You are on page 1of 106

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP MÔN LUẬT QUỐC TẾ

A. LÝ THUYẾT:
Chương 2:
Câu 1: Trình bày và phân tích: Khái niệm và đặc điểm của LQT.
* Khái niệm: Luật quốc tế là hệ thống các nguyên tắc và quy phạm pháp
luật, được các quốc gia và chủ thể khác của luật quốc tế thỏa thuận xây dựng,
trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng, nhằm điều chỉnh những quan hệ phát sinh
giữa quốc gia và các chủ thể đó trog mọi lĩnh vực của đời sống quốc tế và
được đảm bảo thực thi bởi chính các chủ thể Luật quốc tế.
* Đặc điểm:
a. Chủ thể của LQT:
Chủ thể của LQT là các thực thế có năng lực chủ thể để thiết lập và tham
gia vào các quan hệ pháp luật quốc tế một cách độc lập, bao gồm:
+ Quốc gia là thực thế được hình thành trên cơ sở lãnh thổ, dân cư đặt dưới
sự quản lý của bộ máy nhà nước và được đặc trưng bởi thuộc tính chính trị -
pháp luật là chủ quyền. Đây là chủ thể cơ bản và quan trọng nhất của LQT. Sự
xuất hiện của các quốc gia cũng như việc thiết lập quan hệ giữa những chủ thể
này đóng vai trò quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển của LQT.
+ Tổ chúc quốc tế liên chính phủ là thực thể liên kết các quốc gia và chủ
thể khác của LQT, hình thành tren cơ sở điều ước quốc tế, có quyền năng chủ
thể LQT, có hệ thống các cơ quan để duy trì hoạt động thường xuyên theo
đúng mục đích của tổ chức đó.
Trên thực tế, thành viên của các tổ chức quốc tế chủ yếu là quốc gia và
được quy định rõ trong điều ước quốc tế thành lập tổ chức đó. Ngoài ra, một
số tỏ chức quốc tế thừa nhận tư cách thành viên của một số lãnh đạo hải quan
đặc biệt như Tổ chức thương mại thế giới thừa nhận tư cách thành viên của
Hồng Kông. Điều này phép phân biệt với các tổ chức quốc tế phi chính phủ
bao gồm các thành chủ yếu là các cá nhân, tổ chức có quốc tịch khác nhau.
b. Quan hệ do LQT điều chỉnh
Quan hệ do LQT điều chỉnh là quan hệ phát sinh giữa các chủ thể của LQT.
Khác với những quan hệ do Luật Quốc gia điều chỉnh, quan hệ pháp luật quốc
tế là quan hệ mang tính chất liên quốc gia, liên chính phủ, phát sinh trong các
lĩnh vực của đời sống quốc tế như lĩnh vực chính trị, an ninh quốc phòng, kinh
tế, văn hóa, xã hội. Những quan hệ trên được điểu chỉnh bằng các quy phạm
pháp luật quốc tế.
Trong thực tiễn, cần phân biệt quan hệ pháp luật quốc tế với các quan hệ
dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài, phát sinh chủ yếu giữa các cá
1
nhân, tổ chức. Những quan hệ này thuộc đối tượng điều chỉnh của Tư pháp
quốc tế.
c. Cơ chế hình thành quy phạm pháp luật quốc tế
Các chủ thể LQT thiết lập hoặc tham gia một quan hệ pháp luật quốc tế cụ
thể luôn trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng. Vì vậy, không tồn tại một thiết chế
siêu quốc gia, thực hiện chức năng lập pháp, ban với cơ chế xây dựng luật
quốc gi, thỏa thuận là phương thức đặc trưng trong cơ chế hình thành các quy
phạm pháp luật quốc tế.
Trên thực tế, các quy phạm pháp luật quốc tế được hình thành phổ biến
thông qua quá trình ký kết điều ước quốc tế giữa các quóc gia và thông qua sự
thừa nhận của quốc gia đối với những quy tắc cư xử sự hình thành trong thực
tiễn quan hệ quốc tế. Tuy có sự khác biệt về phương thức hình thành, các quy
phạm pháp luật quốc tế được xây dựng trên cơ sở ý chí, sự tự nguyện và là kết
quả của thỏa thuận, nhượng bộ giữa các chủ thể LQT, hướng lợi lợi ích của
từng thể và vì lợi ích chung của cộng đồng quốc tế.
d. Cơ chế đảm bảo thực thi LQT
Quan hệ pháp luật quốc tế được xây dựng trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng
giữa các chủ thể LQT. Vì vây, vấn đề thực thi LQT không phải được đảm bảo
bởi một cơ quan quyền lực siêu quốc gia mà do chính các chủ thể LQT thực
hiện. Đó là quá trình các chủ thể này áp dụng những cơ chế nà áp dụng những
cơ chế hợp pháp, phù hợp để đảm bảo các nguyên tắc, quy phạm của LQT
được thi hành và tôn trọng đầy đủ trong đời sống quốc tế.
Về nguyên tắc, biện pháp cưỡng chế do các chủ thể LQT thực hiện, theo
phương thức riêng lẻ hay tập thể, là những biện pháp phi vũ trang như cắt đứt
mối quan hệ ngoại giao, cấm vận kinh tế, đình chỉ 1 phần hoặc toàn bộ quan
hệ kinh tế, đường sắt, hàng không, hàng hải, bưu chính và các phương tiện
giao thông khác... Trong quan hệ, biện pháp vũ trang chỉ áp dụng trong một số
trường hợp ngoại lệ. Quốc gia quyền tự vệ hợp pháp bằng việc sử dụng lực
lượng quân sự để đáp trả hành vi xâm lược của 1 quốc gia khác. Bên cạnh đó,
LHQ có quyền áp dụng các biện pháp cần thiết, bao gồm biện pháp vũ trang,
để duy trì hòa bình và an ninh quốc tế, trừng phạt quốc gia có hành vi xâm
lược hoặc có hành vi đe dọa , xâm phạm hòa bình.
Câu 2: Phân tích các yếu tố cấu thành Quốc gia. Tại sao nói QG là chủ
thể cơ bản và phổ biến của LQT?
* Các yếu tố cấu thành QG:
Sự tồn tại của một quốc gia chủ thể cơ bản của luật quốc tế có liên quan mật
thiết với hình thức tổ chức nhà nước, mặc dù hình thức tổ chức của nhà nước

2
rất đa dạng, tuy nhiên ở mọi giai đọan phát triển của lich sử nhà nước và pháp
luật quốc gia được thừa nhận là chủ thể cơ bản của luật quốc tế.
Cho đến nay dù chưa có một định nghĩa thống nhất về quốc gia, tuy nhiên
theo luật quốc tế hiện địa thì để coi quốc gia là một thực thể của luật quốc tế,
quốc gia phải có các tiêu chí sau:
- Có lãnh thổ xác định
- Có dân cư ổn định
- Có chính phủ có chủ quyền
- Có khả năng thiết lập và thực hiện các quan hệ đối ngoại.
Lãnh thổ quốc gia là một phần của trái đất bao gồm vùng đất, vùng nước,
vùng trời, dưới lòng đất, lãnh thổ của quốc gia phải được xác định rõ ràng bởi
đường biên giới trên đất liền với các quốc gia lân cận hay vùng không thuộc
quốc gia nào, quốc gia đó phải được xác định trên bản đồ địa lí hành chính thế
giới với vị trí và địa danh rõ ràng, Tuy nhiên giữa các quốc gia có thể có các
vùng lãnh thổ tranh chấp, nhưng để đảm bảo yếu tố lãnh thổ xác định thì quốc
gia đó phải có vùng lãnh thổ hòan toàn được xác định rõ ràng thuộc chủ quyền
của mình.
Một quốc gia không thể tách rời yếu tố con người nghĩa là có dân cư ổn
định trên lãnh thổ đó, đa phần dân cư phải là công dân nước sở tại, sinh sống
ổn định lâu dài là những người có địa vị pháp lí có quyền và nghĩa vụ đối với
quốc gia, quốc gia cũng thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình đối với công
dân của mình, có lịch sử truyền thống văn hóa gắn bó lâu dài với quốc gia sở
tại.
Chính phủ là yếu tố cần phải có để điều hành xã hội, có chủ quyền được
nhân dân tín nhiệm có đầy đủ chủ quyền và quyền lực trong việc thực hiện
các quan hệ đối nội, đối ngoại, nghĩa là có thực quyền điều hành quốc gia
trong lập pháp, hành pháp và tư pháp quyết định vận mệnh chính trị của dân
tộc, tự do lựa chọn hình thức, thể chế chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội cho
đất nước mình, chính phủ đó phải nắm được quyền lực đối ngoại nghĩa là nắm
quyền đại diện quốc gia tham gia vào các quan hệ quốc tế.
Quốc gia phải có khả năng thiết lập và thực hiện các quan hệ đối ngoại
trong cả mặt thể hiện vai trò một chủ thể luật quốc tế, có khả năng về chính
trị, kinh tế, văn hóa - xã hội để có thể thực hiện quyền quyết định mọi vấn đề
của quốc gia mà các quốc gia khác không có quyền can thiệp, đồng thời quốc
gia ấy phải tôn trọng và thực thi đầy đủ các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế
khi tham gia vào các quan hệ quốc tế.
* QG là chủ thể cơ bản và phổ biến của LQT vì:

3
Lưu
Share1

Vì quốc gia là chủ thể đầu tiên, chủ thể trước hết xây dựng pháp luật quốc
tế. Quốc gia cũng là chủ thể đầu tiên cho việc thi hành pháp luật quốc tế, quốc
gia là chủ thể cơ bản chủ yếu trong việc thi hành biện pháp cưỡng chế để tuân
thủ áp dụng pháp luật quốc tế quốc gia là chủ thể duy nhất có quyền tạo lập ra
chủ thể mới của LQT.

Câu 3: Trình bày khái niệm và đặc điểm của tổ chức quốc tế liên chính
phủ. Tại sao nói tổ chức liên chính phủ là chủ thể phái sinh của LQT?

* Khái niệm: Là một trong các thực thể liên kết các quốc gia và cũng là một
trong những đặc điểm cơ bản để phân biệt  với các tổ chức phi chính phủ và
các chủ thể khác của luật quốc tế, các tổ chức này được hình thành trên cơ sở
các điều ước quốc tế và để có thể thành lập một tổ chức quốc tế thì các quốc
gia thành viên bắt buộc phải ký kết một điều ước quốc tế để thành lập tổ chức
quốc tế đó, có các hệ thống các cơ quan duy trì hoạt động thường xuyên theo
đúng mục đích tôn chỉ của tổ chức quốc tế đó.

* Đặc điểm:

- Thành viên của các tổ chức quốc tế liên chính phủ chủ yếu là các quốc gia
độc lập có chủ quyền. Trong một số tổ chức quốc tế liên chính phủ còn chấp
nhận tư cách thành viên của các chủ thể khác của Luật Quốc tế như vùng lãnh
thổ hay tổ chức quốc tế liên chính phủ.

- Tổ chức quốc tế liên chính phủ được thành lập trên cơ sở điều ước quốc tế
được ký kết giữa các thành viên.

- Tổ chức quốc tế liên chính phủ có cơ cấu tổ chức chặt chẽ để duy trì quan
hệ giữa các thành viên, giữa thành viên với tổ chức quốc tế,…

- Tổ chức quốc tế liên chính phủ hoạt động theo đúng tôn chỉ, mục đích đã
được các thành viên thỏa thuận xác định khi thành lập tổ chức.

* Tổ chức liên chính phủ là chủ thể phái sinh của LQT vì:

4
- Tính phái sinh thể hiện ở chỗ quyền năng này không phải là thuộc tính
vốn có của tổ chức quốc tế liên chính phủ mà do các quốc gia thành viên thừa
nhận trao cho quyền năng này là quyền năng phái sinh từ quyền năng chủ thể
LQT của quốc gia. Trong điều ước quốc tế thành lập tổ chức quốc tế, quy định
về phạm vi thẩm quyền của tổ chức đó. Nghĩa là, các thành viên thỏa thuận
trao quyền đến đâu thì tổ chức quốc tế sẽ có được quyền năng đó. Tư cách chủ
của tổ chức quốc tế liên chính phủ có từ thời điểm các văn bản, hiến chương,
điều lệ phát sinh hiệu lực.

Câu 4: Phân biệt quyền năng chủ thể LQT của quốc gia và quyền năng
chủ thể LQT của tổ chức quốc tế liên chính phủ?

* Giống nhau:

- Đều là chủ thể LQT;

- Đều có quyền năng chủ thể của LQT quy định;

- Đồng thời phải đều thỏa thuận các điều kiện của chủ thể LQT thì mới
được hưởng những quyền đó.

* Khác nhau:

Tiêu chí Quyền năng chủ thể LQT Quyền năng chủ thể LQT của
của Quốc gia tổ chức quốc tế liên chính phủ

1. Cơ sở Là chủ quyền thuộc tính Là do các quốc gia thành viên


chính trị pháp lý gắn liền với trao cho để thực hiện các mục
mỗi quốc gia. Đây là quyền tiêu tôn chí của từng tổ chức
năng nguyên thủy, truyền
thống gắn liền với quốc gia,
khi quốc gia xuất hiện là
quyền năng đầy đủ và trọn
vẹn nhất vì quốc gia là chủ
thể cơ bản và chủ yếu của
LQT.

5
2. Phạm vi Quốc gia thực hiện quyền Phạm vi quyền năng chủ thể của
năng của chủ thể LQT trong các tổ chức quốc tế chính phủ
phạm vi rộng hơn so với tổ xác định cụ thể trong điều lệ của
chức quốc tế liên chính phủ chính tổ chức đó.

Với các yếu tố cấu thành như: Mỗi tổ chức quốc tế liên chính
lãnh thổ xác định, dân cư cư phủ được thành lập nhằm mục
trú thường xuyên, chính phủ đích nhất định (chính trị, quân
và khả năng tham gia quan hệ sự, kinh tế,...) nên quyền năng
quốc tế; quốc gia có điều kiện chủ thể LQT mà các quốc gia
và khả năng tham gia vào thành viên trao cho chúng cũng
nhiều lĩnh vực hợp tác khác chỉ được giới hạn trong phạm vi
nhau. các hoạt động đảm bảo đạt các
mục đích này.
Quốc gia có thể tham gia ký
kết bất kỳ điều ước quốc tế Tổ chức quốc tế không tự xác
nào xuất phát từ lợi ích của định được phạm vi quyền và
chính mình. nghĩa vụ cho mình khi tham gia
quan hệ pháp luật quốc tế mà
tham gia trong phạm vi được
các thành viên trao quyền. Do
đó, tổ chức quốc tế liên chính
phủ là chủ thể phát sinh, chủ thể
có quyền năng hạn chế của
LQT.

3. Nội dung:

Do phạm vi quyền năng chủ thể LQT của quốc gia rộng hơn nên đương
nhiên số lượng các quyền và nghĩa vụ chủ thể của quốc gia cũng nhiều hơn so
với tổ chức quốc tế liên chính phủ. Tuy nhiên, có những quyền năng chủ thể
mà chỉ thuộc về quốc gia mà tổ chức quốc tế Liên chính phủ không thể có
được.

Bên cạnh đó, có quyền năng chủ thể LQT mà tổ chức quốc tế liên chính phủ
có mà quốc gia không có.

6
Câu 5: Phân tích khái niệm, đặc điểm của điều ước quốc tế. Trình bày
trình tự ký kết điều ước quốc tế.
* Khái niệm: Điều ước quốc tế là văn bản pháp lý quốc tế thể hiện sự thỏa
thuận giữa các chủ thể luật quốc tế ( trước hết và chủ yếu là các quốc gia )
trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng nhằm ấn định , thay đổi hoặc chấm dứt
quyền và nghĩa vụ của những chủ thể đó trong các lĩnh vực hợp tác quốc tế,
phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế
* Đặc điểm của điều ước quốc tế:
- Về bản chất, điều ước là thỏa thuận giữa các quốc gia và các chủ thể khác
của Luật Quốc Tế. Do vậy, điều ước thể hiện ý chí, sự tự nguyện, bình đẳng
của tất cả các chủ thể tham gia kí kết hay gia nhập
- Chủ thể của điều ước quốc tế là chủ thể của Luật Quốc Tế, trong đó là
chủ yếu của quốc gia và tổ chức quốc tế liên chính phủ. Các chủ thể khác của
Luật Quốc Tế tham gia rất hạn chế vào quan hệ ký kết điểu ước quốc tế.
- Về nội dung, điều ước quốc tế chứa đựng thỏa thuận đã thành công giữa
các chủ thể ký kết, thể hiện dưới dạng các quy phạm pháp luật quốc tế.
- Về hình thức, điểu ước quốc tế được ký kết bằng văn bản. Xây dựng trên
cơ sở thỏa thuận nên ngôn ngữ và tên gọi cụ thể của điểu ước hoàn toàn do
các chủ thể ký kết điều ước quyết định. Trên thực tế, điều ước có thể được gọi
bằng nhiều tên khác nhau như hiệp ước, hiệp định, định ước, thỏa thuận, nghị
định thư, bản ghi nhớ, công hành trao đổi,...
Luật điều chỉnh quan hệ ký kết điều ước quốc tế là Luật Quốc tế.
* Trình tự ký kết điều ước quốc tế:
- Ký kết điều ước quốc tế là một quá trình gồm nhiều giai đoạn, trong đó
các chủ thể tham gia ký kết điều ước thực hiện những hành vi khác nhau để
thỏa thuận giữa họ có giá trị pháp lý và phát sinh hiệu lực.
a. Giai đoạn hình thành văn bản điều ước
- Đây là giai đoạn tạo lập thỏa thuận của các quốc gia hay các chủ thể khác
của Luật Quốc tế. TRong giai đoạn này, các bên thường thực hiện hành vi
sau:
Đàm phán là quá trình thương lượng để tiến tới xác định quyền và nghĩa vụ
của các bên ghi nhận trong nội dung văn bản điều ước. Đàm phán có thể được
tiến hành theo cách thức trực tiếp hoặc thông qua bên thứ 3 như trong khuôn
khổ của tổ chức quốc tế. Thông qua đàm phán, các bên sẽ bày tỏ quan điểm,
lập trường, ý chí đối với lĩnh vực mà họ mong muốn đạt được thỏa thuận. Vì
vậy, đàm phán có vai trò quyết định trong việc xác lập quan hệ điều ước giữa

7
các bên. Đàm phán được coi là kết thúc khi các bên nhất trí được nội dung
điều ước.
- Soạn thảo văn bản điều ước: Trong trường hợp đàm phán thành công,
văn bản dự thảo điều ước sẽ đươc soạn thảo chính để các bên thông qua.
- Thông qua và xác thực văn bản: Thủ tục thôn qua văn bản điều ước được
quy định tại điều 9 Công ước Viên năm 1969 về Luật điều ước quốc tế, theo
đó việc thông qua được thực hiện với sự đồng ý của tất cả các bên tham gia
soạn thảo. Đối với điều ước quốc tế thông qua tại các hội nghị quốc tế, thủ tục
thông qua văn bản điều ước được tiến hành theo hình thức biểu quyết và phải
đạt được sự đồng ý của ít nhất 2/3 thành viên, trừ trường hợp các bên quyết
định, cũng theo hình thức 2/3 thành viên này, một cách thức khác thông qua
văn bản. Trên thực tiễn, tồn tại một số hình thức thông qua văn bản điều ước
như đồng thuận, thông qua cả gói.
Cùng với thủ tục thông qua, điều 10 Công ước viên năm 1969 về Luật điều
ước quốc tế quy định về thủ tục xác thực văn bản. Trong trường hợp các bên
không thỏa thuận thì vệc xác thực được thực hiện thông qua hành vi ký. tuy
nhiên, hành vi ký mang ý nghĩa xác thực văn bản trong trường hợp ký điều
ước quốc tế phải phê chuẩn hoặc phê duyệt.
b. Giai đoạn chấp nhận sự ràng buộc đối với điều ước quốc tế
Hành vi chấp nhận sự ràng buộc của một điều ước quốc tế do các bên tham
gia ký kết thực hiện, theo thỏa thuận ghi nhận trong điều ước hoặc thông qua
một trong hành vi như ký, phê chuẩn, phê duyệt điều ước quốc tế.
Ký: Trong thực tiễn, có 3 hình thức điều ước quốc tế:
+ Ký tắt là ký của vị đại diện vào văn bản dự thảo điều ước theo cách thức
ghi lại chữ cái đầu tiên của họ và tên người đại diện
+ Ký đầy đủ là ký của vị đại diện vào văn bản dự thảo điều ước
+ Ký ad referendeum là ký của vị đại diện với điều kiện có sự đồng ý sau
đó của cơ quan có thẩm quyền theo quy định pháp luật trong nước.
- Phê chuẩn điều ước quốc tế: là hành vi pháp lý do cơ quan nhà nước có
thẩm quyền thực hiện để chấp nhận sự ràng buộc đối với điều ước quốc tế. cơ
quan có quyền phê chuẩn điều ước quốc tế là cơ quan được quy định trong
pháp luật quốc gia.
- Phê duyệt điều ước quốc tế: Điều ước cần phải phê duyệt là những điều
ước mà các bên thỏa thuận với nhau phê duyệt mà không phải phê chuẩn để
điều ước quốc tế có hiệu lực thi hành. Phê duyệt điều ước là hành vi biểu hiện
sự đồng ý ràng buộc của quốc gia đối với điều ước quốc tế.
Câu 6: Phân biệt điều ước quốc tế và tập quán quốc tế

8
* Giống nhau:
+ Cả tập quán quốc tế và điều ước quốc tế đều là kết quả của sự thống nhất
ý chí của các chủ thể liên quan; chúng đều hình thành từ sự thỏa thuận của các
bên liên quan; đều là nguồn chứa đựng quy phạm pháp luật quốc tế; là công
cụ pháp lý quan trọng để điều chỉnh quá trình hợp tác quốc tế.
+ Là hình thức pháp luật cơ bản chứa đựng các quy phạm LQT để xây dựng
và ổn định các cơ sở pháp luật cho các quan hệ pháp luật quốc tế hình thành
và phát triển.
+ Là công cụ, phương tiện quan trọng để duy trì và tăng cường các quan hệ
hợp tác quốc tế giữa các chủ thể.
+ Là đảm bảo pháp lý quan trọng cho quyền lợi và lợi ích hợp pháp của chủ
thể LQT.
+ Là công cụ để xây dựng khung pháp luật quốc tế hiện đại, cũng như để tiến
hành hiệu quả việc pháp điển hóa LQT.
+ Điều chỉnh hiệu quả các quan hệ pháp luật quốc tế phát sinh giữa các chủ
thể LQT.
* Khác nhau:
Tiêu chí Điều ước quốc tế Tập quán quốc tế
Khái niệm Điều ước quốc tế là văn Tập quán quốc tế là hình
bản pháp lý quốc tế thể thực biểu hiện các nguyên
hiện sự thỏa thuận giữa các tắc ứng xử sự hình thành
chủ thể luật quốc tế ( trước trong thực tiễn quan hệ
hết và chủ yếu là các quốc quốc tế và được các chủ thể
gia ) trên cơ sở tự nguyện của luật quốc tế thừa nhận
và bình đẳng nhằm ấn định giá trị pháp lý ràng buộc
, thay đổi hoặc chấm dứt với mình.
quyền và nghĩa vụ của
những chủ thể đó trong các
lĩnh vực hợp tác quốc tế,
phù hợp với các nguyên tắc
cơ bản của Luật quốc tế

Đối tượng thi Điều chỉnh trực tiếp các Là nguồn luật QT điều
hành quan hệ kinh tế quốc tế chỉnh trực tiếp các quan hệ
giữa các chủ thể luật QT. kinh tế quốc tế giữa các chủ
Giải quyết các vấn đề thể luật QT. Giải quyết các
như: thương mại, hàng hải, vấn đề như: thương mại,
9
đầu tư, chuyển giao công hang hải, đầu tư, chuyển
nghệ, bảo hiểm, thanh giao công nghệ, bảo hiểm,
toán tố tụng kinh tế quốc thanh toán tố tụng kinh tế
tế,… quốc tế,…
Ngoài ra, một số điều ước
không điều chỉnh trực tiếp
mà tồn tại với tư cách là
nguồn gián tiếp hay bổ trợ
cho các hoạt động ktqt kể
trên, chúng chủ yếu điều
chỉnh vấn đề tính hợp pháp
của tư cách chủ thể trong
các hoạt động kinh tế quốc
tế, vấn đề tương trợ tư
pháp giữa các nhà
nước trong tu pháp quốc tế
nói chung…
Quá trình hình Thông qua các hình thức Không thông qua hành vi
thành đàm phán và ký kết các ký kết mà nó được hình
văn bản pháp lý quốc tế thành trong thực tiễn quan
của các quốc gia. hệ quốc tế và được sự thừa
Quá trình ký kết và thực nhận của các chủ thể LQT.
hiện điều ước quốc tế phải Quá trình hình thành tập
được điều chỉnh bằng các quán quốc tế rất lâu dài và
quy định của luật quốc tế đòi hỏi phải có sự liên tục.
và phải tuân thủ các quy Không có một thước đo
phạm của luật quốc tế. chung cho thời gian hình
thành các tập quán, có thể
Điều ước quốc tế chỉ cần
là 50-100 năm, hoặc nhiều
một sự kiện duy nhất là sự
hơn nữa, thậm chí hàng
ký kết hay tham gia của
trăm năm. Tuy nhiên, tập
các chủ thể theo đúng trình
quán quốc tế chủ yếu hình
tự, thủ tục. Thời gian hình
thành theo các con đường
thành điều ước nhanh hơn,
sau:
theo sát được sự vận
động của các quan hệ quốc - Từ thực tiễn thực hiện
tế các nghị quyết có tính chất
khuyến nghị của các tổ
10
chức quốc tế.
- Từ thực tiễn thực hiện các
phán quyết của các cơ quan
tài phán quốc tế
- Hình thành từ điều ước
quốc tế
- Hình thành từ một tiền
lệ duy nhất
Hình thức thể Các điều ước QT đều được Quy phạm tập quán quốc tế
hiện xây dựng thành các văn tồn tại dưới dạng các hành
bản pháp lý. vi xử sự của các chủ thể
Có thể phân chia điều ước LQT. Do đó, tập quán quốc
quốc tế thành nhiều loại tế luôn ở dạng bất thành
trên cơ sở các căn cứ khác văn.
nhau, nhìn chung việc phân
loại thường dựa vào các cơ
sở sau:
- Dựa vào số lượng các bên
kết ước, điều ước được
phân thành: điều ước quốc
tế song phương, điều ước
quốc tế đa phương;
- Dựa vào lĩnh vực điều
chỉnh, điều ước được phân
thành: điều ước về chính
trị, điều ước về kinh tế…;
- Dựa vào phạm vi áp
dụng, có điều ước song
phương, điều ước khu vực,
điều ước phổ cập.
Điều kiện có hiệu - Điều ước quốc tế phải - Tập quán quốc tế phải
lực được ký kết trên cơ sở tự được áp dụng một thời gian
nguyện và bình đẳng giữa dài trong thực tiễn quan hệ
các chủ thể luật quốc tế với quốc tế.
nhau. - Phải được thừa nhận rộng
- Được ký kết phải phù hợp rãi như những quy phạm

11
vói thủ tục, thẩm mang tính bắt buộc.
quyền theo quy định của
- Phải có nội dung phù hợp
các bên ký kết.
với các nguyên tắc cơ bản
- Phải có nội dung phù hợp
của luật quốc tế.
với các nguyên tắc cơ bản
của luật quốc tế.
Sửa đổi, bổ sung Vấn đề sửa đổi, bổ sung Vấn đề sửa đổi, bổ sung
trong điều ước đơn giản trong tập quán quốc tế lâu
hơn rất nhiều so với tập dài hơn rất nhiều so với
quán, vì điều ước tồn tại điều ước quốc tế.
dưới hình thức văn bản.
Giá trị sử dụng Có giá trị áp dụng ưu thế Có giá trị áp dụng thấp hơn
hơn. điều ước quốc tế.
Câu 7: Trình bày và phân tích về các loại nguồn bổ trợ của Luật quốc tế.
Nguồn của Luật quốc tế là những hình thức chứa đựng, ghi nhận các
nguyên tắc, các quy phạm pháp lý quốc tế nhằm xác định quyền và nghĩa vụ
của các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ pháp lý quốc tế.
- Khái niệm: Nguồn bổ trợ (hay phương tiện bổ trợ nguồn của luật quốc tế)
là loại nguồn không trực tiếp chứa đựng các quy phạm pháp luật quốc tế, hầu
như chỉ có ý nghĩa khuyến nghị đối với các chủ thể luật quốc tế, chúng bao
gồm các phán quyết của Tòa án công lý quốc tế, các nguyên tắc pháp luật
chung, nghị quyết của tổ chức quốc tế liên chính phủ, hành vi pháp lý đơn
phương của các quốc gia, các học thuyết của các học giả danh tiếng về luật
quốc tế.
- Đặc điểm:
Nguồn bổ trợ trong tư pháp quốc tế bao gồm:
- Các nguyên tắc pháp luật chung là những nguyên tắc mang tinh chất pháp
lý kỹ thuật được ghi nhận trong hầu hết các hệ thống pháp luật trên thế giới và
được các cơ quan tài phán quốc tế áp dụng trong trường hợp không có các
nguyên tắc và các quy phạm luật quốc tế.
- Hành vi pháp lý đơn phương là hành vi do các chủ thể có thẩm quyền của
quốc gia thể hiện nhằm mục đích xác lập về quyền và nghĩa vụ pháp lý cho
quốc gia.
- Phán quyết của cơ quan tài phán quốc tế là các phán quyết giải quyết tranh
chấp do các cơ quan tài phán quốc tế đưa ra có vai trò làm sáng tỏ hoặc là cơ
sở hình thành điều ước quốc tế và tập quán quốc tế.

12
- Nghị quyết của các tổ chức quốc tế liên chính phủ là những văn bản không
có giá trị pháp lý ràng buộc. Do các tổ chức quốc tế đưa ra nhắm giải thích
hoặc giải quyết một số vấn đề của luật quốc tế.
- Học thuyết của các học giả
Mối quan hệ giữa điều ước quốc tế và tư pháp quốc tế là có giá trị ngang
nhau về việc tồn tại quy phạm điều ước không làm loại bỏ hiệu lực quy phạm
tập quán cùng một vấn đề. Một quy phạm có thể tồn tại dưới dạng điều ước
quốc tế và tập quán quốc tế thì tùy từng chủ thể sẽ chọn hình thức phù hợp với
mình, điều ước quốc tế có thể loại bỏ giá trị của tập quán quốc tế, cá biệt
trường hợp ngược lại.
* MỐI QUAN HỆ QUA LẠI GIỮA CÁC LOẠI NGUỒN:
• Mối quan hệ giữa Điều ước quốc tế và Tập quán quốc tế:
+ Tập quán quốc tế là cơ sở để hình thành Điều ước quốc tế và ngược lại;
+ Tập quán quốc tế và Điều ước quốc tế có vị trí độc lập với nhau trong hệ
thống
nguồn của Luật Quốc tế;
+ Tập quán quốc tế có thể bị thay đổi, hủy bỏ bằng con đường Điều ước
quốc tế và cá biệt, cũng có trường hợp, Điều ước quốc tế bị thay đổi hay hủy
bỏ bằng con đường Tập quán quốc tế
*Mối quan hệ giữa nguồn cơ bản và nguồn bổ trợ:
+ Nguồn bổ trợ là cơ sở để hình thành nên nguồn cơ bản của Luật Quốc tế;
+ Nguồn bổ trợ là phương tiện chứng minh sự tồn tại của nguồn cơ bản;
+ Nguồn bổ trợ góp phần giải thích, làm sáng tỏ nội dung của nguồn cơ
bản;
+ Nguồn bổ trợ bổ sung những nội dung mà Điều ước quốc tế và Tập quán
quốc tế chưa điều chỉnh;
+ Nguồn bổ trợ được áp dụng khi thiếu vắng nguồn cơ bản
Chương 3:
1. Trình bày nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia với
các nội dung: lịch sử hình thành, nội dung nguyên tắc, ngoại lệ nguyên
tắc. Chứng minh rằng nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc
gia góp phần ổn định quan hệ quốc tế.
- Đây là nguyên tắc được đặt ở vị trí đầu tiên trong số các nguyên tắc được
ghi nhận tại Điều 2 của Hiến chương Liên hợp quốc: “Liên hợp quốc được

13
xây dựng trên nguyên tắc bình đẳng chủ quyền của tất cả hội viên”. Nguyên
tắc này là xuất phát điểm của toàn bộ hệ thống các nguyên tắc cơ bản của Luật
quốc tế.
- Ngoài Hiến chương Liên hợp quốc, nguyên tắc này còn được đề cập một
cách đầy đủ trong Tuyên bố về các nguyên tắc cơ bản Luật quốc tế điều chỉnh
quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa các quốc gia ngày 24/10/1970…1 và một số
văn bản pháp lý quốc tế khác.

* Sự hình thành nguyên tắc:

– Đây là nguyên tắc xuất hiện rất sớm trong đời sống quốc tế. Nó được hình
thành trong thời kỳ loài người chuyển từ chế độ phong kiến sang chế độ tư
bản chủ nghĩa, và trở thành nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế thời kỳ tư bản
chủ nghĩa. Tuy nhiên, cũng giống như các nguyên tắc khác trong thời kỳ đó,
nguyên tắc này cũng chỉ được dùng để điều chỉnh mối quan hệ giữa các quốc
gia nhất định.

