You are on page 1of 19

Đề thi HNGĐ các năm

Điều 19 nghị định 126


QUAN HỆ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI
Mục 1: ĐĂNG KÝ KẾT HÔN
Đề 1
1. Các bên nam nữ khi kết hôn có vi phạm 1 trong các điều kiện kết hôn là kết hôn
trái pháp luật.
Nhận định sai. Theo khoản 6 Điều 3 LHNGĐ 2014 thì kết hôn trái pháp luật là nam nữ đã
đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng 1 bên hoặc cả 2 bên vi phạm
1 trong những điều kiện kết hôn tại Điều 8 của Luật này. Như vậy kết hôn trái pháp luật
khi nam nữ đảm bảo điều kiện hình thức nhưng vi phạm điều kiện nội dung.
2. Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình có quyền yêu cầu Tòa án ra quyết định hủy
kết hôn trái pháp luật.
Nhận định sai. Theo Điều 10 LHNGĐ 2014 thì Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình có
quyền yêu cầu Tòa án ra quyết định hủy kết hôn trái pháp luật trái pháp luật do việc kết
hôn vi phạm quy định tại điểm b khoản 1 Điều 8 của Luật này còn cơ quan quản lý nhà
nước về gia đình không có quyền yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật do việc
kết hôn vi phạm quy định tại điểm b khoản 1 Điều 8 là sự tự nguyện thì không có quyền
yêu cầu.
3. Chế độ tài sản theo quy định của pháp luật chỉ được áp dụng khi các bên kết hôn
không lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận.
Nhận định sai. Theo khoản 2 Điều 48 LHNGĐ và Điều 7 Nghị định 126 Chế độ tài sản
theo quy định của pháp luật không chỉ được áp dụng khi các bên kết hôn không lựa chọn
chế độ tài sản theo thỏa thuận mà còn được áp dụng khi có thỏa thuận về chế độ tài sản
nhưng thỏa thuận bị tuyên vô hiệu hoặc thỏa thuận không rõ ràng hoặc thỏa thuận phát
sinh những vấn đề chưa được vợ chồng thỏa thuận.
4. Tài sản theo quy định của pháp luật phải đăng ký quyền sở hữu, trong giấy chứng
nhận quyền sở hữu chỉ ghi tên của 1 bên vợ hoặc chồng thì được Xác định là tài sản
riêng của bên đó.
Nhận định sai. Theo khoản 2 Điều 34 của LHNGĐ 2014 thì Tài sản theo quy định của
pháp luật phải đăng ký quyền sở hữu, trong giấy chứng nhận quyền sở hữu chỉ ghi tên
của 1 bên vợ hoặc chồng nếu có tranh chấp trong trường hợp không có căn cứ để chứng
minh tài sản mà vợ chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng thì tài sản đó được coi là tài
sản chung. Nếu chồng hoặc vợ có căn cứ chứng minh là tài sản riêng thì tài sản đó được
coi là tài sản riêng.
5. Con do cha mẹ không được pháp luật công nhận là vợ chồng sinh ra sẽ được xác
định dựa theo phương pháp suy đoán pháp lý.
Nhận định sai. Con do cha mẹ không được pháp luật công nhận là vợ chồng sinh ra sẽ
được xác định theo thủ tục hành chính hoặc theo thủ tục tư pháp khi có yêu cầu.
Trường hợp 1 nếu không tránh chấp các bên còn sống thì thẩm quyền xác định theo cha
mẹ con theo thủ tục hành chính
Trường hợp 2 nếu có tranh chấp hoặc người được yêu cầu xác định là cha, mẹ, con hoặc
người có yêu cầu xác định cha, mẹ con đã chết thì thẩm quyền xác định theo cha mẹ con
theo thủ tục tư pháp.
6. Trường hợp vợ chồng thuận tình ly hôn thì Tòa án không cần tiến hành thủ tục
hòa giải.
Nhận định sai. Theo Điều 396, 397 BLTTDS từ ngày 1/7/2014 Việc ly hôn vẫn đặt ra hòa
giải. Như vậy, trong mọi trường hợp thuận tình ly hôn hay không thuận tình ly hôn thì
trước khi giải quyết cho ly hôn thì Tòa án phải thông tư thủ tục hòa giải.
II. Bài tập Anh An và chị Phượng xác lập quan hệ hôn nhân hợp pháp vào ngày
12/6/2002. Sauk hi kết hôn anh chị được hai bên cha mẹ tặng cho một căn nhà
150m2 trên diện tích đất 100m2. Hai anh chị sinh sống trong căn nhà được trao
tặng.
Sau một thời gian thất nghiệp, anh An theo bạn bè buôn bán tại vùng biên giới. Việc
làm ăn buôn bán của anh rất tốt. Anh kiếm được nhiều tiền từ công việc này. Có
tiền anh quyết định xây lại ngôi nhà. Ngôi nhà được xây mới toàn bộ với kiến trúc
và nội thất sang trọng từ chính nguồn tiền kiếm được do hoạt động buôn bán của
anh A.
Anh An và chị phượng có 1 con chung là cháu Xuân (sinh ngày 14/9/2004).
Anh An chú tâm buôn bán bỏ bê gia đình, chị Phượng khuyên nhủ nhiều nhưng ko
thay đổi được anh. Sau một thời gian mâu thuẫn không giải quyết được, chị Phượng
làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh An. Chị yêu cầu Tòa án giải quyết
việc giao cháu Xuân cho chị nuôi dưỡng và yêu cầu được chia nửa căn nhà mới xây.
Anh An đồng ý giao cháu Xuân cho chị Phượng nuôi dưỡng nhưng ko đồng ya chia
cho chị Phượng 1 nửa căn nhà vì cho rằng ngôi nhà mới xây hoàn toàn từ tiền do
anh buôn bán mà ra nên nó phải là của anh.
Theo anh (chị) Tòa án giải quyết vụ việc như thế nào? Tại sao?
Tòa án chấp nhận yêu cầu của chị Phượng giải quyết yêu cầu ly hôn với anh An vì Anh
An và chị Phượng xác lập quan hệ hôn nhân hợp pháp vào ngày 12/6/2002 nên anh An và
chị Phượng là vợ chồng. Sau đó Anh An buôn bán bỏ bê gia đình, sau nhiều lần mâu
thuẫn theo khoản 1 Điều 51 LHNGĐ thì chị Phượng có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết
ly hôn với anh An.
Tòa án giao cháu Xuân cho chị nuôi dưỡng theo khoản 3 Điều 81 LHNGĐ thì cháu Xuân
sinh ngày 14.9.2004 dưới 36 tháng tuổi nên sẽ được giao cho mẹ là chị Phượng trực tiếp
nuôi và anh An đồng ý giao cháu Xuân cho chị Phượng nuôi dưỡng và theo Điều 82
LHNGĐ thì anh An có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cháu Xuân.
