷ và phạt tù
lên tới 7 năm.
VD: Công ty Bình Minh bị xử phạt gần 300 triệu đồng vì khai thác đá trái phép
(https://moitruong.net.vn/thanh-hoa-xu-phat-gan-300-trieu-dong-doi-voi-cong-ty-
binh-minh-vi-vi-pham-khai-thac-khoang-san-59396.html)
=> Lãnh thổ vùng đất là quan trọng nhất vì:
- Là nơi sinh sống đa số của cộng đồng dân cư, nơi chính quyền được thành lập, tồn
tại và phát triển
- Lãnh thổ vùng đất là nơi chủ yếu để QG thực hiện chủ quyền của mình
- Lãnh thổ vùng đất là cơ sở pháp lý quan trọng nhất để QG lập chủ quyền đối với
lãnh thổ trên biển, lãnh thổ trên không và lãnh thổ lòng đất
Xác lập chủ quyền quốc gia thông qua chiếm hữu lãnh thổ là gì?
Là hành động của một quốc gia tuyên bố xác lập chủ quyền đối với một vùng
lãnh thổ vô chủ, không thuộc chủ quyền của bất kỳ quốc gia nào vào thời điểm xác
lập.
Nguyên tắc này được chia thành 2 dạng: chiếm hữu tượng trưng và chiếm hữu
thật sự.
Các điều kiện để quốc gia xác lập chủ quyền lãnh thổ theo hai hình thức
chiếm hữu:
Nguyên tắc chiếm hữu tượng trưng. Nêu những điểm hạn chế của nguyên
tắc này. (Nguyên tắc này khởi nguồn từ đâu; 2 điều kiện là gì; Hạn chế?)
Nguyên tắc này xuất phát từ học thuyết quyền khám phá trước tiên. Theo học
thuyết này, cơ sở để xác lập chủ quyền quốc gia đối với vùng lãnh thổ mới được thực
hiện thông qua sự công nhận một số hành vi mang tính chất tượng trưng như hành vi
của viên thuyền trưởng hay nhà thám hiểm nào đó đã đặt chân lên đảo hay bờ biển của
vùng lãnh thổ vô chủ và để lại bằng chứng như cây thập tự, cột gỗ, bia đá… hay bất
kỳ dấu tích nào để chứng minh sự có mặt của họ trên lãnh thổ đó. Tiếp đó, nhà nước
mà nhà thám hiểm là công nhân phải đưa ra tuyên bố chính thức về việc xác lập chủ
quyền của quốc gia đối với vùng lãnh thổ mới phát hiện.
Điều kiện
Phải là vùng lãnh thổ vô chủ. (không quan trọng)
Hành động nhân danh cá nhân. VD: thông qua nhà thám hiểm; các thuyền
trưởng đặt chân lên vùng đất vô chủ ấy để lại dấu tích, cột mốc, bia đá, cột
cờ…
Quốc gia có tuyên bố chính thức xác lập chủ quyền thông qua hành vi cá nhân
của mình.
Hai điều kiện cuối là điều kiện quyết định và quan trọng nhất.
Mặt hạn chế
Chỉ dễ dàng đối với vùng đất, đảo nhỏ đối với vùng đất đai rộng lớn nếu chỉ
lưu lại bằng chứng tại một điểm nào đó trong khi chưa hoàn toàn khám phá hết
vùng đất mà quốc gia đã xác lập chủ quyền hoàn toàn với vùng đất ấy là chưa
hợp lý.
Nhiều quốc gia đều tuyên bố chủ quyền trên một vùng đất mới do điều kiện
thông tin không kịp thời và đầy đủ nên không biết đã có quốc gia khác phát
hiện => dẫn đến việc tái xác lập chủ quyền => các quốc gia dễ xung đột.
Những dấu tích, chứng cứ bị hư hại theo thời gian dẫn tới tái phát hiện, tái xác
lập dẫn đến xảy ra xung đột mâu thuẫn giữa các quốc gia.
=> Chính vì những mặt hạn chế trên mà nguyên tắc này dần được thay thế bằng
nguyên tắc chiếm hữu thật sự.
Việc chiếm hữu phải hòa bình (không phải dùng vũ lực), liên tục và
được cộng đồng quốc tế chấp nhận.
Thế nào là được cộng đồng quốc tế công nhận? Có 2 phương pháp:
Công nhận minh thị (có nghĩa rõ ràng): các QG gọi điện, viết thư chúc mừng, thông
cáo, sử sách, nguyên tắc của các QG…. bằng hình thức văn bản
Công nhận mặc thị (im lặng, không phản đối): mặc nhiên được hiểu là đồng ý.
Yêu cầu về tính hòa bình của sự chiếm hữu có nghĩa là việc chiếm hữu và xác
lập chủ quyền quốc gia đối với vùng lãnh thổ không phải là kết quả của hành vi tước
đoạt chủ quyền của một quốc gia khác bằng hành vi sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ
lực.
SO SÁNH CHIẾM HỮU TƯỢNG TRƯƠNG VÀ THỰC SỰ
Ngoài ra, xác lập chủ quyền quốc gia còn dựa theo nguyên tắc:
Nguyên tắc xác lập chủ quyền theo thời hiệu.
Theo nguyên tắc này, 1 số quốc gia sẽ xác lập chủ quyền đối với một vùng lãnh
thổ nếu họ đã chiếm hữu trong 1 thời gian dài mà không có sự tranh chấp với quốc gia
khác, mặc dù về phương diện pháp lý, chủ quyền đối với lãnh thổ này còn đang là đối
tượng gây tranh cãi. Nguyên tắc này xuất hiện từ thời kỳ “ quyền chiến tranh “và vẫn
được áp dụng trong quan hệ quốc tế. Theo nguyên tắc xác lập chủ quyền theo thời
hiệu phải đáp ứng đồng thời 2 điều kiện sau:
Quốc gia có danh nghĩa chủ quyền nhưng đã từ bỏ, dẫn đến lãnh thổ bị từ bỏ
Quốc gia mới xác lập chủ quyền thực sự đối với vùng lãnh thổ bị từ bỏ đó một
cách công khai, liên tục và hoà bình
Luật quốc tế hiện đại không thừa nhận nguyên tắc này về mặt pháp lý, trừ
trường hợp quốc gia xác lập chủ quyền lãnh thổ đối với những vùng lãnh thổ mà ho
chiếm hữu không thông qua hành vi xâm lược.
4. Liên hệ thực tiễn Việt Nam trong việc xác lập chủ quyền với 2 quần đảo
Hoàng Sa, Trường Sa. Tại sao TQ cũng tuyên bố chiếm hữu HS, TS nhưng thực
sự đây có theo nguyên tắc chiếm hữu thực sự hay không?
Liên hệ:
Việt Nam đã xác lập, thực hiện chủ quyền đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa khi hai quần đảo này còn là vô chủ, thực hiện chủ quyền đối với hai quần
đảo một cách hòa bình, liên tục và không gặp phải sự phản đối của bất kỳ quốc gia
nào.
Chủ quyền của Việt Nam với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng được
thừa nhận tại hội nghị San Francisco tháng 9 năm 1951 – Hội nghị giải quyết vấn đề
quy thuộc về các vùng lãnh thổ sau chiến tranh thế giới thứ 2 với sự tham gia của 51
quốc gia. Tại hội nghị này, Trưởng phái đoàn quốc gia Việt Nam, Thủ tướng Chính
phủ Bảo Đại Trần Văn Hữu đã khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà không gặp bất cứ sự phản đối nào của 50 quốc gia
tham dự còn lại.