Hiến pháp tư sản cũng ghi nhận nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền dân tộc
như một tôn chỉ của mình…Tuy nhiên, trên thực tế giai cấp tư sản không hề
tôn trọng nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia. Các cuộc đấu
tranh đầu thế kỷ 19, chiến tranh thế giới lần thứ nhất, lần thứ hai…liên tiếp nổ
ra nhằm phân chia lại thị trường thế giới đều là những bằng chứng rõ ràng
nhất cho sự vi phạm thô bạo nguyên tắc này của các nước tư bản thời bấy giờ.

– Năm 1945, sau khi tổ chức Liên hợp quốc ra đời, với tôn chỉ và mục đích
gìn giữ hòa bình và an ninh quốc tế, trong Hiến chương Liên hợp quốc đã ghi
nhận “bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia” là nguyên tắc cơ bản nhất
trong hệ thống các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế và đồng thời cũng là
nguyên tắc cơ bản trong hoạt động của tổ chức quốc tế rộng rãi này.

– Trong quan hệ quốc tế hiện nay, vấn đề bình đẳng về chủ quyền giữa các
quốc gia đóng vai trò rất quan trọng trong việc thiết lập, xây dựng cũng như
duy trì một trật tự quốc tế trong quan hệ giữa các quốc gia.

14
* Nội dung nguyên tắc:

*Về khái niệm “Bình đẳng chủ quyền”:

Chủ quyền là thuộc tính chính trị-pháp lý vốn có của quốc gia, thể hiện
quyền tối thượng của quốc gia trong lãnh thổ của mình và quyền độc lập của
quốc gia trong quan hệ quốc tế. Trong phạm vi lãnh thổ của mình, mỗi quốc
gia có quyền tối thượng về lập pháp, hành pháp và tư pháp mà không có bất
kỳ sự can thiệp nào từ bên ngoài, đồng thời quốc gia được tự do lựa chọn cho
mình phương thức thích hợp nhất để thực thi quyền lực trong phạm vi lãnh
thổ.

Trong quan hệ quốc tế, mỗi quốc gia có quyền tự quyết định chính sách đối
ngoại của mình mà không có sự áp đặt từ chủ thể khác trên cơ sở tôn trọng
chủ quyền của mọi quốc  Điều này có nghĩa là các quốc gia dù lớn hay nhỏ,
gia trong cộng đồng quốc tế  dù giàu hay nghèo đều có quyền độc lập như
nhau trong quan hệ quốc tế.

(Lưu ý rằng, sự “bình đẳng” được đề cập đến trong nguyên tắc này không
phải là bình đẳng theo nghĩa “ngang bằng nhau” về tất cả các quyền và nghĩa
vụ, mà được hiểu là bình đẳng trong quyền tự quyết mọi vấn đề liên quan đến
đối nội và đối ngoại của mỗi quốc gia.

Thực tiễn quan hệ quốc tế cho thấy, khả năng tham gia vào các quan hệ
quốc tế của các quốc gia không giống nhau, do đó Luật quốc tế trong một số
trường hợp đã có những quy phạm nhằm trao cho một số quốc gia nhất định
những quyền đặc biệt mà các quốc gia khác không có (Ví dụ: quyền phủ quyết
của 5 thành viên thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc). Tuy nhiên,
việc được hưởng các quyền đặc biệt này bao giờ cũng đồng nghĩa với việc các
quốc gia này phải gánh vác thêm những nghĩa vụ đặc biệt khác).

* Như vậy, bình đẳng về chủ quyền của quốc gia bao gồm các nội dung:

a. Các quốc gia bình đẳng về mặt pháp lý;

b. Mỗi quốc gia có chủ quyền hoàn toàn và đầy đủ;

15
c. Mỗi quốc gia có nghĩa vụ tôn trọng quyền năng chủ thể của các quốc gia
khác;

d. Sự toàn vẹn lãnh thổ và tính độc lập về chính trị là bất di bất dịch;

e. Mỗi quốc gia có quyền tự do lựa chọn và phát triển chế độ chính trị, xã
hội, kinh tế và văn hóa của mình;

* Ngoại lệ nguyên tắc:

Tuy nhiên, đối với các vấn đề không thông thường (vấn đề liên quan đến
thủ tục), trong 9 phiếu này phải có 5 phiếu thuận của 5 ủy viên thường trực
của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc mới hợp lệ. Trong trường hợp có 1 trong
5 ủy viên thường trực phản đối thì nghị quyết đó sẽ không được thông qua.

Quy định trên đây không tạo ra sự bất bình đẳng cũng như vi phạm nguyên
tắc cơ bản của Luật quốc tế, vì trong thực tiễn quan hệ quốc tế, các chủ thể
Luật quốc tế đã thừa nhận một số trường hợp ngoại lệ của nguyên tắc này đó
là:

 Trường hợp các quốc gia tự hạn chế chủv quyền của mình: Đây là trường
hợp các quốc gia tự lựa chọn vì lợi ích của chính mình hoặc họ tự hạn chế chủ
quyền của mình bằng cách trao quyền cho 1 thể chế khác (như tổ chức quốc
tế, quốc gia khác…) được thay mặt mình trong các hoạt động liên quan đến
lợi ích của quốc gia.

Trong trường hợp này, quốc gia đã tự không vi phạm nguyên tắc bình đẳng
chủ quyền nguyện hạn chế chủ quyền của mình  giữa các quốc gia. 

– Pháp luật quốc tế thừa nhận các quốc gia có quyền tham gia vào các tổ
chức quốc tế, tuy nhiên có một số quốc gia đã tự hạn chế quyền này của mình.
Như trường hợp của Thụy sỹ khi tuyến bố mình là quốc gia trung lập vĩnh
viễn. Điều này đồng nghĩa với việc họ không được tham gia vào bất kỳ tổ
chức quốc tế nào nhằm theo đuổi mục đích quân sự hay các liên minh kinh tế,
chính trị trên thế giới…)

Trường hợp các quốc gia bị hạn chế chủ quyền: Trường hợp này chỉ đặt rav
đối với các chủ thể có hành vi vi phạm nghiêm trọng pháp luật quốc tế, và
16
việc bị hạn chế chủ quyền là một biện pháp trừng phạt từ phía cộng đồng quốc
tế đối với quốc gia họ.

*Chứng minh rằng nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia
góp phần ổn định quan hệ quốc tế:
Chủ quyền là thuộc tính chính trị – pháp lý không thể tách rời của quốc gia,
gồm quyền tối cao của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ và quyền độc lập của
quốc gia trong quan hệ quốc tế. trong quan hệ quốc tế, bình đẳng về chủ
quyền giữa các quốc gia là nền tảng của quan hệ quốc tế hiện đại vì trật tự
quốc tế chỉ có thể được duy trì nếu các quyền bình đẳng của các quốc gia
tham gia vào quan hệ đó được đảm bảo. nguyên tắc này bao gồm những nội
dung chính sau đây:

Các quốc gia bình đẳng về mặt pháp lý

Mỗi quốc gia có chủ quyền hoàn toàn và đầy đủ: quốc gia có toàn quyền
chủ quyền trong phạm vi lãnh thổ của mình

Mỗi quốc gia có nghĩa vụ tôn trọng quyền năng chủ thể của các quốc gia
khác,

Sự toàn vẹn lãnh thổ và tính độc lập về chính trị là bất di bất dịch

Mỗi quốc gia có quyền tự do lựa chọn và phát triển chế độ chính trị, xã hội,
kinh tế và văn hóa của mình: nguyên tắc này vừa đảm bảo sự bình đẳng về
chủ quyền với quốc gia khác, vừa thể hiện nội dung của nguyên tắc dân tộc tự
quyết.

Mỗi quốc gia có nghĩa vụ thực hiện đầy đủ và tận tâm các nghĩa vụ quốc tế
của mình và tồn tại hòa bình cùng các quốc gia khác.

Các quốc gia, dù lớn hay nhỏ, giàu hay nghèo, có tiềm lực mạnh hay yếu
đều hoàn toàn bình đẳng với nhau về chủ quyền. sự thực hiện chủ quyền quốc
gia chỉ có thể trọn vẹn khi quốc gia vừa đạt được lợi ích của mình mà không
xâm phạm đến lợi ích hợp pháp của các chủ thể quốc tế khác, tức là việc thực
hiện chủ quyền phải gắn với những giới hạn cần thiết. sự giới hạn này có thể
do quốc gia tự đặt ra hoặc do sự thỏa thuận giữa các chủ thể. Một khi bảo đảm

17
được sự bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia, trật tự thế giới mới có cơ
hội để phát triển theo xu hướng ổn định, hội nhập và tiến bộ.

2. Trình bày nguyên tắc không sử dụng vũ lực hay đe dọa sử dụng vũ
lực trong quan hệ quốc tế với các nội dung: lịch sử hình thành, nội dung
nguyên tắc, ngoại lệ nguyên tắc. Chứng minh rằng nguyên tắc không sử
dụng vũ lực hay đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế góp phần
ổn định quan hệ quốc tế.

* Lịch sử hình thành:

– Luật quốc tế trong thời kỳ cổ đại người ta coi chiến tranh là một phương
tiện hữu hiệu để giải quyết mọi xung đột, mọi tranh chấp quốc tế. Nó được
thừa nhận như “quyền” của mỗi quốc gia, dân tộc -“quyền được tiến hành
chiến tranh”.
– Công ước Lahaye năm 1899 về hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế và
Công ước năm 1907 về hạn chế sử dụng vũ lực đối với quốc gia vi phạm cam
kết quốc tế là những công ước quốc tế toàn cầu đầu tiên đã không coi việc tiến
hành chiến tranh là quyền của quốc gia, nhưng cũng chưa đưa ra quy định
ngăn cấm chiến tranh, mà chỉ kêu gọi các quốc gia “với khả năng có thể” thì
ngăn ngừa nguy cơ dùng vũ lực. Như vậy, trước chiến tranh thế giới thứ 2
những quy định về việc không sử dụng chiến tranh chỉ là những quan điểm, ý
tưởng và chưa trở thành nguyên tắc mang tính bắt buộc chung .
– Sự ra đời của Liên hợp quốc với bản Hiến chương của mình được đánh giá
rất cao vì mục đích giữ gìn hòa bình và an ninh quốc tế. Tại khoản 4 điều 2
của Hiến chương này quy định rằng: “Trong quan hệ quốc tế, các hội viên
Liên hợp quốc không được có hành động đe dọa bằng vũ lực hay dùng vũ lực
để chống lại quyền bất khả xâm phạm về lãnh thổ hay nến độc lập chính trị
của bất cứ một nước nào, hoặc bằng cách này hay cách khác làm trái với
những mục đích của Liên hợp quốc”. Tuy nhiên, với quy định trên đây, Hiến
chương Liên hợp quốc mới chỉ dừng lại ở việc đưa ra tên gọi của nguyên tắc
này, còn việc giải thích định nghĩa như thế nào là “vũ lực” và “đe dọa dùng vũ
lực” trong quan hệ quốc tế lại phụ thuộc đặt ra”vào cách hiểu của các quốc gia
. Điều này tạo ra sự giải thích khác nhau  yêu cầu phải xây dựng hệ thống các
nguyên tắc và có sự giải thích thống nhất nguyên tắc trong cộng đồng quốc tế.
– Năm 1970 các quốc gia trong Liên hợp quốc đã ký kết một điều ước quốc tế
về hệ thống các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế, trong đó giải thích rất rõ
thế nào là “vũ lực”, thế nào là “đe dọa dùng vũ lực”.
18
* Nội dung nguyên tắc
* Các văn kiện pháp lý quốc tế ghi nhận nguyên tắc:
– Tuyên bố của đại hội đồng liên hợp quốc năm 1970 về các nguyên tắc cơ
bản của LQT;
– Tuyên bố của đại hội đồng liên hợp quốc năm 1974 về định nghĩa xâm lược;
– Định ước Henxinki năm 1975 về an ninh và hợp tác của các nước châu Âu;
– Tuyên bố của liên hợp quốc năm 1987 về “nâng cao hiệu quả của nguyên
tắc khước từ đe dọa bằng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế”.
* Định ước Henxinki năm 1975 quy định các quốc gia tham gia sẽ “khước từ
mọi biện pháp mang tính cưỡng bức đối với quốc gia, thành viên khác, khước
từ tiến hành hành vi cưỡng bức về kinh tế”. Như vậy, khái niệm “vũ lực” theo
luật quốc tế hiện đại không chỉ bó hẹp trong khuôn khổ là sử dụng hoặc đe
dọa sử dụng lực lượng vũ trang để chống lại chủ quyền, độc lập của quốc gia
khác mà còn mở rộng việc nghiêm cấm sử dụng các sức mạnh hay đe dọa
dùng sức mạnh phi vũ trang2trong quan hệ quốc tế. Nội dung của nguyên tắc
này như sau:
– Cấm xâm chiếm lãnh thổ quốc gia khác trái với các quy phạm của luật quốc
tế;
– Cấm các hành vi trấn áp bằng vũ lực;
– Không được cho quốc gia khác sử dụng lãnh thổ nước mình để tiến hành
xâm lược chống quốc gia thứ ba;
– Không tổ chức, xúi giục, giúp đỡ hay tham gia vào nội chiến hay các hành
vi khủng bố tại quốc gia khác;
– Không tổ chức hoặc khuyến khích việc tổ chức các băng nhóm vũ trang, lự
lượng vũ trang phi chính quy, lính đánh thuê để đột nhập vào lãnh thổ quốc
gia khác.

* Ngoại lệ của nguyên tắc


Câu hỏi đặt ra: Vậy, có khi nào việc sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế
được cho là hợp pháp hay không? đó là các trường hợp nào? Có, nếu việc sử
dụng lực lượng vũ trang rơi vào 1 trong các ngoại lệ sau đây của nguyên tắc:
Các quốc gia có quyền sử dụngv lực lượng vũ trang để thực hiện quyền tự vệ
hợp pháp, kể cả việc sử dụng biện pháp quân sự nhưng phải tuân thủ nguyên
tắc tương xứng.
– Cơ sở pháp lý: Điều 51 Hiến chương Liên hợp quốc quy định “Không một
điều khoản nào trong Hiến chương này làm thiệt hại đến quyền tự vệ cá thể
hay tập thể một cách chính đáng, trong trường hợp hội viên Liên hợp quốc bị

19
xâm lược vũ trang, cho đến khi Hội đồng bảo an ấn định những biện pháp cần
thiết để duy trì hòa bình và an ninh quốc tế. Những biện pháp do các hội viên
thi hành trong việc thực hiện quyền tự vệ chính đáng ấy phải được báo ngay
cho Hội đồng bảo an biết và không được ảnh hưởng đến quyền hạn và nhiệm
vụ của Hội đồng bảo an, mà theo Hiến chương này Hội đồng bảo an có thể bất
cứ lúc nào áp dụng những hành động xét thấy cần thiết để duy trì và khôi phục
hòa bình và an ninh quốc tế”.

Như vậy, Hiến chương Liên hợp quốc thừa nhận quyền tự vệ chính đáng
của các quốc gia, nhưng lại không đưa ra khái niệm thế nào là một hành vi
“xâm lược”. Theo Nghị quyết 3314 của Đại hội đồng Liên hợp quốc năm
1974 về định nghĩa xâm lược thì, xâm lược là việc một nước sử dụng lực
lượng vũ trang tấn công, vi phạm đến chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ hoặc nền
độc lập chính trị của một nước khác, hoặc “dưới bất kỳ hình thức nào khác”.
Nghị quyết đặt ra một danh sách không giới hạn những hành vi bị coi là xâm
lược; đồng thời nghị quyết này cũng trao cho Hội đồng bảo an quyền được
quyết định có hay không hành vi xâm lược trong các tình huống cụ thể.
– Tự vệ như thế nào được coi là hợp pháp? Theo điều 51 Hiến chương Liên
hợp quốc thì tiêu chí để xác định hành vi tự vệ hợp pháp là: có hành động tấn
công vũ trang. Nếu hành vi tự vệ xảy ra sau khi  tự vệ hợp pháp, nếu hành vi
tự vệ xảy ra trước”có hành động tấn công vũ trang   tự vệ bất hợp pháp.”khi
có hành động tấn công vũ trang
– Quyền tự vệ hợp pháp của quốc gia được thực hiện với điều kiện: quốc gia
đó bị tấn công vũ trang trước; mức độ thực hiện tự vệ phải tương xứng với
hành vi vi phạm, nếu vượt quá mức độ vi phạm thì hành vi tự vệ đó không
được coi là tự vệ hợp pháp.
– Ngoài các vấn đề trên, Điều 51 Hiến chương cũng quy định, quyền tự vệ
chính đáng của cá nhân hay tập thể chỉ được sử dụng “cho đến khi Hội đồng
bảo an ấn định những biện pháp cần thiết để duy trì hòa bình và an ninh quốc
tế…”.
Như[ vậy, theo tinh thần của Hiến chương Liên hợp quốc, quyền tự do hành
động của quốc gia trong phạm vi tự vệ chính đáng chỉ là tạm thời. Một khi
Hội đồng bảo an đã quyết định hành động thì vụ việc đó sẽ được đặt dưới
quyền quyết định của cơ quan này. Trong thực tiễn quan hệ quốc tế, quyền tự
vệ chính đáng là cách duy nhất cho phép các quốc gia được sử dụng vũ lực
một cách hợp pháp. Do đó, sự can thiệp của Hội đồng bảo an trong trường
hợp này được coi như một cơ chế kiểm soát hữu hiệu nhằm tránh việc lạm

20
dụng vũ lực từ phía các quốc gia. Tuy nhiên, sự can thiệp này chỉ thực sự có
tác dụng khi các nước lớn thỏa thuận cùng nhau hành động nhằm ngăn chặn
việc sử dụng vũ lực.
Các dân tộc thuộc địa được phép sử dụng tất cả các biện phápv để đấu tranh
giành quyền tự quyết, kể cả các biện pháp quân sự nhưng phải tuân thủ các
quy định của luật quốc tế.
Cộng đồng quốc tế có quyền áp dụng cácv biện pháp trừng phạt, kể cả các
biện pháp quân sự đối với các chủ thể có hành vi vi phạm nghiêm trọng luật
quốc tế.

*Chứng minh rằng nguyên tắc không sử dụng vũ lực hay đe dọa sử dụng
vũ lực trong quan hệ quốc tế góp phần ổn định quan hệ quốc tế:
3. Trình bày nguyên tắc hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế với
các nội dung: lịch sử hình thành, nội dung nguyên tắc. Chứng minh rằng
nguyên tắc hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế góp phần ổn định
quan hệ quốc tế.

* Sự hình thành nguyên tắc

Sự hình thành và phát triển của nguyên tắc này gắn liền với sự hình thành
và phát triển của nguyên tắc cấm đe dọa dùng vũ lực và dùng vũ lực trong
quan hệ quốc tế và là hệ quả tất yếu của nguyên tắc này.

– Trong thực tiễn quốc tế, tranh chấp luôn là khả năng tiềm ẩn phát sinh từ
các mối quan hệ giữa các quốc gia. Đó là hoàn cảnh cụ thể mà trong đó các
chủ thể luật quốc tế có những quan điểm trái ngược hoặc mâu  xung đột, mâu
thuẫn.” không thống nhất được về quyền và lợi ích “thuẫn nhau

– Trong hệ thống Công ước Lahay 1899 và 1907 có Công ước về hòa bình
giải quyết xung đột quốc tế, là công ước đa phương đầu tiên đề cập đến vấn
đề quan trọng này. Tuy nhiên, Công ước mới chỉ đưa ra lời kêu gọi các quốc
gia tự nguyện thực hiện các biện pháp trung gian, hòa giải trước khi dùng vũ
lực.

21
– Quy chế Hội quốc liên ở mức độ nhất định đã đưa ra quyền của các quốc
gia dùng chiến tranh như là phương tiện giải quyết tranh chấp, lần đầu tiên đã
xác định nghĩa vụ của các quốc gia giải quyết tranh chấp bằng phương pháp
hoà bình như giải  quy định này không mang”quyết ở tòa án hoặc đưa ra hội
đồng của Hội quốc liên  tính chất là nghĩa vụ pháp lý bắt buộc của mọi quốc
gia. Và việc giải quyết tranh chấp bằng phương pháp hòa bình chỉ được coi là
khả năng có thể xảy ra khi có tranh chấp mà thôi.

– Liên hợp quốc cùng với bản Hiến chương của mình lần đầu tiên đã nâng
vấn đề giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế lên thành nguyên tắc trong
quan hệ giữa các quốc gia. Khoản 3 điều 2 Hiến chương ghi nhận “Hội viên
Liên hợp quốc giải quyết các tranh chấp quốc tế của họ bằng phương pháp
hòa bình, làm thế nào khỏi nguy hại đến hòa bình và an ninh quốc tế cũng
như đến công lý”.

* Nội dung nguyên tắc

* Thế nào là ” tranh chấp quốc tế”? luật quốc tế chưa có một định nghĩa
chính xác về tranh chấp quốc tế được thừa nhận rộng rãi, nhưng đa số các tác
giả đều cho rằng tranh chấp quốc tế là những vấn đề phát sinh giữa các chủ
thể luật quốc tế và những bất đồng về các vấn đề cơ bản của quan hệ quốc tế.

– Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế được ghi nhận lần đầu
tiên trong Hiến chương liên hợp quốc và được khẳng định rõ ràng trong
Tuyên bố năm 1970, trong đó chỉ rõ “mỗi quốc gia giải quyết tranh chấp quốc
tế của mình với các quốc gia khác bằng phương pháp hòa bình để không dẫn
đến đe dọa hòa bình, an ninh quốc tế và công bằng”.

* Các biện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp: Điều 33 Hiến chương liên
hợp quốc đã quy định cụ thể các biện pháp hòa bình mà các bên tranh chấp có
thể lựa chọn, đó là các con đường : “… đàm phán, điều tra, trung gian, hòa
giải, trọng tài, tòa án, sử dụng các tổ chức hoặc các hiệp định khu vực, hoặc
bằng các biện pháp hòa Như vậy, hòa bình giải quyết các tranh”bình khác tùy
theo sự lựa chọn của mình” chấp quốc tế là nghĩa vụ bắt buộc đối với mọi
quốc gia – thành viên của cộng đồng quốc tế.

Các bên có quyền tự do lựa chọn các biện pháp phù hợp nhất, sao cho mọi
tranh chấp đều được giải quyết trên cơ sở luật quốc tế và nguyên tắc công
22
bằng. Thực tiễn cho thấy, phương pháp đàm phán là phương pháp thường
xuyên được các quốc gia sử dụng để giải quyết các tranh chấp hoặc bất đồng
với nhau.

* Ngoại lệ của nguyên tắc:

– Đây là một nguyên tắc không tồn tại bất kỳ ngoại lệ nào.

– Hội đồng bảo an Liên hợp quốc luôn phải tôn trọng biện pháp giải quyết
hòa bình mà các bên lựa chọn. Trong trường hợp các bên tự lựa chọn mà vẫn
không giải quyết triệt để vấn đề, hội đồng bảo an có quyền kiến nghị các bên
áp dụng các biện pháp khác nhằm nhanh chóng chấm dứt những mối đe dọa.

* Thực tiễn vận dụng nguyên tắc:

Cùng với quá trình hội nhập khu vực và quốc tế, với việc tham gia tích cực
vào các tổ chức quốc tế, hiện nay cộng đồng quốc tế đang dần thừa nhận vai
trò cũng như tính hiệu quả của các biện pháp giải quyết tranh chấp thông qua
cơ chế giải quyết tranh chấp của các tổ chức quốc tế như: EU, Asean, liên hợp
quốc…

* Chứng minh rằng nguyên tắc hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc
tế góp phần ổn định quan hệ quốc tế
Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế là một trong các nguyên
tắc cơ bản của luật pháp quốc tế. Các quốc gia có nghĩa vụ phải giải quyết các
tranh chấp một cách hòa bình thông qua các biện pháp phi vũ lực. Nguyên tắc
này đã hình thành từ lâu, đặc biệt từ năm 1945 khi Hiến chương Liên hợp
quốc ra đời. Không một quốc gia nào phủ nhận nguyên tắc này, nhưng điều
này không đồng nghĩa là đã có sự đồng thuận về nội dung của nguyên tắc. Các
nội dung cụ thể của nguyên tắc được nêu trong Tuyên bố về các nguyên tắc cơ
bản của luật pháp quốc tế điều chỉnh quan hệ hữu nghị giữa các quốc gia của

23
Đại hội đồng Liên hợp quốc năm 1970, trong đó một số nội dung đã nhận
được sự đồng thuận cao và được công nhận là tập quán quốc tế.

Các quốc gia có nghĩa vụ phải giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa
bình và trong mọi trường hợp không được sử dụng vũ lực. Các biện pháp cụ
thể để giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế được liệt kê ở Điều 33 của
Hiến chương Liên hợp quốc, bao gồm đàm phán, trung gian, hòa giải, điều tra,
sử dụng các dàn xếp khu vực, các biện pháp tòa án, trọng tài và các biện pháp
hòa bình khác. Các quốc gia có quyền tự do lựa chọn biện pháp mà họ thấy
thích hợp. Luật pháp quốc tế hiếm khi quy định về một biện pháp bắt buộc
nhất định và cho dù có quy định như thế thì quyền tự do lựa chọn về cơ bản
vẫn được bảo đảm. Ví dụ như Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm
1982 quy định thủ tục bắt buộc mang tính chất ràng buộc (tòa án và trọng
tài),] nhưng cũng cho phép quyền của các quốc gia thành viên lựa chọn biện
pháp khác, thậm chí quyền loại trừ áp dụng thủ tục bắt buộc trong một số
trường hợp.
Trong các biện pháp trên, đàm phán là biện pháp phổ biến nhất trong giải
quyết hòa bình các tranh chấp. Giáo sư Merrills hoàn toàn đúng khi nhận định
rằng biện pháp đàm phán được sử dụng thường xuyên hơn hẳn tất cả các biện
pháp giải quyết tranh chấp cộng lại.] Trong đàm phán, các bên có thể trao đổi
quan điểm, đánh giá thông tin của nhau và có thể đạt được một giải pháp mà
các bên tranh chấp có thể chấp nhận. Đàm phán đôi khi không chỉ nhằm giải
quyết tranh chấp mà còn để ngăn ngừa xung đột có thể xảy ra; và trong trường
hợp đó, các quốc gia thường lựa chọn một hình thức đàm phán đặc thù hơn –
tham vấn. Thông qua tham vấn, các quốc gia có thể sẽ điều chỉnh hành vi
hoặc chính sách của mình trước khi chúng được ban hành hay thực hiện trên
thực tế để tránh tranh chấp không cần thiết với nhau.
So với các biện pháp tư pháp, đàm phán và các biện pháp ngoại giao khác
thường được ưu tiên áp dụng hơn do có thể giải quyết tranh chấp trên cơ sở
hợp tác và thấu hiểu giữa các bên. Tòa án Thường trực Công lý Quốc tế
(PCIJ) cho rằng “việc giải quyết tranh chấp quốc tế bằng biện pháp tư phápchỉ
đơn giản là một biện pháp thay thế cho việc giải quyết trực tiếp và hữu nghị
giữa các bên; do đó Tòa cần phải tạo điều kiện thuận lợi nhất có thể cho việc
giải quyết trực tiếp và hữu nghị như thế.”Trong vụ Nicaragua và Mỹ, khi từ
chối đưa ra quyết định về yêu cầu bồi thường của Nicaragua do thiếu cơ sở
tính toán mức bồi thường chắc chắn và việc Mỹ không tham gia quá trình xét
24
xử, Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ) khẳng định Tòa nên hạn chế đưa ra quyết
định không cần thiết có thể tạo ra trở ngại cho đàm phán giữa các bên. Có thể
thấy chính các tòa án quốc tế cũng cho rằng biện pháp đàm phán nên được ưu
tiên sử dụng và các biện pháp tư pháp chỉ là biện pháp cuối cùng và dù cho
được áp dụng thì biện pháp tư pháp cũng không nên cản trở cơ hội giải quyết
tranh chấp trực tiếp bằng đàm phán giữa các bên.
Hơn nữa, trong trường hợp tranh chấp đang được giải quyết bằng biện pháp
tư pháp, các bên có thể đồng thời tiến hành đàm phán và nếu thành công, các
bên có thể yêu cầu cơ quan tài phán ngừng xem xét tranh chấp. Tòa ICJ
trong vụ Aegean Sea nhấn mạnh: “Đàm phán và biện pháp tư pháp được ghi
nhận cùng nhau ở Điều 33 của Hiến chương Liên hợp quốc như các biện pháp
hòa bình giải quyết tranh chấp. Các phán quyết trước đây của Tòa đã cho thấy
nhiều ví dụ các bên đồng thời tiến hành đàm phán và tranh tụng trước cơ quan
tài phán, tiến trình tố tụng có thể chấm dứt nếu các cuộc đàm phán thành
công.

 4. Trình bày nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc
gia khác với các nội dung: lịch sử hình thành, nội dung nguyên tắc, ngoại
lệ nguyên tắc. Chứng minh rằng nguyên tắc không can thiệp vào công
việc nội bộ của quốc gia khác góp phần ổn định quan hệ quốc tế.

* Lịch sử hình thành:


- Xuất hiện trong thời kỳ cách mạng tư sản, với “mầm mống” là quy định
trong bản Hiến pháp của Nhà nước tư sản Pháp, đó là “nước Pháp không can
thiệp vào các công việc nội bộ của quốc gia khác và không cam chịu để các
quốc gia khác can thiệp vào công việc nội bộ của mình”. Tuy nhiên, những
quy định liên quan đến vấn đề này thời kỳ đó còn rất nhiều hạn chế, chưa
được thừa nhận rộng rãi là nguyên tắc chung của cộng đồng quốc tế.
- Khi tổ chức Liên hợp quốc ra đời, Hiến chương của tổ chức này đã cụ thể
hóa nội dung của nguyên tắc tại khoản 7 điều 2, ” Tổ chức Liên hợp quốc
không có quyền can thiệp vào công việc thực chất thuộc thẩm quyền nội bộ
của bất kì quốc gia nào” . Nghĩa vụ không can thiệp vào công việc của quốc
25
gia khác cũng đồng thời nghĩa vụ này cũng được đặt ra cho tất cả các thành
viên của cộng đồng quốc tế.
- Dưới tác động mạnh mẽ của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc,
trong khuôn khổ Liên hợp quốc, Nghị quyết về nguyên tắc “không can thiệp
vào công việc nội bộ” được thông qua năm 1965 với việc “tuyên bố cấm can
thiệp vào công việc nội bộ, bảo vệ độc lập và chủ quyền của các quốc gia”.
Đến nay, nguyên tắc này còn được ghi nhận trong nhiều văn bản pháp lý quốc
tế quan trọng khác như: Tuyên bố của liên hợp quốc về trao trả độc lập cho
các nước và các dân tộc thuộc địa năm 1960, Tuyến bố cuối cùng của hội nghị
các nước Á Phi năm 1955 tại Băng-đung, Định ước Henxinki năm 1975, Hiệp
ước Giơnevơ năm 1954 về Việt Nam, Hiệp định Pari năm 1973 về lập lại hòa
bình tại Việt nam…

 Về khái niệm “công việc nội bộ” của mỗi quốc gia:

Công việc nội bộ của mỗi quốc gia được hiểu là công việc nằm trong thẩm
quyền giải quyết của mỗi quốc gia độc lập xuất phát từ chủ quyền của mình,
đó là quyền tối thượng của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ của mình (như:
quyền tự do lựa chọn, tự do xây dựn và phát triển chế độ chính trị, kinh tế,
văn hóa-xã hội phù hợp với nguyện vọng của nhân dân; quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp…) và quyền độc lập trong quan hệ quốc tế (như: quyền độc
lập thiết lập mối quan hệ với bất kỳ quốc gia nào, quyên tự do tham gia vào
các tổ chức quốc tế khu vực và phổ cập…).

Từ những quy định của các văn kiện pháp lý quốc tế có thể thấy công việc
thuộc thẩm quyền nội bộ của quốc gia là các phương diện hoạt động chủ yếu
của Nhà nước dựa trên cơ sở của chủ quyền quốc gia, bao gồm toàn bộ những
hoạt động mang tính chất đối nội, đối ngoại của quốc gia và được tiến hành
phù hợp với luật quốc gia cũng như luật quốc tế, chẳng hạn các công việc
như:

26
– Việc lựa chọn và tiến hành đường lối chính trị và các chính sách kinh tế-
văn hóa- xã hội để phát triển đất nước

-Việc thực hiện đường lối chính sách đối ngoại của nhà nước  và thiết lập
quan hệ hợp tác với các chủ thể của luật quốc tế

-Việc xây dựng và duy trì hoạt động của bộ máy nhà nước

-Việc quản lý điều hành  hoạt động của xã hội tuân theo quy định của pháp
luật quốc gia.

  Thế nào là can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác?

Việc can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác được thực hiện theo 2
cách là can thiệp trực tiếp và can thiệp gián tiếp.

– Can thiệp trực tiếp là việc một (hoặc một nhóm) quốc gia dùng áp lực quân
sự, chính trị, kinh tế…và các biện pháp khác nhằm khống chế quốc gia khác
trong việc thực hiện các quyền thuộc chủ quyền nhằm ép buộc quốc gia đó
phụ thuộc vào mình.

– Can thiệp gián tiếp là các biện pháp quân sự, kinh tế…do quốc gia tổ chức,
khuyến khích các phần tử phá hoại hoặc khủng bố nhằm vào mục đích lật đổ
chính quyền hợp pháp của quốc gia khác hoặc gây mất ổn định cho tình hình
chính trị, kinh tế, xã hội của nước này.