Tòa án sẽ chia cho chị Xuân 1 nửa căn nhà. Vì anh chị được hai bên cha mẹ tặng cho một
căn nhà 150m2 trên diện tích đất 100m2 đây là tài sản được tặng cho chung cho cả 2
trong thời kỳ hôn nhân nên đây là tài sản chung của 2 vợ chồng. Anh An kiếm được
nhiều tiền từ công việc của mình nên đã xây mới lại căn nhà từ thu nhập hợp pháp của
mình nên theo khoản 1 Điều 33 LHNGĐ thì đây là tài sản chung và áp dụng khoản 2
Điều 59 LHNGĐ 2014 thì căn nhà này được chia đôi cho anh Xuân và chị Phượng
Đề 2
1. Người bị Tòa án ra quyết định hạn chế năng lực hành vi dân sự thì không được
kết hôn.
Nhận định sai. Người bị Tòa án ra quyết định hạn chế năng lực hành vi dân sự thì vẫn
được kết hôn. Vì người bị Tòa án ra quyết định hạn chế năng lực hành vi dân sự thỏa mãn
các điều kiện theo k1 điều 8 LHNGĐ 2015 và không thuộc các trường hợp cấm theo
điểm a, b, c, d khoản 2 Điều 5 thì Người bị Tòa án ra quyết định hạn chế năng lực hành vi
dân sự thì vẫn được kết hôn.
2. Những người chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì
không được pháp luật công nhận là vợ chồng
Nhận định sai. Những người chung sống với nhau như vợ chồng từ trước 01/01/2001,
không vi phạm điều kiện kết hôn, sống liên tục không gián đoạn không đăng ký kết hôn
căn cứ vào điểm a, b mục 3 nghị quyết 35/2000/NQ-QH10 thì cũng có thể được pháp luật
công nhận là vợ chồng.
3. Tài sản mà vợ chồng có được do thừa kế chung là tài sản thuộc sở hữu chung hợp
nhất của vợ chồng
Nhận định đúng. Theo khoản 1 Điều 33 LHNGĐ 2014 thì tài sản mà vợ chồng có được
do thừa kế chung là tài sản chung và khoản 2 Điều 33 LHNGĐ 2014 thì tài sản chung của
vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất nên Tài sản mà vợ chồng có được do thừa kế
chung là tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng
4. Xuất phát từ nguyên tắc hôn nhân tự nguyên nên chỉ một bên hoặc cả hai bên vợ
chồng mới có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết việc ly hôn của họ.
Nhận định sai. Xuất phát từ nguyên tắc hôn nhân tự nguyện nên chỉ 1 bên hoặc cả 2 bên
vợ chồng mới có quyền yêu cầu hoặc đề nghị cá nhân tổ chức tại k2 điều 10 LHNGĐ
2014 yêu cầu Tòa án hủy kết hôn trái pháp luật. Còn quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly
hôn ngoài vợ, chồng hoặc cả 2 người còn có cha mẹ người thân thích khác khi có căn cứ
tại khoản 2 Điều 52 LHNGĐ.
3. Khi Tòa án giải quyết việc giao con cho cha hoặc mẹ nuôi khi vợ chồng ly hôn thì
Toà án phải căn cứ vào nguyên vọng của người con để giải quyết, nếu con từ đủ 7
tuổi trở lên.
Nhận định đúng. Theo khoản 2 Điều 81 thì khi Tòa án giải quyết việc giao con cho cha
hoặc mẹ nuôi khi vợ chồng ly hôn thì Tòa án quyết định giao cho 1 bên trực tiếp nuôi căn
cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con nếu con từ đủ 7 tuổi trở lên thì phảo xem nguyện
vọng của con.
6. Nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ hoặc chồng được thanh toán từ tài sản riêng của
người đó.
Nhận định sai.
II-BAI TAP:
Anh M và chị N quen biết nhau qua những người bạn học chung lớp anh văn. Sau
một thời giam tham gia các hoạt động ngoại khóa cùng các bạn. giữa anh M và chỉ
N này sinh quan hệ yêu đương. Sau một thời gian duy trì mối quan hệ tình cảm
thắm thiết anh chị quyết định cùng nhau xác lập quan hệ hôn nhân. Anh M và chị N
gặp gỡ hai bên gia đình trình bày nguyên vọng kết hôn với nhau. Khi hai bên gia
định gặp nhau bàn chuyên kết hôn thì mới được rõ anh M và chị N có quan hệ họ
hàng gần gũi. Cha của chị N là em của ông ngoại anh M. Khi quan hệ họ hàng giữa
M và N được xác định, gia đình hai bên ngăn con không cho M và N kết hôn cùng
nhau
Theo các anh chị dưới khía cạnh pháp luật hôn nhân và gia đình anh M và chị Na có
thể kết hôn với nhau không? Vì sao?

Đề 3
1. Nam, nữ chung sống như vợ chồng trước ngày 01.01 2001 nếu không vi phạm
điều kiện kết hôn đều được công nhận là vợ chồng
Nhận định sai. Theo điểm b mục 3 Nghị quyết 35/2000/NQ-QH10 thì nam nữ chung sống
như vợ chồng từ ngày 3/1/1987 đến ngày 01/01/2001 mà có đủ điều kiện kết hôn sống
như vợ chồng liên tục không gián đoạn thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong thời hạn 2
năm. Từ sau ngày 1/1/2003 mà họ không đăng ký kết hôn thì pháp luật không công nhận
họ là vợ chồng. Nam, nữ chung sống như vợ chồng trước ngày 01.01 2001 nếu không vi
phạm điều kiện kết hôn được công nhận là vợ chồng là trường hợp theo điểm a mục 3
nghị quyết 35 và điểm b mục 3 nghị quyết 35 trong thời hạn 3 năm họ đăng ký kết ôn thì
được công nhận là vợ chồng
2. Tài sản chung của vợ chồng có thể được hình thành từ tài sản riêng của 1 bên
Nhận định đúng. Tài sản chung của vợ chồng có thể được hình thành từ tài sản riêng của
1 bên trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ chồng đang tranh
chấp là tài sản riêng thì đó là tài sản chung theo khoản 3 Điều 33 LHNGĐ. Có nghĩa là
tài sản đang tranh chấp là tài sản riêng của 1 bên nhưng người đó ko chứng minh được tài
sản đó là tài sản riêng thì nó là tài sản chung nên tài sản chung của vợ chồng có thể được
hình thành từ tài sản riêng của 1 bên. Hoặc hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng trừ
trường hợp được quy định của khoản 1 Điều 40 là tài sản chung của vợ chồng.