Sau khi ký hiệp định Giơ ne vơ năm 1954 Pháp đã chuyển giao hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa cho chính quyền Sài Gòn. Chính quyền Sài Gòn thực tế và
thực thi chủ quyền đối với hai quần đảo này. Sau năm 1975, nước Việt Nam thống
nhất, nhà nước CHXHCN Việt Nam quản lý các đảo ở Trường Sa và luôn khẳng định
chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa.
Tại sao?
Theo phương thức thụ đắc lãnh thổ, một quốc gia được coi là có chủ quyền đối với
một vùng lãnh thổ khi quốc gia đó chứng minh được mình chiếm hữu, thực thi, quản
lý và khai thác lãnh thổ đó với tư cách Nhà nước một cách liên tục hoà bình. Theo đó,
Việt Nam đã xác lập, thực thi chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
hoàn toàn phù hợp với các quy định của luật quốc tế.
Quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam đã bị Trung Quốc đánh chiếm vào các năm
1956 và 1974; một số bãi ngầm ở quần đảo Trường Sa của Việt Nam bị Trung Quốc
đánh chiếm bằng vũ lực vào năm 1988. Bất cứ hành động chiếm đóng bằng vũ lực nào
ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đều vi phạm nghiêm trọng hiến chương Liên hợp
quốc và các chuẩn mực của pháp luật quốc tế.
Riêng với các quốc gia quần đảo thì vùng đất được hiểu ra sao?
Duy An
Trước hết, vùng đất của một quốc gia là toàn bộ phần đất liền và các hải đảo
thuộc chủ quyền của quốc gia kể cả các đảo xa bờ và gần bờ. Đối với các quốc gia
quần đảo (Indonesia, Philipin) thì vùng đất của quốc gia là tập hợp các đảo thuộc chủ
quyền quốc gia đó.
Có chủ quyền như thế nào đối với vùng đất của mình? Duy An
Vùng đất của quốc gia thuộc chủ quyền hoàn toàn và tuyệt đối của quốc gia bất
kể vị trí một phần hay toàn bộ của chúng nằm ở đâu.
Khi nói đến lãnh thổ của một quốc gia thì trước tiên là nói đến vùng lãnh thổ
đất liền hay còn gọi là lãnh thổ lục địa (vùng đất lục địa), ngoài vùng đất lục địa, lãnh
thổ quốc gia còn bao gồm: các đảo, các quần đảo thuộc chủ quyền của quốc gia kể cả
các đảo, các quần đảo thuộc chủ quyền của quốc gia kể cả các đảo, các quần đảo gần
bờ hoặc xa bờ.
Liên hệ Việt Nam? Duy An
Việt Nam là một nước ven biển vùng đất của nước ta bao gồm toàn bộ dải đất
hình chữ S và các đảo như Thổ Chu (hay còn gọi là Thổ Châu, thuộc Huyện Phú quốc,
Kiên giang); Bạch Long Vĩ (là một huyện đảo thuộc Hải phòng); Côn Đảo (tên một
quần đảo ngoài khơi tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu); đảo Cồn Cỏ (Quảng trị)... các quần đảo
như quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa, tất cả đều được luật quốc tế công nhận
là lãnh thổ vùng đất của Việt Nam.
5. Mở rộng: Lãnh thổ di động là gì? Bắc Cực có vùng lãnh thổ kế cận/rẻ quạt?
Lãnh thổ hải ngoại, lãnh thổ kín? Trâm Anh Minh Ánh, Đ.L.QAnh.
Lãnh thổ di động:
Khi tàu thuyền, máy bay quân sự, các công trình, thiết bị nhân tạo của quốc gia
như hệ thống cáp ngầm, ống dẫn ngầm, đảo nhân tạo… mang cờ hoặc dấu hiệu riêng
biệt, hợp pháp của quốc gia hoạt động hoặc nằm ngoài phạm vi lãnh thổ quốc gia (ở
vùng biển quốc tế, châu Nam Cực, khoảng không vũ trụ) được thừa nhận có chế độ
pháp lý như lãnh thổ quốc gia thì chúng được coi là một bộ phận lãnh thổ quốc gia,
với tên gọi là "lãnh thổ di động" , "lãnh thổ bay" hay "lãnh thổ bơi".
Lãnh thổ kế cận:
Là khu vực lân cận mà một quốc gia có quan hệ gần gũi, tương tác thường
xuyên với các quốc gia khác. Tùy vào hoàn cảnh, lãnh thổ kế cận có thể được
xác định theo nhiều cách khác nhau, như là lãnh thổ giáp ranh, khu vực địa lý
lân cận, khu vực thương mại quan trọng.
Lãnh thổ kín: Là bộ phận lãnh thổ nằm trọn trong lãnh thổ của quốc gia khác,
không có đường thông ra biển (như Lavia, lãnh thổ của Tây Ban Nha nằm trong lãnh
thổ Cộng hòa Pháp).
Lãnh thổ rẻ quạt: Đối với các quốc gia giáp với Bắc Cực như Nga, Mỹ, Na
Uy, Canada, Đan mạch, Thụy điển, Phần lan và Aixơlen vùng đất của các quốc gia
này còn cả phần đất hình rẻ quạt nằm trong khu vực Bắc cực.
Lãnh thổ hải ngoại:
Lãnh thổ hải ngoại của 1 quốc gia là các vùng lãnh thổ do chính quốc gia đó
quản lý nằm bên ngoài ranh giới địa lý của quốc gia đó.
VD: Lãnh thổ hải ngoại của Pháp bao gồm các vùng lãnh thổ do Cộng hòa
Pháp quản lý nằm bên ngoài ranh giới địa lý của châu Âu. Các lãnh thổ này có tình
trạng pháp lý khác nhau và mức độ tự trị cũng có những khác biệt, tất cả đều có đại
diện trong Quốc hội Pháp. Lãnh thổ Hải ngoại thuộc Pháp bao gồm nhiều hải đảo tại
Đại Tây Dương, Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, Guyane thuộc Pháp thuộc đại
lục Nam Mỹ và lãnh thổ tuyên bố chủ quyền tại Nam Cực cũng như các đảo xung
quanh.
Thứ nhất, khi quốc gia đó đưa ra đầy đủ các bằng chứng, cơ sở pháp lý chứng
minh rằng họ có quyền chủ quyền đối với vùng lãnh thổ đó.
Thứ hai, tuyên bố của QG phải phù hợp với các ĐƯQT.
Tuyên bố của TQ về chủ quyền đối với HS và TS dựa trên nguyên tắc nào
hay là dùng biện pháp vũ lực đe dọa?
Tuyên bố của Trung Quốc về chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa không
dựa trên bất kỳ nguyên tắc nào. Trung Quốc cũng không đưa ra được bất kỳ cơ sở
pháp lý nào để chứng minh chủ quyền đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Trung Quốc đã nguỵ biện về chủ quyền của họ ở Tây Sa (HS) và Nam Sa (TS). Họ
cho rằng, họ có chủ quyền lịch sử đối với 2 quần đảo này. Sách trắng của Trung Quốc
đối với Tây Sa (tức Hoàng Sa của Việt Nam) và Nam Sa (tức Trường Sa của Việt
Nam) kết luận rằng, Trung Quốc là nước đầu tiên khai thác, cai quản các quần đảo này
từ hàng nghìn năm nay. Nhưng thật ra họ chưa đưa được một bằng chứng pháp lý nào
kể cả trong sử sách, là Nhà nước Trung Quốc đã tổ chức các đơn vị hành chính ở đây,
tư liệu lịch sử và bản đồ của người Trung Quốc xuất bản chính thức không thể hiện
được điều đó. Các tư liệu của Trung Quốc cho đến nay, kể cả tư liệu trong cuộc trưng
bày bản đồ do Chánh án Tòa án Tối cao Philippines tổ chức, cho thấy bản đồ Trung
Quốc chỉ vẽ cực nam nước này là đến phía Nam đảo Hải Nam. Trung Quốc thiếu
bằng chứng chứng minh, nên giờ họ đang bổ sung khoảng trống, điểm đen trong hồ sơ
pháp lý, tiếp tục củng cố yêu sách chủ quyền của họ. Trong khi đó Việt Nam đã được
ra được bằng chứng chứng minh rằng Việt Nam chiếm hữu thật sự hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa ít nhất từ thế kỷ XVII khi nó chưa thuộc quyền sở hữu của
bất kỳ quốc gia nào.