* Nội dung của nguyên tắc  không can thiệp vào công việc nội bộ của
quốc gia khác:

Nguyên tắc này không cho phép bất kỳ quốc gia nào dù lớn hay nhỏ, dù giàu
hay nghèo, dù văn minh hay lạc hậu được quyền can thiệp vào các lĩnh vực
thuộc thẩm quyền riêng biệt của mỗi quốc gia, xuất phát từ chủ quyền của
mình. Cụ thể:

– Cấm can thiệp vũ trang và các hình thức can thiệp hoặc đe dọa can thiệp
khác nhằm chống lại chủ quyền, nền tảng chính trị, văn hóa-xã hội của quốc
gia;

27
– Cấm dùng các biện pháp kinh tế, chính trị và các biện pháp khác để bắt buộc
quốc gia khác phụ thuộc vào mình;

– Cấm tổ chức, khuyến khích các phần tử phá hoại hoặc khủng bố nhằm lật đổ
chính quyền của quốc gia khác;

– Cấm can thiệp vào cuộc đấu tranh nội bộ của quốc gia khác;

– Tôn trọng quyền của mỗi quốc gia tự do lựa chọn chế độ chính trị, kinh tế,
văn hóa-xã hội không có sự can thiệp từ phía các quốc gia khác.

Về nguyên tắc, luật quốc tế không điều chỉnh các vấn đề thuộc nội bộ quốc
gia. Do đó, bất kỳ biện pháp nào mà  các quốc gia hay tổ chức quốc tế sử
dụng để cản trở chủ thể của  luật quốc tế giải quyết những công việc thuộc
thẩm quyền nội bộ của mình đều bị coi là vi phạm pháp luật quốc tế. Tuy
nhiên,cũng có một ngoại lệ của nguyên tắc này là theo quy định của Hiến
chương, Liên hợp quốc cũng có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế trong
trường hợp có đe dọa hòa bình hoặc hành động xâm lược. Như vậy, nếu Hội
đồng bản an Liên hợp quốc xác định một sự biến nào đó xảy ra trong phạm vi
lãnh thổ một quốc gia mà đe dọa hòa bình, an ninh quốc tế thì sự biến đó
không còn thuần túy là công việc nội bộ của quốc  gia đó nữa và hành động
của Liên hợp quốc trong trường hợp này không được coi là biện pháp can
thiệp vào công việc riêng, công việc nội bộ của quốc gia

- Hiện nay, do quá trình toàn cầu diễn ra ngày càng mạnh mẽ nên ranh giới
giữa công việc nội bộ thuộc thẩm quyền mỗi quốc gia và công việc có sự
tham gia của cộng đồng quốc tế trong nhiều trường hợp không độc lập hoàn
toàn với nhau mà có sự đan xen nhất định (Ví dụ: vấn đề nhân quyền, nhân
đạo, môi trường…). Về nguyên tắc, Luật quốc tế không điều chỉnh những vấn
đề thuộc thẩm quyền nội bộ của mỗi quốc gia. Do đó, mọi biện pháp được sử
dụng nhằm cản trở việc thực hiện công việc nội bộ của quốc gia đều bị coi là
vi phạm Luật quốc tế. Tuy nhiên, trên thực tế, các chủ thể Luật quốc tế lại
thừa nhận việc can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác trong các
trường hợp sau:

Khi có xung đột vũ trang xảy ra trong nội bộ của quốc gia: về nguyên tắc,
vì cộng đồng quốc tế sẽ không có quyền can thiệp. Tuy nhiên, nếu cuộc xung
đột này đạt đến mức độ nghiêm trọng, và có thể gây ra mất ổn định trong khu
28
vực, đe dọa hoà bình và an ninh quốc tế, thì cộng đồng quốc tế – thông qua
Hội đồng bảo an Liên hợp quốc – được quyền can thiệp trực tiếp hoặc gián
tiếp vào cuộc xung đột hành động này không bị coi là vi phạm nội dung của
nguyên tắc “không can này thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác”.

Khi có hành vi vi phạm nghiêm trọng các quyền cơ bản của con người, Trên
đây là toàn bộ nội dung, kiến thức pháp lý liên quan đến nguyên tắc không
can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác mà Luật Dương gia cung
cấp tới cho bạn đọc. Hi vọng bài viết của Luật Dương gia sẽ giúp cho bạn đọc
có thêm những kiến thức pháp lý về luật quốc tế nói chung cũng như
về nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác nói
riêng.

* Ngoại lệ:

Trong luật pháp quốc tế, có hai ngoại lệ đối với nguyên tắc cấm can thiệp
vào công việc nội bộ của quốc gia khác. 
+ Can thiệp theo quy định của các điều ước quốc tế. Ví dụ điển hình nhất là
các biện pháp cưỡng chế của Hội đồng Bảo an theo Chương VI. Điều 2 ghi
nhận nguyên tắc không can thiệp, đồng thời cũng ghi rõ rằng nguyên tắc này
“không ảnh hưởng đến việc áp dụng các biện pháp theo Chương VII.” Khi
phê chuẩn Hiến chương, các quốc gia thành viên đã chấp nhận quyền can
thiệp này và khả năng bị can thiệp bằng một nghị quyết của Hội đồng Bảo an.
Như vậy, với các quốc gia thành viên Liên hợp quốc, Hội đồng Bảo an là cơ
quan có quyền can thiệp vào bất kỳ vấn đề nội bộ nào của bất kỳ quốc gia
thành viên nào nếu xét thấy “có mối đe dọa đến hòa bình, phá hoại hòa bình
và hành vi xâm lược.” Quyền can thiệp của Hội đồng Bảo an rất rộng và gần
như không có giới hạn. Tính chất không có giới hạn này được thể hiện qua hai
mặt. Một, Hiến chương không áp đặt bất kỳ tiêu chí cụ thể nào để xác định
khi nào thực sự có mối đe dọa đến hòa bình, phá hoại hòa bình hay hành vi
29
xâm lược. Hội đồng Bảo an tự mình và tự do quyết định theo ý chí tập thể của
15 quốc gia thành viên. Hai, các biện pháp can thiệp có thể bao gồm biện
pháp vũ lực (Điều 42) hoặc phi-vũ lực (Điều 41, gồm cắt đứt quan hệ kinh tế,
ngoại giao, giao thông, thông tin liên lạc,…).
+ Là can thiệp có sự đồng ý của quốc gia sở tại (consent). Nói cách khác,
can thiệp của một quốc gia vào công việc nội bộ của quốc gia khác theo lời
mời của chính quốc gia khác đó
5. Trình bày nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với các nội
dung: lịch sử hình thành, nội dung nguyên tắc. Chứng minh rằng nguyên
tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác góp phần ổn định quan hệ quốc tế.

* Sự hình thành nguyên tắc

– Xu thế tất yếu của tiến trình phát triển quan hệ quốc tế hiện nay là sự hội
nhập, hợp tác trên cơ sở các bên cùng có lợi. Sự hợp tác giữa các quốc gia
trong tất cả các lĩnh vực không phụ thuộc vào chế độ chính trị, kinh tế, xã hội
và nhằm duy trì hòa bình, an ninh quốc tế đã được pháp luật hóa trong các văn
bản pháp lý quốc tế quan trọng.
– Ý tưởng về sự hợp tác giữa các quốc gia lần đầu tiên được tthể hiện trong
khoản 3 điều 4 Hiến chương Liên hợp quốc, rằng một trong những mục đích
của tổ chức là “thực hiện sự hợp tác quốc tế trong việc giải quyết các vấn để
quốc tế kinh tế, xã hội, văn hóa và nhân đạo, khuyến khích và phát triển dsự
tôn trọng các quyền của con người và tự do cơ bản cho tất cả mọi ngừoi
không phjân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ hoặc tôn giáo”. Mặc dù Hiến
chương Liên hợp quốc không ghi nhận nghĩa vụ các quốc gia phải hợp tác với
nhau như một trong những nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế, nhưng trong
nhiều điều khoản của Hiến chương lại nhắc đến sự hợp tác giữa các quốc gia
như là nguyên tắc tồn tại của cộng đồng quốc tế.
– Tuyên bố năm 1970 của Đại hội đồng Liên hợp quốc về các nguyên tắc của
Luật quốc tế đã mở rộng nội dung pháp lý của nguyên tắc này, theo đó “các
quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với nhau trong các lĩnh vực của quan hệ quốc tế
không phụ thuộc vào hệ thống chính trị, kinh tế và văn hóa, nhằm mục đích
duy trì hoà bình, an ninh quốc tế và góp phần vào việc ổn định kinh tế thế
30
giới, vì sự phồn vinh chung của các dân tộc và hợp tác quốc tế”.
* Nội dung nguyên tắc
* Theo nguyên tắc này, các quốc gia có nghĩa vụ tiến hành hợp tác quốc tế để
giải quyết các vấn đề kinh tế, văn hóa, xã hội và nhân đạo trong phạm vi quốc
tế, đồng thời duy trì hòa bình và an ninh quốc tế bằng cách tiến hành các biện
pháp tập thể có hiệu quả. Điều 55 của Hiến chương quy định, các quốc gia
thành viên có nghĩa vụ hợp tác với nhau, đồng thời có nghĩa vụ hợp tác với
các tổ chức quốc tế nhằm mục đích thực hiện tôn chỉ, mục tiêu của chúng.
Ví dụ: Sau cuộc tấn công thảm khốc ngày 11/9/2001 tại Mỹ, do tính chất nguy
hiểm và mức độ ảnh hưởng của nó đến hòa bình và an ninh quốc tế, ngày
12/9/2001 dưới sự chủ tọa của Pháp, Hội đồng bảo an đã họp và thông qua
Nghị quyết 1368, trong đó Hội đồng bảo an thừa nhận “quyền tự vệ cá nhân
hay tập thể phù hợp với Hiến chương…, cực lực lên án các cuộc tấn công
khủng bố kinh hoàng diễn ra hôm 11 tháng 9 năm 2001…và coi những hành
động này là mối đe dọa đối với hòa bình và an ninh quốc tế”. Hội đồng bảo
an đã đưa ra lời kêu gọi các quốc gia phải hợp tác với nhau để đưa những kẻ
chủ mưu ra xét xử, đồng thời các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác chặt chẽ với
nhau trong việc cảnh báo và loại trừ các hành động khủng bố diễn ra trong
cộng đồng quốc tế.
– Luật quốc tế không quy định các hình thức và mức độ hợp tác cụ thể dành
cho các quốc gia trong quan hệ quốc tế. Hình thức và mức độ hợp tác này
hoàn toàn phụ thuộc vào chính quyết định của các quốc gia xuất phát từ tình
hình thực tế và năng lực của mỗi quốc gia.

* Theo Tuyên bố năm 1970 nội dung của nguyên tắc này bao gồm:
– Quốc gia phải hợp tác với các quốc gia khác trong việc duy trì hòa bình và
an ninh quốc tế;
– Các quốc gia phải hợp tác để khuyến khích sự tôn trọng chung và tuân thủ
quyền con người và các quyền tự do cơ bản khác của cá nhân, thủ tiêu các
hình thức phân biệt tôn giáo, sắc tộc, chủng tộc;
– Các quốc gia phải tiến hành quan hệ quốc tế trong lĩnh vực kinh tế, xã hội,
văn hóa, thương mại và kỹ thuật, công nghệ theo các nguyên tắc bình đẳng về
chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau;
– Các quốc gia thành viên Liên hợp quốc phải thực hiện các hành động chung
hay riêng trong việc hợp tác với Liên hợp quốc theo quy định của Hiến
chương;
– Các quốc gia phải hợp tác trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội và văn hóa,

31
khoa học, công nghệ nhằm khuyến khích sự tiến bộ về văn hóa, giáo dục, phát
triển kinh tế trên toàn thế giới, đặc biệt là các nước đang phát triển.
Như vậy, khi quy định nghĩa vụ hợp tác của các quốc gia trong những vấn đề
chung, Tuyên bố năm 1970 đã đặc biệt nhấn mạnh đến sự hợp tác quốc tế
nhằm thúc đẩy tư tưởng, kinh tế của các nước đang phát triển; đồng thời xác
lập việc hợp tác giữa các quốc gia vừa là quyền nhưng cũng là nghĩa vụ của
họ trong quan hệ quốc tế.

Chứng minh rằng nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác góp phần
ổn định quan hệ quốc tế:

6. Trình bày nguyên tắc dân tộc tự quyết với các nội dung: lịch sử hình
thành, nội dung nguyên tắc. Chứng minh rằng nguyên tắc dân tộc tự
quyết góp phần ổn định quan hệ quốc tế.

* Sự hình thành nguyên tắc


– Tôn trọng quyền của các dân tộc được tự do lựa chọn con đường và hình
thức phát triển là một trọng những cơ sở quan trọng để thiết lập các quan hệ
quốc tế. Quyền này được thể hiện một cách tập trung nhất trong nguyên tắc
dân tộc tự quyết, dựa trên nền tảng chủ quyền dân tộc.
– Ra đời trong giai đoạn khi mà quá trình phi thuộc địa hóa đã đạt tới đỉnh
điểm, nguyên tắc dân tộc tự quyết đã thể hiện vai trò của Liên hợp quốc trong
quá trình đấu tranh cho quyền của các dân tộc. Đồng thời, nguyên tắc này đã
hướng tới việc chống chủ nghĩa thực dân, tập trung chú ý vào việc giải phóng
các dân tộc khỏi ách đô hộ.
– Ngày nay, quyền dân tộc tự quyết được hiện thực hóa trong đời sống quốc tế
thông qua các quyền dân tộc cơ bản, bao gồm: quyền được độc lập của dân
tộc; quyền bình đẳng với các dân tộc khác; quyền được sống trong hòa bình,
an ninh, phát triển bền vững…Tôn trọng quyền dân tộc tự quyết đã trở thành
32
nguyên tắc pháp lý quốc tế, được ghi nhận trong Hiến chương Liên hợp
quốc và trong nhiều văn bản pháp lý quốc tế quan trọng khác như: Tuyên bố
về trao trả độc lập cho các nưpớc và dân tộc thuộc địa năm 1960; hai Công
ước về các quyền dân sự chính trị, quyền kinh tế-xã hội-văn hóa năm 1966;
tuyên bố năm 1970 về các nguyên tắc của Luật quốc tế.

* Nội dung của nguyên tắc


* “Quyền dân tộc tự quyết” được hiểu là việc một dân tộc hoàn toàn tự do
trong việc tiến hành cuộc đấu tranh giành độc lập cũng như lựa chọn thể chế
chính trị, đường lối phát triển đất nước. Khoản 2 điều 1 Hiến chương Liên
hợp quốc ghi nhận “phát triển quán hệ hữu nghị giữa các dân tộc trên cơ sở
tôn trọng các nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền và dân tộc tự quyết”. Như
vậy, khái niệm “dân tộc tự quyết” được nhắc đến trong Hiến chương Liên hợp
quốc không phải là quyền tự quyết của dân tộc theo nghĩa là sự tập hợp của
các sắc tộc hoặc quyền tự quyết của các dân tộc thiểu số trong từng quốc gia.
Quyền dân tộc tự quyết ở đây chỉ thuộc về nhân dân theo nghĩa là tất cả dân
cư thường xuyên sinh sống trên lãnh thổ của một quốc gia nhất định – chủ thể
luật quốc tế.

* Tuyên bố năm 1970 về các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế đã khẳng
định “Việc thiết lập một nhà nước độc lập có chủ quyền hay tự do gia nhập
vào nhà nước độc lập khác hoặc liên kết với quốc gia đó cũng như việc thiết
lập bất cứ chế độ chính trị nào do nhân dân tự do quyết định là các hình thực
thể hiện quyền dân tộc tự quyết”. Như vậy, nguyên tắc dân tộc tự quyết bao
hàm các nội dung sau:
– Được thành lập quốc gia độc lập hay cùng với các dân tộc khác thành lập
quốc gia liên bang (hoặc đơn nhất) trên cơ sở tự nguyện;
– Tự lựa chọn cho mình chế độ chính trị, kinh tế xã hội;
– Tự giải quyết các vấn đề đối nội không có sự can thiệp từ bên ngoài;

– Quyền các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc tiến hành đấu tranh, kể cả đấu
tranh vũ trang để giành độc lập và nhận sự giúp đỡ và ủng hộ từ bên ngoài, kể
cả giúp đỡ về quân sự;
– Tự lựa chọn con đường phát triển phù hợp với truyền thống, lịch sử văn hóa,
tín ngưỡng, điều kiện địa lý.
Tất cả các quyền nêu trên của mỗi dân tộc đều được các dân tộc và các quốc
gia khác tôn trọng.

33
* Ngoại lệ của nguyên tắc
Nguyên tắc này không thừa nhận bất kỳ ngoại lệ nào. 

* Chứng minh rằng nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác góp phần
ổn định quan hệ quốc tế:

7. Trình bày nguyên tắc tận tâm, thiện chí thực hiện các cam kết quốc
tế với các nội dung: lịch sử hình thành, nội dung nguyên tắc, ngoại lệ
nguyên tắc. Chứng minh rằng nguyên tắc tận tâm, thiện chí thực hiện các
cam kết quốc tế góp phần ổn định quan hệ quốc tế

* Sự hình thành nguyên tắc

 Đây là nguyên tắc có lịch sử lâu đời nhất trong số các nguyên tắc cơ bản
của Luật quốc tế. Tiền thân của nó là nguyên tắc Tuân thủ điều ước quốc tế
xuất hiện từ thời La mã cổ đại và tồn tại hàng ngàn năm dưới dạng tập quán
pháp lý quốc tế trước khi được ghi nhận chính thức trong điều ước quốc tế.

Trước khi có Luật quốc tế hiện đại, nguyên tắc này tồn tại chủ yếu để mang
lại lợi ích cho các nước lớn, bởi vì trước đây điều ước quốc tế thường chứa
đựng các quy phạm mang tính bất bình đẳng do các nước lớn áp đặt cho các
nước nhỏ phải ký kết. Do vậy, tuân thủ chặt chẽ điều ước quốc tế chính là một
hình thức hợp pháp nhất để duy trì lợi ích của các nước lớn.

Hiện nay, nguyên tắc này tồn tại trong hầu hết các văn bản pháp lý quan
trọng của luật quốc tế, và được ghi nhận chính thức tại khoản 2 điều 2 của
Hiến chương Liên hợp quốc: “tất cả các thành viên Liên hợp quốc thiện chí
thực hiện các nghĩa vụ do Hiến chương đặt ra”.

Điều 26 của Công ước Viên về Luật điều ước quốc tế năm 1969 ghi nhận
lại nguyên tắc này như sau: “Mỗi điều ước quốc tế đang có hiệu lực đều ràng

34
buộc các bên thành viên của điều ước đó và phải được các bên thực thi một
các thiện chí.”

* Nội dung nguyên tắc

Trong Lời mở đầu của Hiến chương Liên hợp quốc năm 1945 khẳng
định: “Tạo mọi điều kiện cần thiết để đảm bảo công lý và sự tôn trọng các
nghĩa vụ phát sinh từ điều ước quốc tế và các nguồn khác của luật quốc
tế”. Theo đó, Công ước Viên năm 1969 chỉ ra rằng “mỗi điều ước quốc tế
hiện hành đều ràng buộc các bên tham gia và đều được các bên thực hiện một
cách thiện chí”. Ngoài các văn bản trên, nguyên tắc này còn được ghi nhận
một cách chính thức trong Tuyên bố 1970 về các nguyên tắc cơ bản của Luật
quốc tế như sau:

“Nguyên tắc các quốc gia thực hiện vợi sự thiện chí các nghĩa vụ của
mình phù hợp với  Hiến chương Liên hợp quốc

Mọi quốc gia có nghĩa vụ thực hiện với sự thiện chí các nghĩa vụ của mình
phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc

Mỗi quốc gia có nghĩa vụ thực hiện với sự thiện chí những nghĩa vụ của
mình theo những nguyên tắc và quy phạm được luật quốc tế thừa nhận chung

Mỗi quốc gia có nghĩa vụ thực hiện với sự thiện chí những nghĩa vụ của
mình trong những thỏa thuận có hiệu lực theo những nguyên tắc và quy phạm
được luật quốc tế thừa nhận chung.

Khi mà những nghĩa vụ phát sinh từ các điều ước quốc tế mâu thuẫn với
những nghĩa vụ của các Thành viên Liên hợp quốc thoe Hiến chương Liên
hợp quốc thì những nghĩa vụ theo Hiến chương sẽ có ưu thế hơn.”

Theo đó, mỗi quốc gia phải thiện chí thực hiện các nghĩa vụ quốc tế do
Hiến chương đặt ra, các nghĩa vụ quốc tế phát sinh từ các quy phạm và
nguyên tắc được công nhận rộng rãi của Luật quốc tế.

* Theo các văn kiện pháp lý quốc tế nêu trên, nguyên tắc này bao gồm các
nội dung chính sau:

35
– Mọi quốc gia đều có nghĩa vụ thực hiện tự nguyện và có thiện chí, trung
thực và đầy đủ các nghĩa vụ điều ước quốc tế của mình: các nghĩa vụ phát
sinh từ Hiến chương Liên hợp quốc; các nghĩa vụ phát sinh từ các nguyên tắc
và quy phạm được thừa nhận rộng rãi của luật quốc tế; nghĩa vụ theo các đều
ước quốc tế mà quốc gia là thành viên. Nguyên tắc thiện chí là nội hàm không
thể tách rời của nguyên tắc pacta sunt servanda và các bên ký kết có nghĩa vụ
phải thực thi các điều ước đang có hiệu lực một cách thiện chí.

– Mọi quốc gia phải tuyệt đối tuân thủ việc thực hiện nghĩa vụ điều ước
quốc tế, tuân thủ một cách triệt để, không do dự các điều ước quốc tế đang có
hiệu lực đối với các bên ký kết thì đều ràng buộc đối với các bên đó,
từ “pacta” có nghĩa là thỏa thuận, là hợp đồng, là điều ước, và vì nguyên tắc
này ghi nhận chính yếu trong Công ước Viên về Luật điều ước quốc tế năm
1969 vì vậy bất kể chính điều ước quốc tế có ghi nhận trong điều khoản về
nguyên tắc pacta sunt servanda hay không thì các quốc gia phải tuyệt đối tuân
thủ việc thực hiện nghĩa vụ điều ước quốc tế.

Theo Điều 25 của Công ước Viên 1969 (provisional application) thì điều
ước “đang có hiệu lực” cũng bao gồm cả trường hợp áp dụng tạm thời điều
ước và điều ước không “đang có hiệu lực” bao gồm điều ước chưa có hiệu
lực, điều ước bị vô hiệu, và điều ước đã bị đình chỉ thi hành hay hủy bỏ.

– Các quốc gia thành viên điều ước quốc tế không được viện dẫn các quy
định của pháp luật trong nước để coi đó là nguyên nhân và từ chối thực hiện
nghĩa vụ của mình.

– Các quốc gia không có quyền ký kết điều ước quốc tế mâu thuẫn với
nghĩa vụ của mình được quy định trong điều ước quốc tế hiện hành mà quốc
gia ký kết hoặc tham gia ký kết trước đó với các quốc gia khác.

– Không cho phép các quốc gia đơn phương ngừng thực hiện và xem xét lại
điều ước quốc tế. Hành vi này chỉ được thực hiện với phương thức đình chỉ và
xem xét hợp pháp theo sự thỏa thuận của các bên là thành viên điều ước.

– Việc cắt đứt quan hệ ngoại giao hay quan hệ lãnh sự giữa các nước thành
viên của điều ước quốc tế không làm ảnh hưởng đến các quan hệ pháp lý phát
sinh giữa các quốc gia này, trừ trường hợp các quan hệ ngoại giao hoặc lãnh

36
sự này là cần thiết cho việc thực hiện điều ước (Điều 63 Công ước Viên
năm1969).

* Ngoại lệ của nguyên tắc

Luật quốc tế đòi hỏi các quốc gia thực hiện tận tâm, có thiện trí và đầy đủ
các nghĩa vụ của điều ước. Tuy nhiên, nguyên tắc này cũng cho phép các quốc
gia có thể không phải thực hiện điều ước quốc tế mà mình là thành viên trong
các trường hợp sau đây:

 Các quốc gia không phải thực hiện điều ước quốc tế nếu trong quá trình ký
kết các bên có sự vi phạm pháp luật quốc gia về thẩm quyền và thủ tục ký kết.

 Khi điều ước quốc tế có nội dung trái với Hiến chương Liên hợp quốc và
trái với các nguyên tắc và quy phạm được thừa nhận rộng rãi của luật quốc tế.

 Khi có sự vi phạm nghiêm trọng của một bên cam kết thì bên còn lại có
quyền từ chối thực hiện, vì nghĩa vụ theo điều ước quốc tế chỉ có thể được
thực hiện trên cơ sở có đi có lại.

 Khi xuất hiện điều khoản Rebus-sic-stantibus (điều khoản về sự thay đổi cơ


bản của hoàn cảnh) dẫn đến các bên không thể tiếp tục thực hiện được điều
ước quốc tế (Điều 62 Công ước Viên 1969):

“1. Một sự thay đổi cơ bản các hoàn cảnh so với hoàn cảnh đã tồn tại vào
thời điểm ký kết một điều ước và không được các bên dự kiến không thể được
nêu lên làm lý do để chấm dứt hoặc rút khỏi điều ước trừ khi:

a) Sự tồn tại của các hoàn cảnh đó là cơ sở chủ yếu của sự đồng ý của các
bên chịu sự ràng buộc của điều ước; và

b) Sự thay đổi đó làm biến đổi một cách cơ bản phạm vi của những nghĩa
vụ mà các bên vẫn còn phải thi hành theo điều ước.

2. Một sự thay đổi cơ bản các hoàn cảnh sẽ không thể được nêu lên làm lý
do để chấm dứt hoặc rút khỏi một điều ước:

a) Nếu đó là một điều ước quy định về đường biên giới; hoặc
37
b) Nếu sự thay đổi cơ bản là kết quả của một sự vi phạm của chính bên nêu
lên nó, đối với một nghĩa vụ phát sinh từ điều ước hoặc tất cả những nghĩa vụ
quốc tế khác đối với bất kỳ bên tham gia điều ước.

3. Theo quy định của những khoản trên đây, khi một trong các bên có thể
nêu lên một sự thay đổi cơ bản các hoàn cảnh như là lý do để chấm dứt hoặc
rút khỏi điều ước, sẽ cũng có thể nêu lên sự thay đổi đó như là lý do để tạm
đình chỉ việc thi hành điều ước.”

Khi xuất hiện điều khoản này, các quốc gia có thể viện dẫn để thực hiện 1
trong 3 hành vi sau:

– Chấm dứt hiệu lực hành vi này làm mất hoàn toàn hiệu lực của điều ước
quốc tế, 

– Tạm đình chỉ hiệu lực của điều ước quốc tế  làm mất hiệu lực của điều
ước quốc tế.

– Rút khỏi quan hệ điều ước quốc tế hành vi này không làm chấm dứt hiệu
lực hoàn toàn của điều ước quốc tế. Điều” ước quốc tế chỉ mất hiệu lực với
quốc gia viện dẫn điều khoản Rebus-sic-stantibus, nó vẫn có hiệu lực đối với
các quốc gia thành viên khác của điều ước.

+ Hoàn cảnh bị thay đổi được ghi nhận trong điều 62 Công ước Viên 1969
phải là cơ sở chủ yếu tạo nên sự thỏa thuận của các bên; hoàn cảnh này các
bên không thể thấy trước (dự liệu trước) vào thời điểm ký kết điều ước quốc
tế.

+ Sự thay đổi cơ bản của hoàn cảnh được hiểu là: hoàn cảnh đó bị xáo trộn
lớn đến mức làm biến đổi một cách cơ bản phạm vi của những nghĩa vụ mà
các bên  sự thay đổi này vượt ra khỏi tầm kiểm soát”vẫn còn phải thi hành
theo điều ước các bên không thể tiếp tục thực hiện nghĩa vụ của mình trong
quan”của các bên  hệ điều ước.

Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhất định, sự thay đổi cơ bản của hoàn
cảnh sẽ không thể được nêu lên làm lý do để chấm dứt hoặc rút khỏi quan hệ
điều ước nếu đó là điều ước liên quan đến việc thiết lập biên giới quốc gia;
hoặc sự thay đổi đó là kết quả của một sự vi phạm nghiêm trọng của chính
38
bên nêu lên nó. Trong trường hợp này, bên còn lại có thể viện dẫn chính điều
khoản Rebus-sic-stantibus để giải thoát mình khỏi các nghĩa vụ trong cam kết
mà không bị coi là vi phạm nguyên tắc Pacta sunt servanda. Tuy nhiên, việc
áp dụng điều khoản Rebus-sic-stantibus phải được thông báo cho bên kia biết.

* Chứng minh rằng nguyên tắc tận tâm, thiện chí thực hiện các cam kết
quốc tế góp phần ổn định quan hệ quốc tế:
Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị quan trọng về đại
đoàn kết dân tộc, về công tác dân tộc, về tôn giáo, về người Việt Nam ở
nước ngoài, từng bước được thể chế hóa thành luật, pháp lệnh, chính sách và
ngày càng thể hiện rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc. Nhiều
cấp ủy đảng đã quan tâm hơn đến sự nghiệp đại đoàn kết, đến công tác dân
vận và công tác mặt trận, củng cố tổ chức và tăng cường cán bộ, phương
tiện và điều kiện cho công tác mặt trận. Chính quyền ở nhiều cấp, nhiều địa
phương đã thật sự có chuyển biến trong nhận thức và hành động về quan hệ
với nhân dân. Nhiều dự án về phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội của Nhà
nước được ban hành nhằm chăm lo đời sống cho nhân dân đã thực hiện có
kết quả. Quyền làm chủ của nhân dân trong tham gia quản lý nhà nước, quản
lý kinh tế, xã hội được thể chế hóa, đã từng bước được phát huy. Sự đổi mới
hệ thống chính trị, việc tăng cường dân chủ hóa đời sống xã hội, nhất là việc
xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở đã góp phần quan trọng vào
việc động viên nhân dân và cán bộ hăng hái tham gia các sinh hoạt chính trị
của đất nước, đẩy mạnh sản xuất, thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế,
văn hóa, xã hội, củng cố an ninh, quốc phòng. Đó là những nhân tố rất quan
trọng, là động lực chủ yếu bảo đảm sự ổn định chính trị - xã hội và thúc đẩy
sự phát triển của đất nước.
Cùng với những tiến bộ và chuyển biến nêu trên, nhiều vấn đề mới đã và
đang nảy sinh trong quá trình đổi mới, đó là xã hội, giai cấp, tầng lớp, nhóm
dân cư đang trong quá trình phân hóa. Xuất hiện sự chênh lệch ngày càng
lớn về mức thu nhập và hưởng thụ giữa các vùng, miền, giữa thành thị và
nông thôn, giữa công nhân lao động ở các khu công nghiệp với những người
lao động có chuyên môn, tay nghề trong các lĩnh vực ứng dụng công nghệ
cao, giữa người đương chức và người về hưu… Sự phân hóa giàu nghèo có
chiều hướng gia tăng đã và đang ảnh hưởng lớn đến đại đoàn kết dân tộc.
Những đặc điểm nêu trên đã tác động mạnh mẽ đến khối đại đoàn kết. Vì
vậy, tuy đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục được mở rộng, củng cố và tăng

39
cường, song chưa thật vững chắc và đang đứng trước những thách thức
không thể xem thường. Các thế lực thù địch trong và ngoài nước đã và đang
khai thác những thiếu sót, yếu kém của ta hòng phá hoại khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, gây mất ổn định chính trị - xã hội.
Để đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng thật sự là
nguồn sức mạnh, là động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định, bảo
đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cần làm
cho cả hệ thống chính trị, từng cán bộ, đảng viên, trước hết là các cấp ủy đảng
và người đứng đầu cấp ủy quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về đại
đoàn kết dân tộc và mặt trận dân tộc đề xướng. Phải nắm vững những quan
điểm cơ bản và cũng là những định hướng về phát huy sức mạnh đại đoàn kết
dân tộc trong giai đoạn hiện nay. Đó là lợi ích cơ bản của nhân dân, của dân
tộc ta ngày nay là độc lập, tự do và cuộc sống ấm no, hạnh phúc trong chủ
nghĩa xã hội. Lợi ích đó thể hiện cụ thể hằng ngày trong mọi lĩnh vực chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng. Củng cố tăng cường đoàn
kết hiện nay không thể chung chung mà phải gắn chặt với việc bảo đảm các
lợi ích đó. Một trong những động lực thúc đẩy nhân dân tăng cường đoàn kết
trong tình hình hiện nay là quyền làm chủ đất nước của nhân dân cần được tôn
trọng. Pháp luật phải bảo đảm để nhân dân thật sự là người chủ, thật sự làm
chủ như Hiến pháp đã quy định.
Thắt chặt mối liên hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân không chỉ là trách
nhiệm của Đảng và Nhà nước mà còn là trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc,
các tổ chức chính trị xã hội và của toàn dân. Do đó, qua hoạt động của mình,
Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội cần không ngừng đổi mới nội
dung, phương thức hoạt động để góp phần làm cho mối liên hệ giữa Đảng,
Nhà nước và nhân dân luôn luôn bền chặt, ý Đảng và lòng dân là một. Trong
giai đoạn hiện nay, các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước có tác dụng trực tiếp và quyết định đến kết quả xây dựng khối đại đoàn
kết toàn dân tộc, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội phải thực
hiện tốt nhiệm vụ giám sát và phản biện xã hội, để các chủ trương, chính sách
sát cuộc sống, đáp ứng lợi ích của nhân dân.
Kiên trì thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta cần tiếp tục phát huy truyền thống
đoàn kết, nhân nghĩa, khoan dung, cùng nhau hợp sức xây dựng cho được một
xã hội đồng thuận cao trên tinh thần cởi mở, độ lượng, tin cậy lẫn nhau vì sự
ổn định, phát triển toàn diện và bền vững của đất nước.