3. Nam nữ sống chung (không đăng ký kết hôn) không được quyền nhận trẻ em làm
con nuôi chung.
Nhận định sai. Những người chung sống với nhau như vợ chồng từ trước 01/01/2001,
không vi phạm điều kiện kết hôn, sống liên tục không gián đoạn không đăng ký kết hôn
căn cứ vào điểm a, b mục 3 nghị quyết 35/2000/NQ-QH10 thì cũng có thể được pháp luật
công nhận là vợ chồng và căn cứ vào khoản 3 Điều 8 Luật nuôi con nuôi thì nam nữ sống
chung (không đăng ký kết hôn) được quyền nhận trẻ em làm con nuôi chung
4. Văn bản thỏa thuận chia tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân chỉ có hiệu
lực khi được công chứng.
Nhận định sai. Theo khoản 2 Điều 38 LHNGĐ thì thỏa thuận về việc chia tài sản chung
phải lập thành văn bản. Văn bản này được công chứng theo yêu cầu của vợ chồng hoặc
theo quy định của pháp luật. Căn cứ vào khoản 1 điều 39 LHNGĐ thì thời điểm có hiệu
lực là thời điểm do vợ chồng thỏa thuận và được ghi trong văn bản, nếu trong văn bản
không xác định thời điểm có hiệu lực thì thời điểm có hiệu lực được tính từ ngày lập
trong văn bản.
5. Để phù hợp với chính sách dân số gia đình Việt Nam, cặp vợ chồng chi được nhận
từ một đến hai trẻ làm con nuôi.
Nhận định sai. Vì pháp luật hiện hành chỉ hạn chế số lần được nhận con nuôi đối với
người con không hạn chế số lần nhận nuôi của vợ chồng.
6. Hôn nhân chỉ chấm dứt khi một bên vợ, chồng chết.
Nhận định sai. Hôn nhân chấm dứt khi
+ Vợ chồng chết
+ Do li hôn.
Như vậy hôn nhân không chỉ chấm dứt khi 1 bên vợ, chồng chết mà còn chấm dứt khi vợ,
chồng ly hôn,
II. TỈNH HUỐNG (1 điểm)
Anh A và chị B là hai anh em họ. Ông ngoại các anh A và bà ngoại của chị B là hai anh
em ruột. Sau nhiều lần gặp gỡ, anh A và chị B phái sinh tình cảm và họ quyết định tiến
tới hôn nhân. Khi anh A chị B cho biết dự định kết hôn, cả gia đình anh A và gia đình chị
B đều phản đối vì giữa A. B có quan hệ họ hàng thân thích.
Sự phản đối của người thân khiến anh A và chị B bản khoản. Họ không biết việc kết hôn
của mình có vi phạm pháp luật hôn nhân và gia đình không”.
Căn cứ vào Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, anh (chị) hãy tư vấn cho anh A và chị
B điều kiện kết hôn và dự định kết hôn của họ.
Đề 4
1. Yêu sách của cải trong kết hôn là việc đòi hỏi về vật chất một cách quá đáng và
coi đó là điều kiện để kết hôn.
Nhận định sai. Theo khoản 12 Điều 3 LHNGĐ 2014 yêu sách của cải trong kết hôn là
việc đòi hỏi về vật chất một cách quá đáng và coi đó là điều kiện để kết hôn nhằm cản trở
việc kết hôn tự nguyện nam, nữ.
2. Theo quy định của Điều 5 Luật Hơn nhân và gia đình, những người đang là cha
chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể không bị cấm kết hôn.
Nhận định sai. Theo điểm d khoản 2 Điều 5 Luật hôn nhân gia đình thì cấm kết hôn giữa
những người đang là cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể
3. Chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định chỉ được áp dụng khi nam nữ không
lựa chọn áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo thoả thuận.
Nhận định sai. Theo khoản 2 Điều 48 LHNGĐ và Điều 7 Nghị định 126 Chế độ tài sản
theo quy định của pháp luật không chỉ được áp dụng khi các bên kết hôn không lựa chọn
chế độ tài sản theo thỏa thuận mà còn được áp dụng khi có thỏa thuận về chế độ tài sản
nhưng thỏa thuận bị tuyên vô hiệu hoặc thỏa thuận không rõ ràng hoặc thỏa thuận phát
sinh những vấn đề chưa được vợ chồng thỏa thuận.
4. Việc cho con nuôi người nước ngoài chỉ được thực hiện khi không có gia đình
trong nước tiến hành nhận nuôi con nuôi.
Nhận định đúng. Theo điều 5 Luật nuôi con nuôi thì ưu tiên nhận con nuôi đối với gia
đình trong nước chỉ cho con nuôi được thực hiện sau khi không có gia đình trong nước để
đảm bảo điều kiện chăm sóc, giáo dục nuôi con một cách tốt nhất.
5. Con do người vợ sinh ra trong thời kỳ hôn nhân có thể không phải là con chung
của vợ chồng.
Nhận định sai. Theo Điều 88 LHNGĐ thì con chung của vợ chồng được xác định”
+ Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân
+ Thụ thai trong thời kỳ hôn nhân (sinh ra khi HNCD trong hạn 300 ngày)
+ Sinh ra trước kết hôn được cha mẹ thừa nhận.
Như vậy, theo quy định của pháp luật thì con cái sinh ra trong thời kỳ hôn nhân được xác
định là con chung của 2 vợ chồng dù trên thực tế đó có thể không phải là con chung của
cả 2.
6. Khi quan hệ hôn nhân chấm dứt, quyền và nghĩa vụ giữa những người đã từng là
vợ chồng cũng hoàn toàn chấm dứt.
Nhận định sai. Theo Điều 115 LHNGĐ 2014 khi ly hôn (tức là quan hệ hôn nhân chấm
dứt) nếu bên khó khăn, túng thiếu có yêu cầu cấp dưỡng mà có lý do chính đáng thì bên
kia có nghĩa vụ cấp dưỡng theo khả năng của mình tức là quyền và nghĩa vụ giữa những
người từng là vợ chồng không hoàn toàn chấm dứt.
Nhận định
II/ Bài tập
Ông A và bà B là vợ chồng theo quy định pháp luật. Sau khi kết hôn một khoảng
thời gian, ông A bỏ đến địa phương khác và chung sống như vợ chồng với cô C.
Trong khoảng thời gian này, ông A được có C tặng cho khỏi tài sản trị giá 600 triệu
đồng.
Năm 2016 bà B mua căn nhà X từ số tiền có được do bà kinh doanh (trong khoảng
thời gian ông A bỏ đi) và vay mượn người thân thêm 100 triệu đồng. Bà B cũng vay
200 triệu đồng để đầu tư kinh doanh.