Trung quốc đã sử dụng nhiều biện pháp chiếm đóng trái phép bằng vũ lực.
Như đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam các năm 1956, 1974 và một số bãi
đá ở quần đảo Trường Sa năm 1988; xây đảo nhân tạo trái phép ở biển đông; năm
2019, Trung Quốc đã cho tàu Hải Dương địa chất 08 cùng nhiều tàu hải cảnh và tàu
dân quân biển xâm phạm vùng biển của Việt Nam hơn 100 ngày; tổ chức diễn tập 5
ngày ngoài khơi phía đông đảo Hải Nam và phía bắc quần đảo Hoàng Sa của Việt
Nam. Mưu đồ của Trung Quốc là biến thứ không phải của mình thành thứ tranh chấp,
rồi biến thứ tranh chấp thành của riêng mình.
2. Ý nghĩa chính trị - pháp lý của việc xác định biên giới quốc gia Duy
An
Biên giới của một quốc gia có vị trí quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội,
an ninh - quốc phòng. Biên giới quốc gia ổn định là điều kiện để đảm bảo cho một
quốc gia hòa bình và phát triển. Bảo vệ biên giới quốc gia là trách nhiệm của toàn
Đảng, toàn dân và của cả hệ thống chính trị.
Quốc gia hình thành bởi ba thành tố cơ bản là “lãnh thổ, nhà nước và dân cư”.
Trong đó, yếu tố biên giới - lãnh thổ là nền tảng đầu tiên. Bản chất vấn đề biên giới -
lãnh thổ là hệ trọng và hết sức nhạy cảm, việc bảo vệ toàn vẹn biên giới - lãnh thổ là
mối quan tâm hàng đầu của mỗi quốc gia, dân tộc.
=> Biên giới quốc gia là nơi phân chia chủ quyền lãnh thổ của một quốc gia với quốc
gia khác hoặc với các vùng biển thuộc chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia đó.
Nói cách khác, biên giới quốc gia chính là giới hạn ngăn cách lãnh thổ của quốc gia
này với quốc gia khác và ngăn cách lãnh hải với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục
địa.
Ở VN, Biên giới quốc gia của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
đường và mặt thẳng đứng theo đường đó để xác định giới hạn lãnh thổ đất liền, các
đảo, các quần đảo trong đó có quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, vùng biển,
lòng đất, vùng trời của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
CSPL: Điều 3, Nghị định số 140/2004/NĐ - CP ngày 25 tháng 6 năm 2004 của
Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Là cơ sở xác định ranh giới lãnh thổ QG
Là cơ sở pháp lý để giới hạn phạm vi chủ quyền của mỗi QG đối với lãnh thổ
của mình, các QG phải tôn trọng không được can thiệp
Biên giới trên bộ và trên biển vô cùng quan trọng là cơ sở để các QG xác định
biên giới vùng trời và vùng đất
Xác định 1 không gian quyền lực tối cao của QG đối với lãnh thổ.
3. Biên giới trên bộ và biên giới trên biển
Biên giới trên bộ
CSPL: Điều 1 Luật biên giới quốc gia 2003.
Là đường biên giới được xác định trên đất liền, trên đảo, trên sông, hồ, kênh,
biển, nội địa… Đường biên giới trên đất liền của Việt Nam là 1.065,652 km. Biên giới
trên bộ phổ biến được quy định trong các Điều ước quốc tế giữa các nước hữu quan
(trừ một số trường hợp ngoại lệ) và một số Điều ước quốc tế đặc biệt hoặc các quyết
định của các cơ quan tài phán quốc tế khi các bên hữu quan đồng ý.
Là đường mà mặt thẳng đứng theo đường đó xác định lãnh thổ trên biển xuống
lòng đất và lên vùng trời, được xác định dựa trên đất liền, các đảo và các quần đảo.
Xác định biên giới trên biển để phân định vùng lãnh hải của quốc gia với vùng biển
tiếp liền mà quốc gia ven bờ có quyền chủ quyền hoặc với nội thủy, lãnh hải của quốc
gia khác có bờ biển đối diện hay kề bên bờ biển của quốc gia này.
Trường hợp QG có biển đối diện hoặc tiếp giáp liền kề với QG khác tức là 2
QG có khu vực chồng lấn ở vùng biển thuộc chủ quyền (vùng lãnh hải) thì
đường biên giới trên biển được xác định dựa trên sự thỏa thuận của các QG
theo Điều 15 Unclos 1982, đường biên giới biển là đường trung tuyến của
vùng biển bị chồng chéo nhưng phải xét đến tính công bằng (VD: VN được
khai thác 70% vùng biển Vịnh Bắc Bộ của VN - TQ dựa vào cơ sở các đảo của
VN ở khu vực này đã hình thành từ lâu, nhưng để đạt được thỏa thuận, VN chỉ
được khai thác 53% theo hiệp định phân định ranh giới Vịnh Bắc Bộ năm
2000)
Trường hợp QG không có biển đối diện tiếp giáp liền kề biển của QG khác
hoặc chỉ chồng lấn ở vùng biển thuộc quyền chủ quyền (các QG phải xác định
biên giới biển chung của 2 nước) thì xác định đường ranh giới biển chung
(vùng biển không thuộc chủ quyền) (VD: VN - Thái Lan, VN - Malaysia)
Trường hợp không có chồng lấn với các QG ở lãnh hải (chồng lấn ở vùng biển
thuộc về chủ quyền) trường hợp này QG được đơn phương tuyên bố đường
biên giới trên biển là ranh giới phía ngoài của lãnh hải (vùng biển lãnh hải và
vùng biển thuộc quyền chủ quyền gồm vùng tiếp giáp lãnh hải & đặc quyền
kinh tế) phù hợp với quy định của công ước (trước tiên là phải xác định đường
cơ sở)
Việt nam chỉ xác định biên giới biển với Campuchia và TQ
VN với các quốc gia khác là ranh giới trên biển chồng lấn
Điều ước quốc tế phân định lãnh thổ biên giới trên bộ thường chứa các nội dung cơ
bản sau: (Điều ước phải miêu tả tỉ mỉ, chi tiết các đặc điểm trên bản đồ đính kèm với
ĐƯQT về biên giới. Tất cả các tài liệu đính kèm với ĐƯQT về biên giới là những bộ
phận không thể tách rời của ĐƯQT)
Xác định nguyên tắc hoạch định biên giới (nguyên tắc thỏa thuận hoặc thông
qua con đường tài phán hay nguyên tắc Uti possidetis)
Xác định chiều hướng chung của đường biên giới
Xác định vị trí, các điểm tọa độ đường biên giới đi qua
Cách thức phân định biên giới qua sông suối, đồi núi, sa mạc, eo biển, biển
hồ,...
Thành lập ủy ban liên hiệp về phân giới thực địa và cắm mốc
Hiệu lực, sửa đổi, bổ sung Điều ước về hoạch định biên giới và giải quyết tranh
chấp liên quan đến biên giới.