40
Có thể khẳng định, bài học đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng trở nên
sống động và mang tính thời sự, ý nghĩa hết sức quan trọng trong bối cảnh đất
nước đang chuyển mình mạnh mẽ để đón nhận những cơ hội cùng thách thức
lớn của quá trình hội nhập ngày một sâu, rộng. Để tăng cường củng cố, phát
triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc hiện nay, cần thực hiện một số nhiệm vụ,
giải pháp cụ thể như sau:
Thứ nhất, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy đảng, người
đứng đầu và cả hệ thống chính trị trong lãnh đạo, củng cố, phát triển khối đại
đoàn kết toàn dân tộc hiện nay.
Các cấp ủy đảng và người đứng đầu thường xuyên tiếp xúc, đối thoại trực
tiếp với nhân dân, lắng nghe ý kiến đóng góp của nhân dân. Cần thực hiện
triệt để Quy định số 101-QĐ/TW của Ban Bí thư khóa XI về “Trách nhiệm
nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp”;
Quy định số 08-QĐi/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII
về “Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ
Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban chấp hành Trung ương”. Cán bộ,
đảng viên phải xung phong, gương mẫu học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh, nhất là về đoàn kết và xây dựng Đảng, hệ thống
chính trị trong sạch, vững mạnh để nhân dân học và làm theo.
Thứ hai, nâng cao chất lượng các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu
nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội; chăm lo và bảo vệ lợi ích hợp
pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên và các giai tầng, các giới trong toàn
dân tộc.
Thứ ba, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội đa
dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân và tập trung hướng mạnh các hoạt
động về cơ sở.
Thứ tư, tăng cường công tác dân vận của chính quyền các cấp. Tích cực
phối hợp giữa chính quyền các cấp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ
chức chính trị - xã hội làm công tác dân vận. 
Thứ năm, kiên quyết đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch, phá
hoại, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Thực hiện tốt các giải pháp trên sẽ góp phần tăng cường sức mạnh khối
đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch,
vững mạnh, đảm bảo thế và lực cho đất nước trong công cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới
Chương 4:

41
Câu 1: Trình bày khái niệm dân cư và vấn đề xác định địa vị pháp lý
của dân cư trong LQT.
* Khái niệm: Dân cư là một trong những bộ phận quan trọng cấu thành
quốc gia. Theo cách hiểu thông thường dân cư dc hiểu là những cá nhân mang
quốc tịch của một hay nhiều quốc gia. Về phương diện pháp lí quốc tế dân cư
là tổng hợp những ngừoi sinh sốnh cư trú trên lãnh thổ củ một quốc gia nhất
định và chịu sự điều chỉnh của pháp luật quốc gia đó. Địa vị pháp lý của dân
cư nói chung do luật quốc gia các nước hữu quan và luật quốc tế xác định
Dân cư được chia làm hai bộ phận cơ bản sau: Công dân của quốc gia sở tại
và người nước ngoài. Công dân của quốc gia sở tại là những ng mang quốc
tịch của quốc gia đó. Người nước ngoài được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa
hẹp
Theo nghĩa rộng: người nước ngoài gồm có người có quốc tịch của quốc gia
khác và ngừoi không có quốc tịch
Theo nghĩa hẹp: người nước ngoài gồm người có quốc tịch của quốc gia
khác
- Địa vị pháp lí của dân cư:
+ Địa vị pháp lý của các bộ phận dân cư là không giống nhau. Sự khác biệt
này được lý giải bởi mối quan hệ quốc tịch giữa cá nhân với quốc gia sở tại.
Nói cách khác, các cá nhân có quốc tịch khác nhau thì sẽ có địa vị pháp lý
khác nhau
- Tuy nhiên trong thực tiễn quan hệ quốc tế, có nhiều vấn đề pháp lý liên
quan đến dân cư chỉ có thể giải quyết hiệu quả dựa trên các điều ước quốc tế
ký kết giữa các quốc gia hữu quan như địa vị pháp lí của những ng hưởnh quy
chế ngoại giao, lãnh sự, ngừoi hai quốc tịch. Chính vì thế, khi thực hiện chủ
quyền quốc gia của mình đối với dân cư, mỗi quốc gia cần tôn trọng các
nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế, các cam kết quốc tế cụg như các tập quán
quốc tế dc thừa nhận rộng rãi
- Mặt khác các quốc gia đều bình đẳng về chủ quyền nên không được dùng
quốc tịch của mình để phủ nhận quốc tịch của nước khác. Vì vậy các quy định
của pháp luật quốc gia điều chỉnh các vấn đề về dân cư phải đảm bảo không
có sự phân biệt đối xử giữa công dân và ngừoi nc ngoài hay giữa người nc
ngoài với nhau. Nói cách khác, nguyên tắc bình đẳng về chủ quyềb là cơ sở để
42
hình thàhh nên nguyên tắc không phân biệt đối xử. Nội dung của nguyên tắc
này được thể hiện rõ thông qua chế độ pháp luật của quốc gia dành cho người
nước ngoài.
Câu 2: Trình bày khái niệm quốc tịch cá nhân. Phân tích các dặc điểm
quốc tịch cá nhân.
* Khái niệm: Quốc tịch là mqh pháp lý hai chiều, thể hiện sự gắn bó cá
nhân với một quốc gia xác định, làm phát sinh quyên và nghĩa vụ của cá nhân
đối với quốc gia mà họ mang quốc tịch và quyền, trách nhiệm của quốc gia
đối với cá nhân đó.
* Các đặc điểm quốc tịch của cá nhân:
Mối quan hệ pháp luật về quốc tịch xác lập giữa cá nhân và quốc gia có
những đặc điểm sau:
- Đây là mối quan hệ hai chiều giữa cá nhân và nhà nước, có nội dung là
tổng thể các quyền và nghĩa vụ của người đó và quốc gia mà họ là công dân
- Mối quan hệ quốc tịch tồn tại một cách ổn đinh và bền vững về không
gian cũng như thời gian. Về thời gian, mối liên hệ quốc tịch thường gắn bó
với một con ngừoi trong suốt cuộc đời họ, trừ một số trường hợp như xin thôi
quốc tịch hoặc bị tước quốc tịch. Về không gian,dù công dân cư trú trên lãnh
thổ quốc gia mà họ mang quốc tiicu hoặc cư trú trên lãnh thổ nước ngoài thì
họ vẫn mamg quốc tịch của nước họ là công dân, được hưởng đầy đủ các
quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy định cho họ
- Trong trường hợp công dân cư trú ở nước ngoài, họ dc quốc gia mà họ
mang quốc tịch bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp thông qua các cơ quan đại
diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự đặt trụ sở trên lãnh thổ quốc gia sở tại hoặc
thông qua các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
- Đối với mỗi cá nhân, quốc tịch chỉ có ý nghĩa ràng buộc cá nhân đó đối
với quốc gia mà họ là công dân. Sự thay đổi quốc tịch của cá nhân không ảnh
hưởng đến quốc tiichh của ng thân trọg gia đình
- Bên cạnh đó, mỗi cá nhân tồn tại với tư cách là công dân của mỗi quốc gia
nhưnh đồng thời là chủ thể của quyền con người, bởi vậy quốc tịch còn thể
hiện tính quốc tế. Mặt khác , quốc tịch còn là cơ sở pháp lí để quốc gia bảo hộ
cho công dân của mình cũng như từ chối dẫn độ công dân của quốc gia theo
yêu cầu của quốc gia khác
- Quan hệ quốc tịch là căn cứ để giải quyết các vấn đề pháp lí liên quan đến
nhân thân của một cá nhân. Với tính chất là mqh pháp lí có tính hai chiều giữa
43
nhà nước và công dân, là cơ sở để xác định quyền và nghĩa vụ cơ bàn của
công dân về nhân thân, về tài sản, quốc tịch là căn cứ quan trọng để giải quyết
các vấn đề thuộc về nhân thân của một cá nhân
Câu 3: Phân tích các chế độ pháp lý dành cho người nước ngoài. Phân
biệt chế độ đãi ngộ quốc gia và chế độ đãi ngộ tối huệ quốc.
* Các chế độ pháp lý dành cho người nước ngoài:
Đây là chế độ được quy định phổ biến trong pháp luật của nhiều quốc gia
trên thế giới.
- Nội dung cơ bản của chế độ này được thể hiện như sau:
+ Chế độ cho phép người nước ngoài được hưởng các quyền cũng như được
thực hiện các nghĩa vụ ngang hoặc tương đương với những quyền mà nghĩa
vụ của công dân nước sở tại đang được hưởng và sẽ được hưởng trong tương
lai (trừ những ngoại lệ theo pháp luật quy định trong các trường hợp cụ thể).
Có thể nói chế độ đãi ngộ như công dân đã thể hiện được mối quan hệ giữa
người nước ngoài với công dân nước sở tại.
+ Thể hiện mối quan hệ bình đẳng những quyền và nghĩa vụ giữa người
nước ngoài và công dân nước sở tại. Và hơn thế nữa chế độ đãi ngộ như công
dân cũng thể hiện việc tôn trọng nhân quyền của pháp luật nước sở tại dành
cho những người không phải công dân của mình. Thông thường người nước
ngoài được hưởng các quyền dân sự, thương mại, lao động và văn hóa như
công dân nước sở tại.
+ Tuy nhiên trong một số quan hệ xã hội người nước ngoài bị hạn chế một
số quyền thậm chí không được hưởng một số quyền như công dân nước sở tại,
ví dụ như quyền bầu cử, ứng cử và các quyền theo học các trường an ninh,
quân sự … những quy định này rất dễ có trong quy định của các nước nhằm
bảo vệ lợi ích và an ninh quốc gia.
+ Bởi khi người nước ngoài được hưởng đãi ngộ như công dân thì vấn đề
xác định chế độ đãi ngộ của người nước ngoài dựa trên chế độ đãi ngộ như
đối với công dân nước sở tại, tuy nhiên nhìn từ góc độ pháp lý quốc tế những
hạn chế đấy chỉ được chấp nhận khi không làm phương hại đến chuẩn mực
quốc tế về nhân quyền ( ví dụ như những hạn chế đó không được dựa trên cơ
sở phân biệt chủng tộc, giới tính, tôn giáo…)
Như vậy chế độ đãi ngộ quốc gia là cơ sở để xác định năng lực pháp luật
của người nước ngoài tại nước sở tại bao gồm 3 vấn đề cơ bản sau:
+ Là chế độ cho phép người nước ngoài có quyền và nghĩa vụ tương ứng
như công dân nước sở tại trong các quan hệ xã hội nhất định.

44
+ Người nước ngoài được hưởng các quyền dân sự và lao động, cũng như
thực hiện các quyền và nghĩa vụ khác tương đương hoặc bằng với những
quyền và nghĩa vụ mà công dân nước sở tại đang được hưởng và sẽ được
hưởng trong tương lai. Ví dụ: trong giao kết hợp đồng.
+ Người nước ngoài được hưởng quyền và nghĩa vụ như công dân nước sở
tại không phải ở tất cả mọi mặt, người nước ngoài bị hạn chế ở một số quyền
nhất đinh. Ví dụ: quyền bầu cử, quyền ứng cử, đề cử, quyền cư trú, quyền
hành nghề, học tập trong lĩnh vực an ninh quốc phòng..
+ Chế độ tối huệ quốc
- Chế độ tối huệ quốc là người nước ngoài và pháp nhân nước ngoài được
hưởng một chế độ mà nước sở tại dành cho người nước ngoài và pháp nhân
nước ngoài của bất kỳ nước thứ ba nào đang được hưởng và sẽ được hưởng
trong tương lai.
- Chế độ tối huệ quốc thì người nước ngoài cũng như pháp nhân nước ngoài
được hưởng đầy đủ và hoàn toàn các quyền hợp pháp mà một quốc gia đã
dành và sẽ dành cho bất kỳ một nhóm người nước ngoài cũng như pháp nhân
nước ngoài đang sinh sống hay hoạt động tại lãnh thổ của quốc gia đó.
- Phạm vi áp dụng chủ yếu của chế độ này nằm trong thương mại và hàng
hải được ghi nhận trong các điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia nhằm đưa
lại những điều kiện và cơ hội như nhau cho công dân pháp nhân các nước khi
tiến hành các hoạt động kinh doanh, thương mại trên lãnh thổ nước sở tại.
+ Chế độ đãi ngộ đặc biệt
- Chế độ này là người nước ngoài được hưởng những quyền ưu tiên, ưu đãi
đặc biệt hoặc quyền đặc hưởng mà nước sở tại dành cho họ thậm chí chính
công dân nước sở tại cũng không được hưởng.
- Các ưu tiên, ưu đãi hoặc các đặc quyền này thường được quy định trong
luật pháp của các quốc gia cũng như trong các điều ước quốc tế.
- Áp dụng đối với nhân viên ngoại giao, lãnh sự và nhân viên của các tổ
chức quốc tế
Theo điều 29 Công ước viên năm 1961 về quan hệ ngoại giao thì nhân viên
ngoại giao của nước ngoài ở nước sở tại được hưởng các chế độ đãi ngộ đặc
biệt: “ thân thể của viên chức ngoại giao là bất khả xâm phạm. Họ không thể
bị bắt hoặc bị giam giữ dưới bất kì hình thức nào. Nước tiếp nhận cần có sự
đối xử trọng thị xứng đáng với họ và áp dụng mọi biện pháp thích đáng để
ngăn chặn mọi hành vi xúc phạm đến thân thể, tự do hay phẩm cách của họ”
+ Chế độ có đi có lại

45
- Chế độ có đi có lại thể hiện ở việc một quốc gia dành một chế độ pháp lý
nhất định cho cá nhân và pháp nhân nước ngoài tương ứng như trước đó đã
dành và sẽ dành cho công dân và pháp nhân của mình ở đó trên cơ sở có đi có
lại.
- Do các quốc gia có chế độ chính trị, nền kinh tế cũng như lịch sử khác
nhau, cho nên trong thực tiễn chế độ có đi có lại được thể hiện dưới hai cách:
có đi có lại thực chất và có đi có lại hình thức.
- Có đi có lại thực chất: là một nước dành cho cá nhân hoặc pháp nhân nước
ngoài một số quyền và nghĩa vụ hoặc những ưu đãi nhất định đúng bằng
những quyền và nghĩa vụ cũng như những ưu đãi thực tế mà các cá nhân và
pháp nhân của nước đó đã được hưởng ở nước ngoài kia. Có đi có lại thực
chất được áp dụng ở những nước có cùng chế độ kinh tế, chính trị - xã hội.
+ Chế độ có đi có lại hình thức: Một nước dành cho cá nhân và pháp nhân
nước ngoài một chế độ pháp lý nhất định như chế độ đãi ngộ như công dân
hoặc chế độ đãi ngộ tội huệ quốc mà ở nước kia cũng đã dành cho công dân
và pháp nhân nước mình một chế độ tương ứng như thế. Được áp dụng rất
hữu hiệu trong quan hệ giữa các quốc gia có chế độ chính trị - xã hội khác
nhau.
- Phân biệt chế độ đãi ngộ quốc gia và chế độ đãi ngộ tối huệ quốc:
Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc được hiểu là: dựa trên cam kết mà một nước
dành cho nước đối tác những ưu đãi có lợi nhất mà nước đó đang và sẽ dành
cho các quốc gia khác.
Nguyên tắc đối xử quốc gia được hiểu là: dựa trên cam kết mà một nước sẽ
dành cho các sản phẩm, dịch vụ, nhà cung cấp trong nước những ưu đãi không
kém hơn so với những sản phẩm, dịch vụ, nhà cung cấp của quốc gia khác.
* Về bản chất:
Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc vừa là quyền đặc biệt vừa là nghĩa vụ mà
các quốc gia phải tuân theo. Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc thể hiện sự công
bằng, bình đẳng, không phân biệt đối xử giữa các sản phẩm cùng loại đến từ
các quốc gia khác nhau. Nước nhập khẩu có thể áp dụng Nguyên tắc đối xử
tối huệ quốc ối với các quốc gia với điều kiện hoặc vô điều kiện tùy thuộc vào
chính sách của từng nước cũng như thỏa thuận của các bên.
NT đối xử quốc gia là nguyên tắc thể hiện sự công bằng, bình đẳng, không
phân biệt đối xử đối với sản phẩm cùng loại đến từ nước xuất khẩu với sản
phẩm trong nước.
* Về phạm vi áp dụng:
- Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc áp dụng thông qua:

46
+ Biện pháp cửa khẩu: thông qua thuế quan và phi thuế quan
+ Biện pháp nội địa: thông qua thuế và phí nội địa, quy chế mua bán
- Nguyên tắc đối xử quốc gia áp dụng thông qua
+ Thuế và phí trong nước: các quốc gia không được áp dụng các mức thuế
và lệ phí đối với sản phẩm nhập khẩu cao hơn so với sản phẩm cùng loại trong
nước hay áp dụng các biện pháp khác sử dụng thuế và lệ phí để bảo hộ sản
xuất trong nước.
+ Quy chế về số lượng: Các quốc gia không được quy định về số lượng, tỉ
lệ pha trộn, chế biến của sản phẩm sao cho số lượng, tỉ lệ đó trong các sản
phẩm phải đến từ nội địa.
+ Quy chế mua bán: Quy định, yêu cầu về bày bán, sử dụng, vận tải,... đối
với các sản phẩm trong nước không được phân biệt đối xử đối với các sản
phẩm cùng loại đến từ nước nhập khẩu. Các yếu tố cạnh tranh cũng cần phải
được đảm bảo công bằng.
Câu 4: Trình bày khái niệm về lãnh thổ. Phân tích các loại lãnh thổ
trong LQT với các nội dung: khái niệm, chế độ pháp lí, các bộ phận cấu
thành.
* Khái niệm: Lãnh thổ là thuật ngữ có nguồn gốc từ tiếng La tinh “ Terra”
có nghĩa là đất đai , trái đất. Bên cạnh yếu tố dân cư < lãnh thổ cũng là 1 trong
những yếu tố cơ ban cấu thành quốc gia vì đó là môi trường tự nhiên , là cơ sở
vật chất cho sự tồn tại của từng quốc gia trong cộng đồng quốc tế. Quốc gia sẽ
không tồn tại nếu thiếu lãnh thổ - đây là nguyên tắc đã được thiết lập chắc
chắn, bền vững bởi các tập quán quốc tế
* Về mặt địa lí và pháp lí lãnh thổ quốc gia gồm có bốn bộ phận cấu
thành: vùng đất; vùng nước; vùng trời và lòng đất
1) Vùng đất là bộ phận cấu thành lãnh thổ của một quốc gia, gồm có đất
liền và các đảo thuộc chủ quyền quốc gia. Quốc gia có chủ quyền hoàn toàn
và tuyệt đối ở vùng đất;
2) Vùng nước là toàn bộ các, vùng nước nằm trong đường biên giới quốc
gia gồm: vùng nước nội địa (ao, hồ, sông... nằm trong đất liền) và biển nội
địa. Vùng nước nội địa thuộc chủ quyền hoàn toàn và tuyệt đối của quốc gia;
vùng nước biên giới, nước sông, hồ, biển nội địa nằm ở khu vực biên giới,
vùng nước nội thuỷ, vùng nước biển nằm phía trong đường cơ sở và giáp với
bờ biển quốc gia. Vùng nội thuỷ thuộc chủ quyền hoàn toàn và tuyệt đối của
quốc gia hữu quan; vùng nước lãnh hải, vùng nằm phía trong đường biên giới
47
biển của quốc gia, giáp với đường cơ sở. Trong vùng nước lãnh hải, quốc gia
có chủ quyền hoàn toàn và đầy đủ;
3) Vùng trời là khoảng không gian bao trùm trên vùng đất, vùng nước của
quốc gia;
4) Lòng đất là phần đất nằm dưới vùng đất, vùng nước của quốc gia.
Lãnh thổ quốc gia được coi là không gian chứa đựng hay nằm dưới chủ
quyền của một quốc gia. Không gian đó có thể hình dung như một hình chóp
nón mà đỉnh là tâm trái đất, còn đáy là nơi tiếp giáp giữa bầu khí quyển và
khoảng không vũ trụ. Như vậy, có thể xác định độ cao của vùng trời trên lãnh
thổ quốc gia là trùng với độ cao của tầng khí quyển, còn độ sâu của nó là tâm
trái đất. Tuy nhiên, hiện nay luật quốc tế cũng như luật quốc gia chưa quy
định giới hạn chiều cao biên giới vùng trời và chiều sâu biên giới vùng lòng
đất của quốc gia.
* Phân loại lãnh thổ
Về phương diện tự nhiên, lãnh thổ khỗngcó ranh giới phân chia các vùng
miền khác nhau,chủ yếu bao gồm : vùng đất, vùng trời, vùng nước và vùng
lòng đất. Về phương diện pháp lí, lãnh thổ được chí các nhóm có quy chế
pháp lí khác nhau
- Lãnh thổ quốc gia: là các bộ phận lãnh thổ thuộc chủ quyền hoàn toàn
tuyệt đối hay riêng biệt của mỗi quốc gia. tại đó, quốc gia duy trì giới hạn
quyền lực nhà nước đối với cồn đồng dân cư nhất định. Lãnh thổ quốc gia là
toàn vẹn và bất khả xâm phạm dựa trên quy chế pháp lí về lãnh thổ do quốc
gia tự xác định và phù hợp với pháp luật quốc tế
- Lãnh thổ có quy chế hỗn hợp: là loại lãnh thổ mà tại đó các quốc gia k
có chủ quyền lãnh thổ rieng biệt nhưng có các quyền chủ quyền và quyền tài
phán. Về bản chất, lãnh thổ có quy chế hỗn hợp k phải là lãnnh thổ quốc gia,
cũng không là lãnh thổ quốc tế , tuy nhiên do sự tiếp liền về lãnh thổ nên LQT
cho phép quốc gia ven biển có các quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với
các vùng lãnh thổ này, bên cạnh đó,LQT đồng thời duy trì quyền của các chủ
thể khác. Do đó, những vùng lãnh thổ này dc gọi là vùng lãnh thổ có quy chế
hỗn hợp.
- Lãnh thổ quốc tế: là các bộ phận lãnh thổ k thuộc chủ quyền của bất kì
của bất kì của quốc gia nào, mà thuộc sở hữu chung của cả cộng đồng quốc tế
48
như: biển quốc tế, vùng trời trên vùng đặc quyền kinh tế..Đối với lãnh thỏi
quốc tế , tấc cả các quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế đều có quyền
bình đẳng sử dụng vào mục đích hoà bình và phát triển
- Lãnh thổ đặc thù: là những bộ phận lãnh thổ có sự đan xen nhiều loại
quy chế pháp lí khác nhau, bao gồm vùng nc quần đảo và eo biển quốc
tế.Trong đó eo biển quốc tế là đường nối các vùng biển rộng lớn với nhau và
có tịn chất tự nhiên, k do con ng tạo ra và có đặc điểm chung là tương đối
hẹp.Tại eo biển quốc tế áp dụng quyền quá cảnh, theo đó tàu thuyền và
phương tiện bay của các quốc gia khác đc hưởng quyền tự di hàng hải và tự
do hàng không với điều kiện đi qua liên tục nhanh chóng.
Câu 5: Phân tích định nghĩa và các cấu thành của lãnh thổ quốc gia.
* Định nghĩa: Lãnh thổ quốc gia là một phần của trái đất bao gồm vùng
đất, vùng nước, vùng trời trên vùng đất và vùng nước cũng như lòng đất dưới
chúng thuộc chủ quyền hoàn toàn và riêng biệt của mỗi quốc gia nhất định.
* Cấu thành:
 Vùng đất: Vùng đất lãnh thổ gồm toàn bộ phần đất lục địa và các đảo,
quần đảo thuộc chủ quyền quốc gia (Kể cả các đảo ven bờ và các đảo xa bờ).
 Vùng nước: Là toàn bộ các phần nước nằm trong đường biên giới quốc
gia.

Dựa vào vị trí, tính chất riêng của từng vùng người ta thường chia các vùng
nước thành các thành phần.
            + Vùng nước nội địa
            + Vùng nước biên giới
            + Vùng nội thủy
            + Vùng nước lãnh hải
 Vùng lòng đất: Là toàn bộ phần nằm dưới vùng đất và vùng nước thuộc
chủ quyền quốc gia.
 Vùng trời: Là khoảng không gian bao trùm trên vùng đất và vúng nước
của quóc gia
 Vùng lãnh thổ đặc biệt: Ngoài các vùng lãnh thổ nói trên, các tàu
thuyền, các phương tiện bay màng cờ hoặc màng dấu hiệu riêng biệt và hợp
pháp của quốc gia, các công trình nhân tạo, các thiết bị, hệ thống cáp ngầm,
49
ống dẫn ngầm,…hoạt động nằm ngoài phạm vi lãnh thổ của các quốc gia như
vùng biển quốc tế, vùng nam cực, khoảng không vũ trụ,….cũng được thừa
nhận như một phần lãnh thổ quốc gia.

Câu 6: Phân tích định nghĩa và các cấu thành của biên giới QG?Vấn đề
xác định biên giới QG.

* Khái niệm: - Nội hàm của đường biên giới ngày nay đã được xác định rất
rõ, nó là hàng rào pháp lý xác định giới hạn vùng đất, vùng nước, vùng biển,
vùng trời và lòng đất thuộc chủ quyền quốc gia; là nới phân chia chủ quyền
lãnh thổ của một quốc gia này với một quốc gia khác và hoặc với các vùng
biển thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia đó. Nói một cách
khác, đường biên giới quốc gia chính là giới hạn ngăn cách lãnh thổ quốc gia
này với quốc gia khác, ngăn cách lãnh hải với vùng đặc quyền kinh tế và thềm
lục địa của một quốc gia.
            - Điều 1, Luật Biên giới quốc gia năm 2003 của ta nêu rõ “Biên giới
quốc gia của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là đường và mặt
thẳng đứng theo đường đó để xác định giới hạn lãnh thổ đất liền, các đảo, các
quần đảo trong đó có quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, vùng biển, lòng đất,
vùng trời của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
* Cấu thành: Biên giới quốc gia bao gồm: biên giới trên đất liền, biên giới
trên biển, biên giới trong lòng đất và biên giới trên không.
 Biên giới trên đất liền.

             - Đường biên giới trên đất liền là đường phân chia lãnh thổ giữa các
quốc gia có chung đường biên giới, chạy trên phần đất liền, đảo, trên sông, hồ,
kênh đào biên giới và biển nội địa.
            - Đường biên giới này thường là kết quả của việc ký kết các điều
ước quốc tế giữa các quốc gia hoặc là quyết định của cơ quan tài phán quốc
tế. Trên thực tế còn tồn tại một số trường hợp biên giới được ấn định trên cơ
sở các điều ước tô nhượng lãnh thổ giữa các quốc gia (trường hợp Hồng
Công, Ma Cao trước đây).
               Đối với Việt Nam, Điều 5, Luật Biên giới quốc gia năm 2003 quy
định “Biên giới quốc gia trên đất liền được hoạch định và đánh dấu trên thực
địa bằng hệ thống mốc quốc giới”.

50
 Biên giới trên biển.
          - Biên giới trên biển là ranh giới ngoài của lãnh hải của các quốc gia
ven biển, hoặc là đường phân cách các vùng nội thủy hoặc vùng lãnh hải của
các quốc gia ven biển. Theo Công ước Luật Biển năm 1982, ranh giới ngoài
của lãnh hải không vượt quá 12 hải lý tính từ đường cơ sở. Các quốc gia ven
biển tự xác định đường cơ sở của mình phù hợp với Công ước này.
            - Trong trường hợp khi hai quốc gia có bờ biển đối diện nhau hoặc
kề nhau những khoảng cách giữa hai hệ thống đường cơ sở của hai quốc gia
nhỏ hơn 24 hải lý, đường biên giới trên biển là đường phân chia lãnh hải hoặc
nội thủy giữa hai quốc gia, nằm cách đều các điểm gần nhất của các đường cơ
sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải của mỗi quốc gia, trừ khi có sự thỏa thuận
khác giữa các quốc gia này.
            - Đối với Việt Nam, Điều 5, Luật Biên giới quốc gia năm 2003 quy
định: “Biên giới quốc gia trên biển được hoạch định và đánh dấu bằng các tọa
độ trên hải đồ là ranh giới phía ngoài lãnh hải của đất liền, lãnh hải của hải
đảo, lãnh hải của quần đảo của Việt Nam được xác định theo Công ước của
Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 và các điều ước quốc tế giữa nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và các quốc gia hữu quan.
            Các đường ranh giới phía ngoài vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc
quyền kinh tế và thềm lục địa được xác định quyền chủ quyền, quyền tài phán
của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo Công ước của Liên hợp
quốc về Luật Biển năm 1982 và các điều ước quốc tế giữa nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam và các quốc gia hữu quan.”
 Biên giới trong lòng đất.

           - Biên giới trong lòng đất là một mặt phẳng thẳng đứng, đi theo các
đường biên giới trên đất liền và biên giới trên biển, kéo dài đến tâm của trái
đất. Trong thực tiễn quốc tế, biên giới này được các quốc gia mặc nhiên thừa
nhận.
          - Tại Việt Nam, Điều 5, Luật Biên giới quốc gia của nước ta quy
định:“Biên giới quốc gia trong lòng đất là mặt thẳng đứng từ biên giới quốc
gia trên đất liền và biên giới quốc gia trên biển xuống lòng đất.
           Ranh giới trong lòng đất thuộc vùng biển là mặt thẳng đứng từ các
đường ranh giới phía ngoài của vùng đặc quyền về kinh tế, thềm lục địa

51
xuống lòng đất xác định quyền chủ quyền, quyền tài phán của nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển
năm 1982 và các điều ước quốc tế giữa nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam và các quốc gia hữu quan.”
 Biên giới trên không.

      - Biên giới trên không là ranh giới xác định phạm vi vùng trời của một
quốc gia. Trong những năm 40 và 50 của thế kỷ trước, một số quốc gia đưa ra
tuyên bố về biên giới vùng trời theo tiêu chuẩn không gian, nhưng hiện nay,
chủ quyền quốc gia được nhận thức theo những tiêu chuẩn về chức năng sử
dụng. Đường biên giới trên không có hai loại là đường biên giới bên sườn và
đường biên giới phía trên. Cũng tương tự như đường biên giới lòng đất,
đường biên giới bên sườn được xác định trên cơ sở các đường biên giới trên
đất liền và trên biển theo cách kéo dài chúng lên một độ cao nhất định. Trong
thực tiễn quốc tế, chưa có quy định thống nhất nào về độ cao của đường biên
giới trên không.
       Điều 5, Luật Biên giới quốc gia năm 2003 của nước ta quy định: “Biên
giới quốc gia trên không là mặt thẳng đứng từ biên giới quốc gia trên đất liền
và biên giới quốc gia trên biển lên vùng trời.”

Tầm quan trọng của biên giới quốc gia.