Năm 2017 ông A yêu cầu giải quyết ly hôn và phân chia tài sản là căn nhà (X) Đồng
thôi, ông A cho rằng mình không có trách nhiệm đối với bất cứ khoản nợ nào do bà
B tự mình xác lập trong thời kỳ hóa nhân, Hãy giải quyết yêu cầu của ông A.
Đề 5 Cô Mận ra đề
1. Con riêng của vợ hoặc của chồng không có quyền kết hôn với con chung (con đẻ)
của hai vợ chồng.
Nhận định đúng. Bởi vì họ có mối quan hệ huyết thống bang hệ của đời thứ 2 anh chị em
ruột (cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha, cùng cha cùng mẹ). Theo điểm d khoản 2
Điều 5 cấm trường hợp kết hôn giữa những người có họ trong phạm vi ba đời nên con
riêng của vợ hoặc của chồng không có quyền kết hôn với con chung (con đẻ) của hai vợ
chồng
2. Việc kết hôn có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam phải được đăng ký tại Ủy ban
nhân dân cấp huyện nơi cư trú của một trong hai bên nam, nữ kết hôn.
Nhận định sai. Theo Điều 18 nghị định 123 thì UBND cấp xã ở khu vực biên giới thực
hiện đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam thường trú tại địa bàn xã đó với công dân
của nước láng giềng thường trú tương đương đơn vị hành chính cấp xã Việt Nam tiếp
giáp với xã khu vực biên giới của Việt Nam nơi công dân thường trú.
3. Mọi trường hợp nam nữ sống chung như vợ chồng trước ngày 03 01.1987 thì
được công nhận là vợ chồng
Nhận định sai. Trường hợp nam nữ sống chung như vợ chồng trước ngày 03.1.1987 được
công nhận là vợ chồng khi:
+ nam nữ sống chung như vợ chồng trước ngày 03.1.1987
+ Nam nữ sống chung như vợ chồng liên tục, không gián đoạn
+ Không vi phạm điều kiện kết hôn.
Như vậy mọi trường hợp nam nữ sống chung như vợ chồng trước ngày 03.1.1987, Nam
nữ sống chung như vợ chồng liên tục, không gián đoạn đồng thời Không vi phạm điều
kiện kết hôn. Thì được công nhận là vợ chồng còn nếu thiếu 2 đk trên không được coi là
vợ chồng.
4. Trong chế độ tài sản pháp định, hoa lợi phát sinh từ tài sản riêng của vợ, chồng
trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của vợ, chồng.
Nhận định sai. Trong chế độ tài sản pháp định nếu như chia tài sản chung trong thời kỳ
hôn nhân thì hoa lợi phát sinh từ tài sản riêng của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là tài
sản riêng của vợ chồng theo khoản 1 Điều 40 LHNGĐ còn nếu chưa chia tài sản trong
thời kỳ hôn thì mọi hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ chồng trong thời kỳ
hôn nhân trong chế độ tài sản pháp định thì là tài sản chung của vợ chồng theo khoản 1
Điều 33 LHNGĐ. Như vậy, trong chế độ tài sản pháp định, hoa lợi phát sinh từ tài sản
riêng của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân cũng có thể là tài sản chung của vợ, chồng.
5. Dân tộc của con nuôi có thể thay đổi theo dân tộc của cha mẹ nuôi.
Nhận định sai. Con sinh ra được xác định theo dân tộc của cha mẹ đẻ được ghi nhận
trong giấy khai sinh. Cha mẹ nuôi có thể xác định dân tộc của con nuôi là trẻ em bỏ rơi
theo dân tộc của cha mẹ nuôi chứ không thể thay đổi dân tộc của con nuôi theo dân tộc
của mình theo khoản 3 Điều 24 Luật nuôi con nuôi.
6. Để bảo vệ sức khỏe sinh sản, pháp luật hạn chế quyển ly hôn của vợ chồng khi
người vợ có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.
Nhận định sai. Theo khoản 3 Điều 51 thì người chồng ko có quyền yêu cầu ly hôn trong
trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi tuy nhiên
người vợ vẫn có người quyền quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai,
sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi như vậy Để bảo vệ sức khỏe sinh sản,
pháp luật hạn chế quyển ly hôn của vợ chồng khi người vợ có thai, sinh con hoặc đang
nuôi con dưới 12 tháng tuổi là sai.
II. TỈNH HUỐNG (4 điểm).
Năm 1986, ông A cưới bà B mà không đăng ký kết hôn (dù họ đủ điều kiện kết hôn
theo Luật HNGĐ năm 1959,)
Sống chung đến tháng 9, 2016, do bất đồng quan điểm, bà B nộp đơn xin ly hỏn ông
A và yêu cầu Tòa án phân định tài sản (Tại thời điểm xin ly hôn, trị giá động sản hai
bên khai thống nhất gồm căn nhà diện tích 110 m2 định giá 2 tỷ đồng do bà B đúng
tên cuối năm 2015). Trong quá trình hòa giải, ông A yêu cầu chia đôi giá trị nhà
nhưng bà B không đồng ý. Theo bà B, nhà 110 m2 được mua bằng tiền lương của bà
và Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà do bà đúng tên nền nhà không phải là tài sản
chung của vợ chồng.
TAND quận H nhận định ông A cưới bà B trước ngày Luật HNGĐ năm 1986 có
hiệu lực nên phải xác định họ là vợ chồng. Tại Bản án hôn nhân gia đình sợ nhầm số
12/HNGĐ-ST ngày 2.4.2017, tòa phán quyết chấp nhận khởi kiện ly hôn của bà B
sau khi hoà giải không thành và xét thấy hôn nhân giữa ông A và bà B không còn
đạt mục đích
Về tài sản do ông A không chứng minh được có đóng góp tiền mua nhà 110m2 đang
tranh chấp nên căn cứ Điều 33, Điều 59 Luật HNgđ năm 2014, Tòa án xác định nhà
thuộc sở hữu của Bà B và quyết định giao trả nhà cho chủ sở hữu
Theo anh (chị, xác định về "tư cách vợ chồng" giữa ông A. bà B và đường lới giải
quyết tài sản thể hiện Trong Bản án của Tòa án có phù hợp với quy định của pháp
luật? Phân tích trên cơ sở pháp lý
Tư cách vợ chồng giữa ông A và bà B:
Tòa án xác định ông A và bà B là vợ chồng là hợp lý.
ông A là vợ chồng với bà B. Vì ông A cưới B không đăng ký kết hôn năm 1986, đủ điều
kiện kết hôn theo LHNGĐ 1959, ông A sống chung với bà B liên tục không gián đoạn
theo điểm a mục 3 nghị quyết 35/2000/NQ-QH thì ông A bà B là vợ chồng
Theo khoản 1 Điều 51 bà B có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn
Theo khoản 1 Điều 56 Tòa có căn cứ chấp nhận khởi kiện ly hôn của bà B sau khi hoà
giải không thành và xét thấy hôn nhân giữa ông A và bà B không còn đạt mục đích.