Phân giới thực địa là quá trình thực địa hóa đường biên giới theo ĐƯQT
Để phân giới thực địa, các QG liên quan sẽ thành lập một ủy ban liên hiệp về
phân giới thực địa và cắm mốc để thực hiện các công việc như đánh dấu thực
địa, điều chỉnh đường biên giới do yêu cầu đặc biệt của địa hình thực tế
Các hoạt động phân giới thực địa phải được cả 2 bên thỏa thuận và ghi chép
đầy đủ, chi tiết trong các hồ sơ, biên bản, sơ đồ kèm theo ĐƯQT về biên giới
Tất cả những sửa đổi, bổ sung dù ở bất kỳ hình thức nào cũng phải được các
bên liên quan đồng thuận
Giai đoạn này do ủy ban liên hiệp về phân giới cắm mốc tiến hành. Ủy ban này
cắm các cột mốc cụ thể tại các điểm đã được hai bên đánh dấu trên thực địa
Các cột mốc biên giới thường đặt tại các điểm ở các cửa khẩu, các điểm chuyển
hướng của đường biên giới (chân núi, đỉnh núi,...), các điểm nằm trên đường
quốc lộ, đường sắt hoặc các điểm giao cắt giữa đường bộ với đường sắt, sông
suối, địa hình phức tạp,...
Số lượng, hình dáng và cách thức thiết kế cột mốc cũng như trách nhiệm cắm
mốc biên giới của mỗi bên sẽ do các bên liên quan thỏa thuận quyết định xây
dựng cột mốc theo chẵn lẻ.
Kết thúc quá trình cắm mốc trên thực địa, ủy ban liên hiệp về phân giới cắm
mốc sẽ lập bản đồ chính thức về đường biên giới đúng với thực trạng đã được
phân định và cắm mốc. Bản đồ về đường biên giới là một bộ phận đính kèm
hiệp định biên giới để các QG phê chuẩn.
Lưu ý: Quá trình phân định biên giới không nhất thiết phải thông qua cả 3 giai
đoạn.
1. Luật ngoại giao của lãnh sự là gì, hãy cho biết đối tượng điều chỉnh
Ngoại giao được hiểu theo nghĩa rộng là hoạt động chính thức của chủ
thể luật quốc tế mà trước tiên và chủ yếu là các quốc gia, nhằm mục đích thực
hiện đường lối, chính sách đối ngoại của quốc gia, phát triển quan hệ hoà bình
giữa các quốc gia, bảo vệ quyền, lợi ích của các quốc gia và công dân của quốc
gia đó bằng các biện pháp hoà bình, cũng như góp phần giải quyết các vấn đề
quốc tế chung.
Quan hệ lãnh sự cũng là quan hệ đối ngoại chính thức giữa các quốc gia,
được thiết lập chủ yếu để bảo vệ quyền lợi của nước lãnh sự, công dân của nước
cử lãnh sự cư trú trên lãnh thổ nước đại diện, giải quyết và phát triển
Luật ngoại giao, lãnh sự là tổng thể các nguyên tắc và quy phạm pháp luật
quốc tế điều chỉnh việc thiết lập, tổ chức và thực hiện quan hệ ngoại giao, lãnh sự giữa
các quốc gia và các chủ thể khác của LQT. Đồng thời, điều chỉnh các vấn đề về
quyền ưu đãi, miễn trừ của cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự, phái đoàn
đại diện thường trực của quốc gia tại các tổ chức quốc tế liên chính phủ, cơ quan, phái
đoàn của tổ chức quốc tế liên chính phủ và thành viên của các cơ quan này tại lãnh thổ
các quốc gia.
=> Luật NG&LS là một ngành luật độc lập nằm trong .., tổng thể các nguyên
tắc và quy phạm pháp luật quốc tế, nhằm điều chỉnh, thiết lập, tổ chức và thực hiện
qhngls giữa các quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế và điều chỉnh các vấn đề
về quyền, ưu đãi, miễn trừ dành cho các cơ quan quan hệ đối ngoại của quốc gia ở
nước ngoài và các thành viên của các cơ quan này tại nước ngoài.
Cơ quan quan hệ đối ngoại của 1 quốc gia
Trong nước (cơ quan có thẩm quyền chung, chuyên môn): nguyên thủ
quốc gia, Người đứng đầu chính phủ, Bộ trưởng bộ ngoại giao
Nước ngoài:
Hoạt động thường trực: cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan
lãnh sự, các phái đoàn đại diện thường trực.
Hoạt động lâm thời (tự tìm hiểu): là các phái đoàn được cử
chuyên tham dự các hội nghị tại các tổ chức quốc tế (ngắn ngày)
Khi nhắc đến cơ quan quan hệ đối ngoại có nghĩa là nhắc đến cơ quan đại diện
ngoại giao và cơ quan lãnh sự.
Nhận định sai. Vì các CQQHĐN còn được phân chia theo từng chức năng, trong nước
và ngoài nước.
Tổ chức và hoạt động của các cơ quan quan hệ đối ngoại của một quốc
gia.
Các quyền ưu đãi và miễn trừ dành cho các cơ quan quan hệ đối ngoại
của các quốc gia ở nước ngoài và thành viên của các cơ quan quan hệ
đối ngoại ở nước ngoài đó.
Trình bày các nguyên tắc của luật ngoại giao và lãnh sự
Nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử (xuất phát từ nguyên tắc bình
đẳng về chủ quyền) (bình đẳng về địa vị pháp lý trong quan hệ ngoại giao và
lãnh sự)
Quan hệ ngoại giao, lãnh sự giữa các quốc gia cũng phải được thiết lập trên cơ
sở tự nguyện về ý chí và bình đẳng về chủ quyền, không phân biệt đối xử giữa các
quốc gia có chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội khác nhau.
Nguyên tắc này chỉ có 2 trường hợp ngoại lệ: (i) có đi có lại; (ii) ưu đãi đặc
biệt.
Nguyên tắc tôn trọng quyền ưu đãi và miễn trừ của CQĐDNG, CQLS và
thành viên của các cơ quan này
Đặt ra nghĩa vụ pháp lý cho các quốc gia nhận đại diện.
Nguyên tắc tôn trọng pháp luật và phong tục tập quán của quốc gia sở tại
Đặt ra nghĩa vụ pháp lý cho các cơ quan và thành viên CQĐDNG, CQLS khi
đại diện cho nhà nước của mình thực hiện chức năng ngoại giao, lãnh sự trên lãnh thổ
nước nhận đại diện.
Phải có nghĩa vụ tuân thủ, tôn trọng pháp luật cũng như phong tục, tập quán
của nước nhận nhận đại diện.
Quy định này không áp dụng cho các viên chức ngoại giao. Điều
Nguyên tắc không lạm dụng quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao, lãnh sự.
KẾT LUẬN: Bởi vì tế là một ngành luật độc lập của hệ thống luật quốc tế, phải được
xây dựng trên nền tảng các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế (7 nguyên tắc). Tuy
nhiên, Luật NG&LS cũng được xây dựng dựa trên các nguyên tắc cơ bản của chính
nó, đó là 5 nguyên tắc nêu trên.
Nguồn của luật ngoại giao, lãnh sự (được biểu hiện thông qua hai
hình thức là tập quán quốc tế và điều ước quốc tế: Công ước vienna 1961 và
công ước viên 1963)
Luật ngoại giao, lãnh sự là một ngành luật độc lập của hệ thống pháp luật
quốc tế. Vì vậy, nguồn của luật ngoại giao và lãnh sự cũng chính là hình thức
biểu hiện sự tồn tại của các nguyên tắc và quy phạm pháp luật quốc tế điều
chỉnh quan hệ ngoại giao và lãnh sự giữa các quốc gia và các chủ thể khác của
luật quốc tế, do chính các chủ thể luật quốc tế thỏa thuận xây dựng nên.