       - Việc xác lập đường biên giới quốc gia là nhằm phân định rõ giới hạn
vùng đất, vùng nước, vùng trời thuộc chủ quyền toàn vẹn, đầy đủ và riêng biệt
của quốc gia, gắn liền với những lợi ích về chính trị, kinh tế, xã hội và an ninh
quốc phòng, do đó biên giới quốc gia mang tính pháp lý - chính trị và là sản
phẩm do con người tạo ra trên cơ sở tôn trọng những yếu tố lịch sử, chính trị,
xã hội, địa lý, kinh tế và dân tộc. Theo nghĩa đó, biên giới quốc gia cũng là cơ
sở và nền tảng vật chất cho quốc gia tồn tại và phát triển.
        - Biên giới quốc gia là phên dậu của quốc gia, là cơ sở xác định phạm
vi, lãnh thổ quốc gia đó (cho dù địa hình có thay đổi, biên giới sẽ không thay
đổi theo nếu đã được phân giới rõ ràng theo đúng luật pháp quốc tế). Biên giới
ổn định sẽ tạo điều kiện phát triển quan hệ hữu nghị với quốc gia láng giềng
nói chung và giữa các địa phương biên giới nói riêng.
        - Biên giới ổn định là cơ sở phát triển kinh tế của đất nước nói chung
và các địa phương giáp biên nói riêng; nhiều công trình kinh tế có liên quan

52
mật thiết với việc giải quyết các vấn đề biên giới; việc quản lý biên giới như
thế nào có tác động lớn tới giao lưu kinh tế giữa Việt Nam với các nước láng
giềng. Một đường biên giới được xác định rõ ràng trên bản đồ và trên thực
địa, được quản lý chặt chẽ nhưng vẫn thông thoáng cho người và hàng hoá
qua lại là điều kiện tốt nhất cho việc phát triển kinh tế của đất nước và quan
hệ kinh tế với các nước láng giềng.
    - Xác định đường biên giới rõ ràng sẽ giúp việc quản lý, ổn định đời sống
nhân dân khu vực biên giới được thuận lợi hơn; ngăn chặn tình trạng di cư tự
do, kết hôn không giá thú, xâm canh xâm cư.
Câu 7: Đánh giá về sự hoàn thiện và phù hợp với LQT của biên giới
trên bộ Việt Nam hiện nay.
Biên giới quốc gia là một vấn đề quan trọng hàng đầu của bất cứ quốc gia
nào. Đường biên giới của mỗi quốc gia là cơ sở để phân chia lãnh thổ của các
quốc gia với nhau. Tuy nhiên trên thực tế vẫn nảy sinh rất nhiều tranh chấp
giữa các quốc gia láng giềng về đường biên giới, đặc biệt là các đường biên
giới trên bộ. vì vậy, vấn đề hoàn thiện đường biên giới trên bộ luôn được các
quốc gia hết sức quan tâm. Đối với Việt Nam, chúng ta có cả đường biên giới
trên bộ và trên biển. vấn đề hoạch định đường biên giới trên bộ với các nước
láng giềng luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm đặc biệt trong những
thập niên qua. Hiện nay, đường biên giới trên bộ của nước ta đã tương đối
hoàn thiện, phần lớn đã được phân giới, cắm mốc trên thực địa. tuy vậy, việc
tiếp tục về các nguyên tắc phân định biên giới trên bộ cũng như thực tiễn áp
dụng để có cái nhìn toàn diện, đầy đủ về biên giới trên bộ của nước ta vẫn là
công việc hết sức cần thiết không chỉ đối với các nhà khoa học mà còn đối với
cả sinh viên nói chung và sinh viên Luật nói riêng.
Việt Nam là một quốc gia nằm ở khu vực Đông Nam Á, trên bán đảo Đông
Dương. Nước ta có diện tích khoảng 330.000 km² thuộc nhóm nước có diện
tích trung bình trên thế giới. lãnh thổ Việt Nam gồm các bộ phận: đất liền, hải
đảo, vùng biển, vùng trời. vùng biển nước ta rộng khoảng 1 triệu km² nằm ở
khu vực biển Đông cùng với đó là hệ thống các đảo ven bờ và hai quần đảo xa
bờ là Hoàng Sa và Trường Sa.
Lãnh thổ trên đát liền của nước ta hình chữ S nằm ở rìa bán đảo Đông
Dương và tiếp giáp với biển Đông. Việt nam có biên giới chung với Trung
Quốc ở phía Bắc, tiếp giáp với Lào ở phía Tây, tiếp giáp với Cam- Pu- Chia ở
phái Tây Nam. Đường biên giới trên bộ của nước ta dài khoản 4.510 km , đi
qua 25 tỉnh, 90 huyện, khoảng 390 xã với trên 50 dân tộc sinh sống. Đường
biên giới với Trung Quốc dài khoảng 1.400 km; đường biên giới với Lào dài
53
khoảng 2.067 km; đường biên giới với Cam- Pu- Chia dài khoảng 1.137 km.
Đất nước ta với địa hình 3/4 là đồi núi vì vậy, đường biên giới trên đất liền
của nước ta với các nước láng giềng chủ yếu chạy dọc theo các dãy núi cao,
rừng rậm.
Đất nước ta trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước với bao thăng
trầm, biến cố lớn. Tuy nhiên, phải đến cuối thể kỷ XVIII đường biên giới trên
bộ của nước ta mới hình thành gần giống với ngày nay, nhưng vẫn chưa được
hoạch định bằng bất cứ điều ước nào. Đến khi Thực dân Pháp xâm lược nước
ta, vầ cơ bản đưườg biên giới trên bộ của nước ta cũng không có sự thay đổi
đáng kể. sau khi giành được độc lập, nước ta cùng với các nước láng giềngđã
thống nhất duy trì đường biên giới từ thời Pháp thuộc, đồng thời điều chỉnh
những đoạn còn chưa rõ ràng.
Hiện nay, về cơ bản đường biên giới trên bộ của nước ta đã được hoạch
định xong. Ta cùng các nước láng giềng đã tiến hành phân giới, cắm mốc thực
địa. phần lớn biên giới của nước ta với các nước đã được phân định bằng hệ
thống cột mốc kiên cố, đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân ta và cá
dân tộc anh em. Việt nam và các nước láng giềng đang cố gắng giải quyết
nhanh chóng các vấn đề biên giới còn tồn tại trên cơ sở các nguyên tắc mà các
bên đã thống nhất.

8. Trình bày và phân tích về nội thủy trong Luật quốc tế với các nội
dung sau: khái niệm, cách xác định, chế độ pháp lý. Đánh giá về sự hoàn
thiện và phù hợp với Luật quốc tế trong việc xác định nội thủy Việt Nam
hiện nay. Đánh giá về sự phù hợp của pháp luật Việt Nam hiện hành với
Luật quốc tế trong việc quy định chế độ pháp lý của nội thủy.
* Khái niệm: Nội thủy là vùng nước ở phía bên trong đường cơ sở dùng để
tính chiều rộng lãnh hải
- Vùng Nội Thủy bao gồm các vùng nước cảng biển, các Vũng Tàu, cửa
sông, các tỉnh các vùng nước nằm kẹp giữa lãnh thổ đất liền và đường cơ sở
dùng để tính chiều rộng lãnh hải
* Chế độ pháp lý:
- Nội thủy được coi như lãnh thổ đất liền tại đó của gia ven biển được thực
hiện chủ quyền hoàn toàn và tuyệt đối thủ quen này Bao trùm lên cả vùng trời
vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển bên dưới vùng nước nội thủy
- Quyền Tài Phán của quốc gia ven biển trong một thủy
54
+ Đối với tàu quân sự và tàu nhà nước sử dụng vào mục đích phi thương
mại( gọi chung là tàu quân sự )của nước ngoài
+ Đối với tàu dân sự của nước ngoài
9. Đánh giá về sự hoàn thiện và phù hợp với Luật quốc tế của đường cơ
sở Việt Nam hiện nay.
10. Trình bày và phân tích về lãnh hải trong Luật quốc tế với các nội
dung sau: khái niệm, cách xác định, chế độ pháp lý. Đánh giá về sự hoàn
thiện và phù hợp với Luật quốc tế trong việc xác định lãnh hải Việt Nam
hiện nay. Đánh giá về sự phù hợp của pháp luật Việt Nam hiện hành với
Luật quốc tế trong việc quy định chế độ pháp lý của lãnh hải.
* Khái niệm: Lãnh hải là vùng biển nằm giữa vùng nước nổi thủy và các
vùng biển thuộc quyền chủ quyền và quyền Tài Phán Quốc Gia
- Chiều rộng lãnh hải không quá 12 hải lý tính từ đường cơ sở dùng để tính
chiều rộng lãnh hải
- Xác định chiều rộng lãnh hải được tiến hành trong hai trường hợp sau
+ Nếu bờ biển không tiếp liền đối diện với bờ biển quốc gia khác
+ Nếu bờ biển của giao tiếp liền đối diện với bờ biển quốc gia khác
* Phương pháp xác định đường cơ sở để tính chiều rộng lãnh hải hải
- Phương pháp đường cơ sở thông thường
+ Đường cơ sở thông thường là đường đường ngấn nước Triều thấp nhất
theo dọc đường bờ biển
+ Trường hợp những bộ phận đảo cấu thành bằng san hô hoặc các đảo có
đánh răng lên bờ bao quanh thì đường cơ sở là đường ngấn nước Triều thấp
nhất ở bờ phía ngoài cùng của các mỏm đá
- Phương pháp đường cơ sở thẳng
+ Đường cơ sở thẳng là đường lối riêng các điểm thích hợp để được lựa
chọn ở những điểm ngoài cùng nhau ra nhiều nhất của bờ biển
- Phương pháp này chỉ được áp dụng trong ba trường hợp
+ Ở những nơi bờ biển bị phải sâu và lồi lõm
+ Ở những nơi có một chuỗi đảo nằm sát ngay và chạy dọc theo bờ biển

55
+ Ở những nơi mà bờ biển cực kỳ không ổn định do những điều kiện thiên
nhiên đặc biệt gây ra, như là sự hiện diện của các châu thổ
* Chế độ pháp lý
- Trong lãnh hải của biển có chủ quyền hoàn toàn và đầy đủ bởi vì phải
thừa nhận quyền đi qua không gây hại của tàu thuyền nước ngoài
- Quyền Tài Phán của quốc gia ven biển
+ Đối với tàu quân sự
+ Đối với tàu dân sự
* Đánh giá về sự hoàn thiện và phù hợp với Luật quốc tế trong việc xác
định lãnh hải Việt Nam hiện nay.
Là một quốc gia ven biển có đường bờ biển dài trên 3.260 km với hàng
nghìn hòn đảo lớn nhỏ, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa,
Việt Nam có nhiều lợi ích gắn liền với biển.
Từ trước khi Công ước Luật Biển 1982 ra đời, Việt Nam đã tích cực vận
dụng các quy định liên quan của pháp luật quốc tế để xây dựng các văn bản
pháp luật trong nước về biển.
Năm 1977, Việt Nam đã ban hành “Tuyên bố của Chính phủ về các vùng
biển Việt Nam”, trong đó xác lập vùng đặc quyền kinh tế rộng 200 hải lý,
không chỉ giới hạn trong quyền đánh cá mà còn có các quyền chủ quyền và
quyền tài phán khác. Tuyên bố này được đưa ra khi Công ước Luật Biển 1982
đang được xây dựng, phản ánh xu thế được đa số các nước ủng hộ tại Hội
nghị Luật Biển lần thứ 3, thể hiện sự đóng góp của Việt Nam vào quá trình
pháp điển hóa tiến bộ luật biển quốc tế.
Việt Nam là một trong 107 quốc gia ký Công ước tại Montego Bay
(Jamaica) ngay sau khi văn kiện này được mở ký và là một trong những quốc
gia phê chuẩn sớm, trước khi Công ước có hiệu lực. Điều này thể hiện thiện
chí, sự coi trọng và kỳ vọng của Việt Nam vào một trật tự pháp lý mới về biển
và đại dương.
Ngày 23/6/1994, Quốc hội Việt Nam đã ra Nghị quyết về việc phê chuẩn
Công ước Luật Biển, trong đó khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với
nội thủy, lãnh hải, quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với vùng tiếp giáp
lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam trên cơ sở các

56
quy định của Công ước và các nguyên tắc của luật pháp quốc tế, yêu cầu các
nước tôn trọng các quyền nói trên của Việt Nam. Đồng thời, Nghị quyết còn
khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa và chủ trương giải quyết các tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ
cũng như các bất đồng khác liên quan đến vấn đề Biển Đông thông qua
thương lượng hòa bình, trên tinh thần bình đẳng, hiểu biết và tôn trọng lẫn
nhau, tôn trọng pháp luật quốc tế, đặc biệt là Công ước Luật Biển 1982.
Là thành viên Công ước Luật Biển 1982, Việt Nam được quyền có lãnh hải
rộng 12 hải lý, vùng đặc quyền kinh tế rộng 200 hải lý, thềm lục địa rộng ít
nhất 200 hải lý. Diện tích các vùng biển và thềm lục địa mà tại đó Việt Nam
được hưởng những quyền lợi đối với vùng biển và tài nguyên theo quy định
của Công ước là khoảng gần 1 triệu km2, gấp 3 lần diện tích lãnh thổ đất liền.
Thể hiện trách nhiệm và thiện chí của một quốc gia thành viên Công ước,
trong những năm qua Việt Nam luôn tôn trọng và thực thi đầy đủ các nghĩa vụ
theo Công ước, từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia, vận dụng
các quy định của Công ước trong xác định các vùng biển và phân định ranh
giới biển với các nước láng giềng, quản lý và sử dụng biển, đồng thời hợp tác
với các nước trong các lĩnh vực biển phù hợp với các quy định của Công ước
theo hướng bảo tồn và sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên biển, phục vụ
phát triển bền vững.
Phù hợp với các quy định của Công ước Luật Biển 1982, Việt Nam đã ban
hành Luật Biển Việt Nam năm 2012 nhằm thống nhất quản lý việc hoạch
định, sử dụng, thăm dò, khai thác tài nguyên biển và quản lý các vùng biển,
thềm lục địa, hải đảo của Việt Nam, cũng như việc giải quyết tranh chấp trên
biển giữa Việt Nam và các nước láng giềng.
Đây được coi là bước tiến quan trọng trong việc chuyển hóa các quy định
của Công ước Luật Biển vào hệ thống pháp luật trong nước, tạo thuận lợi cho
việc quản lý thống nhất về biển và phát triển kinh tế biển Việt Nam.
Cùng với việc ban hành Luật Biển, Quốc hội Việt Nam cũng đã thông qua
Bộ luật Hàng hải 2015, có hiệu lực từ ngày 1/7/2017, điều chỉnh các hoạt
động giao thông hàng hải trên biển, chế độ ra vào các cảng biển Việt Nam.

Là một quốc gia ven biển, Việt Nam luôn đi đầu và không ngừng nỗ lực trong

57
việc thực hiện Công ước Luật Biển 1982 kể từ khi chấp nhận sự ràng buộc và
trở thành một quốc gia thành viên của Công ước 25 năm trước.
* Đánh giá về sự phù hợp của pháp luật Việt Nam hiện hành với Luật
quốc tế trong việc quy định chế độ pháp lý của lãnh hải.
Công ước Luật biển 1982 quy định các vùng biển mà một quốc gia ven biển
có quyền được hưởng, cũng như những quy định liên quan đến việc sử
dụng, khai thác biển và đại dương.Việt Nam đã ký kết và trở thành thành viên
thứ 63 của Công ước Luật Biển 1982. Có thể thấy các nhà làm luật đã nội luật
hóa các quy định của Công ước viên về Luật biển 1982 trong Luật biển Việt
Nam 2012. Các quy định về cách xác định và quy chế pháp lý các vùng biển
chủ quyền quốc gia theo quy định của Luật biển Việt Nam 2012 là phù hợp
với các quy định của Công ước Luật biển 1982. Luật biển Việt Nam 2012
cũng thể hiện rõ ràng cơ sở pháp lý xác định các vùng biển chủ quyền Việt
Nam phù hợp với Công ước Luật biển 1982. Có thể nhận thấy rằng khái niệm
nội thủy, lãnh hải của Việt Nam trong Luật Biển Việt Nam 2012 đều dựa trên
khái niệm được quy định trong Công ước Luật Biển 1982; chế độ pháp lý đối
cũng phù hợp với quy định của Công ước Luật Biển 1982. Đặc biệt luật Biển
Việt Nam 2012 cũng quy định rõ hơn chế độ qua lại của các loại tàu thuyền
nước ngoài trong các vùng biển Việt Nam; quy định về các hoạt động cấm
trong nội thủy, lãnh hải. Như vậy, với những quy định về việc xác định và quy
chế pháp lý về các vùng biển chủ quyền theo Luật biển Việt Nam 2012 dựa
trên cơ sở tuân thủ các quy định của Công ước Luật Biển 1982, phù hợp thực
tiễn của Việt Nam là cách thức quan trọng, là cơ sở pháp lý để bảo vệ chủ
quyền trên biển của Việt Nam.
11. Trình bày và phân tích về vùng đặc quyền kinh tế trong Luật quốc
tế với các nội dung sau: khái niệm, cách xác định, chế độ pháp lý. Đánh
giá về sự hoàn thiện và phù hợp với Luật quốc tế trong việc xác định
vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam hiện nay. Đánh giá về sự phù hợp của
pháp luật Việt Nam hiện hành với LQT trong việc quy định chế độ pháp
lý của VĐQKT.
* Khái niệm: Vùng đặc quyền kinh tế là vùng biển nằm ở phía ngoài lãnh
hải và tiếp liền với lãnh hải đặt dưới chế độ pháp lý liên trong đó các quyền và
quyền Tài Phán của quốc gia ven biển các quyền của quốc gia khác đều do
các quy định kết hợp của công ước luật biển 1982 điều chỉnh
- Chiều rộng vùng đặc quyền kinh tế Không được mở rộng quá 200 hải lý
kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải
58
* Chế độ pháp lý
- Là một vùng biển đặc thù nên chế biến pháp lý của nó là sự thỏa hiệp cân
bằng giữa quyền của quốc gia ven biển và lợi ích chung của cộng đồng quốc
tế
- Quyền của quốc gia ven biển ven biển trong vùng đặc quyền kinh tế là
quyền đối với việc thăm dò khai thác khai thác bảo tồn và quản lý các tài
nguyên thiên nhiên sinh vật và không sinh vật của vùng nước bên trên đáy
biển của đáy biển và vùng đất dưới đáy biển cũng như những hoạt động khác
nhau khai thác thăm dò vùng này vì mục đích kinh tế như vậy được sản xuất
Năng lượng từ nước hải lưu và gió
- Quyền tài phán đối với việc lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo các thiết
bị và công trình nghiên cứu khoa học về biển bảo vệ và giữ gìn môi trường
biển
- Quyền của quốc gia khác trong vùng đặc quyền kinh tế của của quốc gia
ven biển tất cả quyền các quốc gia có biển hay không có biển đều được hưởng
các quyền tự do cơ bản
+ Quyền tự do Hàng Hải
+ Quyền tự do hàng không
+ Quyền tự do lắp đặt dây cáp ngầm và ống dẫn nhầm
* Đánh giá về sự hoàn thiện và phù hợp với Luật quốc tế trong việc xác
định vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam hiện nay.
 Với bề rộng tối đa 200 hải lý kể từ đường cơ sở , trong đó có 188 hải lý
thuần tuý mang tính chất của vùng đặc quyền kinh tế, có thể nói, đặc quyền
kinh tế là vùng biển có bản chất pháp lý hỗn hợp, bởi trong đó vừa tồn tại
quyền chủ quyền của quốc gia ven biển, vừa tồn tại quyền tự do biển cả được
thừa nhận trong luật Biển quốc tế. Chính bản chất này đã tạo nên một vùng
biển mang tính chất đặc thù. Sự đặc thù thể hiện ở hai phương diện, tạo sự
tương đồng giữa các nhóm lợi ích khác nhau ngay trong vùng đặc quyền kinh
tế
Thể hiện đặc trưng của vùng đặc quyền kinh tế là nhóm lợi ích có liên quan
đến nước ven biển, nhằm dành cho nước này thụ hưởng đặc quyền về khai
thác tài nguyên ở vùng đặc quyền kinh tế. Đặc quyền này cho thấy sự khác
59
biệt giữa vùng đặc quyền kinh tế và vùng đánh cá trong Công ước 1958. Vùng
đánh cá trong Công ước 1958 Vùng đặc quyền kinh tế - Ra đời trước - Chiều
rộng không xác định
- Giới hạn quyền của quốc gia ven biển đối với nguồn tài nguyên sinh vật -
QG ven biển chỉ có quyền ưu tiên khai thác, đánh bắt cá - Ra đời sau - Chiều
rộng <200 hải lý tính từ đường cơ sở
- Bao gồm tài nguyên sinh vật và không sinh vật ở đáy biển và lòng đất
dưới đáy - QG ven biển có quyền chủ quyền và quyền tài phán Sự ghi nhận
của Công ước 1958 về vùng đánh cá chủ yếu là nhằm khai thác tài nguyên
sinh vật và quyền này trên thực tế bị ảnh hưởng rất nhiều bởi quyền tự do
đánh cá truyền thống của các quốc gia bên ngoài lãnh hải Trong khi tiến hành
các hoạt động đánh cá ở biển cả, các tàu đánh cá không phải tuân thủ pháp
luật của bất kỳ quốc gia nào, trừ pháp luật của quốc gia mà tàu đó mang cờ.
Như vậy, quyền và lợi ích của những quốc gia ven biển (mặc dù được công
nhận trong Công ước 1958) nhưng trên thực tế thì không có gì bởi các biện
pháp nhằm bảo tồn của quốc gia ven biển đối với nguồn tài nguyên của mình
chỉ mang tính chất đơn phương và tạm thời, quốc gia liên quan có thể phản
đối. Hơn thế, Công ước cũng không có biện pháp hiệu quả để ngăn ngừa việc
đe doạ từ bên ngoài của các quốc gia không phải là thành viên của Công ước
muốn khai thác tài nguyên cá trong khu vực biển cả tiếp giáp với lãnh hải của
nước ven bờ. Chính vì vậy, việc ra đời quy chế về vùng đặc quyền kinh tế đã
đảm bảo được quyền và lợi ích của quốc gia ven biển. Tuy dành cho quốc gia
ven biển sự thụ hưởng đặc biệt về khai thác tài nguyên ở vùng đặc quyền kinh
tế nhưng những quy định tại vùng đặc quyền kinh tế cũng đảm bảo tính cân
bằng về lợi ích cho các quốc gia khác. Thật vậy:
Thể hiện bản chất của vùng đặc quyền kinh tế trên cơ sở tiếp thu Luật biển
quốc tế truyền thống là những lợi ích từ sự cân bằng giữa các nhóm quốc gia
khác nhau. Điểm đặc trưng của vùng đặc quyền kinh tế là trong khi dành cho
nước ven biển những chủ quyền thì Luật biển quốc tế cũng đảm bảo để các
quốc gia khác (trong đó gồm cả quốc gia không có biển hoặc bất lợi về địa lý)
có được những quyền nhất định (bao gồm chủ yếu nhóm quyền tự do biển cả
truyền thống trừ quyền đánh cá truyền thống và quyền tham gia khai thác tài
nguyên sinh vật). Sự cân bằng này giải quyết song hành hai vấn đề đặt ra
trong quy chế của vùng đặc quyền kinh tế, đó là mở rộng quyền chủ quyền
của nước ven bờ một cách có giới hạn để bảo đảm cho lợi ích chính đáng của
nước ven biển và đảm bảo tính ổn định tương đối của biển cả và của vùng, là
nơi mà lợi ích chung của cộng động cần được tôn trọng. Đây là cái gốc của

60
bình đẳng trong sử dụng và khai thác biển tồn tại giữa các nhóm quốc gia, từ
đó có ý nghĩa giảm thiểu những tranh chấp bất đồng giữa các quốc gia khi
tham gia hoạt động liên quan đến biển.
* Đánh giá về sự phù hợp của pháp luật Việt Nam hiện hành với LQT
trong việc quy định chế độ pháp lý của VĐQKT:
Trong khi dành cho các quốc gia ven biển các quyền chủ quyền đối với tài
nguyên cá trong vùng đặc quyền kinh tế của họ. Công ước quy định các quốc
gia này cũng phải tôn trọng các quyền và nghĩa vụ của các quốc gia khác như
được quy định trong Công ước.
Trong đó các quốc gia ven biển có hai nghĩa vụ cơ bản;
- Liên quan đến bản thân các hoạt động khai thác tài nguyên biển của quốc
gia ven biển trong vùng đặc quyền kinh tế của mình, đó là nghĩa vụ phải bảo
tồn tài nguyên biển. Công ước quy định các quốc gia ven biển, trong khi tiến
hành các hoạt động khai thác tài nguyên sinh vật trong vùng đặc quyền kinh tế
của mình, có nghĩa vụ phải đảm bảo rằng các hoạt động đó không gây hại cho
hệ sinh thái biển và nguồn tài ngyên sinh vật trong vùng đó nhằm tránh những
tác động có hại cho tài nguyên sinh vật trên biển cả và tài nguyên sinh vật ở
vùng đặc quyền kinh tế của các quốc gia láng giềng.
- Là nghĩa vụ của các quốc gia ven biển phải dành cho nước ngoài quyền
tiếp cận nguồn cá thừa khi các quốc gia đó không có khả năng khai thác hết
nguồn tài nguyên cá trong vùng đặc quyền kinh tế của mình. Trong trường
hợp đó, họ sẽ dành cho các quốc gia khác quyền tiếp cận nguồn cá thừa, thông
qua các hiệp định hoặc thoả thuận, có tính đến các quy định trong Điều 69, 70
Công ước Luật biển 1982 nhất là quan tâm đến các quốc gia đang phát triển
nói đến trong các điều kiện đó (điều này có nghĩa là các nước phát triển dù
không có biển hay có vị trí bất lợi sẽ không được hưởng ưu tiên đó).
Đồng thời khi tiếp cận nguồn cá thừa ở vùng đặc quyền kinh tế, các quốc
gia khác cũng phải tuân thủ những nghĩa vụ nhất định, trong đó có nghĩa vụ
phải đảm bảo rằng công dân của họ trong khi tiến hành các hoạt động đánh
bắt sẽ tuân thủ các biện pháp bảo tồn và các thể thức, điều kiện khác được nêu
trong các luật lệ và quy định do quốc gia ven biển đó ban hành phù hợp hoặc
không trái với các quy định của Công ước. Tuy nhiên, do các quốc gia ven
biển có thể xác định các điều kiện tiếp cận đối với tài nguyên cá trong vùng
đặc quyền kinh tế của mình, nếu muốn, họ có thể loại một cách rất hiệu quả
quyền tiếp cận của các quốc gia khác đối với nguồn cá thừa. Điều này tưởng
chừng như không công bằng nếu chúng ta chỉ phân tích riêng rẽ các quy định
về tài nguyên sinh vật. Tuy nhiên, khi phân tích thẩm quyền của các quốc gia

61
ven biển trong một bối cảnh rộng hơn, có thể thấy các quy định đó là một giải
pháp thoả hiệp trong đó thể hiện sự cân bằng giữa các quyền và quyền tài
phán của quốc gia ven biển với các quyền và quyền tự do của các quốc gia
khác. Nếu quốc gia ven biển xác lập một khu vực kinh tế đặc quyền 200 hải lý
với các quyền chủ quyền đối với tài nguyên thiên nhiên và quyền tài phán đối
với việc nghiên cứu khoa hoc cũng như thẩm quyền ra quy định về bảo vệ môi
trường biển ở đó thì Công ước cũng dành cho các quốc gia khác quyền tự do
giao thông hàng hải cũng nhu hàng không, tự do đặt dây cáp ngầm và quyền
tiếp cận đối với lượng cá thừa trong vùng đó (Điều 58.1). Hơn nữa, vấn đề
cho nước ngoài tiếp cận nguồn tài nguyên sinh vật hay không sinh vật (như
xây dựng, khai thác và sử dụng đảo nhân tạo, các công trình trong vùng đặc
quyền kinh tế) thực tế không phải là một vấn đề nghiêm trọng vì thông qua
đàm phán và thoả thuận, khi có thể chấp nhận các điều kiện, luật lệ và quy
định của quốc gia ven biển, các quốc gia khác có thể khai thác và trả lệ phí
khai thác. → Từ những luận điểm trên, có thể thấy quá trình xây dựng , hoàn
thiện các quy định về cách xác định và quy chế pháp lý của vùng đặc quyền
kinh tế trong luật biển quốc tế thể hiện rõ sự dung hoà về lợi ích giữa các quốc
gia

12. Trình bày và phân tích về thềm lục địa trong Luật quốc tế với các
nội dung sau: khái niệm, cách xác định, chế độ pháp lý. Đánh giá về sự
hoàn thiện và phù hợp với Luật quốc tế trong việc xác định thềm lục địa
Việt Nam hiện nay. Đánh giá về sự phù hợp của pháp luật Việt Nam hiện
hành với Luật quốc tế trong việc quy định chế độ pháp lý của thềm lục
địa.
* Khái niệm: Thềm lục địa bao gồm đáy biển và lòng đất dưới đáy biển bên
ngoài lãnh hải của quốc gia ven biển trên toàn bộ phần kéo dài tự nhiên của
lãnh thổ đất liền của quốc gia đó cho đến bờ ngoài của rìa lục địa hoặc đến
hoặc đến đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải 200 hải lý khi vừa
ngoài của rìa lục địa của quốc gia đó ở khoảng cách gần hơn
* Chế độ pháp lý:
- Quyền của quốc gia ven biển
+ Quốc gia ven biển được thực hiện các quyền thuộc chủ quyền đối với
thềm lục địa về mặt thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên

62
+ Quốc gia ven biển có quyền Tài Phán đối với các đảo nhân tạo, thiết bị và
Công trình ở thềm lục địa, quyền Tài Phán về nghiên cứu khoa học biển
quyền tài Phán về khoảng về khoan ở thềm lục địa với bất kỳ mục đích gì;
quyền tài phán trong lĩnh vực bảo vệ và giữ gìn môi trường biển
- Quyền của các quốc gia khác đặt dây cáp và ống dẫn nhầm
* Đánh giá về sự hoàn thiện và phù hợp với Luật quốc tế trong việc xác
định thềm lục địa Việt Nam hiện nay:

* Đánh giá về sự phù hợp của pháp luật Việt Nam hiện hành với Luật
quốc tế trong việc quy định chế độ pháp lý của thềm lục địa:

Đây là một nội dung có liên quan đến quy chế pháp lý của các thực thể địa
lý (đảo, đá, bãi cạn, bãi ngầm, rạn san hô) ở giữa Biển Đông. Mặc dù
UNCLOS 1982 và các tiền lệ pháp lý, đặc biệt là Phán quyết Tòa Trọng tài
2016, đã quy định và phân tích, xác định rất rõ về hiệu lực của chúng, nhưng
trong thực tế việc giải thích và áp dụng vẫn còn là vấn đề, hoặc là sai trái hoặc
còn để ngỏ. Vì vậy, chúng ta cần phải lưu ý những nội dung sau đây:
Vấn đề thiết lập đường cơ sở của các thực thể địa lý ở giữa Biển Đông.

Phần IV, Điều 46, UNCLOS 1982, đã định nghĩa:

"Quốc gia quần đảo" (Etat Archipel) là một quốc gia hoàn toàn được cấu
thành bởi một hay nhiều quần đảo và có khi bởi một một hay nhiều quần đảo
và có khi bởi một số hòn đảo khác nữa.

"Quần đảo" (Archipel) là một tổng thể các đảo, kể cả các bộ phận của các
đảo, các vùng nước tiếp liền và các thành phần tự nhiên khác có liên quan với
nhau đến mức tạo thành về thực chất một thể thống nhất về địa lý, kinh tế và
chính trị, hay được coi như thế về mặt lịch sử.

Điều 47 đã quy định: Một quốc gia quần đảo có thể vạch các đường cơ sở
thẳng của quần đảo nối liền các điểm ngoài cùng của các đảo xa nhất và các
bãi đá lúc chìm lúc nổi của quần đảo, với điều kiện là tuyến các đường cơ sở
này bao lấy các đảo chủ yếu và xác lập một khu vực mà tỷ lệ diện tích nước
đó với đất, kể cả vành đai san hô, phải ở giữa tỷ lệ số 1/1 và 9/1…

63
Ranh giới ngoài của lãnh hải là biên giới quốc gia ven biển. Chủ quyền này
được mở rộng đến vùng trời trên lãnh hải, cũng như đến đáy và lòng đất dưới
đáy của lãnh hải. Mọi hoạt động của tự nhiên nhân hay pháp nhân của quốc
gia khác, cũng như các phương tiện hoạt động trên biển của họ ở trong nội
thủy, lãnh hải của quốc gia ven biển, mà không tuân thủ luật pháp của quốc
gia ven biển, cũng như luật pháp quốc tế hiện hành, đều bị coi là hành động
xâm phạm biên giới, lãnh thổ biển của quốc gia ven biển; quốc gia ven biển
có quyền sử dụng mọi biện pháp, kể cả biện pháp quân sự để bảo vệ chủ
quyền quốc gia trong phạm vi nội thủy và lãnh hải được xác lập theo đúng
quy định của UNCLOS 1982.

Trong Biển Đông, ngoài việc thực thi và bảo vệ chủ quyền ở vùng nội thủy,
lãnh hải mà phạm vi của chúng được tính từ hệ thống đường cơ sở thẳng theo
Tuyên bố của Chính phủ Việt Nam năm 1982, Việt Nam còn thực thi và bảo
vệ chủ quyền đối với các đảo, quần đảo trong Biển Đông, trong đó có quần
đảo Hoàng Sa mà Trung Quốc đã nhảy vào tranh chấp và hiện nay họ đang
chiếm đóng bất hợp pháp hoàn toàn; quần đảo Trường Sa mà Trung Quốc và
một số quốc gia khác trong khu vực đã nhảy vào tranh chấp và đang chiếm
đóng một số thực thể thuộc quần đảo này.
Quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia

Quyền chủ quyền là quyền riêng biệt của quốc gia được thực thi trong phạm
vi vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Đây là quyền có nguồn gốc chủ
quyền, mang tính chất chủ quyền.

Quyền tài phán là hệ quả của chủ quyền và quyền chủ quyền, có tác dụng
bổ trợ tạo ra môi trường để thực thi chủ quyền và quyền chủ quyền. Như vậy,
quyền tài phán gắn bó chặt chẽ với lãnh thổ quốc gia. Tuy vậy, quyền tài phán
cũng có thể thực thi ở nơi mà quốc gia đó không có chủ quyền. Chẳng hạn,
quyền tài phán có thể được áp dụng trên tàu thuyền, phương tiện treo cờ của
quốc gia đó khi chúng đang hoạt động trong các vùng biển thuộc chủ quyền,
quyền chủ quyền của quốc gia khác. Quyền tài phán theo nghĩa rộng bao gồm:

- Thẩm quyền đưa ra các quyết định, quy phạm;

- Thẩm quyền giám sát việc thực hiện;

64
- Thẩm quyền xét xử của tòa án đối với một lĩnh vực cụ thể; theo nghĩa hẹp
đó là thẩm quyền pháp định của tòa án khi xét xử một người hay một việc.

Khi thực hiện các quyền thuộc chủ quyền và quyền tài phán của mình, quốc
gia ven biển có nghĩa vụ tôn trọng quyền lợi của các quốc gia khác, không
được có hành vi cản trở quyền tự do hàng hải và tự do hàng không của tàu
thuyền và các phương tiện bay, quyền tự do đặt cáp và ống dẫn dầu ngầm;
không được có hành vi phân biệt đối xử trong việc các quốc gia khác thực
hiện các quyền được UNCLOS 1982 quy định.
13. Trình bày và phân tích về biển cả trong Luật quốc tế với các nội
dung sau: khái niệm, cách xác định, chế độ pháp lý.