Về tài sản: Nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn: Điều 59 LHNGĐ
Tòa án xác định nhà thuộc sở hữu của Bà B và quyết định giao trả nhà cho chủ sở hữu là
không hợp lý. Vì A và B là vợ chồng và ngôi nhà 110m2 được hình thành do tiền lương
của bà B là thu nhập hợp pháp trong thời kỳ hôn nhân mặc dù bà B đứng tên nhưng
nguồn của ngôi nhà này là thu nhập hợp pháp nên về nguyên tắc là tài sản chung của vợ
chồng. Mặt khác theo khoản 3 Điều 33 hướng suy đoán xác định tài sản được tạo lập mà
1 bên đứng tên trong thời kỳ hôn nhân được xem là tài sản chung nếu không tranh chấp.
Trường hợp có tranh chấp người đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sở hữu đất phải có
nghĩa vụ chứng minh trong trường hợp không chứng minh được là tài sản riêng theo
hướng suy đoán thì sẽ được chuyển hóa thành tài sản chung. Như vậy trong trường hợp
trên về nguyên tắc căn nhà 110m2 là tài sản chung nếu là tài sản riêng thì bà A phải có
nghĩa vụ chứng minh nó là tài sản riêng chứ không phải là ông A chứng minh như theo
bản án và bếu bà A không chứng minh được nó là tài sản riêng thì là tài sản chung. Căn
cứ theo khoản 2 Điều 59 thì tài sản chung được chia đôi. Căn nhà định giá 2 tỷ thì mỗi
người là 1 tỷ (ông A: 1 tỷ, bà B: 1 tỷ)
Đề 6 Cô Mận ra đề
1. Phạm nhân đang chấp hành án phạt tù tại các cơ sở giam giữ cũng có quyền kết
hôn.
Nhận định đúng. Kết hôn là quyền của con người, là quyền nhân thân gắn liền với bản
thân. Phạm nhân đang chaos hành án phạt tù tại các cơ sở giam giữ thỏa mãn điều kiện
kết hôn quy định tại khoản 1 Điều 8 LHNGĐ 2014 và không thuộc các trường hợp cấm
kết hôn theo khoản 2 Điều 5 LHNGĐ 2014 thì phạm nhân đang chấp hành án phạt tù tại
các cơ sở giam giữ cũng có quyền kết hôn. Tuy nhiên theo khoản 1 Điều 18 Luật hôn tịch
thì 2 bên nam nữ phải có mặt khi làm thủ tục đăng ký kết hôn là yêu cầu bắt buộc nhưng
đối với người đang chấp hành hình phạt tù thì việc phải cùng có mặt với bạn gái tại
UBND cấp xã để làm thủ tục đăng ký kết hôn là rất khó thực hiện. Do đó, để thực hiện
được thủ tục đăng ký kết hôn với 1 bên, bên còn lại có thể làm đơn đề nghị trại giam và
UBND cấp xã nơi cư trú của một trong hai bên tạo điều kiện để thực hiện thủ tục đăng ký
kết hôn cho hai bạn tại trại giam.
2. Việc kết hôn không thể ủy quyền cho người khác thực hiện.
Nhận định đúng. Kết hôn là quyền con người là quyền nhân thân gắn liền với bản thân.
Theo điểm b Khoản 1 Điều 8 LHNGĐ quy định việc kết hôn do nam, nữ tự nguyện quyết
định và Điều 18 Luật hộ tịch quy định thì nghi thức, thủ tục đăng ký kết hôn thì hai bên
nam nữ phải có mặt, không được ai thay thế làm cho cả mà thể hiện ý nguyện bằng chữ
ký của vợ của chồng trong giấy chứng nhận kết hôn cho nên việc kết hôn không thể ủy
quyền cho người khác thực hiện.
3. Chỉ Uy ban nhân dân cấp huyện mới có thẩm quyền đăng ký việc kết hôn giữa
công dân Việt Nam với người nước ngoài Đ37 LHT
Nhận định sai. Người nước ngoài là người không có quốc tịch Việt Nam gồm người nước
ngoài và người không quốc tịch. Không phải chỉ Ủy ban nhân dân cấp huyện mới có
thẩm quyền đăng ký việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài mà ta
còn phân quyền cho Ủy ban nhân nhân cấp xã khu vực biên giới nơi công dân VN thường
trú ở đấy phân quyền việc hôn sự phát sinh giữa công dân Việt Nam với công dân nước
láng giềng cùng thường trú ở khu vực biên giới với Việt Nam theo Điều 18 Nghị định
123/2015/NĐ-CP.
4. Trong chế độ tài sản pháp định, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ hoặc
chồng trong thời kỳ hôn nhân phải được xác định là tài sản chung của vợ chồng.
Nhận định sai. Theo khoản 1 Điều 33 LHNGĐ thì Trong chế độ tài sản pháp định, lợi tức
phát sinh từ tài sản riêng của vợ hoặc chồng trong thời kỳ hôn nhân phải được xác định là
tài sản chung của vợ chồng trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 40 của LHNGĐ thì
mới là tài sản chung của vợ chồng.
5.Giải quyết xác định con sinh ra sau khi hôn nhận chấm dứt quá 300 ngày có thể
thuộc thẩm quyền của cơ quan đăng ký hộ tịch.
Nhận định đúng. Con sinh ra hôn nhân chấm dứt quá 300 ngày theo hướng có thể không
phải là con chung của vợ chồng trong hôn nhân trước nhưng có thể là con chung của vợ
chồng trong trường hợp sinh ra trước kết hôn được cha mẹ thừa nhận (hôn nhân thứ 2)
theo Khoản 1 Điều 88 LHNGĐ 2014 nên có thể thuộc thẩm quyền của cơ quan đăng ký
hộ tịch theo khoản 1 Điều 101 LHNGĐ 2014.
6. Khi người vợ có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi thì vợ chồng
không có quyền yêu cầu ly hôn.
Nhận định sai. Khi người vợ có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi thì
người chồng không có quyền yêu cầu ly hôn theo khoản 3 Điều 51 LHNGĐ. Theo quy
định nêu trên, thì khi vợ mang thai, sinh con hoặc nuôi con dưới 12 tháng tuổi thì người
chồng không có quyền xin ly hôn. Như vậy thì người vợ vẫn có quyền xin ly hôn trong
trường hợp này với tư cách là người khởi kiện xin ly hôn tại Tòa án nhân dân có thẩm
quyền.