Nguồn của luật ngoại giao, lãnh sự chủ yếu là tập quán, các điều ước
quốc tế điều chỉnh các quan hệ ngoại giao, lãnh sự còn rất ít. Các điều ước quốc
tế đa phương trong lĩnh vực ngoại giao thời kỳ này là Nghị định thư Vienna
năm 1815 về Hàm ngoại giao và được sửa đổi, bổ sung năm 1818, Công ước
Habana về viên chức ngoại giao năm 1928.
2. Phân biệt chức năng của cơ quan đại diện ngoại giao và chức năng của cơ
quan lãnh sự (điều 3 công ước viên năm 1961, điều 5 công ước viên năm
1963) Ngọc Anh, Trâm Anh
Khái niệm cơ quan đại diện ngoại giao: là cơ quan mà do nn thành lập theo
sự thỏa thuận giữa các quốc gia hữu quan có trụ sở ở quốc gia sở tại để thực hiện quan
hệ ngoại giao với quốc gia sở tại
Cơ quan đại diện ngoại giao của Hoa Kì có trụ sở đại sứ quán đặt tại
Việt Nam => thực hiện quan hệ ngoại giao với Nhà nước Việt Nam, qua đó
cũng thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước đã có trụ sở đã thiết lập ngoại
giao trên Việt Nam.
Cơ quan đại diện ngoại giao theo Điều 14 của CUV 1961 được chia
làm 3 cấp:
Cao nhất: Đại sứ quán (niềm tin đầy đủ, trọn vẹn)
Thấp hơn: Công sứ quán (còn dè dặt thận trọng)
Thấp nhất: Đại biện quán (còn thể hiện niềm tin rất dè dặt và thận trọng)
Theo pháp luật vn hiện hành, thì vn thiết lập ở cấp nào? Trong quan hệ
giữa vn và các nước khác từ trước đến nay là đại sứ quán. (điều 4)
Theo điều 14 CƯV: Tùy thuộc vào mqh để thiết lập một trong 3 cấp.
Ai có thẩm quyền bổ nhiệm người đứng đầu cơ quan đại diện ngoại
giao? Nguyên thủ quốc gia có quyền bổ nhiệm đại sứ quán và công sứ
Còn người đứng đứng đầu đại biện quán thuộc thẩm quyền của bộ trưởng
bộ ngoại giao. (Điều 19)
VN không thành lập đại biện quán nhưng tại sao lại quy định bộ
trưởng bộ ngoại giao bổ nhiệm người đứng đầu đại biện?
Đại biện ở đây chỉ là đại biện lâm thời, tạm thời giải quyết những công
việc mang tính chất hành chính trong đại sứ quán trong trường hợp chủ tịch
nước chưa bổ nhiệm được đại sứ.
Chức năng của cơ quan đại diện ngoại giao: là các phương tiện hoạt
động chủ yếu của cơ quan đại diện ngoại giao được quy định trong các điều ước
quốc tế và pháp luật quốc gia: chức năng của cơ quan đại diện ngoại giao theo
điều 3 công ước Vienna 1961: đại diện cho nước cử đại diện tại quốc gia sở tại;
bảo vệ quyền lợi của nhà nước, công dân, pháp nhân quốc gia cử đại diện; đàm
phán với quốc gia sở tại; tìm hiểu (bằng những phương tiện hợp pháp) điều kiện
và tình hình ở quốc gia sở tại và báo cáo tình hình đó cho quốc gia mình; thúc
đẩy quan hệ hữu nghị và pháp triển quan hệ kinh tế, văn hóa và khoa học giữa 2
nước; ngoài ra, cơ quan đại diện ngoại giao còn có thể thực hiện chức năng lãnh
sự
Giống nhau: là cơ quan đại diện mang tính chất thường trực ở quốc gia cử đại diện ở
nước tiếp nhận đại diện nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi cho nước cử đại diện đồng
thời bảo vệ cho công dân của nước cử đại diện tại nước tiếp nhận đại diện
Khác nhau:
Khái - Là cơ quan do nhà nước thành lập dựa trên - Là cơ quan quan hệ
niệm sự sự thỏa thuận giữa các quốc gia hữu quan, đối ngoại của nhà nước
có trụ sở ở nước sở tại, đại diện cho quốc gia ở nước ngoài, thực hiện
mình về tất cả các lĩnh vực trong quan hệ với chức năng lãnh sự trong
nước nhận đại diện và với cơ quan đại diện một khu vực lãnh thổ
ngoại giao của các QG khác ở nước nhận đại nhất định của nước tiếp
diện nhận
Phân - Điều 14 CƯV 1961
loại
Đại sứ quán (cấp cao nhất thể hiện
niềm tin trọn vẹn nhất đối với QG tiếp
nhận)
Công sứ quán (nếu vẫn còn dè dặt và
thận trọng đối với QG tiếp nhận)
Đại biện quán
Thiên về tính pháp lý chính trị và Thiên về tính hành chính pháp lý,
các quan hệ trên tất cả lĩnh vực. hành chính tư pháp như cấp hộ
chiếu, giấy tờ, công chứng giấy tờ,
- Việc thực hiện chức năng chỉ được đăng kí kết hôn, khai sinh, khai tử
thực hiện một cơ quan duy nhất cho công dân ở nước ngoài...
thường đặt bên cạnh thủ đô của nước
tiếp nhận đại diện và các hoạt động - Việc thực hiện chức năng được
đều thông qua chính quyền trung thực hiện ở nhiều khu vực lãnh sự ở
ương của nước tiếp nhận đại diện các địa phương ở các nước tiếp nhận
đại diện và các hoạt động thông qua
Lưu ý k2 đ3 có thể kiêm thêm việc chính quyền địa phương ở khu vực
chức năng lãnh sự. tại sao có quy lãnh sự được thiết lập và buộc phải
định này? khi nước cử đại diện đặt thông qua cơ quan đại diện ngoại
trụ sở ngoại giao tại nước tiếp nhận giao.
đại diện mà khi mà chưa kịp thời đặt
để giải quyết các vấn đề liên quan
đến ngoại giao thì…
3. Phân biệt gốc ngoại giao, hàm ngoại giao, chức vụ ngoại giao ĐLQAnh,
Minh Ánh, Duy An
Hãy phân biệt 3 cái này qua khái niệm, được quy định ở luật nào, hệ thống và
chức năng.
Cơ sở Thỏa thuận giữa nước bổ Nhà nước phong cho Được cử, triệu hồi.
xác nhiệm với nước tiếp nhận công chức ngành
lập đại diện ngoại giao về việc ngoại giao.
thiết lập cơ quan đại diện
ngoại giao cụ thể tương ứng
với một trong ba mức độ
khác nhau.
Thành viên của cơ quan đại diện ngoại giao cũng có thể nhân viên
phục vụ (bảo vệ, người làm vườn, người nấu ăn...)?
Nhận định đúng.
CSPL: Điều 1 Công ước viên 1961
"Các cán bộ nhân viên của cơ quan đại diện" là các cán bộ ngoại giao, các nhân
viên hành chính và kỹ thuật và các nhân viên phục vụ của cơ quan đại diện.
Thành viên của cơ quan đại diện ngoại giao đều được phân hàm
ngoại giao.
Nhận định sai.
CSPL: Điều 1 Công ước viên 1961
Chỉ có riêng viên chức ngoại giao mới có hàm và chức vụ.