14. Trình bày và phân tích về vùng (zone) trong Luật quốc tế với các
nội dung sau: khái niệm, cách xác định, chế độ pháp lý.
- Khái niệm: Vùng là đáy biển và vòng đất dứoi đáy biển nằm bên ngoài
các vùng biển thuộc quyềb tài phán quốc gia
Như vậy vùng dc xác định bắt đầu từ ranh giới ngoài của thềm lục địa pháp
lí.Trong trường hợp quốc gia ven biển xác định chiều rộng của thêmc lục địa
là 200 hải lí tính từ đườh cơ sở, vùng sẽ bao gồm phần đáy biển và lòng đất
dưới đáy biển, vùng có thể rộng hơn hoặc hẹp hơn đáy biển và lòng đất dứoi
đáy biển cả
* Chế độ pháp lí của Vùng: Vùng và tài nguyên của Vùng bao gồm các tài
nguyên khoáng sản ở thể rắn, lỏng hoặc khí, kể cả các khối đa kim nằm ở đáy
đại dương và trong lòng đất dưới đáy được xác định là di sản chung của nhân
loại, thể hiện ở khía cạnh sau:
- Vùng và tàu nguyên của Vùng k phải là đối tượng của hành vi chiếm hữu.
Các quốc gia đều có quyền sử dụng, khai thác phù hợp với các quy định của
công ước nhưng k có quyền yêu sách chủ quyền hay chủ quyền đối với bộ
phận hoặc tài nguyên của vùng
- Vùng được để ngỏ cho các quốc gia, có biển hay không có biển, sử dụng
vài mục đích hoà bình
- Mọi hoạt động trong vùng được thực hiện vì lợi ích của loài người, có lưu
ý đặc biệt đến nhu cầu và lợi ích của các quốc gia đang phát triển và các dân
tộc đang đấu tranh giành quyền dân tộc tự quyết. Việc thăm dò và khai thác
tài nguyên của Vùng được tiến hành thông qua một cơ quan quyền lực quốc
tế. Cơ quan này dc đảm bảo việc phân chia công bằng ,trên cơ sở không phân

65
biệt đối xử, những lợi ích tài chính và các lợi ích kinh tế khác thu được do
những hoạt động trong Vùng, thông qua bộ máy của mình
Các hoạt động liên quan đến Vùng không ảnh hưởng đến quy chế pháp lí
của vùng nước ở phía trên Vùng cũng như vùng trời ở phía trên vùng nước
này
Câu 15: Trình bày khái niệm về quan hệ ngoại giao và quan hệ lãnh sự.
Nguyên tắc thiết lập quan hệ ngoại giao và quan hệ lãnh sự giữa các quốc
gia là gì?
* Khái niệm:
- Cơ quan quan hệ ngoại giao là cơ quan do nhà nước lập ra để duy trì mối
quan hệ chính thức của nhà nước đó với các quốc gia khác, với các tổ
chức quốc tế hoặc các chủ thể khác của LQT.
- Cơ quan quan hệ lãnh sự là 1 cơ quan quan hệ đối ngoại của 1 nước đặt ở
nước ngoài nhằm thực hiện các chức năng lãnh sự trong 1 khu vực lãnh thổ
của nước tiếp nhận trên cơ sở thoả thuận giữa 2 quốc gia hữu quan.
 
* Nguyên tắc thiết lập quan hệ ngoại giao và quan hệ lãnh sự giữa các
quốc gia:

Câu 16: Phân tích khái niệm, cấp, chức năng của cơ quan đại diện
ngoại giao.
- Khái niệm: Cơ quan đại diện ngoại giao là cơ quan đối ngoại của một
quốc gia,có trụ sở trên lãnh thổ của một quốc gia khác,nhằm thực hiện chức
năng đại diện chính thức của nhà nc trong quan hệ với quốc gia tiếp nhận
- Cơ quan đại diện ngoại giao có ba cấp: đại sứ quán, công sứ quán, đại biện
quán. 
- Chức năng: Đại diện cho nước cử đi dại diện tiếp nhận
+ Bảo vệ quyền lợi ích của nước cử đi và của công dân nước cử đi tại nước
tiếp nhận trong phạm vi cho phép của luật quốc tế
+ Đàm phán với chính phủ nước tiếp nhận
+ Tìm hiểu bằng mọi cách hợp pháp các điều kiện và các sự kiện tại nước
tiếp nhận và báo cáo với chính phủ nước cử đi
+ Thúc đẩy quan hệ hữu nghị và phát triển quan hệ kinh tế, văn hóa và khoa
học giữa nước cử đi và nước tiếp nhận.
Câu 17: Phân tích khái niệm, cấp, chức năng của cơ quan lãnh sự
-Khái niệm: Cơ quan lãnh sự là cơ quan quan hệ đối ngoại của nhà nước ở
nước ngoài được thành lập trên cơ sở thỏa thuận giữa các quốc gia hữu quan
66
nhằm thực hiện chức năng lãnh sự trong một khu vực lãnh thổ xác định của
nước tiếp nhận.
- Cơ quan lãnh sự có bốn cấp:
+ Tổng lãnh sứ quán,đứng đầu là tổng lãnh sự. tổng lãnh sứ quán thường
đặt ở các trung tâm thương mại, công nghiệp,hải cảng ,nơi đông kiều dân
+ Lãnh sự quan đứng đầu là lãnh sự
+ Phó lãnh sự quán,đứng đầu là phó lãnh sự. đại lý lãnh sư quán là văn
phòng đc thành lập ở các cảng, với quyền hạn về các vấn đề về thương mại và
hàng hải
- Chức năng: Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nc, công dân và
pháp nhân nước mình tại nước tiếp nhận trong phạm vi quốc tế cho phép : về
thừa kế tài sản trên lãnh thổ nước tiếp nhận, bố trí giám hộ hoặc đỡ đầu người
vị thành niên và người bị hạn chế năng lực hành vi, đại diện hoặc thu xếp đại
diện trc toà án và các nhà chức trách khác của nc tiếp nhận , nhằm đưa ra biện
pháp tạm thời phù hợp với quy luật và quy định của nước tiếp nhận để bảo vệ
các quyền và lợi ích của công dân nước mình.
- Thúc đẩy quan hệ kinh tế, thương mại giữa hai nước, tìm hiểu tình hình và
diễn biến trong đời sống thương mại, kinh tế, văn hoá và khoa học của nước
tiếp nhận, báo cáo tình hình đó về chính phủ nước cử và cung cấp thông tin
cho người quan tâm
- Phối hợp với cơ quan có thẩm quyền xử lí nhưunxg vấn đề liên quan đến
người nước ngoài như xuất nhập cảnh, cư trú, hành nghề, tài sản, hôn nhân
- Thực hiện các chức năng liên quan đến pháp nhân, công dân đăng kí,
thống kê công dân, bảo hộ công dân, đăng kí hộ tịch
- Thực hiện chức năng liên quan đên tàu bay tàu thuỷ và các phương tiện
giao thông khác, cấp chứng thực giấy tờ và tài liệu, giúp đỡ về mặt pháp lí.
- Thực hiện chức năng trong lĩnh vực phòng dịch và bảo vệ thực vật, động
vật, thông báo cho cơ quan có thẩm quyền và những người liên quan về việc
xuất hiện dịch bệnh, côn trùng gây hại.
18. So sánh quyền ưu đãi và miễn trừ dành cho cơ quan đại diện ngoại
giao với quyền ưu đãi và miễn trừ dành cho cơ quan lãnh sự?
* Giống nhau:
+ Đều là những quyền ưu đãi và miễn trừ mà nước tiếp nhận, trong phạm vi
của LQT, giành cho các cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự và các
thành viên của các cơ quan đó, taok điều kiện cho các cơ quan này thực hiện
có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ của mình.

67
+ Quyền ưu đãi miễn trừ ngoại giao, lãnh sự đều bao gồm các quyền về bất
khả xâm phạm trụ sở, thư tín, hồ sơ tài liệu lưu trữ; bưu phẩm thư tín; thông
tin liên lạc; quyền miễn trừ thuế; lệ phí; miễn trừ hải quan; quyền treo quốc kì
quốc hiệu.
* Khác nhau:
Tiêu chí Miễn trừ ngoại giao Ưu đãi miễn trừ lãnh
sự
Quyền bất khả xâm - Quyền bất khả xâm phạm về - Quyền bất khả xâm
phạm trụ sở trụ sở một cách tuyệt đối. phạm về trụ sở nhưng
không tuyệt đối
Nước tiếp nhận có thể
đi vào trụ sở LS trong
trường hợp xảy ra thiên
tai, hỏa hoạn,...
Quyền bất khả xâm - Có quyền bất khả xâm phạm - Có thể bị trưng mua
phạm tài sản dưới mọi hình thức. Không thể vì mục đích QPAN, lợi
bị trưng dụng, thu mua, tịch ích cộng đồng, tuy
thu, dưới mọi hình thức. nhiên việc trưng mua
làm ảnh hưởng đến
việc thực hiện chức
năng lãnh sự phải đảm
bảo việc thực hiện
nhanh chóng, đền bù
thỏa đáng cho nước cử.
Câu 19: So sánh quyền ưu đãi và miễn trừ dành cho viên chức ngoại
giao với quyền ưu đãi và miễn trừ dành cho viên chức lãnh sự?
* Giống nhau:
- Quyền bất khả xâm phạm về thân thể: Nước tiếp nhận phải đối xử một
cách trọng thị và thực hiện những biện pháp thích hợp để ngăn ngừa mọi hành
vi xâm phạm thân thể, tự do, phẩm giá và danh dự của họ (điều 29 – công
ước viên 1961 và điều 40 – công ước viên 1963)
- Quyền miễn trừ xét xử về hình sự, dân sự và xử phạt vi phạm hành
chính: Viên chức ngoại giao và viên chức lãnh sự đều được hưởng quyền
miễn trừ xét xử về hình sự, dân sự và xử phạt vi phạm hành chính. Nhưng
trong trường hợp khi họ tham gia với tư cách cá nhân vào các vụ tranh
chấp có liên quan đến dân sự thì họ không được hưởng quyền miễn trừ xét xử

68
về dân sự. Họ có quyền từ chối làm chứng và cung cấp bằng chứng tại cơ
quan hành pháp và tư pháp của nước nhận đại diện.
Nước cử đi có thể từ bỏ các quyền ưu đãi miễn trừ của viên chức ngoại
giao và viên chức lãnh sự và việc từ bỏ này phải rõ rang bằng văn bản (theo
khoản 1, 2 điều 32 Công ước viên 1961 về quan hệ ngoại giao và khoản 1, 2
điều 45 Công ước viên 1963 về quan hệ lãnh sự)
- Quyền được miễn thuế và lệ phí: đối với những dịch vụ cụ thể (theo điều
34 công ước viên 1961 và điều 49 công ước viên 1963)
- Quyền ưu đãi và miễn trừ hải quan: Hành lý cá nhân của viên chức
ngoại giao và viên chức lãnh sự được miễn kiểm tra hải quan khi mang vào
nước tiếp nhận, trừ trường hợp có cơ sở xác định trong hành lý có chứa đồ vật
không thuộc đồ dùng cá nhân của họ và gia đình, cũng như đồ vật mà nước
tiếp nhận cấm xuất và cấm nhập (theo điều 36 công ước viên 1961 và điều 50
công ước viên 1963)
- Viên chức ngoại giao và viên chức lãnh sự đều được miễn bảo hiểm xã
hội: Theo điều 33 Công ước viên 1961 về quan hệ ngoại giao và điều 48
Công ước viên 1963 về quan hệ lãnh sự
- Miễn tạp dịch, các nghĩa vụ lao động, các nghĩa vụ quân sự: như trưng
dụng, đóng góp về quân sự và cho đóng quân trong nhà mình (Theo điều 35
công ước viên 1961 và điều 52 công ước viên 1963)
* Khác nhau:
Tiêu chí Quyền ưu đãi miễn trừ của Quyền ưu đãi miễn trừ
viên chức ngoại giao của viên chức lãnh sự
Quyền bất khả Viên chức ngoại giao được Viên chức lãnh sự được
xâm phạm về hưởng quyền bất khả xâm hưởng quyền bất khả
thân thể phạm về thân thể một cách xâm phạm về thân thể trừ
tuyệt đối Họ không thể bị bắt hai trường hợp :
hoặc bị giam giữ dưới bất  Thứ nhất, phạm
kỳ hình thức nào. tội nghiêm trọng
Nước nhận đại diện phải đối theo quy
xử một cách trọng thị và thực định của pháp
hiện những biện pháp thích luật nước tiếp nhận
hợp để ngăn chặn hành vi xâm lãnh sự và bị bắt,
phạm thân thể, tự do và phẩm bị tạm giữ, tạm
giá của viên chức ngoại giao. giam theo quyết
định của cơ quan tư
pháp có thẩm

69
quyền của nước
này.
 Thứ hai, phải thi
hành một bản
án hoặc quyết định
của tòa án đã
có hiệu lực pháp
luật về hình phạt thù
hoặc hình phạt hạn
chế quyền tự do
thân thể.

Quyền miễn trừ – Hình sự: Viên chức ngoại – Hình sự:  Viên chức
xét xử về hình sự, giao được hưởng một cách lãnh sự được quyền miễn
dân sự và xử tuyệt đối quyền miễn trừ xét trừ xét xử về hình sự
phạt vi phạm xử về hình sự ở nước nhận đại trong khi thi hành công
hành chính diện. Chỉ có Chính phủ nước vụ, trừ trường hợp phạm
cử đại diện mới có quyền tội nghiêm trọng;
khước từ quyền này đối với – Dân sự và hành
nhà ngoại giao. Tuy nhiên, chính: được hưởng quyền
việc khước từ này cần phải thể miễn trừ xét xử về dân sự
hiện rõ ràng bằng văn bản. và xử phạt vi phạm hành
– Dân sự: quyền miễn trừ và chính, trừ trường hợp liên
xét xử về dân sự còn hạn chế. quan đến vụ kiện dân sự
Họ không được hưởng quyền về một hợp đồng mà viên
miễn trừ xét xử về dân sự khi chức lãnh sự ký kết với
tham gia với tư cách cá nhân tư cách cá nhân hoặc
và các vụ tranh chấp liên quan về tai nạn giao thông xảy
đến: ra tại nước tiếp nhận lãnh
 Bất động sản tư nhân có sự mà do một nước thứ
trên lãnh thổ nước nhận ba đòi bồi thường thiệt
đại diện. hại.
 Việc thừa kế.
 Hoạt động thương
mại hoăc nghề nghiệp mà
nhà ngoại giao tiến hành
ở nước nhân đại diện,

70
ngoài chức năng chính
thức của mình.
– Hành chính: Viên chức
ngoại giao được hưởng quyền
miễn trừ về xử phạt hành
chính. Trong mọi trường hợp,
họ không bị xử phạt về vi
phạm hành chính. Viên chức
ngoại giao không bắt buộc phải
làm chứng tại cơ quan hành
pháp và tư pháp của nước nhận
đại diện; chính quyền nước sở
tại, về nguyên tắc, không được
áp dụng bất kỳ biện pháp hành
chính nào đối với họ.

Quyền được miễn Viên chức ngoại giao được Viên chức lãnh sự và
thuế thuế và lệ miễn mọi thứ thuế và lệ thành viên gia đình họ
phí phí, trừ thuế và lệ phí đối với được hưởng quyền miễn
bất động sản tư nhân trên lãnh trừ tất cả các loại thuế và
thổ nước nhận đại diện, thuế và lệ phí, trừ thuế và lệ phi
lệ phí đối với những dịch vụ cụ về các dịch vụ cụ thể.
thể.
Quyền miễn trừ Viên chức ngoại giao được Viên chức lãnh sự và các
và ưu đãi hải miễn thuế và lệ phí hải thành viên gia đình của
quan. quan (trừ phí lưu kho, cước họ được hưởng quyền ưu
vận chuyển và cước phí về miễn trừ và ưu đãi hải
những dịch vụ tương tự) đối quan đối với đồ dùng cá
với đồ dùng cá nhân của họ và nhân mang vào nước tiếp
thành viên của gia đình họ. nhận.
Hành lý cá nhân của viên chức Hành lý riêng của viên
ngoại giao được miễn kiểm tra chức lãnh sự và thành
hải quan, trừ khi có cơ sở viên của gia đình họ
khẳng định rằng trong hành lý không bị kiểm tra hải
chứa đựng những đồ vật không quan, trừ trường hợp có
dùng vào công việc của cơ sơ sở xác định rằng trong
quan đại diện ngoại giao và đồ hành lý có chứa đồ vật

71
vật không dùng cho nhu cầu không thuộc đồ dùng cá
của cá nhân cũng như nhu cầu nhân của viên chức lãnh
của thành viên gia đình viên sự và thành viên gia đình
chức ngoại giao hoặc đồ vật của họ, cũng như đồ vật
mà nước nhận đại diện cấm mà nước tiếp nhận lãnh
nhập và cấm xuất. sự cấm xuất và cấm nhập.

Chương 5:
Câu 1: Phân tích khái niệm và đặc điểm của cơ quan tài phán quốc tế.
* Khái niệm: Cơ quán tài phán quốc tế là cơ quan hình thànhtrên cơ sở thỏa
thuận hoặc thừa nhận các chủ thể LQT nhằm thực hiện chức năng giải quyết
bằng trình tự thủ tục tư pháp các tranh chấp này sinhtrong quá trình chủ thể
thực thi, tuân thủ LQT.
* Đặc điểm: Cơ quan tài phán quốc tế chủ yếu bao gồm: Tòa án và trọng
tài.
Hệ thống cơ quan tài phán quốc gia bao gồm tất cả các cơ quan tài phán
trong quốc gia được pháp luật của quốc gia này quy đinh, có chức năng,
nhiệm vụ và thẩm quyền khác nhau nhằm giải quyết tranh chấp phát sinh giữa
các chủ thể của Luật quốc gia.
Câu 2: Trình bày về Tòa án công lý quốc tế của LHQ với các nội dung
sau: cơ cấu tổ chức, thẩm quyền, thủ tục tố tụng tại phiên tòa, giá trị
pháp lý của phán quyết do Tòa án.
* Cơ cấu tổ chức: Tòa án Công lý quốc tế gồm 15 thẩm phán có các quốc
tịch khác nhau. Thẩm phán Tòa án Công lý quốc tế được Đại hội đồng và Hội
đồng Bảo an Liên hợp quốc bầu với nhiệm kỳ 9 năm và cứ mỗi năm bầu lại
1/3 số thẩm phán. Tiêu chuẩn để bầu thẩm phán Tòa án Công lý quốc tế căn
cứ vào năng lực cá nhân, tương quan vị trí địa lý và đại diện cho các hệ thống
pháp luật trên thế giới. Thẩm phán của tòa không được đảm nhiệm chức vụ
chính trị, hành chính hoặc nghề nghiệp nào trong thời gian đương nhiệm. Bên
cạnh các thẩm phán, khi phiên tòa mở ra, các bên tranh chấp có thể lựa chọn
các thẩm phán ad hoc. Thẩm phán ad hoc là thẩm phán do một hoặc các bên
tranh chấp không có thẩm phán mang quốc tịch nước mình trong thành phần
của tòa đề cử tham gia Hội đồng xét xử.
Các phụ thẩm có thể được tòa lựa chọn hoặc theo yêu cầu của các bên tranh
chấp tham gia vào quá trình giải quyết tranh chấp nhằm mục đích tranh thủ
thêm sự đóng góp của các chuyên gia trong lĩnh vực liên quan đến hoạt động

72
của tòa, nhất là trong các lĩnh vực kỹ thuật. Ban thư ký đảm trách các dịch vụ
tư pháp và là bên liên lạc giữa tòa và các bên tranh chấp.
* Thẩm quyền:Tòa ICJ có hai thẩm quyền chính: giải quyết tranh chấp và
cho ý kiến tư vấn. Ngoài ra Tòa còn có các thẩm quyền phái sinh mang tính
thủ tục như thẩm quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
- Thẩm quyền giải quyết tranh chấp:
Tòa có thẩm quyền áp dụng luật pháp quốc tế để giải quyết tất cả các tranh
chấp pháp lý giữa các quốc gia nếu các quốc gia đồng ý với thẩm quyền của
Tòa. Sự đồng ý chấp nhận thẩm quyền của Tòa của tất cả các bên tranh chấp
là cơ sở pháp lý duy nhất để Tòa có thể xác lập thẩm quyền của mình đối với
một tranh chấp cụ thể. Điều này phù hợp với một trong những nguyên tắc
quan trọng của luật pháp quốc tế: không một quốc gia nào bị buộc phải mang
tranh chấp của mình với quốc gia khác ra cơ quan tài phán quốc tế để giải
quyết khi không có sự đồng ý của quốc gia đó.
Sự đồng ý của tất cả các bên tranh chấp có thể được thể hiện bằng nhiều
cách như được trù định ở khoản 1 – 5 của Điều 36 Quy chế Tòa.

 Các quốc gia có thể chấp nhận thẩm quyền của Tòa thông qua việc tham
gia vào điều ước quốc tế có quy định phải chấp nhận thẩm quyền của Tòa
(xem danh sách tại đây).

 Các quốc gia có thể tại bất kỳ thời điểm nào đưa ra tuyên bố chấp nhận
thẩm quyền của Tòa (xem danh sách tại đây, gồm 73 nước trong đó khu vực
Đông Nam Á có Campuchia, Philippines và Đông Timor). Phạm vi chấp nhận
có thể không giới hạn, vô điều kiện hoặc có thể chấp nhận với điều kiện một
hay một số quốc gia nhất định cũng chấp nhận có đi có lại như tế, hoặc giới
hạn về nội dung tranh chấp, quốc gia tranh chấp hoặc thời hạn chấp nhận.

73
 Các quốc gia có ký kết thỏa thuận đặc biệt (special agreement) để chấp
nhận thẩm quyền của Tòa đối với một tranh chấp cụ thể sau khi tranh chấp
phát sinh.
Nói cách khác, thẩm quyền của Tòa có thể xác lập dựa trên quy định của
điều ước quốc tế, tuyên bố của các quốc gia và thỏa thuận đặc biệt. Ngoài ra,
trong một số trường hợp đặc biệt, sự đồng ý chấp nhận thẩm quyền của Tòa
có thể được đưa ra sau khi tuyên bố khởi kiện được đệ trình – trường
hợp forum prorogatum.
- Thẩm quyền cho ý kiến tư vấn:
Thẩm quyền cho ý kiến tư vấn là thẩm quyền chỉ có ở các toà án thường
trực như Toà ICJ và ITLOS mà không có ở các toà trọng tài vụ việc (ad hoc).
Cơ sở pháp lý để Tòa ICJ có thẩm quyền cho ý kiến tư vấn là Điều 96 Hiến
chương Liên hợp quốc. Điều 96 quy định Tòa có thể cho ý kiến tư vấn đối với
bất kỳ câu hỏi pháp lý nào theo yêu cầu của Đại hội đồng và Hội đồng Bảo
an. Điều 96 quy định các cơ quan khác của Liên hợp quốc và các cơ quan
chuyên trách có thể được Đại hội đồng cho phép đệ trình yêu cầu xin ý kiến tư
vấn của Tòa về các câu hỏi pháp lý “phát sinh trong phạm vi hoạt động của
các cơ quan này”. Có hai điều kiện để Tòa có thẩm quyền cho ý kiến tư vấn:
- Cơ quan, tổ chức xin ý kiến có quyền xin ý
- Câu hỏi đặt ra cho Tòa phải là câu hỏi pháp lý.
Câu hỏi pháp lý là câu hỏi “được viết bằng các thuật ngữ pháp lý và nêu lên
các vấn đề của luạt quốc tế … và về bản chất cần trả lời dựa trên luật.” Một
điểm cần chú ý là, khác với quyền xin ý kiến tư vấn không hạn chế của Đại
hội đồng và Hội đồng Bảo an, các cơ quan khác phải thỏa mãn hai điều kiện
tiên quyết:
74
- Được Đại hội đồng cho phép
- Câu hỏi phải nằm trong phạm vi hoạt động của cơ quan xin ý kiến tư vấn.
Năm 1996 Tòa ICJ đã không cho ý kiến tư vấn theo yêu cầu của Tổ chức Y
tế Thế giới (WHO) do câu hỏi mà tổ chức này đưa ra không thuộc phạm vi
hoạt động của mình. Mục đích của việc đưa ra ý kiến tư vấn là làm sáng tỏ về
mặt pháp lý các vấn đề mà các cơ quan, tổ chức này đang xử lý, qua đó, định
hướng được hoạt động của các cơ quan, tổ chức đó.
Một điểm quan trọng cần chú ý là các cơ quan, tổ chức có quyền xin ý kiến
tư vấn của Tòa nhưng Tòa cũng có quyền từ chối không cho ý kiến tư vấn.
Nhưng trường hợp này rất hạn hữu bởi vì một khi cơ quan, tổ chức đã có
quyền xin ý kiến thì với tư cách là cơ quan tư pháp chính của Liên hợp quốc,
Tòa không nên từ chối cho ý kiến tư vấn. Việc từ chối này khác với việc Tòa
không có thẩm quyền cho ý kiến tư vấn; vấn đề có hay không có thẩm quyền
phục thuộc vào việc yêu cầu xin ý kiến tư vấn có thỏa mãn điều kiện ở Điều
96 hay không. Việc từ chối cho ý kiến tư vấn đang nói ở đây là trường hợp
Tòa xét thấy có thẩm quyền nhưng Tòa từ chối thực thi thẩm quyền đó! Việc
từ chối này chỉ có thể khi Tòa xét thấy có lý do xác đáng (compelling
reasons). Một ví dụ mà Tòa đưa ra là nếu việc đưa ra ý kiến tư vấn vi phạm
nguyên tắc rằng không một quốc gia nào có thể bị buộc mang tranh chấp của
mình ra giải quyết ở cơ quan tài phán quốc tế mà không có sự đồng ý của
quốc gia đó.
- Thẩm quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời:
Thẩm quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời được quy định ở Điều 41
Quy chế Tòa. Điều 41 quy định Tòa sẽ có quyền đưa ra, nếu hoàn cảnh yêu
cầu, bất kỳ biện pháp khẩn cấp tạm thời nào nhằm bảo đảm quyền của bất kỳ
75
bên nào trong tranh chấp. Tất cả các bên tranh chấp đều có quyền yêu cầu Tòa
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Để có thể ra lệnh áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, Tòa cần thỏa mãn:
 Tòa có thẩm quyền prima facie đối với vụ việc,

 Quyền mà bên yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời để bảo đảm
phải ít nhất có cơ sở

 Có mối liên hệ giữa quyền đó và biện pháp khẩn cấp tạm thời cụ thể
được yêu cầu áp dụng,

 Thực sự có nguy cơ gây tổn hại không thể khắc phục đối với quyền của
bên yêu cầu

 Tình huống có tính khẩn cấp (urgency).


Biện pháp khẩn cấp tạm thời có thể giống như bên yêu cầu đề nghị hoặc là
biện pháp mà chính Tòa cho rằng thích hợp. Quyết định áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời có hiệu lực ràng buộc đối với các bên. 
* Thủ tục tố tụng:
ICJ tiến hành giải quyết tranh chấp quốc tế theo trình tự đầy đủ hoặc rút
gọn. Thành phần của một phiên tòa là tối thiểu 9 thẩm phán. Trình tự đầy đủ
gồm 2 giai đoạn: giai đoạn tiến hành các thủ tục bổ trợ và giai đoạn xét xử nội
dung vụ việc.
Trong phạm vi chức năng của mình, tòa có thể lập ra ba loại tòa đặc thù: tòa
rút gọn trình tự tố tụng, tòa đặc biệt, tòa ad hoc. Được quy định rất rõ trong
chương III Quy chế Tòa Công lý quốc tế.
Thủ tục xét xử một vụ tranh chấp trước tòa được quy định cụ thể trong quy
chế của Tòa án Công lý quốc tế. Quá trình thụ lý gồm hai giai đoạn: 1, Thủ
tục viết trong đó các quốc gia hoàn thành và trao đổi bị vong lục về lập luận
của từng bên và các lý lẽ luận tội hay bào chữa;
2, Thủ tục nói ( Tranh tụng trước tòa ) trong đó tòa sẽ nghe ý kiến các bên,
các luật sư và cố vấn trong phiên tòa xét xử công khai.

76
Ngoài thủ tục chung gòm hai giai đoạn này cho bất kỳ một vụ tranh chấp
nào đưa ra trước tòa, thủ tục xét xử của tòa theo từng trường hợp sẽ được tiến
hành theo những bước sau:
- Các bên nộp đơn kiện lên Tòa và cử đại diện liên lạc của mình.
- Tòa tiến hành các thủ tục bổ trợ cho thủ tục chính về xét xử nội dung : Tòa
sẽ xem xét xác định thẩm quyền của mình trong từng vụ việc cụ thể được nêu.
Trong từng trường hợp cần thiết, tòa có thể ra những biện pháp bảo đảm tạm
thời cần thiết để bảo vệ quyền lợi cho mỗi bên. Hợp các các vụ án có mục tiêu
tranh chấp chung. Khả năng xử án vắng mặt. Tòa xem xét khả năng can dự
vào vụ việc từ bên thứ ba.
- Tòa xét xử về mặt nội dung của vụ việc
- Ra quyết định cuối cùng phân giải tranh chấp.
* Giá trị pháp lý:
- Phán quyết của tòa được tuyên bố công khai:
 Phán quyết của tòa được trình bày dưới dạng song ngữ, mỗi trang đối nhau
dành cho một ngôn ngữ. Các phán quyết thường có độ dài trung bình là 50
trang cho 1 thứ tiếng (tối thiểu là 10, tối đa 271 trang) Toàn văn của phán
quyết được chia thành các mục nhỏ và được đánh số. Khác với thực tiễn trọng
tài quốc tế, phán quyết của tòa án công lý quốc tế được tuyên bố công khai tại
gian chính của Cung điện hòa bình.
- Phán quyết của tòa mang tính bắt buộc đối với các bên:
Các phán quyết của tòa có giá trị chung thẩm và bắt buộc với các bên.
Nguyên tắc này được áp dụng cho tất cả các phán quyết của Tòa toàn thể cũng
như Tòa rút gọn, cho tất cả các phán quyết chỉ rõ giải pháp cho tranh chấp hay
các nuyên tắc có thể áp dụng cho tất cả các phán quyết có hay không các quy
định về tài chính.
- Phán quyết của tòa không có giá trị ràng buộc với bên thứ 3:
Quyết định của tòa chỉ có giá trị bắt buộc đối với các bên tranh chấp và chỉ
trong vụ án đó ( điều 59 quy chế của tòa). Tuy nhiên có thể nhận thấy rằng
mặc dù phán quyết của tòa không ràng buộc các bên đứng ngoài tranh chấp
nhưng nó có tác động gián tiếp tới các nước này.
Câu 3: Trình bày về Tòa án Luật biển với nội dung sau: cơ cấu tổ chức,
thẩm quyền, thủ tục tố tụng tại phiên tòa, giá trị pháp lý của phán quyết
do tòa án.

* Cơ cấu tổ chức: Số thành viên của Toà án Luật biển quốc tế gồm 21
thành viên, được tuyển chọn trong số các nhân vật nổi tiếng nhất về sự công
bằng và liêm khiết, có năng lực nổi bật trong lĩnh vực luật biển. Nhiệm kỳ của
77
các thành viên là 9 năm và họ đều có quyền tái cử, ở cuộc bầu cử đầu tiên 7
người sẽ mãn nhiệm sau 3 năm, 7 người sẽ mãn nhiệm sau 6 năm và họ được
chỉ định qua rút thăm do Tổng thư ký Liên hợp quốc thực hiện ngay sau cuộc
bầu cử đầu tiên. 

Theo nguyên tắc độc lập xét xử của thẩm phán thì một thành viên của Toà
không được đảm nhiệm bất kỳ một chức vụ chính trị – hành chính nào hay có
bất kỳ một sự liên quan nào về tài chính trong hoạt động khai thác vùng.
Thành viên của Toà cũng không được làm những nhiệm vụ như đại diện, cố
vấn hay luật sư trong bất kỳ một vụ kiện nào. Một toà được coi là hợp lệ khi
có đủ ít nhất 11 thành viên được bầu ngồi xử án.

Cơ cấu Toà án Luật biển quốc tế bao gồm một Chánh án, một Phó Chánh án
do các thành viên của Toà bầu ra với nhiệm kỳ 3 năm và có thể tái đắc cử.
Toà bầu ra Thư ký của Toà và viên chức khác nếu thấy cần thiết. Trong thành
phần của Toà án Luật biển quốc tế còn có Viện giải quyết các vụ tranh chấp
liên quan đến đáy biển, bao gồm 11 thành viên do Toà lựa chọn trong số 21
thành viên đã được bầu của Toà.

* Thẩm quyền: Toà án Luật biển quốc tế có thẩm quyền giải quyết tranh chấp
giữa các quốc gia thành viên cũng như tất các thực thể khác không phải quốc
gia thành viên của Công ước trong tất cả các trường hợp liên quan đến việc
quản lý và khai thác Vùng - Di sản chung của nhân loại. Bên cạnh đó, Toà
còn giải quyết các tranh chấp liên quan đến việc giải thích và áp dụng Công
ước trong lĩnh vực thực hiện các quyền chủ quyền, quyền tài phán của quốc
gia ven biển, quyền tự do của quốc gia khác về hàng hải, hàng không, đặt dây
cáp, ông dẫn ngầm, dối với tài nguyên sinh vật thuộc vùng đặc quyền kinh tế.