II. TÌNH HUỐNG (4 điểm)
Đủ điều kết hôn theo Luật HNGĐ năm 1959 nhưng ông Tuấn và bà Lê chỉ chung
sống với nhau như vợ chồng từ năm 1986 mà không đăng ký kết hôn.
Chung sống đến tháng 4.2017, do mâu thuẫn trầm trọng, ông Tuấn nộp đơn yêu cầu
Tòa án “hủy hôn nhân trái pháp luật" giữa ông và bà Lê với lý do hai bên không
đăng ký kết hôn.
Anh, chỉ hãy cho biết
1. Tòa án có thẩm quyền “hủy hôn nhân trái pháp luật" giữa ông Tuần với bà Lê
hay giải quyết việc chấm dứt quan hệ vợ chồng của họ, cơ sở pháp lý
2. Tài sản của ông Tuấn, bà Lê phân định như thế nào cho phù hợp tỉnh thần pháp
luật, biết rằng tại thời điểm Tòa án giải quyết vụ án, ông Tuấn, bà Lê tranh chấp
100m2 đất trị giá 1.5 tỷ đồng tọa lạc tại huyện PL, tỉnh TH; diện tích đất này do
Tuấn nhận chuyển nhượng bằng tiền lương của ông vào tháng 2.2016 và Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất do ông Tuấn đứng tên.
Tòa án không có thẩm quyền hủy kết hôn trái pháp luật.
Ông Tuấn và bà Lê chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 1986, đủ điều kiện đăng
ký kết hôn theo LHNGĐ 1959 không đăng ký kết hôn, sống chung liên tục không gián
đoạn căn cứ theo điểm a mục 3 Nghị quyết 35/2000/NQ-QH10 thì công nhận ông Tuấn
và bà Lê là vợ chồng. Theo khoản 2 Điều 10 LHNGĐ thì ông Tuấn không có quyền yêu
cầu Tòa án hủy kết hôn trái pháp luật vì 2 người ko vị pham khoản 1 Điều 8 và ko thuộc
trường hợp cấm kết hôn điểm a, b, c, d, tại khoản 2 Điều 5 LHNGĐ.
Nhưng ông Tuấn có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn tại koản 1 Điều 51
2. Vì ông Tuấn và bà Lê là vợ chồng và ngôi nhà 110m2 được hình thành do tiền lương
của ông Tuấn là thu nhập hợp pháp trong thời kỳ hôn nhân mặc dù ông Tuấn đứng tên
nhưng nguồn của ngôi nhà này là thu nhập hợp pháp nên về nguyên tắc là tài sản chung
của vợ chồng. Mặt khác theo khoản 3 Điều 33 hướng suy đoán xác định tài sản được tạo
lập mà 1 bên đứng tên trong thời kỳ hôn nhân được xem là tài sản chung nếu không tranh
chấp. Trường hợp có tranh chấp người đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sở hữu đất
phải có nghĩa vụ chứng minh trong trường hợp không chứng minh được là tài sản riêng
theo hướng suy đoán thì sẽ được chuyển hóa thành tài sản chung. Như vậy trong trường
hợp trên về nguyên tắc căn nhà 110m2 là tài sản chung nếu là tài sản riêng thì Ông Tuấn
phải có nghĩa vụ chứng minh nó là tài sản riêng và nếu ông Tuấn không chứng minh
được nó là tài sản riêng thì là tài sản chung. Căn cứ theo khoản 2 Điều 59 thì tài sản
chung được chia đôi. Căn nhà định giá 1,5 tỷ thì mỗi người là 750 triệu (ông Tuấn 750tr,
bà Lê: 750tr).
Đề 7 Cô Mận ra đề
1. Chủ ruột và cháu ruột mọi trường hợp được xác định là thành viên của một gia
đình.
Nhận định đúng. Theo khoản 16 Điều 3 LHNGĐ thì chú ruột và cháu ruột trong mọi
trường hợp là thành viên của 1 gia đình.
2. Người đang có vợ có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác là kết
hôn trái pháp luật.
Nhận định sai. Căn cứ khoản 6 Điều 3 LHN GĐ thì kết hôn trái pháp luật là việc nam nữ
xác lập quan hệ vợ chồng đã đăng ký kết hôn nhưng 1 bên hoặc cả 2 bên vi phạm điều
kiện kết hôn. Người đang có vợ có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác là
vi phạm điểm c khoản 2 Điều 5 vi phạm 1 vợ 1 chồng nhưng ko đồng nghĩa là kết hôn
trái pháp luật theo quy định khoản 6 Điều 3. Đối với trường hợp này xác định hôn nhân
không có giá trị pháp lý.
3. Nam nữ sống chung như vợ chồng từ ngày 03.01.1987 đến trước ngày 01.01.2001
vẫn có thể được pháp luật thừa nhận là vợ chồng.
Nhận định đúng. Theo điểm b mục 3 Nghị quyết 35/2000/NQ-QH10 thì nam nữ chung
sống như vợ chồng từ ngày 3/1/1987 đến ngày 01/01/2001 mà có đủ điều kiện kết hôn
sống như vợ chồng liên tục không gián đoạn thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong thời
hạn 2 năm. Từ sau ngày 1/1/2003 mà họ không đăng ký kết hôn thì pháp luật không công
nhận họ là vợ chồng. Như vậy nam nữ sống chung như vợ chồng từ ngày 03.01.1987 đến
trước ngày 01.01.2001 vẫn có thể được pháp luật thừa nhận là vợ chồng nếu không vi
phạm điều kiện kết hôn, sống liên tục không gián đoạn theo điểm b mục 3 nghị quyết 35
trong thời hạn 3 năm họ đăng ký kết hôn thì vẫn có thể được pháp luật thừa nhận là vợ
chồng.
* 4. Trường hợp áp dụng chế độ tài sản pháp định thì lợi tức có trong thời kỳ hôn
nhân có thể là tài sản riêng của vợ chồng.
Nhận định đúng. Trường hợp áp dụng chế độ tài sản pháp định thì lợi tức có trong thời kỳ
hôn nhân có thể là tài sản riêng của vợ chồng trong trường hợp theo khoản 1 Điều 40 thì
trường hợp chia tài sản trong thời kỳ hôn nhân thì lợi tức phát sinh từ từ tài sản riêng của
vợ chồng mỗi bên sau khi chia là tài sản riêng của vợ chồng trừ trường hợp vợ chồng
thỏa thuận khác.
*5. Con chung của vợ chồng phải cùng huyết thống với cha
Nhận định sai. Con chung của vợ chồng được xác định theo Điều 88 LHNGĐ:
+ Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân: thụ thai và sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc thụ
thai trước khi thời kỳ hôn nhân nhưng sinh ra trong thời kỳ hôn nhân.
+ Thụ thai trong thời kỳ hôn nhân nhưng sinh ra khi thời kỳ hôn nhân chấm dứt trong hạn
300 ngày.