4. So sánh quyền ưu đãi và miễn trừ cho cqđdng và cơ quan lãnh sự.
Đều là các quyền ưu đãi và miễn trừ đặc biệt mà nhà nước sở tại
Giống
dành cho các cơ quan ngoại giao. Viên chức ngoại giao và thành
nhau
viên gia đình của họ
Chính quyền nước sở
tại không được phép ra Không được phép ra vào nhưng nếu
vào khi không có sự có hỏa hoạn xảy ra thì bất kể có được
Quyền
đồng ý của người đứng phép hay không thì chính quyền nước
ra vào
đầu (Căn cứ theo Điều sở tại vẫn được vào để cứu chữa (Căn
trụ sở
22 Công ước Viên cứ theo Điều 31 Công ước Viên
1961). Mang tính tuyệt 1963). Mang tính tương đối
đối
Quyền Được phép treo vào tất Chỉ được phép treo quốc kỳ, quốc
treo cả các việc kể cả việc huy vào những việc công, không
quốc kỳ công, việc tư (Điều 20 được treo vào việc tư (Điều 29 CƯV
quốc huy CƯV 1961) 1963)
Viên chức ngoại giao
có quyền bất khả xâm Bất khả xâm phạm thân thể không
Quyền
phạm về thân thể một tuyệt đối. Họ có thể bị bắt giữ nếu
bất khả
cách tuyệt đối. Họ phạm tội nghiêm trọng khi có quyết
xâm
không bị bắt, bị giam định của cơ quan nhà nước có thẩm
phạm về
giữ dưới bất kỳ hình quyền (Theo Điều 41 Công ước Viên
thân thể
thức nào (Theo Điều 29 1963).
Công ước Viên 1961).
Viên chức ngoại giao Viên chức lãnh sự có quyền đi lại hẹp
Quyền đi
có quyền đi lại rất rộng hơn. Họ không được đi tới những chỗ
lại
rãi. nước sở tại cấm.
? Mối liên hệ giữa quan hệ lãnh sự và quan hệ ngoại giao, sự tác động hai chiều
Mai Quỳnh Anh
Mối liên hệ giữa quan hệ ngoại giao và quan hệ lãnh sự mang tính chất tương
đối độc lập. Vì khi quan ngoại giao giữa hai nước bị cắt đứt thì không đương nhiên
làm chấm dứt hoạt động của cơ quan lãnh sự.
CSPL: Khoản 3 Điều 2 Công ước viên 1963.
? Ví dụ trường hợp bảo vệ cho công dân thông qua hoạt động của cơ quan lãnh
sự Trâm Anh
Câu chuyện về chuyến bay giải cứu của vợ chồng chị Nguyễn Thị Thanh
và anh Nguyễn Văn Phi từ Vũ Hán sau những ngày căng thẳng đối mặt với đại
dịch Covid-19. Theo vợ chồng anh chia sẻ, vào 2h chiều ngày 9/2, họ nhận tin
chính phủ Việt Nam đã bố trí một chuyến bay từ Nội Bài sang Vũ Hán đón 30
lưu học sinh và công dân đang mắc kẹt tại đây về nước, dù trước đó tất cả các
chuyến bay thương mại đã bị ngừng. Thời điểm đó Trung Quốc đã có hơn
37.000 ca nhiễm và hơn 800 ca tử vong do COVID-19. Vì chị Thanh đang
mang bầu những tháng cuối, nên trên chuyến bay có một bác sĩ sản khoa chăm
sóc riêng. Về đến sân bay Vân Đồn, cô cũng được di chuyển bằng xe cứu
thương thay vì đi xe với đông người phòng trường hợp sinh giữa đường. Tại
Bệnh viện Nhiệt đới trung ương ở Đông Anh, đôi vợ chồng được ở một căn
phòng cách ly riêng, có cả bàn đẻ, lồng ấp và đầy đủ các trang thiết bị khác sẵn
sàng cho trường hợp chuyển dạ.
Để thực hiện thành công những chuyến bay giải cứu trên, có sự đóng góp
thầm lặng nhưng rất quan trọng của các cán bộ ngoại giao làm công tác bảo hộ
công dân. “Thời điểm đó, tất cả các đơn vị trong Cục Lãnh sự đều được đặt ở
chế độ “trực chiến,” các phòng làm việc luôn có cán bộ túc trực gần như 24/24
giờ, ban ngày theo dõi thông tin trong nước và các nước trong khu vực, tham
gia Ban Chỉ đạo phòng, chống COVID-19 ở các cấp, đến đêm kết nối, trao đổi
với các Cơ quan đại diện Việt Nam ở châu Âu, châu Mỹ để nắm tình hình, các
chính sách của sở tại, cập nhật số lượng công dân Việt Nam ở nước ngoài cần
trợ giúp, bị mắc kẹt ở các sân bay” – Đại sứ Vũ Việt Anh, nguyên Cục trưởng
Cục Lãnh sự, Bộ Ngoại giao chia sẻ những kỷ niệm cùng các cán bộ của Cục
Lãnh sự thực hiện hỗ trợ công dân Việt Nam ở nước ngoài khi đại dịch COVID-
19 bùng phát trên toàn cầu.
? Pháp luật VN quy định về cơ quan lãnh sự như thế nào? Ngọc Anh
? Cấp lãnh sự: Tổng lãnh sự, lãnh sự, phó lãnh sự, đại lý lãnh sự (Điều 9 CƯV
1963)
- Khi VN thiết lập quan hệ lãnh sự giữa các nước chỉ thiết lập 2 cấp cao nhất là
tổng lãnh sự và lãnh sự
- Thành viên cơ quan lãnh sự: viên chức lãnh sự, nhân viên lãnh sự, nhân viên
phục vụ
? Nhân viên hành chính - kỹ thuật, nhân viên lãnh sự và nhân viên phục vụ (của
cả 2 cơ quan ngoại giao và cơ quan lãnh sự) có được hưởng quyền ưu đãi miễn
trừ hay không.
- Vấn đề được hưởng các quyền ưu đãi miễn trừ nhưng sẽ hạn chế hơn nhiều so
với viên chức ngoại giao và viên chức lãnh sự, cụ thể là:
Nhân viên hành chính - kỹ thuật (thành viên cơ quan ngoại giao) Duy An
Nhân viên hành chính và kỹ thuật của cơ quan đại diện cũng như các
thành viên gia đình họ nếu không phải là công dân Nước tiếp nhận hoặc không
có nơi cư trú thường xuyên ở nước này thì được hưởng các quyền miễn trừ đặc
biệt về cơ bản giống với viên chức ngoại giao nhưng
Họ chỉ được hưởng quyền miễn trừ xét xử về hình sự của nước tiếp nhận,
hưởng các quyền miễn trừ xét xử về dân sự và hành chính chỉ áp dụng đối với
những hành vi nằm trong việc thi hành chức năng của họ
Họ không được hưởng quyền miễn khám xét (Khoản 2 Điều 36 CƯV
1961)
Nhân viên lãnh sự được hưởng quyền miễn trừ xét xử về hình sự, dân sự
và xử lý vi phạm hành chính như viên chức lãnh sự.
Nhân viên lãnh sự được hưởng quyền miễn thuế và lệ phí hải quan đối
với đồ đạc lần đầu mang vào nước tiếp nhận.
Nhân viên lãnh sự và thành viên gia đình họ được hưởng quyền miễn trừ
đối với mọi thứ thuế và lệ phí.