* Thủ tục tố tụng: Toà án Luật biển quốc tế giải quyết tranh chấp thông
qua hai thủ tục: thủ tục toàn thể (bao gồm thủ tục viết và thủ tục tranh tụng
công khai) và thủ tục rút gọn. Thủ tục toàn thể đòi hỏi phải có mặt hầu hết các
thẩm phán của Toà. Điều 13, Phụ lục VI Công ước quy định số thẩm phán cần
thiết để mở phiên toà theo thủ tục toàn thể là 11 thẩm phán. Trong những
trường hợp, nếu thấy cần thiết Toà có thể lập ra các Viện đặc biệt gồm ít nhất
3 thành viên được bầu để xét xử một loại vụ kiện nhất định theo thủ tục rút
gọn. Mỗi năm Toà còn lập ra một viện gồm 5 thành viên được bầu để xét xử
theo thủ tục rút gọn nhằm giải quyết nhanh các vụ kiện.

78
* Giá trị pháp lý: Toà án Luật biển quốc tế thông qua phán quyết theo đa
số. Nếu số phiếu thuận và số phiếu chống ngang nhau thì lá phiếu của Chánh
án hay người thay Chánh án chủ toạ phiên toà là lá phiếu quyết định. Phán
quyết của Toà mang tính chung thẩm có giá trị bắt buộc đối với tất cả các bên
trong vụ tranh chấp và đối với trường hợp đã được quyết định. Trong trường
hợp có sự tranh cãi về ý nghĩa và phạm vi của phán quyết thì Toà có trách
nhiệm giải thích theo yêu cầu của bất kỳ bên nào.
Câu 4: Phân biệt thẩm quyền giải quyết tranh chấp quốc tế theo quy chế
hoạt động của Tòa án công lý quốc tế của LHQ và thẩm quyền giải quyết
tranh chấp quốc tế theo quy chế hoạt động của Tòa án Luật biển.

*Thẩm quyền giải quyết tranh chấp quốc tế theo quy chế hoạt động của
Tòa án công lý quốc tế của LHQ:

- Chấp nhận thẩm quyền của Tòa theo từng vụ việc. Trong mọi trường hợp,
các quốc gia tranh chấp sẽ ký một hiệp ước, được gọi là thỉnh cầu, đề nghị
Tòa xem xét phân giải tranh chấp. Trong thỏa thuận này, các quốc gia nêu rõ
đối tượng tranh chấp, các câu hỏi cần giải quyết, phạm vi thẩm quyền của
Tòa, phạm vi luật áp dụng và thực hiện bằng đường ngoại giao.

- Xác lập trước thẩm quyền của Tòa trong nội dung của các Điều ước quốc
tế (đến nay đã có hơn 400 Điều ước có điều khoản mang nội dung này).

- Quốc gia sẽ tuyên bố đơn phương chấp nhận trước thẩm quyền của Tòa.
Nếu hai quốc gia tranh chấp đều có tuyên bố đơn phương và các tuyên bố này
có cùng phạm vi hiệu lực đối với tranh chấp cụ thể thì Tòa có thẩm quyền xét
xử tranh chấp đó.

* Thẩm quyền giải quyết tranh chấp quốc tế theo quy chế hoạt động của
Tòa án Luật biển:

Tòa có thẩm quyền giải quyết tất cả các tranh chấp giữa các thành viên của
Công ước LHQ về Luật Biển năm 1982 liên quan đến áp dụng và giải thích
Công ước, là cơ chế giải quyết tranh chấp có tính chất bắt buộc đối với các
thành viên Công ước. Theo quy định này, khi phát sinh tranh chấp liên quan
đến áp dụng và giải thích Công ước mà các bên không lựa chọn cùng một cơ
chế giải quyết tranh chấp được quy định tại khoản 1 Điều 287 thì một bên
tranh chấp có thể đưa vụ việc ra Tòa Trọng tài theo Phụ lục VII và trong
79
trường hợp này Tòa có thẩm quyền đương nhiên mà không cần sự đồng ý của
bên kia.

Chương 6:

Câu 1: Phân tích khái niệm trách nhiệm pháp lý quốc tế. Trách nhiệm
pháp lý quốc tế gồm những loại nào?
* Khái niệm: Trách nhiệm pháp lý quốc tế là hậu quả pháp lí phát sinh đối
với chủ thể luật quốc tế do hành vi vi phạm pháp luật quốc tế.
* Trách nhiệm pháp lý quốc tế gồm những loại: nghĩa vụ của bên vi phạm
phải chấm dứt hành vi vi phạm, bồi thường những thiệt hại đã gây ra và quyền
của bên bị hại yêu cầu bên gây thiệt hại phải bổi thường những lợi ích vật chất
và phi vật chất đã mất.
Câu 2: So sánh trách nhiệm pháp lý quốc tế do vi phạm pháp luật quốc
tế ( TNPL quốc tế chủ quan) và trách nhiệm vật chất đối với thiệt hại gây
ra bởi hành vi LQT không cấm ( TNPL quốc tế khách quan).
* Giống nhau:

- Quốc gia được coi là chủ thể cơ bản của trách nhiệm pháp lý quốc tế.

- Hành vi lỗi không được coi là yếu tố xác định trách nhiệm pháp lý.

- Đều có hình thức bồi thường vật chất khi thực hiện trách nhiệm pháp lý.

* Khác nhau:

Tiêu chí Trách nhiệm pháp lý chủ Trách nhiệm pháp lý


quan khách quan

1. Khái niệm Là trách nhiệm đối với thiệt Là trách nhiệm đối với
hại gây ra bởi hành vi vi phạm thiệt hại gây ra bởi hành
pháp luật quốc tế. vi luật quốc tế không
cấm.

2. Cơ sở pháp lý - Dựa trên cơ sở của các quy - Có quy phạm pháp lý


phạm pháp luật: Điều ước quốc quy định quyền và nghĩa
80
tế, tập quán pháp, quyết định vụ tương ứng trong
của Tòa án và trọng tài quốc tế, trách nhiệm khách quan.
các văn bản của tổ chức quốc
tế và văn bản đơn phương của
quốc gia.

3. Cơ sở thực tiễn - Có hành vi trái pháp luật. - Có sự kiện là phát sinh


hiệu lực áp dụng của các
- Có thiệt hại thực tế xảy ra (về quy phạm pháp lý nêu
vật chất và tinh thần). trên.

- Có mối quan hệ nhân quả - Có thiệt hại vật chất


giữa hành vi trái pháp luật và phát sinh.
thiệt hại xảy ra.
- Là loại thiệt hại nằm
ngoài ý chí của chủ thể
sử dụng, bất chấp các
biện pháp đảm bảo mà
quốc gia hữu quan đã áp
dụng trong khi sử dụng.

4. Phạm vi mức độ - Phạm vi hẹp hơn - Trong nhiều trường


thiệt hại hợp có vi phạm vì mức
độ thiệt hại rất lớn

5. Các hình thức - Ngoài trách nhiệm vật chất - Trách nhiệm vật chất ít
trách nhiệm còn có trách nhiệm phi vật chất được đề cập.
và các hình thức tương ưng.

6. Nghĩa vụ bồi - Có trường hợp được miễn - Nghĩa vụ bồi thường


thường trách nhiệm pháp lý quốc tế của quốc gia gây thiệt
(không phải bồi thường). hại là nghĩa vụ bắt buộc.

7. Cách thức khắc - Khôi phục lại nguyên trạng. - Đề bù bằng tiền hoặc
81
phục hậu quả - Bồi thường vật chất (bằng tài hiện vật.
sản hoặc bằng tiền tương
đương với tài sản bị thiệt hại). - Việc bồi thường này
phải tương xứng với
- Bồi thường thiệt hại phi vật thiệt hại xảy ra và phải
chất và các hình thức tương bồi thường toàn bộ.
ứng.
- Sự bồi thường này bao
gồm cả thiệt hại thực tế
và những chi phí để
khác phụ thiệt hại.

Chương 7:

Câu 1: Phân tích khái niệm về đối tượng điều chỉnh của Tư pháp quốc
tế.
Đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế là những quan hệ dân sự, hôn nhân
và gia đình, quan hệ lao động, quan hệ thương mại và tố tụng dân sự có yếu tố
nước ngoài. 
Các quan hệ giữa công dân với công dân và các quan hệ giữa công dân với
pháp nhân hay giữa pháp nhân với pháp nhân của các quốc gia trên thế giới
luôn có những sự phức tạp bởi nó vô cùng phong phú. Những vấn đề liên
quan tới mối quan hệ giữa công dân với công dân và các quan hệ giữa công
dân với pháp nhân hay giữa pháp nhân với pháp nhân của các quốc gia trên
thế giới chính là những đối tượng điều chỉnh của luật tư pháp quốc tế.
Các quan hệ, các đối tượng mà luật tư pháp điều chỉnh như sau:
+ Một là, trường hợp có người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài hoặc
người Việt Nam ở nước ngoài tham gia. Người nước ngoài là những người
mang quốc tịch nước ngoài nhưng không đồng thời mang quốc tịch Việt Nam
và người không quốc tịch
Ví dụ trong trường hợp này như sau: các quan hệ phát sinh giữa những đối
tượng là công dân nước ngoài nhưng hiện tại đang sinh sống và làm việc, học
tập trên lãnh thổ Việt Nam, giữa những đối tượng là công dân Việt Nam mang
quốc tịch Việt Nam nhưng cũng đang sinh sống học tập hay làm việc tại lãnh
thổ quốc gia khác
+ Hai là, khách thể của quan hệ đó ở nước ngoài.
82
Ví dụ trong trường hợp này như sau: Trong trường hợp công dân Việt Nam
mang quốc tịch Việt Nam nhưng lại có  tài sản ở nước ngoài. Khi công dân
này chết thì là đối tượng của quan hệ nằm ở nước ngoài đó di sản thừa kế của
người này ở nước ngoài

+Ba là, sự kiện pháp lý là căn cứ xác lập, thay đổi , chấm dứt quan hệ đó
xảy ra ở nước ngoài

Ví dụ trong trường hợp này như sau như hai công dân Việt Nam mang quốc
tịch Việt Nam, tuy nhiên trong quá trình cùng chung sống học tập hay làm
việc ở nước ngoài lại thực hiện thủ tục kết hôn tại nước ngoài.

Như vậy, qua đây ta có thể thấy đối tượng điều chỉnh của Tư pháp quốc tế
là những quan hệ dân sự, quan hệ hôn nhân, và gia đình, quan hệ về lao động,
quan hệ về thương mại và tố tụng dân sự nhưng có yếu tố nước ngoài. Đối
tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế khá rộng và bao trùm hầu hết các quan
hệ chỉ cần những quan hệ đó liên quan tới yếu tố nước ngoài.

Câu 2: Trình bày phương pháp điều chỉnh Tư pháp quốc tế. Phân biệt
phương pháp xung đột và phương pháp thực chất trong việc điều chỉnh
quan hệ tư pháp quốc tế.

Có 2 phương pháp điều chỉnh Tư pháp quốc tế là: phương pháp xung đột và
phương pháp thực chất.

* Phương pháp xung đột: phương pháp sử dụng quy phạm xung đột nhằm
xác định hệ thống pháp luật nước nào sẽ được áp dụng trong việc điều chỉnh
quan hệ tư pháp quốc tế cụ thể.

- Quy phạm thực chất là quy phạm định sẵn các quyền, nghĩa vụ, biện
pháp chế tài đối với các chủ thể tham gia quan hệ TPQT xảy ra, nếu có sẵn
quy phạm thực chất để áp dụng thì các đương sự cũng như cơ quan có thẩm
quyền căn cứ ngay vào quy phạm để xác định được vấn đề mà họ đang quan
tâm mà không cần phải thông qua một khâu trung gian nào.

Trong thực tiễn việc điều chỉnh các quan hệ tư pháp quốc tế được áp dụng
bởi các quy phạm thực chất thống nhất là quy phạm thực chất được xay dựng

83
bằng cách các quốc gia kí kết, tham gia các ĐƯQT hoặc chấp nhận và sử
dụng tập quán quốc tế.
 Tính ưu việt: làm cho mối quan hệ tư pháp quốc tế được điều chỉnh
nhanh chóng, các vấn đề cần quan tâm được xác định ngay, các chủ thể của
quan hẹ đó và các cơ quan có thẩm quyền khi gây tranh chấp sẽ tiết kiệm
được thời gian tránh được việc tìm hiểu pháp luật nước ngoài là một vấn đề
phức tạp.
 Hạn chế: số lượng ít không đáp ứng được yêu cầu điều chỉnh quan hệ tư
pháp quốc tế.
* Phương pháp xung đột: là phương pháp sử dụng quy phạm xung đột nhằm
xác định hệ thống pháp luật nước nào sẽ được áp dụng trong việc điều chỉnh
quan hệ TPQT cụ thể.
Phương pháp xung đột là phương pháp sử dụng quy phạm xung đột nhằm xác
định hệ thống pháp luật nước nào sẽ được áp dụng trong việc điều chỉnh quan
hệ tư pháp quốc tế cụ thể.
Quy phạm xung đột: không quy định sẵn các quyền, nghĩa vụ các biện pháp
chế tài đối với các chủ thể tham gia tư pháp quốc tế mà nó chỉ có vai trò xác
định hệ thống pháp luật nước nào sẽ được áp dụng.
Quy phạm xung đột được xây dựng bằng cách các quốc gia tự ban hành hệ
thống pháp luật của nước mình (gọi là quy phạm xung đột trong nước) ngoài
ra nó còn được xây dựng bằng cách các quốc gia kí kết các ĐƯQT (quy phạm
xung đột thống nhất).
Phương pháp điều chỉnh gián tiếp là đặc trưng cơ bản của tư pháp quốc tế
 Ưu điểm: việc xây dựng các QPXD đơn giản dẽ dàng hơn QPTC vì nó
hài hòa được lợi ích của các quóc gia có tính bao quát và toàn diện hơn. Mang
tính  đặtc thù QHTPQT giúp các cơ quan có thẩm quyền xác định được hệ
thống pháp luật cần được áp dụng để điều chỉnh quan hệ dân sự có yêu tố
nước ngoài đó.
 Nhược điểm: không giải quyết cụ thể quyền và nghĩa vụ của các bên
trong quan hệ của tư pháp quóc tế mà chỉ làm động tác trung gian là dẫn chiếu
đến 1 hệ thống pháp luật của 1 nước khác.
- Khi quy phạm xung đột dẫn chiếu đến áp dụng pháp luật nước ngoài
thì tòa án các cơ quan có thẩm quyền phải đối mặt với những vấn đề hết sức
phức tạp như xác định nội dung luật nước ngoài giải thích,…..
- Việc áp dụng pháp luật nước ngoài không phải lúc nào cơ quan có thẩm
quyền cũng xác đinh được hệ thóng pháp luật cần dược áp dụng mà có thể dẫn

84
đến ác trường hợp dẫn chiếu ngược và dẫn chiếu đến pháp luật của nước thứ 3
hay các nước vận dụng bảo lưu trật tự công cộng.
* Phương pháp xung đột là đặc trưng cơ bản của TPQT vì: Chỉ có tư
pháp quốc tế mới sử dụng phương pháp này, các ngày luật khác không áp
dụng phương pháp điều chỉnh gián tiếp: luật hình sự, luật dân sự khi điều
chỉnh cấc quan hệ thuộc đối tượng điều chỉnh của nó sẽ áp dụng các QPPL
trong BLHS, BLDS mà không phải xác định xem luật của nước nào khác sẽ
được áp dụng.
Câu 3: Trình bày những vấn đề pháp lý về pháp nhân nước ngoài trong
TPQT, bao gồm; khái niệm, địa vị pháp lý.
*Khái niệm:Hiện nay, thuật ngữ người nước ngoài được sử dụng rộng rãi ở
các nước khác cũng như ở Việt Nam hiện nay và nó được hiểu rất rộng bao
hàm như sau:
 Người mang một quốc tịch nước ngoài;
 Người mang nhiều quốc tịch nước ngoài.
 Người không quốc tịch.
 Theo khoản 2 Điều  3 Nghị định 138 quy định chi tiết thi hành các quy
định của BLDS về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Thì 2. “Người nước
ngoài” là người không có quốc tịch Việt Nam, bao gồm người có quốc tịch
nước ngoài và người không quốc tịch.
* Địa vị pháp lý:Là tổng thể các quyền và nghĩa vụ của người nước ngoài
khi sinh sống cư trú làm ăn ở Việt Nam.
Quyền:
- Quyền cư trú đi lại trong pháp lệnh nhập cảnh xuất cảnh 2000 cho phép
người nước ngoài tự do đi lại cư trú trên lãnh thổ Việt Nam trừ một số lĩnh
vực an ninh..
- Quyền hành nghề: cho phép người nước ngoài tự do lựa chọn nghề nghiệp
trong khuôn khổ pháp luật. Tuy nhiên hạn chế người nước ngoài làm việc
trong một số ngành nghề an ninh quốc phòng.
- Được phép làm luật sư tư vấn pháp luật VN với điều kiện học qua trường
Đại học Luật việt nam.
- Được quyền sở hữu và thừa kế.
- Quyền được học tập: cho họ tự do lựa chọn các trường tuy nhiên hạn chế
một số trường liên quán đến anh ninh quốc phòng.

85
- Quyền tác giả và sở hữu công nghiệp: thể hiện rõ Điều 774 và Điều 775.
- Lĩnh vực hôn nhân - gia đình cho phép họ kết hôn nuôi con nuôi bình
đẳng đảm bảo quyền lợi cho phụ nữ và trẻ em.
- Quyền tố tụng dân sự; áp dụng chế độ đãi ngộ quốc gia theo Điều 465
BLTTDS 2015 thì người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài khi khởi kiện ở
tòa án Việt Nam được Nhà nước Việt Nam cho hưởng chế độ đối xử quốc gia
trong tố tụng dân sự.
Nghĩa vụ: Tôn trọng pháp luật Việt Nam, tôn trọng phong tục tập quán,
truyền thống tín ngưỡng của VN và khi Người nước ngoài vi phạm pháp luật
thì tùy theo tính chất vi phạm họ có thể bị xử phạt, bị trục xuất trước thời hạn
và thậm chí truy cứu trách nhiệm hình sự.
Câu 4: Tại sao nói quốc gia là chủ thể đặc biệt của Tư pháp Quốc tế?
Cở sở để xác định quy chế pháp lý đặc biệt của quốc gia trong TPQT là
gì?
* Quốc gia là chủ thể đặc biệt của Tư pháp Quốc tế vì: khi tham gia vào
các mối quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài, quốc gia được
hưởng quy chế pháp lý đặc biệt (các quyền miễn trừ của quốc gia).
* Cơ sở xác định quy chế pháp lý đặc biệt của quốc gia trong TPQT
Khi tham gia vào các mối quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước
ngoài, quốc gia được hưởng quy chế pháp lý đặc biệt - không những không
ngang hàng với các cá nhân và pháp nhân mà còn được hưởng quyền miễn
trừ tư pháp.
- Cơ sở pháp lý quốc tế của quy chế pháp lý đặc biệt của quốc gia thể hiện ở
việc xác định quốc gia là một thực thể có chủ quyền và là chủ thể đặc biệt
trong TPQT, được thể hiện ở các nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia và
bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia.
Theo nguyên tắc này, Nhà nước này hoặc bất kì cơ quan nào của nhà nước
này không có quyền xét xử nhà nước khác hoặc đại diện của Nhà nước khác.
Khi tham gia vào các quan hệ tư pháp quốc tế, quốc gia được hưởng quyền
miễn trừ tư pháp tuyệt đối. được ghi nhận: Công ước Viên 1961 về quan hệ
ngoại giao.
Ở Việt Nam, Điều 12 Pháp lệnh về quyền ưu đãi, miễn trừ dành cho cơ
quan đại diện ngoại giao cơ quan lãnh sự và cơ quan đại diện của các tổ chức
quốc tế tại Việt Nam năm 1993.
* Nội dung:

86
- Quyền miễn trừ tư pháp tuyệt đối của quốc gia thể hiện trước hết ở quyền
miễn trừ xét xử - toà án của quốc gia này không có quyền xét xử quốc gia kia,
nếu quốc gia kia không cho phép.
- Quyền miễn trừ tư pháp tuyệt đối của quốc gia còn thể hiện ở chỗ: nếu
quốc gia đồng ý cho toà án nước ngoài xét xử vụ tranh chấp mà quốc gia là
bên bị đơn thì toà án nước ngoài được xét xử, nhưng không được phép áp
dụng các biện pháp cưỡng chế sơ bộ đối với đơn kiện hoặc bảo đảm thi hành
phán quyết của toàn án. Toà án nướ ngoài chỉ được phép cưỡng chế khi được
quốc gia đó cho phép.
– Quốc gia có quyền đứng tên nguyên đơn trong vụ tranh chấp dân sự với
cá nhân hoặc pháp nhân nước ngoài. Trong trường hợp đó toà án nước ngoài
được phép giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, bị đơn là cá nhân, pháp nhân
nước ngoài chỉ được phép phản kiện khi được quốc gia nguyên đơn đồng ý.
- Quốc gia có quyền từ bỏ từng nội dung hoặc tất cả các nội dung của quyền
miễn trừ này. Quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia là tuyệt đối ở mọi nơi, mọi
lúc, trừ trường hợp quốc gia tự nguyện từ bỏ.
* Cở sở để xác định quy chế pháp lý đặc biệt của quốc gia trong TPQT:
Chương 8:
Câu 1: Xung đột pháp luật là gì? Hãy phân tích nguyên nhân dẫn tới
xung đột pháp luật?
* Khái niệm:
Trước khi tìm hiểu nguyên nhân và phạm vi có xung đột pháp luật, ta tìm hiểu
như thế nào là xung đột pháp luật. Hiện nay, hiểu một cách chung nhất “xung
đột pháp luật là hiện tượng hai hay nhiều hệ thống pháp luật của các nước
khác nhau cùng có thể được áp dụng để điều chỉnh một quan hệ dân sự theo
nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài (quan hệ tư pháp quốc tế).”
      Như vậy theo khái niệm trên, xung đột pháp luật không được hiểu là sự
xung khắc hay sự khác biệt giữa hệ thống pháp luật, đó là một hiện tượng
riêng có, hiện tượng đặc thù của tư pháp quốc tế, sẽ xuất hiện khi có hai hệ
thống pháp luật hoặc nhiều hệ thống pháp luật cũng có thể điều chỉnh một
quan hệ tư pháp quốc tế.
* Nguyên nhân:
Như vậy, xung đột pháp luật là hiện tượng đặc thù của tư pháp quốc tế, nó
xuất phát do hai nhóm nguyên nhân:
- Nguyên nhân khách quan
      Thứ nhất, do pháp luật các nước có sự khác nhau

87
     Pháp luật do nhà nước xây dựng nên, phù hợp với các điều kiện chính
trị, xã hội… của nước mình. Vì vậy, có rất nhiều yếu tố làm cho pháp luật của
các nước trên thế giới không giống nhau, đó có thể là:
     Do nguyên nhân chính trị, kinh tế, xã hội: Các quốc gia đều tồn tại dựa
trên một nền tảng kinh tế nhất định với một chế độ sở hữu tương ứng. Mà chế
độ sở hữu là một bộ phận của cơ sở hạ tầng, có mối quan hệ biện chứng với
kiến trúc thượng tầng trong đó pháp luật là một cấu thành quan trọng. Vì vậy,
dựa trên một chế độ sở hữu nhất định thì pháp luật cũng được hình thành để
phản ứng một cách phù hợp và tương xứng.
     Sự khác nhau giữa hệ thống pháp luật các nước còn có thể từ các nguyên
nhân khác như tập quán, truyền thống, tín ngưỡng, tôn giáo, bởi cách giải
thích pháp luật khác nhau, áp dụng pháp luật khác nhau và hơn nữa là trình độ
phát triển ở các nước là không đồng đều…
     Do sự khác biệt giữa các nước về kinh tế, chính trị, xã hội: theo quan
điểm của triết học Mác – Lenin, giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
có mối quan hệ biện chứng với nhau. Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc
thượng tầng, kiến trúc thượng tầng có sự tác động trở lại cơ sở hạ tầng. Do đó,
đối với mỗi quốc gia sự phát triển kinh tế là khác nhau chính vì vậy dẫn đến
các yếu tố về hệ thống pháp luật, chính trị là khác nhau; các nước đều có
những quan điểm về chính trị, pháp quyền, đạo đức, tôn giáo… là khác nhau
do đó cũng có sự khác biệt trong sự vận động của nền kinh tế. Nếu nền kinh tế
phát triển kéo theo cả một hệ thống pháp luật được xây dựng hoàn thiện, phát
triển và ngược lại nếu nền kinh tế lạc hậu, kém phát triển thì hệ thống pháp
luật cũng có những yếu kém, hạn chế nhất định. sự dung hòa trong việc giải
quyết các vấn đề phát sinh trong quan hệ tư pháp quốc tế có thể được giải
quyết nếu các nước có sự phát triển tương đương về mặt kinh tế, xã hội.
Chính những sự khác biệt về kinh tế, chính trị, xã hội đã tạo ra một rào cản
trong việc áp dụng pháp luật để giải quyết chung một vấn đề phát sinh giữa
các nước.
     Như vậy, nếu pháp luật các nước không có sự khác nhau thì không có
hiện tượng hai hay nhiều hệ thống pháp luật cũng có thể điều chỉnh quan hệ.
      Thứ hai, do quan hệ tư pháp quốc tế luôn có yếu tố nước ngoài
      Các quan hệ mà tư pháp quốc tế điều chỉnh là các quan hệ dân sự theo
nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài thuộc đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc
tế . Chính yếu tố nước ngoài đã làm cho  các quan hệ này liên quan tới ít nhất
là hai quốc gia, hai hệ thống pháp luật mà quốc gia dù lớn dù nhỏ đều độc lập
và bình đẳng với nhau. Các hệ thống pháp luật là bình đẳng với nhau nên các

88
hệ thống pháp luật đó đều có thể được áp dụng để điều chỉnh một quan hệ,
một quan hệ trong tư pháp quốc tế tương ứng và hầu hết các quốc gia đều
chấp nhận việc có thể áp dụng pháp luật nước ngoài để điều chỉnh lực này.
Quyết định sử dụng hệ thống pháp luật nào chính là vấn đề cần giải quyết.
Khoa học tư pháp quốc tế gọi đó là hiện tượng xung đột pháp luật.
- Nguyên nhân chủ quan
     Nguyên nhân chủ quan là do có sự thừa nhận khả năng áp dụng pháp
luật nước ngoài của nhà nước . Thực tế có những quan hệ pháp luật nảy sinh,
mặc dù hệ thống pháp luật của các nước là khác nhau, cũng có sự xuất hiện
của yếu tố nước ngoài tức là thỏa mãn hai điều kiện của nguyên nhân khách
quan nói trên, nhưng vẫn không có xung đột pháp luật. Đó là những quan hệ
trong lĩnh vực công như hình sự, hành chính, dù có yếu tố nước ngoài nhưng
không xảy ra hiện tượng xung đột pháp luật. Sỡ dĩ như vậy do đây là những
quan hệ trong lĩnh vực công, việc áp dụng pháp luật nước ngoài có thể gây
mất ổn định của an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, có thể đánh mất đi
những giá trị cốt lõi, nền tảng của chính mình. Nói một cách khác, nếu thừa
nhận có xung đột pháp luật trong lĩnh vực công thì đồng nghĩa với việc  có thể
chấp nhận pháp luật nước ngoài, và điều đó là một điều hết sức lý và không
thực tiễn không chỉ đối với Việt Nam mà với tất cả các nước.
      Trong khi đó, các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài
sẽ phát sinh hiện tượng xung đột pháp luật. Do bản chất của các quan hệ này
là quan hệ dân sự, các quan hệ đời thường diễn ra hằng ngày giữa người dân
với nhau, họ là các chủ thể ngang quyền và bình đẳng với nhau. Chính yếu tố
bình đẳng trong quan hệ này là cơ sở để có thể đặt ra vấn đề bình đẳng trong
luật pháp giữa các nước  và khi quan hệ liên quan đến nhiều quốc gia  thì
nhiều hệ thống pháp luật tương ứng sẽ có thể được cân nhắc  áp dụng để điều
chỉnh quan hệ cụ thể đang xem xét, tức là có xung đột pháp luật. Nói cách
khác, do đặc trưng của quan hệ dân sự không “ nghiêm trọng” mà các quốc
gia đều thừa nhận khả năng có thể áp dụng pháp luật nước ngoài với những
điều kiện nhất định.  Đây là điều kiện cần và đủ để hiện tượng xung đột pháp
luật tồn tại trong các quan hệ tư pháp quốc tế.
      Như vậy, lý do khách quan là tiền đề quan trọng để xuất hiện hiện tượng
xung đột pháp luật, lý do chủ quan là lý do quyết định có tồn tại quan hệ xung
đột pháp luật hay không. Nếu lý do khách quan được đáp ứng, quan hệ lại rơi
vào nhóm được nhà nước thừa nhận có thể áp dụng pháp luật nước ngoài thì
xung đột pháp luật nảy sinh quan hệ thuộc đối tượng điều chỉnh của tư pháp
quốc tế. Nếu lý do khách quan thỏa mãn nhưng lại không có sự đồng ý cho áp

89
dụng pháp luật nước ngoài trong loại quan hệ đó thì hiện tượng xung đột pháp
luật cũng không thể nảy sinh như các quan hệ trong lĩnh vực luật công có yếu
tố nước ngoài.
Câu 2: Trình bày về phương pháp giải quyết xung đột pháp luật. Phân
biệt phương pháp xung đột và phương pháp thực chất trong việc giải
quyết xung đột pháp luật.
* Phương pháp giải quyết xung đột pháp luật:
1, Phương pháp thực chất
Phương pháp thực chất được xây dựng trên cơ sở hệ thống các quy phạm
thực chất trực tiếp giải quyết các quan hệ dân sự quốc tế, điều này có ý nghĩa
là nó trực tiếp phân định quyền và nghĩa vụ rõ ràng giữa các bên tham gia
quan hệ. Các quy phạm thực chất này thể hiện dưới hai hình thức:
+ Trong các điều ước quốc tế (quy phạm thực chất thống nhất): Đây là
trường hợp mà quy phạm thực chất đã được nhất thể hóa trong các điều ước
quốc tế. Trong quá trình hợp tác quốc tế về mọi mặt: kinh tế, thương mại, kỹ
thuật, văn hóa, giao thông vận tải… Hay có thể nói rằng đây là quá trình quốc
tế hóa đời sống KT-XH giữa các nước.
+ Trong các văn bản pháp luật của một quốc gia (quy phạm thực chất trong
nước). Ví dụ: Luật đầu tư, Luật về chuyển giao công nghệ…
a, Ưu điểm:Nhìn chung việc sử dụng phương pháp thực chất chính là việc
các cơ quan có thẩm quyền giải quyết cũng như các bên tham gia quan hệ Tư
pháp quốc tế sẽ chiếu theo các quy phạm thực chất đã được quy định sẵn
trong các điều ước quốc tế hoặc đã được quy định trong luật quốc gia để chiếu
xem xét và giải quyết các xung đột. Điều này có nghĩa là sẽ trực tiếp áp dụng
quy phạm đó để giải quyết mà loại trừ việc phải chọn luật và áp dụng luật
nước ngoài.
- Qua đây ta có thể thấy phương pháp này có ưu điểm hơn so với phương
pháp xung đột đó là nó giải quyết trực tiếp các quan hệ và nó chỉ áp dụng
trong các quan hệ, lĩnh vực cụ thể. Do đó, mà phương pháp này sẽ giúp cho
việc giải quyết các xung đột được nhanh chóng hơn, do không phải qua giai
đoạn chọn hệ thống luật và các quy phạm của hệ thống luật đó để giải quyết.
- Hơn nữa, do phương pháp này chỉ sử dụng đối với các bên tham gia quan
hệ cụ thể trong các không gian giới hạn và đôi khi chỉ áp dụng với các chủ thể
cụ thể. Vì thế mà các chủ thể này thường biết trước các điều kiện pháp lý đó,
để hợp tác với nhau trong các quan hệ, tránh được các xung đột xảy ra.
- Phương pháp này còn điều chỉnh trực tiếp bằng cách các quốc gia kí kết
điều ước quốc tế mà trong các điều ước quốc tế đó tồn tại các quy phạm thực