+ Sinh ra trước khi kết hôn được cha mẹ thừa nhận.
Như vậy không phải lúc nào con chung của vợ chồng cũng phải cùng huyết thống với
cha. Có trường hợp không cùng huyết thống với cha nhưng vẫn là con chung của vc như:
Sinh ra trước khi kết hôn được cha mẹ thừa nhận hoặc thụ thai trước khi thời kỳ hôn nhân
nhưng sinh ra trong thời kỳ hôn nhân.
6. Pháp luật hôn nhân và gia đình hiện hành chỉ thừa nhận quyền ly hôn của vợ,
chồng hoặc của cả hai vợ chồng.
Nhận định sai. Theo khoản 2 Điều 51 Pháp luật hôn nhân và gia đình hiện hành còn thừa
nhận quyền ly hôn của cha, mẹ, người thân thích khác khi 1 bên vợ chồng do bị bệnh tinh
thần hoặc mắc bệnh khác không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời
là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng
đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ thì cha, mẹ, người thân thích khác có quyền
yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.
II. TÌNH HUỐNG (4 điểm)
Ông Hoài và bà Mỹ sống chung như vợ chồng năm 1978 (hai bên không vi phạm
điều kiện kết hôn theo quy định của Luật HNGD). Con chung của họ là Thắm, sinh
năm 1979. Năm 1983, ông Hoài được cha mẹ đẻ tặng cho cá nhân ông 94 m2 đất tại
xã Mỹ Long, huyện CL, tỉnh ĐT và theo nguyện vọng của cha mẹ, ông đã đứng tên
chủ sử dụng diện tích đất này năm 1986.
Năm 1997, do mâu thuẫn, bà Mỹ và ông Hoài sống riêng. Ông Hoài ngay sau đó
cùng bà Bình sống chung như vợ chồng. Năm 1999, ông Hoài và bà Bình sử dụng số
tiền mà họ được cho tặng là 200 triệu đồng để xây nhà trên phần diện tích đất mà
ông Hoài đang đứng tên chủ sử dụng.
Tháng 12.2009, Tòa án nhân dân huyện huyện CL, tỉnh ĐT giải quyết cho bà Mỹ ly
hôn ông Hoài. Ấn sơ thẩm không phân định tài sản do các bên không yêu cầu.
Tháng 8.2017, ông Hoài chết không để lại di chúc. Nhà đất tại xã Mỹ Long, huyện
CL, tỉnh ĐT được bà Bình quản lý, sử dụng. Ngày 27/10/2017, bà Mỹ khởi kiện yêu
cầu chia nhỏ đất này cùng di sản thừa kế của ông Hoài. Con chung của ông Hoài và
bà Mỹ là Thắm cũng yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi.
Trên cơ sở pháp lý, anh, chị hãy cho biết Tòa án giải quyết tranh chấp sở hữu và
thừa kế tài sản trong vụ án trên như thế nào, biết rằng trừ phần diện tích đất, nhà
tại thời điểm tranh chấp được định giá 1 tỷ đồng.
Ông Hoài và bà Mỹ sống chung như vợ chồng 1987 cả hai không vi phạm điều kiện kết
hôn theo quy định của LHNGĐ, sống chung như vợ chồng liên tục không gián đoạn thì
theo điểm a mục 3 Nghị quyết 35/2000/NQ-QH10 thì ông Hoài và bà Mỹ là vợ chồng.
Năm 1997, do mâu thuẫn, bà Mỹ và ông Hoài sống riêng. Sống riêng không có nghĩa là
quan hệ hôn nhân chấm dứt và Ông Hoài ngay sau đó cùng bà Bình sống chung như vợ
chồng với bà Bình là vi phạm điều 4 LHNGĐ 1986 “Cấm sống chung như vợ chồng với
người khác” không thỏa mãn điều kiện tại điểm a mục 3 Nghị quyết 35/2000/NQ-QH10
thì ông Hoài và bà Bình không phải là vợ chồng.
Tháng 12.2009, Tòa án nhân dân huyện huyện CL, tỉnh ĐT giải quyết cho bà Mỹ ly hôn
ông Hoài=>>Quan hệ hôn nhân chấm dứt.
Tháng 8.2017, ông Hoài chết không để lại di chúc.
Theo Điều 612 BLDS 2015 Di sản là tài sản riêng hoặc là tài sản trong khối tài sản chung
với người khác.
Trong khối tài sản chung với bà Mỹ: Năm 1983, ông Hoài được cha mẹ đẻ tặng cho cá
nhân ông 94 m2 đất tại xã Mỹ Long, huyện CL, tỉnh ĐT và theo nguyện vọng của cha
mẹ, ông đã đứng tên chủ sử dụng diện tích đất này năm 1986. Mặc dù mảnh đât này được
cha mẹ tặng cho và ông Hoài đứng tên nhưng ông Hoài với bà Mỹ là vợ chồng và tài sản
này hình thành lúc LHNGĐ 1959 có hiêu lực luật này không công nhận tài sản riêng của
vợ chồng nên mảnh đất 94m2 là tài sản chung của vợ chồng Điều 15 LHNGĐ 1959. Tài
sản chung hợp nhất theo khoản 2 Điều 33 LHNGĐ 2014
Áp dụng Khoản 2 Điều 59 LHNGĐ 2014 thì tài sản chung của vợ chồng chia đôi nên bà
MỸ được ½ diện tích 94m2 và ông Hoài được ½ diện tích 94m2 (khối di sản 1)
Trong khối sản chung với bà Bình: Ông Hoài và Bà Bình không phải là vợ chồng nên
căn nhà (định giá 1 tỷ) được xây từ tiền tặng cho chung là tài sản chung theo phần theo
Điều 16 LHNGĐ 2014 thì căn nhà được chia đôi nếu không xác định được mức đóng
góp=>> Bà Bình 500tr; ông Hoài 500 tr (khối di sản 2)
Như vậy tổng di sản của ông Hoài: 500tr cùng với ½ diện tích đất 94m2
Do ông Hoài không để lại di chúc căn cứ Theo Khoản 1 Điều 655 BLDS 2015 thì đối
tượng hưởng di sản là Thắm (bà Mỹ tại thời điểm ông Hoài chết đã chấm dứt quan hệ vợ
chồng nên không được hưởng ds và bà Bình cũng ko là vợ). Như vậy Thắm được hưởng
toàn bộ di sản của ông Hoài là 500tr cùng với ½ diện tích đất 94m2.
Đề
1. Phạm nhân đang chấp hành án phạt tù tại trại giam thì không có quyền.
2. Nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng trước ngày 3/1/1987 dù không đăng
ký kết hôn vẫn được công nhận là vợ chồng.