Nhân viên phục vụ của cơ quan ngoại giao nếu không phải là công dân
của nước sở tại / không thường trú ở nước này, được hưởng các quyền
miễn trừ đối với các hành vi thực hiện trong khi thừa hành công vụ của
mình, được miễn trừ các thứ thuế và lệ phí về tiền công thu được từ công
vụ
Theo Điều 37 của Luật Ngoại giao Việt Nam, nhân viên phục vụ của cơ
quan ngoại giao và cơ quan lãnh sự được miễn trừ thuế nhập khẩu đối với
hàng hóa và vật liệu cần thiết cho công tác của mình. Ngoài ra, họ còn
được hưởng quyền miễn trừ thuế giá trị gia tăng (VAT) đối với các dịch
vụ và hàng hóa cần thiết cho công tác của mình
Căn cứ vào khoản 2 Điều 53 Công ước Viên về quan hệ lãnh sự 1963 thì
nhân viên phục vụ của cơ quan lãnh sự được quyền hưởng các quyền ưu
đãi miễn trừ. Nhân viên phục vụ riêng của viên chức lãnh sự không còn
giúp việc cho viên chức lãnh sự và có ý định rời nước tiếp nhận trong một
thời gian hợp lý thì họ còn được hưởng quyền ưu đãi và miễn trừ cho đến
lúc rời hẳn
CHƯƠNG 6
TRANH CHẤP QUỐC TẾ VÀ GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP QUỐC TẾ
I. Tranh chấp quốc tế là gì, hãy phân loại các tranh chấp quốc tế
1. Khái niệm:
Vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất trong các văn bản pháp lý quốc tế về
tranh chấp quốc tế
Nhưng hiểu tranh chấp quốc tế có nghĩa là hoàn cảnh thực tế, trong đó các chủ
thể tham gia có những quan điểm, đòi hỏi trái ngược nhau về những vấn đề liên
quan tới lợi ích của họ
Chủ thể: Là chủ thể của luật quốc tế nhưng cơ bản và chủ yếu là quốc
gia.
Đối tượng điều chỉnh chính: Quan hệ pháp luật thuộc đối tượng điều
chỉnh của luật quốc tế.
2. Đặc trưng:
Chủ thể tranh chấp: Chủ thể của luật quốc tế.
Đối tượng: Các quan hệ pháp luật thuộc đối tượng điều chỉnh của luật quốc tế.
( lãnh thổ, biên giới, chủ quyền quốc gia, vùng biển quốc gia có quyền chủ
quyền và quyền tài phán…)
Luật áp dụng: Luật quốc tế.
3. Phân loại: Dựa trên các tiêu chí, căn cứ sau đây:
Căn cứ vào số lượng chủ thể tham gia tranh chấp có thể phân thành tranh chấp
song phương và tranh chấp đa phương.
Tranh chấp song phương: Là tranh chấp chỉ có hai chủ thể luật quốc tế
tham gia trực tiếp
Tranh chấp đa phương: Là loại hình tranh chấp mà trong đó có sự tham
gia của ít nhất ba chủ thể của luật quốc tế. Trong tranh chấp đa phương
bao gồm tranh chấp đa phương khu vực và tranh chấp đa phương toàn
cầu:
Tranh chấp đa phương khu vực chỉ liên quan đến một khu vực địa
lý xác định
Tranh chấp đa phương toàn cầu là loại tranh chấp có phạm vi bao
trùm toàn bộ hoặc số lớn các quốc gia trên thế giới. Là loại hình
tranh chấp có tác động nghiêm trọng, gây hậu quả tiêu cực
Căn cứ vào mức độ nguy hại, có thể phân loại tranh chấp quốc tế thành tranh
chấp quốc tế nghiêm trọng và tranh chấp quốc tế thông thường
Tranh chấp quốc tế nghiêm trọng là loại tranh chấp có nguy cơ phá hoại
hoà bình và an ninh thế giới
Tranh chấp quốc tế thông thường là tranh chấp không dẫn đến nguy cơ
đe doạ hoà bình và an ninh quốc tế
Căn cứ vào nội dung vụ tranh chấp, có thể phân loại tranh chấp thành tranh
chấp về thương mại, tranh chấp về quyền và nghĩa vụ trong các điều ước quốc
tế, tranh chấp lãnh thổ và biên giới quốc gia
Căn cứ vào quyền năng chủ thể luật quốc tế của các bên tranh chấp có thể phân
loại tranh chấp thành tranh chấp giữa các quốc gia, giữa các quốc tế liên chính
phủ hoặc các chủ thể khác của luật quốc tế
Căn cứ vào Điều 34 Hiến chương LHQ có thể phân loại thành tranh chấp định
danh và tranh chấp thông thường
Căn cứ vào tính chất vụ tranh chấp, có thể phân loại tranh chấp thành tranh
chấp chính trị và tranh chấp pháp lý
II. Hãy phân biệt tranh chấp quốc tế và tranh chấp dân sự trong nước
Hoàn cảnh thực tế, trong đó các Các chủ thể mâu thuẫn, xung đột
Khái niệm chủ thể tham gia có quan điểm, về lợi ích của mình trong các
đòi hỏi trái ngược nhau về những quan hệ về nhân thân hoặc tài
vấn đề liên quan đến lợi ích của sản được pháp luật dân sự quy
họ định.
Chủ thể Chủ thể của tranh chấp quốc tế Cá nhân, tổ chức
cũng là chủ thể của luật quốc tế
(chủ yếu là quốc gia)
Đối tượng Quan hệ pháp luật thuộc đối Quan hệ nhân thân, quan hệ tài
điều chỉnh tượng điều chỉnh của luật quốc tế sản
- Giải quyết hòa bình các tranh - Lẽ phải được mọi người thừa
Nguyên tắc chấp quốc tế nhận.
giải quyết - Cấm đe dọa dùng vũ lực và - Phù hợp với nguyên tắc nhân
tranh chấp dùng vũ lực trong quan hệ quốc đao.
tế - Bình đẳng giữa các bên
- Không thiên vị
III. Các nguồn luật để áp dụng giải quyết các tranh chấp quốc tế
Hiến pháp của các quốc gia: Hiến pháp Hoa Kỳ quy định rằng Tòa án Tối
cao Hoa Kỳ có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp giữa các quốc gia.
Các hiệp định quốc tế: Hiệp định Liên hợp quốc về pháp lý biển quốc tế có
quy định về việc giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia liên quan đến việc tôn
trọng chủ quyền, quyền sử dụng tài nguyên và các vấn đề khác liên quan đến
biển.
Tòa án quốc tế: Các tòa án quốc tế như Tòa án Quốc tế và Tòa án Châu Âu có
thẩm quyền giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia.
Pháp luật quốc tế: Ví dụ như, Luật thương mại quốc tế có chứa các quy định
về giải quyết tranh chấp thương mại giữa các quốc gia.
Trong việc giải quyết các tranh chấp quốc tế (Chương VI hiến chương)
Về nguyên tắc, trong quá trình giải quyết tranh chấp, HĐBA trước hết dành
quyền chủ động, tích cực cho chính các bên tranh chấp trong việc lựa chọn biện pháp
hòa bình nào để giải quyết tranh chấp. Vai trò của HĐBA trong quá trình này chỉ dừng
ở việc xác định mức độ ảnh hưởng của tranh chấp đối với hòa bình và an ninh quốc tế,
kêu gọi các bên áp dụng các biện pháp hòa bình thích hợp để giải quyết tranh chấp
( Điều 34 Hiến Chương)
Khi tranh chấp có khả năng đe dọa hòa bình và an ninh quốc tế thì
HĐBA sẽ kêu gọi các bên tự kiềm chế để tìm cách giải quyết tranh chấp
bằng các phương pháp hòa bình như đàm phán, điều tra, trung gian, hòa
giải, trọng tài, tòa án hay sử dụng những tổ chức hay hiệp định khu vực
bằng các biện pháp hòa bình khác theo sự lựa chọn của các bên liên
quan( Điều 33 Hiến Chương ).