90
chất thống nhất, vì vậy nó đã làm tăng khả năng điều chỉnh hữu hiệu của luật
pháp, tính khả thi cao hơn, loại bỏ được sự khác biệt, thậm chí mâu thuẫn
trong luật pháp giữa các nước với nhau.
b, Nhược điểm:
Các quy phạm thực chất, do tính cụ thể và trực tiếp của phương pháp mà
đôi khi nó không thể trù liệu được hết các lĩnh vực cũng như quan hệ phát
sinh.
Không những thế, phần lớn giữa các quốc gia có điều kiện kinh tế-chính
trị-xã hội khác nhau do đó việc xây dựng một quy phạm thực chất thống nhất
chung giữa các quốc gia là điều không hề đơn giản. Vì để đi đến thống nhất ý
chí giữa các bên còn phải tốn rất nhiều thời gian và công sức.
Bên cạnh đó, để có thể đi đến kí kết được các quy phạm thực chất, không
đơn giản các quốc gia chỉ ngồi lại với nhau mà đôi bên còn phải bỏ ra một
lượng chi phí nhất định mới có thế bảo đảm quy phạm thực chất được xây
dựng thành công. Trong khi đó, điều kiện kinh tế các quốc gia không phải lúc
nào cũng cho phép. Do vậy, càng thêm khó khăn cho việc xây dựng các quy
phạm này
2, Phương pháp xung đột
Phương pháp xung đột được hình thành khá sớm và xây dựng trên nền tảng
hệ thống các quy phạm xung đột của các quốc gia (kể cả QPXĐ trong các
ĐƯQT mà quốc gia đó là thành viên), đó là hệ thống tổng thể các QPXĐ của
nước mà tòa án ở đó có thẩm quyền giải quyết (theo nguyên tắc Lex fori).
QPXĐ là quy phạm mang tính chất dẫn chiếu, ấn định luật pháp nước nào cần
phải áp dụng để giải quyết QHPL dân sự có yếu tố nước ngoài trong một tình
huống thực tế. Vì vậy cơ quan có thẩm quyền giải quyết phải chọn ra một hệ
thống pháp luật của nước này hay nước kia có liên đới tới yếu tố nước ngoài
đề xác định quyền và nghĩa vụ giữa các bên đương sự.
a, Ưu điểm:
- Xuất phát từ đặc điểm của QPXĐ có thể thấy phương pháp xung đột
mang tính chất chung, gián tiếp giải quyết các quan hệ cụ thể. Việc xây dựng
các QPXĐ có một ý nghĩa quan trọng trong TPQT hiện nay, cụ thể: Trong
điều kiện hiện nay khi mà nền KT-CT các quốc gia ngày càng phát triển, đòi
hỏi các nước phải có quan hệ mật thiết với nhau. Và lúc đó, việc bảo hộ cho
công dân nước nước mình tại nước ngoài cũng như trong nước sẽ là một vấn
đề cần phải được đặt lên hàng đầu. Đặc biệt, các quan hệ pháp luật dân sự,
thương mại, gia đình, lao động có yếu tố nước ngoài thuộc đối tượng điều
chỉnh của TPQT là những quan hệ luôn có tính chất vượt ra khỏi “biên giới”

91
của quốc gia hay nói cách khác nó luôn luôn liên quan đến một hoặc nhiều
quốc gia khác.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy mỗi quốc gia có một chế độ chính trị, văn hóa
và trình độ phát triển khác nhau kể cả có cùng chế độ chính trị, vì vậy khó
khăn nằm ở chỗ hệ thống pháp luật của các quốc gia cũng sẽ khác nhau khi
quy định về cùng một vấn đề. Chẳng hạn, về độ tuổi kết hôn: ở Việt Nam là
18 tuổi với nữ, 20 tuổi với nam, nhưng ở Trung Quốc thì tuổi này là 20 và 22,
còn ở Pháp là 16 và 18, riêng nước Anh thì cả nam và nữ đều là 16. Do đó,
việc thừa nhận QPXĐ là công cụ chủ yếu để thiết lập và bảo đảm một trật tự
pháp lý trong QHPL dân sự quốc tế. Chính vì thế, phương pháp xung đột
được sử dụng cả ở các nước theo hệ thống luật thực định (VD: các nước châu
Âu lục địa như Đức, Pháp…), cũng như ở các nước theo hệ thống luật thực
hành (VD: Anh, Pháp…).
- Phương pháp xung đột giúp cho việc giải quyết các vấn đề dân sự có yếu
tố nước ngoài một cách thuận lợi, dễ dàng hơn. Qua đó, tránh được những
tranh chấp giữa các quốc gia, gây bất ổn đến quan hệ giữa các nước với nhau,
quan trọng nhất là điều hòa được lợi ích giữa các quốc gia.
b, Nhược điểm: Bên cạnh những ưu điểm của phương pháp này, còn phải
nói đến những hạn chế nhất định không thể tránh khỏi. Cụ thể:
- Vì pháp luật của các nước có những quy định khác nhau, việc sử dụng
QPXĐ để giải quyết xem ra là giải pháp tốt nhất. Tuy nhiên, do tinhs chất đặc
thù và riêng biệt của QPXĐ mà vẫn có những trường hợp Tòa án không chọn
được luật thực chất để áp dụng bởi chưa có quy phạm xung đột trong lĩnh vực
đó. Lúc này Tòa án cần xem xét hệ thống luật pháp của nước mình để tìm ra
các quy định cần thiết để giải quyết vụ việc.
Khi xem xét nội dung của phương pháp xung đột ta thấy rất trừu tượng, đòi
hỏi phải có chuyên môn sâu trong lĩnh vực pháp luật mới có thể hiểu được
đầy đủ. Trong khi đó, đội ngũ chuyên gia luật không phải ở nước nào cũng
giỏi mà vấn đề áp dụng QPXĐ lại phức tạp. Vì vậy, dễ xảy ra tính chất không
nhất quán đối với một vụ việc nếu giải quyết ở Tòa án có thẩm quyền tại các
nước khác nhau, dẫn đến việc các bên khi ký kết các hợp đồng cần phải thấy
trước luật của nước nào sẽ có khả năng áp dụng hoặc phải chọn sẵn luật nước
nào để áp dụng cho quan hệ đó.
Phương pháp xung đột được áp dụng trong hệ thống luật Anh – Mỹ còn
phức tạp hơn nhiều. Ở đây, Tòa án có thẩm quyền rất rộng, còn các QPXĐ lại
được hình thành trên cơ sở án lệ (thực tiễn tòa án và trọng tài). Điều này dẫn
đến rất nhiều khả năng xảy ra trong việc giải quyết các tranh chấp thương mại

92
trong quan hệ hợp đồng mà các bên khi tham gia các quan hệ đó không thể
lường trước được.
Câu 3: Trình bày khái niệm, phân loại, cấu trúc của quy phạm xung
đột.
*Khái niệm: Quy phạm pháp luật xung đột là quy phạm đặc thù quy định
hệ thống pháp luật một nước sẽ được áp dụng để điều chỉnh một quan hệ tư
pháp quốc tế nhất định. Quy phạm pháp luật xung đột được quy định trong hệ
thống pháp luật Việt Nam là những quy định mang tính đặc thù điều chỉnh
các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài và quan hệ tố tụng
dân sự quốc tế được áp dụng tại Việt Nam để giải quyết các tranh chấp và vụ
việc dân sự.
* Phân loại: Xét về mặt kĩ thuật xây dựng quy phạm thì người ta phân quy
phạm xung đột làm hai loại:
+ Quy phạm xung đột một bên: Đây là quy phạm chỉ ra quan hệ dân sự này
chỉ áp dụng luật pháp của một nước cụ thể.
+ Quy phạm xung đột hai bên (hai chiều) đây là những quy phạm đề ra
nguyên tắc chung để cơ quan tư pháp có thẩm quyền lựa chọn áp dụng luật
của một nước nào đó để điều chỉnh đối với quan hệ tương ứng.
* Cấu trúc:

 Phần phạm vi: là phần quy định quy phạm xung đột này được áp dụng
cho loại quan hệ nào: đất đai, hôn nhân, thương mại, thừa kế,…
 Phần hệ thuộc: là phần chỉ ra luật pháp nước nào sẽ được áp dụng để
giải quyết quan hệ ở phần phạm vi.

Câu 4: Hệ thống luật thân nhân là gì? Hệ thống này có những biến
dạng nào? Hệ thống luật thân nhân thường áp dụng để giải quyết xung
đột pháp luật trong những quan hệ TPQT nào?

* Khái niệm: là nguyên tắc áp dụng pháp luật để giải quyết một số quan hệ
dân sự có yếu tố nước ngoài vào dấu hiệu nhân thân của đương sự.

* Biến dạng: có hai loại biến dạng bao gồm:


 Luật quốc tịch hay còn gọi là luật bản quốc được hiểu là luật của quốc
gia mà đương sự là công dân.
 Luật nơi cư trú  được hiểu là luật của quốc gia mà ở đó đương sự có
nơi cư trú ổn định (thường trú) K1 Đ25 HĐTTTP giữa Việt Nam với Liên

93
Bang Nga quy định quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản giữa vợ và chồng
được xác định theo pháp luật của bên kí kết nơi họ có cùng thường trú.
* Hệ thống luật thân nhân thường áp dụng để giải quyết xung đột pháp luật
trong những quan hệ TPQT:
Áp dụng để giải quyết quan hệ liên quan đến các yếu tố nhân thân :
- Năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự.
- Xác định một người là chết hay mất tích.
- Các quan hệ hôn nhân gia đình: như kết hôn, ly hôn, quyền và nghĩa vụ
của cha mẹ, vợ chồng, con cái, đỡ đầu, giám hộ, nuôi con nuôi…
- Thừa kế tài sản là động sản. Áp dụng trên thế giới và Việt Nam. - Hầu hết
các nước ở Châu Âu như Pháp, Đức, Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha áp dụng
luật quốc tịch cho quy chế nhân thân.
- Anh, Mỹ và một số nước ở Châu Mỹ Latin như Argentine, Brezil, Peru và
một số nước Bắc Âu như Thụy Điển, Nauy, Đan Mạch.
- Một số nước áp dụng đồng thời cả hai luật quốc tịch và luật nơi cư trú
như   Áo, Thụy Sĩ, Hungary, Mexico. - Tại Việt Nam: sử dụng hệ thuộc luật
quốc tịch và hệ thuộc luật nơi cư trú để giải quyết xung đột về năng lực pháp
luật dân sự của cá nhân.

Câu 5: Hệ thuộc luật quốc tịch của pháp nhân là gì? Hệ thuộc này
thường được áp dụng để giải quyết xung đột pháp luật trong những quan
hệ TPQT nào?

* Khái niệm: Pháp luật của nước mà pháp nhân mang quốc tịch sẽ được áp
dụng nhằm giải quyết các quan hệ liên quan đến pháp nhân nước ngoài.

* Hệ thuộc này thường được áp dụng để giải quyết xung đột pháp luật
trong những quan hệ TPQT:

- Tư cách chủ thể của pháp nhân.

- Điều kiện thành lập, tổ chức lại hoạt động của pháp nhân: đình chỉ, giải
thể   hay phá sản.

94
- Điều kiện chấm dứt sự tồn tại của pháp nhân.

- Giải quyết các vấn đề về tài sản của pháp nhân trong trường hợp tổ chức
lại   hoạt động hay chấm dứt hoạt động của pháp nhân.

Câu 6: Hệ thuộc nơi có tài sản là gì? Hệ thuộc này thường áp dụng để
giải quyết xung đột pháp luật trong những quan hệ TPQT?

* Khái niệm: Nguyên tắc áp dụng pháp luật để giải quyết các quan hệ liên
quan đến tài sản trong tư pháp quốc tế. Tài sản nằm ở đâu thì pháp luật ở đó
được áp dụng để giải quyết.
* Hệ thuộc này thường áp dụng để giải quyết xung đột pháp luật trong
những quan hệ TPQT:

- Quyền sở hữu đối với tài sản hữu hình (đối với tài sản vô hình

- Tài sản trí tuệ thì pháp luật nơi đối tượng sở hữu trí tuệ được bảo hộ được
áp dụng)

- Quyền thừa kế đối với tài sản là bất động sản (áp dụng đối với các nước
theo quan điểm nhìn nhận thừa kế là quan hệ tài sản)

- Định danh tài sản.


Câu 7: Hệ thuộc luật nơi thực hiện hành vi là gì? Hệ thuộc này có những
biến dạng nào? Hệ thuộc nơi thực hiện hành vi thường được áp dụng để
giải quyết xung đột pháp luật trong những quan hệ TPQT nào?

*Khái niệm: Hệ thuộc luật nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại quy định trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật xảy ra sẽ do luật nơi
xảy ra hành vi gây thiệt hại điều chỉnh.

* Hệ thuộc nơi thực hiện hành vi thường được áp dụng để giải quyết
xung đột pháp luật trong những quan hệ TPQT: Bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng.

Câu 8: Hệ thuộc luật tòa án là gì? Hệ thuộc nơi thực hiện hành vi
thường được áp dụng để giải quyết xung đột pháp luật trong những quan
hệ TPQT nào?

95
* Khái niệm: Nguyên tắc áp dụng pháp luật dựa trên dấu hiệu nơi có cơ
quan có thẩm quyền giải quyết đối với vụ việc. Pháp luật của nước có Tòa án
có thẩm quyền giải quyết tranh chấp sẽ được áp dụng.

*Hệ thuộc nơi thực hiện hành vi thường được áp dụng để giải quyết xung
đột pháp luật trong những quan hệ TPQT:

Luật hình thức

Luật nội dung: do Lex fori hay Lex causea

Thẩm phán sẽ căn cứ vào quy phạm xung đột của Lex fori để giải quyết vụ
việc. Lex fori là xuất phát điểm của giải quyết xung đột pháp luật trong tư
pháp quốc tế.

- Nó có thể được áp dụng độc lập như là một nguyên tắc giải quyết xung
đột   chính thức, nó được quy định một cách trực tiếp.

- Luật Tòa án được áp dụng để thay thế, khi mà các nguyên tắc khác không
thể hiện được vai trò tức là nó quy định nguyên tắc chính thức được áp dụng
là luật quốc tịch hoặc quy định luật nơi cư trú là hệ thuộc luật nhân thân
nhưng trong một trường hợp cụ thể chúng ta không thể áp dụng được luật
nhân thân thì lúc đó luật Tòa án sẽ được áp dụng với tư cách là nguyên tắc
thay thế.

9. Hệ thuộc luật thỏa thuận là gì? Hệ thuộc nơi thực hiện hành vi thường
được áp dụng để giải quyết xung đột pháp luật trong những quan hệ
TPQT nào?
*Khái niệm: Theo nguyên tắc này, các bên tham gia hợp đồng được tự do
thỏa thuận lựa chọn hệ thống pháp luật là hợp lý để giải quyết quan hệ hợp
đồng. Hệ thuộc trên đây là hoàn toàn dựa trên nguyên tắc cơ bản của hợp
đồng là ý tự nguyện bình đẳng giữa các bên ký kết.
Câu 10: Phân tích khái niệm quyền sở hữu có yếu tố nước ngoài.Trình
bày phương pháp giải quyết xung đột pháp luật về quyền sở hữu có yếu
tố nước ngoài theo pháp luật của các nước và theo pháp luật Việt Nam.
So sánh phương pháp giải quyết xung đột pháp luật về quyền sở hữu có
96
yếu tố nước ngoài theo pháp luật các nước và phương pháp giải quyết
xung đột pháp luật về quyền sở hữu có yếu tố nước ngoài theo pháp luật
Việt Nam hiện hành.
* Khái niệm:
- Quyền sở hữu trong tư pháp quốc tế là quyền sở hữu có yếu tố nước
ngoài.
- Quyền sở hữu là tổng hợp các quyền năng của các chủ thể được pháp luật
thừa nhận trong quá trình chiếm hữu, sử dụng, định đoạt các tài sản.
- Trong khoa học tư pháp quốc tế, quyền sở hữu của các chủ thể được đề
cập đến là quyền sở hữu có yếu tố nước ngoài. Yếu tố nước ngoài trong quan
hệ sở hữu được thể hiện ở những điểm sau:
* Chủ thể tham gia quan hệ sở hữu là người nước ngoài, pháp nhân nước
ngoài, nhà nước nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài…
Ví dụ: Một nước ngoài Việt Nam tham quan du lịch, mang theo tài sản cá
nhân. Việc công nhận quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của người
nước ngoài ở Việt Nam hay không sẽ dựa trên cơ sở các quy định của pháp
luật. Quan hệ sở hữu của người nước ngoài đối với tài sản tồn tại trên lãnh thổ
Việt Nam được gọi là quan hệ sở hữu có yếu tố nước ngoài.
* Khách thể của quan hệ sở hữu là tài sản tồn tại ở nước ngoài.
* Sự kiện pháp lý làm phát sinh thay đổi chấm dứt quan hệ sở hữu xảy ra
ngay ở nước ngoài.
Ví dụ: Một công ty xuất nhập khẩu Việt Nam kí một hợp đồng mua bán
ngoại thương với một pháp nhân nước ngoài về việc nhập khẩu linh kiện máy
móc về Việt Nam. Hợp đồng này được kí trên lãnh thổ nước ngoài và đã phát
sinh hiệu lực pháp lý, hàng hóa đang tồn tại trên lãnh thổ nước ta. Vậy trong
trường hợp này, quyền sở hữu của công ty Việt Nam sẽ được xác định như thế
nào sẽ dựa vào các quy phạm tư pháp quốc tế. Quan hệ sở hữu này cũng được
gọi là quan hệ sở hữu có yếu tố nước ngoài.

97
Câu 11:Phân tích khái niệm hợp đồng có yếu tố nước ngoài.Trình bày
phương pháp giải quyết xung đột pháp luật về tính hợp pháp của hợp
đồng có yếu tố nước ngoài theo pháp luật của các nước và theo pháp luật
Việt Nam. So sánh phương pháp giải quyết xung đột pháp luật về tính
hợp pháp của hợp đồng có yếu tố nước ngoài theo pháp luật các nước và
phương pháp giải quyết xung đột pháp luật về tính hợp pháp của hợp
đồng có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam hiện hành.
* Khái niệm: Là hợp đồng dân sự có chủ thể nước ngoài tham gia; căn cứ
pháp lý làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt hợp đồng xảy ra ở nước ngoài
hoặc theo pháp luật nước ngoài; tài sản liên quan đến hợp đồng nằm ở nước
ngoài.
Câu 12: Phân tích khái niệm thừa kế có yếu tố nước ngoài.
Trình bày phương pháp giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế có
yếu tố nước ngoài theo pháp luật của các nước
Trình bày phương pháp giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế có
yếu tố nước ngoài theo pháp luật luật Việt Nam.
So sánh phương pháp giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế có yếu
tố nước ngoài theo pháp luật các nước và phương pháp giải quyết xung
đột pháp luật về thừa kế có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam
hiện hành.

* Khái niệm: Trong điều kiện hội nhập quốc tế diễn ra mạnh mẽ như hiện
nay, nhiều quan hệ xã hội vượt ra khỏi phạm vi của quốc gia, một trong những
quan hệ đó là quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài. Các trường hợp thừa kế
có yếu tố nước ngoài bao gồm:
 Người để lại tài sản là người nước ngoài hoặc người Việt Nam định cư ở
nước ngoài;

98
 Người thừa kế tài sản là người nước ngoài hoặc người Việt Nam định cư
ở nước ngoài;
 Tài sản thừa kế ở nước ngoài.

* Phương pháp giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế có yếu tố nước
ngoài theo pháp luật của các nước:
* Phương pháp giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế có yếu tố nước
ngoài theo pháp luật luật Việt Nam:
Điều 770 BLDS năm 2005 quy định “Hình thức hợp đồng phải tuân theo
pháp luật của nước nơi giao kết hợp đồng”. Quy định này là phù hợp với nhu
cầu thực tế. Nó cho phép các bên tham gia ký kết hợp đồng tiến hành một
cách thuận tiện các thủ tục về hình thức tại nơi ký kết hợp đồng mà Pháp luật
(PL) nơi ký
kết HĐ yêu cầu. Bên cạnh đó, quy định này cũng nhằm bảo vệ
quyền lợi của các chủ thể trong HĐ; bảo vệ quyền lợi của quốc 4 khoản 2
Điều 27 Luật Thương mại năm 2005 gia nơi giao kết HĐ. Theo đó, nếu hợp
đồng được giao kết tại Việt Nam thì phải tuân theo những quy định của pháp
luật Việt Nam.
Khoản 3 Điều 15 Nghị định 138/2006/NĐ-CP quy định: “Trong trường hợp
áp dụng pháp luật Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về nội dung và hình
thức hợp đồng dân sự thì tuân theo các quy định tại Mục 7 Chương XVII và
Chương XVIII Phần thứ ba của Bộ luật dân sự và các văn bản pháp luật khác
có liên quan”. Tại khoản 1 Điều 770 BLDS 2005: “trong trường hợp hợp đồng
được giao kết ở nước ngoài mà vi phạm quy định về hình thức hợp đồng theo
pháp luật của nước đó, nhưng không trái với quy định về hình thức hợp đồng
theo pháp luật Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì hình thức hợp đồng

99
được giao kết ở nước ngoài đó vẫn được công nhận tại Việt Nam” Theo pháp
luật Việt Nam, hợp đồng mua bán hàng hoá đượcthể hiện bằng lời nói, bằng
văn bản hoặc được xác lập. Riêng đối với hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tế, Luật Thương mại 2005 chỉ công nhận theo hình thức văn bản hoặc bằng
hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương (Khoản 2 Điều 27 Luật Thương
mại 2005). Một số quốc gia khác lại công nhận cả hợp đồng bằng miệng và
hợp đồng hành vi . Chính quy định này đã nảy sinh những xung đột về hình
thức hợp đồng. Tuy vậy xung đột về hình thức trong thực tế được giải quyết
khá dễ dàng: đa số quốc gia áp dụng luật nơi giao kết hợp đồng để xác định
hình thức hợp đồng (do cho rằng khi ký kết hợp đồng các bên đều phải nghiên
cứu pháp luật của quốc gia sở tại). Khoản 2 Điều 4 Luật hàng không dân dụng
2006 quy định hình thức hợp đồng liên quan đến các quyền của tàu bay phải
tuân theo qui định của nước nơi giao kết hợp đồng. Khoản 1 Điều 24 Luật
Thương mại 2005.
Đối với hợp đồng chuyển quyền sở hữu trí tuệ, hợp đồng lixăng, nhượng
quyền thương mại thì hình thức của hợp đồng này nếu giao kết tại Việt Nam
thì bắt buộc phải xác định dưới dạngvăn bản và phải công chứng, chứng thực
thì mơi có giá trị. Đối với hợp đồng lao động quốc tế, thì sẽ áp dụng Điều 3
của Nghị định số 44/2003/NĐ-C về hình thức của hợp đồng nếu kí kết lao
động tại Việt Nam. Tại khoản 2 Điều 770 BLDS năm 2005, một số loại hình
đặc thù của hợp đồng dân sự như hợp đồng liên quan đến việc xây dựng hoặc
chuyển giao quyền sở hữu công trình, nhà cửa và các bất động sản khác trên
lãnh thổ Việt Nam phải tuân theo pháp luật của Việt Nam. Đây là quy phạm
xung đột một chiều, chỉ ra loại quan hệ dân sự đối với hợp đồng dân sự cụ thể
trên phải được áp dụng luật Việt Nam vì các công trình, nhà cửa và bất động

100
sản không thể di chuyển được, nên việc BLDS quy định trường hợp này phải
theo luật nơi có bất động sản là phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn. Ở đây, nhà
làm luật đã sử dụng hệ thuộc Luật nơi có vật mà không sử dụng hệ thuộc luật
nơi giao kết hợp đồng. Theo pháp luật Việt Nam, hình thức của hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng bất động sản bắt buộc phải thể hiện dưới dạng
văn bản, có công chứng hoặc chứng thực
theo quy định của pháp luật.“Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
phải có chứng nhận của công chứng nhà nước; trường hợp hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân thì được lựa chọn hình
thức chứng nhận của công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân
dân xã, phường, thị trấn nơi có đất” (điểm b) khoản 1 Điều 127 Luật Đất đai
năm 2003). Vi phạm các quy định này, hợp đồng sẽ bị tuyên vô hiệu.Trong
trường hợp này chủ quyền và lãnh thổ của quốc gia, quyền được toàn vẹn về
lãnh thổ luôn được đặt lên hàng đầu. Qua việc phân tích những quy định về
giải quyết xung đột về
hình thức của hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài, chúng ta thấy rằng
những quy định về giải quyết xung đột về hình thức của hợp đồng quốc tế có
những điểm phù hợp với tinh thần chung của pháp luật quốc tế. Việc quy định
hình thức hợp đồng phụ thuộc vào nơi giao kết hợp đồng sẽ tạo điều kiện
thuận lợi cho các bên giao kết hợp đồng áp dụng pháp luật nơi giao kết một
cách trực tiếp và hiệu quả. Tuy nhiên, vì những lý do chính trị mà hợp đồng
quốc tế liên quan tới bất động sản tại Việt Nam sẽ phải tuân theo những quy
định hình thức tại Việt Nam.
Một số hạn chế:
Quy định về hình thức hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài trong BLDS

101
năm 2005 còn một số điểm hạn chế và chưa chặt chẽ. Khoản 1 quy định hình
thức hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài được pháp luật nơi giao kết hợp
đồng điều chỉnh. Nhưng việc xác định nơi giao kết hợp đồng còn gặp khó
khăn đặc biệt là trong những hợp đồng dân sự có thỏa thuận ngầm hoặc giao
kết hợp đồng vắng mặt. Cũng tại khoản 1, đối với hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế, BLDS quy định hình thức hợp đồng theo luật nơi giao kết hợp
đồng, nhưng Luật Thương mại năm 2005 lại quy định hình thức của loại hợp
đồng này phải được lập tành văn bản, nếu không sẽ không có giá trị.
Như vậy, nếu theo BLDS, hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế nếu được kí
kết tại nước cho phép hình thức hợp đồng không cần phải lập thành văn bản
thì vẫn được công nhận tại Việt Nam, điều này làm vô hiệu hóa quy định tại
Điều 27 Luật Thương Mại năm 2005. Điều 15 khoản 2 Nghị định
138/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 15 tháng 11 năm 2006 quy định chi tiết
thi hành các quy định của Bộ luật Dân sự về quan hệ dân sự có yếu tố nước
ngoài đưa ra hướng dẫn: Việc áp dụng pháp luật về hình thức của hợp đồng
dân sự tuân theo quy định tại Điều 770 của Bộ luật dân sự. Trong khi chính
quy định tại Điều 770 BLDS còn chưa rõ ràng vàcần được hướng dẫn thi
hành.
Chương 9+10:
Câu 1: Thế nào là xung đột thẩm quyền xét xử? Có những phương
pháp nào để giải quyết xung đột thẩm quyền xét xử?
* Xung đột thẩm quyền xét xử là: hiện tượng hai hay nhiều cơ quan tư
pháp của các quốc gia khác nhau cùng có thẩm quyền giải quyết một vụ việc
dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài.
* Những phương pháp để giải quyết xung đột thẩm quyền xét xử:
Xây dựng các quy phạm thực chất, xác định cụ thể thẩm quyền xét xử dân
sự quốc tế hoặc bằng các vận dụng các quy phạm xung đột về thẩm quyền
được ghi nhận trong văn bản pháp luật quốc gia hoặc điều ước quốc tế.
102
Câu 2: Thế nào là thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế? Trình bày các
quy tắc nhằm xác định thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế.
* Khái niệm:
- Xung đột thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế là tình trạng có hai hay nhiều
cơ quan tư pháp của các nước khác nhau có thẩm quyền giải quyết vụ việc
dân sự có yếu tố nước ngoài. Xung đột thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế là
vấn đề chọn các quy phạm xác định thẩm quyền xét xử các vụ việc tư pháp
quốc tế cụ thể để làm rõ Tòa án nước nào có thẩm quyền thực tế giải quyết vụ
việc tư pháp quốc tế đã phát sinh.
- Xung đột thầm quyền xét xử dân sự quốc tế có thể được giải quyết bằng
cách xây dựng các quy phạm pháp luật thống nhất, xác định thẩm quyền xét
xử dân sự quốc tế hoặc vận dụng các quy phạm xung đột về thẩm quyền được
ghi trong các văn bản pháp luật trong nước hoặc trong các Điều ước quốc tế
liên quan.
* Các quy tắc nhằm xác định thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế.

 Xác định thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế theo dấu hiệu quốc tịch của
một bên hoặc các bên đương sự trong vụ án theo nguyên tắc luật quốc tịch
 Xác định theo dấu hiệu nơi thường trú của bị đơn dân sự
 Xác định theo dấu hiệu sự hiện diện của bị đơn dân sự hoặc tài sản của
bị đơn dân sự tại lãnh thổ của nước có Tòa án giải quyết vụ tranh chấp và khả
năng thực tế (trên cơ sở sự hiện diện của bị đơn hoặc tài sản của bị đơn) khởi
kiện vụ án chống lại bị đơn nói trên tại nước này hoặc tạm giữ tài sản của bị
đơn để bảo đảm việc giải quyết sơ thẩm vụ án tại nước này.
 Xác định theo dấu hiệu nơi đang có vật đang tranh chấp;
 Nếu tồn tại bất kỳ mối quan hệ nào giữa vụ tranh chấp với lãnh thổ của
nước có Tòa án nhận thụ lý đơn kiện thì vụ tranh chấp có thể được xác định
theo dấu hiệu nơi thường trú của nguyên đơn, nơi gây ra tổ thất hoặc nơi thi
hành án.

B. TRẮC NGHIỆM: Nhận định sau Đúng hay Sai? Giải thích?
1. Giá trị pháp lý của tập quán quốc tế thấp hơn giá trị pháp lý của
điều ước quốc tế
Sai. Vì trong quy phạm pháp luật không có sự phân định nhưng trong thực
tiễn người ta ưu tiên ĐƯQT

103
2. Tập quán quốc tế chỉ được hình thành từ thực tiễn quan hệ giữa các
chủ thể luật quốc tế
Sai. Vì tập quán quốc tế còn phải được nhiều người công nhận
3. Ký, phê chuẩn, phệ duyệt điều ước quốc tế những các hành vi pháp
lý của một chủ thể luật quốc tế, theo đó chủ thể này phải lần lượt thực
hiện các hành vi này để xác nhận sự đồng ý ràng buộc với một điều ước
quốc tế nhất định.
Sai. Vì không phải tất cả đều phải lần lượt thực hiện
4. Khi ký kết điều ước quốc tế, các quốc gia chỉ được thông qua đại
diện của mình là đại diện đương nhiên mà thông lệ quốc tế và thực tiễn
pháp luật của các quốc gia đã xác nhận là những người không cần thư ủy
nhiệm.
5. Sau khi người đại diện của quốc gia tiến hành ký ad referendum,
điều ước quốc tế phát sinh hiệu lực đối với quốc gia
Sai. Ký Ad Referendum: Là chữ ký của các vị đại diện với điều kiện có sự
đồng ý tiếp sau đó của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật
quốc gia. Về nguyên tắc, hành vi ký ad cũng không làm phát sinh hiệu lực của
điều ước, tuy nhiên hình thức ký này cũng có thể làm phát sinh hiệu lực cho
điều ước nếu cơ quan có thẩm quyền của quốc gia tỏ rõ sự chấp thuận chữ ký
này
6. Khi một điều ước quốc tế phát sinh hiệu lực sẽ ràng buộc các bên kết
ước trong toàn lãnh thổ thuộc phạm vi điều chỉnh của điều ước quốc tế
đó.
Đúng. Khi một điều ước quốc tế phát sinh hiệu lực sẽ ràng buộc các bên kết
ước trong toàn lãnh thổ (không gian) thuộc phạm vi điều chỉnh của điều ước
đó, trừ khi có quy định khác ( ví dụ: điều ước có các điều khoản loại trừ hoặc
hạn chế việc áp dụng đối với những bộ phận lãnh thổ nhất định) trong quá
trình thực hiện điều ước các quốc gia thành viên vẫn có thể thông báo rút lại
việc không áp dụng về mặt lãnh thổ hoặc tuyên bố mở rộng phạm vi áp dụng
về mặt lãnh thổ.
7. Bản chất của bảo lưu điều ước quốc tế là nhằm đưa các điều khoản
bị bảo lưu ra khỏi nội dung của điều ước quốc tế.
Sai. Bản chất của bảo lưu không nhằm đưa các điều khoản bị bảo lưu ra
khỏi nội dung của một điều ước quốc tế, nhưng về tổng thể quan hệ giữa các
quốc gia thành viên của một điều ước sẽ thay đổi trong phạm vi có bảo lưu
104
8. Các quốc gia có quyền bảo lưu mọi điều ước quốc tế mà họ tham gia
ký kết
Sai. Bảo lưu là quyền của các chủ thể của luật quốc tế. Điều 20 công ước
1969
9. Điều ước quốc tế chỉ có hiệu lực đối với quốc gia thứ ba nếu được
quốc gia đó đồng ý
Sai. Luật qt quy định một điều ước quốc tế không tạo ra nghĩa vụ hay quyền
hạn nào cho quốc gia thứ 3 ( điều 34 công viên năm 1969)
Điều ước qt có thể phát sinh hiệu lực với quốc gia thứ 3 trong 1 số trường
hợp sau ;
- Điều ước có điều khoản tối huệ quốc
- Điều ước tạo ra các hoàn cảnh khách quan
- Điều ước đc quốc gia thứ 3 viện dẫn áp dụng đối với tính chất tập quán
quốc tế
10. Nguồn bổ trợ của Luật quốc tế chứa đựng những nguyên tắc, quy
phạm pháp luật quốc tế và có hiệu lực gián tiếp đối với các chủ thể của
Luật quốc tế.
Sai. Nguồn bổ trợ (hay phương tiện bổ trợ nguồn của luật quốc tế) là loại
nguồn không trực tiếp chứa đựng các quy phạm pháp luật quốc tế, hầu như chỉ
có ý nghĩa khuyến nghị đối với các chủ thể luật quốc tế, chúng bao gồm các
phán quyết của Tòa án công lý quốc tế, các nguyên tắc pháp luật chung, nghị
quyết của tổ chức quốc tế liên chính phủ, hành vi pháp lý đơn phương của các
quốc gia, các học thuyết của các học giả danh tiếng về luật quốc tế.

105
106

You might also like