Trong trường hợp việc giành quyền chủ động cho các bên liên quan đến
tranh chấp không đem lại hiệu quả thì khi đó, tranh chấp sẽ được đưa ra
HĐBA và lúc này, vai trò của HĐBA được nâng lên rất nhiều. HĐBA
có quyền áp dụng bất kì thủ tục hay cách giải quyết tranh chấp nào mà
HĐBA đánh giá là hợp lý ( Điều 37 Hiến Chương) với đích cuối cùng
là giải quyết nhanh chóng, dứt điểm tranh chấp và đảm bảo quyền lợi
hợp pháp của tất cả các bên liên quan .
HĐBA chỉ xem xét các tranh chấp có khả năng đe dọa đến hòa bình, an ninh
quốc tế và thường là các tranh chấp có tính chất chính trị như tranh chấp về chủ quyền
quốc gia về dân cư, lãnh thổ…Các loại hình tranh chấp có tính chất pháp lí như như
tranh chấp liên quan đến việc giải thích và áp dụng điều ước quốc tế hay tập quán
quốc tế, … thì thông thường các bên có thể đưa vi phạm ra trước cơ quan tài phán của
LHQ là Tòa Công lý quốc tế theo đúng quy chế tòa án công lí quốc tế (khoản 3 điều
36 Hiến Chương).
Trong việc giữ gìn, xây dựng nền hòa bình an ninh quốc tế (chương
VII hiến chương)
Nhiệm vụ chính của Hội đồng bảo an trong việc giữ gìn, xây dựng nền hòa bình
an ninh quốc tế là đưa ra kiến nghị và quyết định về các biện pháp cần thiết để ngăn
chặn hoặc giải quyết các mối đe dọa đến hòa bình và an ninh quốc tế.
Theo Điều 40 của Hiến chương, trước khi đưa ra các quyết định về các biện
pháp cần thiết, Hội đồng bảo an có thẩm quyền yêu cầu các bên có liên quan tạm thời
thi hành những biện pháp cần thiết và các biện pháp đó phải không gây ảnh hưởng đến
quyền và tình trạng của các bên hữu quan. Nếu các biện pháp tạm thời không được thi
hành, Hội đồng bảo an phải lưu ý đến việc không thi hành những biện pháp tạm thời
đó.
Điều 41 Hiến chương quy định rằng Hội đồng bảo an có thẩm quyền quyết
định các biện pháp cần thiết để ngăn chặn hoặc giải quyết các mối đe dọa đến hòa
bình và an ninh quốc tế mà không sử dụng vũ lực, và có thể yêu cầu các thành viên
của Liên hợp quốc áp dụng các biện pháp đó.
=> Những biện pháp này có thể là cắt đứt các mối quan hệ kinh tế, vận tải hay ngoại
giao giữa các quốc gia, tuy nhiên, chúng phải được áp dụng một cách hợp lý và tránh
gây tổn hại đến dân cư hoặc kinh tế của các quốc gia đó.
Nếu Hội đồng bảo an nhận thấy rằng các biện pháp nêu trên không hiệu quả,
Điều 42 cho phép Hội đồng bảo an áp dụng các biện pháp quân sự nhằm duy trì hoặc
khôi phục hòa bình và an ninh quốc tế. Những biện pháp này có thể là cuộc diễn tập
quân sự, phong tỏa hay các cuộc hành quân khác.
Theo Điều 44: Khi Hội đồng bảo an đã quyết định dùng vũ lực, thì trước khi
yêu cầu một thành viên có đại diện ở Hội đồng bảo an cung cấp các lực lượng vũ trang
để thi hành những nghĩa vụ đã cam kết, Hội đồng bảo an phải mời thành viên đó, nếu
họ muốn, tham gia việc định ra những nghị quyết của Hội đồng bảo an về sử dụng lực
lượng vũ trang của thành viên ấy.
V. Vai trò của đại hội đồng Liên Hợp Quốc Đỗ Lê Quỳnh Anh
Theo điều 13 của Hiến chương LHQ 1945, Đại hội đồng tổ chức nghiên cứu và
thông qua những kiến nghị nhằm:
Phát triển sự hợp tác quốc tế trong lĩnh vực chính trị và thúc đẩy các biện
pháp pháp điển hoá và sự phát triển của luật quốc tế theo hướng tiến bộ;
Thúc đẩy sự hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, giáo dục, y
tế và thực hiện các quyền của con người và các tự do cơ bản đối với mọi
người không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ và tôn giáo;
Đại hội đồng tiếp nhận và nghiên cứu những báo cáo hàng năm và những
báo cáo đặc biệt của Hội đồng bảo an. Các báo cáo đó tường trình những
biện pháp mà Hội đồng bảo an đã quyết định hoặc đã thi hành để duy trì
hòa bình và an ninh quốc tế;
Đại hội đồng tiếp nhận và xem xét những báo cáo của các cơ quan khác
của Liên hợp quốc.
Ngoài ra, Đại hội đồng còn xét và phê chuẩn ngân sách của Liên hợp quốc; Đại
hội đồng xét và phê chuẩn mọi điều ước về tài chính về ngân sách, ký các điều
ước quốc tế với những tổ chức chuyên môn nói ở điều 57 và kiểm tra ngân sách
hành chính của các tổ chức này để đưa ra các kiến nghị cho những tổ chức đó
căn cứ vào khoản 1 và 3 điều 17 của Hiến chương Liên Hiệp Quốc 1945.
VI. Phân biệt tranh chấp quốc tế và tình thế quốc tế Ngọc Anh, Minh Ánh
Tại điều 34 của Hiến chương LHQ 1945 trong chương 6 giải quyết hòa bình các vụ
tranh chấp ta có thể thấy:
“Hội đồng bảo an có thẩm quyền điều tra mọi tranh chấp hoặc mọi tình thế có
thể xảy ra dẫn đến sự bất hòa giữa các QG hoặc gây ra một vụ tranh chấp, xác
định xem tranh chấp ấy hoặc tình thế ấy nếu kéo dài có thể đe dọa đến duy trì
hòa bình và an ninh quốc tế hay không”.
-> Ta có thể hiểu tình thế quốc tế ở đây mới chỉ dừng lại ở mức độ có những
quan điểm trái ngược nhau, có thể kéo dài và dẫn đến tranh chấp. Từ một tình
thế không kịp giải quyết dẫn đến tranh chấp lớn hơn. Thiệt hại lớn hơn. Tổng
hợp lại thì tình thế quốc tế có mức độ thấp hơn so với tranh chấp quốc tế.
Mà ta hiểu rằng tranh chấp quốc tế là sự tranh chấp xảy ra giữa 2 bên hoặc
nhiều bên QG có chủ quyền, có thể xảy ra khi có mâu thuẫn trái ngược nhau và
gắn với đó là các yêu sách hay đòi hỏi cụ thể trái ngược nhau. Tranh chấp quốc
tế có thể xảy ra trong tất cả các lĩnh vực hoạt động quốc tế của các QG, nhưng
nổi bật và đáng chú ý nhất, chủ yếu nhất là tranh chấp về chủ quyền lãnh
thổ (bao gồm: chủ quyền trên đất liền, trên các hải đảo, trên biển, trên
không,...)
Hiến chương LHQ và Công pháp quốc tế đã xác định các nguyên tắc giải quyết
tranh chấp quốc tế là
Giải quyết = phương pháp hòa bình, đàm phán thương lượng
Không được sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực
Giữ nguyên hiện trạng cho đến khi đạt được đến thỏa thuận cuối cùng
Các bên tranh chấp phải tự kiềm chế không tiến hành bất cứ hoạt động
nào làm cho tình hình trở nên xấu đi.