Nhận định sai. Nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng trước ngày 3/1/1987 dù
không đăng ký kết hôn được công nhận là vợ chồng khi sống chung trước 3/1/1987 liên
tục không gián đoạn không vi phạm điều kiện kết hôn thì mới được công nhận là vợ
chồng.
3. Tảo hôn là kết hôn trái pháp luật.
Nhận định sai. Theo khoản 8 Điều 3 LHNGĐ 2014: Tảo hôn là lấy vợ lấy chồng chưa đủ
tuổi có thể không đăng ký kết hôn trong khi đó khoản 6 Điều 3 LHNGĐ 2014 kết hôn trái
pháp luật là xác lập quan hệ vợ chồng có đăng ký kết hôn nhưng mà vi phạm Điều kiện
kết hôn.
4. Văn bản định đoạt tài sản chung của vợ chồng là nhà ở mọi trường hợp phải có
chữ ký của cả vợ và chồng.
Nhận định sai. Theo khoản 2 Điều 35 LHNGĐ 2014 thì tài sản chung bao gồm bất động
sản, nhà ở, quyền sử dụng đất… thì tinh thần nhà lập pháp cho rằng những loại tài sản đó
có giá trị lớn và có thể tranh chấp trong tương lai đê đảm bảo lợi ích của vợ chồng thì cả
2 bên cùng định đoạt. Điều đó có nghĩa là cùng quyết định số phận tài sản bằng cách tặng
cho, cho vay, thừa kế. Trong hợp đồng vấn đề định đoạt thể hiện bằng văn bản thì văn
bản đó có chữ ký của vợ chồng (có thể công chứng chứng thực theo quy định của pháp
luật). Về nguyên tắc là như vậy tuy nhiên Điều 36 LHNGĐ 2014 để cho rằng những
trường hợp không cần thiết 2 bên cùng định đoạt dù đó là tài sản thuộc khoản 2 Điều 35
và cho rằng trường hợp vợ chồng cùng sử dụng tài sản chung vào hoạt động kinh doanh
thì 1 bên có quyền tự mình thực hiện giao dịch đến tài sản chung (Trong hợp đồng vấn đề
định đoạt thể hiện bằng văn bản thì văn bản đó có chữ ký của 1 bên hoặc vợ hoặc chứ
không cần chữ ký của 2 vợ chồng).
5. Con sinh ra sau khi hôn nhân chấm dứt cũng được xác định là con chung của vợ
chồng
Nhận định đúng. Con sinh ra sau khi hôn nhân chấm dứt tức là thụ thai trong TKHN mà
sinh ra khi hôn nhân chấm dứt nhưng trong thời hạn 300 ngày thì vẫn có thể được xác
định là con chung của vợ chồng theo Điều 88 LHNGĐ 2014.
6. Quyền ly hôn của vợ, chồng có thể được thực hiện thông qua người thứ ba.
Nhận định đúng. Quyền ly hôn của vợ, chồng có thể được thực hiện thông qua người thứ
ba trong trường hợp cha me, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly
hôn khi 1 bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác không thể nhận thức,
làm chủ hành vi của mình đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ gây ra
làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng sức khỏe tinh thần của họ theo khoản 2 Điều
51 LHNGĐ thì quyền ly hôn của vợ, chồng có thể được thực hiện thông qua người thứ
ba.
II. TÌNH HUỐNG (4 điểm)
Đủ điều kết hôn theo Luật HNGĐ năm 1959 nhưng ông Trí và bà Mai chỉ chung
sống với nhau như vợ chồng từ năm 1986 mà không đăng ký kết hôn.
Chung sống đến tháng 4,2016, do mâu thuẫn trầm trọng, ông Trí nộp hơn yêu cầu
Tòa án “hủy hôn nhân trái pháp luật" giữa ông và bà Mai với lý do hai bên không
đăng ký kế hôn đồng thời yêu cầu Tòa phân định tài sản.
Anh, chị, hãy cho biết:
1. Tòa án có thẩm quyền “hủy hôn nhân" hay giải quyết việc chấm dứt hôn nhân -
Ly hôn - giữa ông Trí và bà Mai, cơ sở pháp lý?
2 Tài sản của họ cần phân định như thế nào cho phù hợp tinh thần pháp luật, biết
rằng tại thời điểm Tòa án giải quyết vụ việc, ông Trí, bà Mai tranh chấp 100m2 đất
trị giá 1.5 tỷ đồng tọa lạc tại huyện ĐĐ, tỉnh BR-VT; diện tích đất này do ông Trị
nhận chuyển nhượng bằng tiền lương của ông vào tháng 2 2015 và Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất do ông Tri đứng tên.
1. Tòa án không chấp nhận yêu cầu hủy hôn nhân trái pháp luật của ông Trí. Vì đủ điều
kết hôn theo Luật HNGĐ năm 1959 nhưng ông Trí và bà Mai chỉ chung sống với nhau
như vợ chồng từ năm 1986 liên tục không gián đoạn mà không đăng ký kết hôn thì theo
Điểm a mục 3 Nghị quyết 35/2000/NQ-QH thì đây là hôn nhân thực tế và ông Trí và bà
Mai là vợ chồng. Theo khoản 2 Điều 10 LHNGĐ thì ông Tuấn không có quyền yêu cầu
Tòa án hủy kết hôn trái pháp luật vì 2 người ko vị pham khoản 1 Điều 8 và ko thuộc
trường hợp cấm kết hôn điểm a, b, c, d, tại khoản 2 Điều 5 LHNGĐ.
Trong trường hợp này ông Trí có thể nộp đơn yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn theo
khoản 1 Điều 51 LHNGĐ 2014
2. Vì ông Trí và bà Mai là vợ chồng và mảnh đất 100m2 giá 1 tỷ được hình thành do tiền
lương của ông Trí tháng 2 năm 2015 là thu nhập hợp pháp trong thời kỳ hôn nhân mặc dù
ông Trí đứng tên nhưng nguồn của ngôi nhà này là thu nhập hợp pháp nên về nguyên tắc
là tài sản chung của vợ chồng. Mặt khác theo khoản 3 Điều 33 hướng suy đoán xác định
tài sản được tạo lập mà 1 bên đứng tên trong thời kỳ hôn nhân được xem là tài sản chung
nếu không tranh chấp. Trường hợp có tranh chấp người đứng tên trên giấy chứng nhận
quyền sở hữu đất phải có nghĩa vụ chứng minh trong trường hợp không chứng minh được
là tài sản riêng theo hướng suy đoán thì sẽ được chuyển hóa thành tài sản chung. Như vậy
trong trường hợp trên về nguyên tắc mảnh đất 110m2 là tài sản chung nếu là tài sản riêng
thì Ông Tuấn phải có nghĩa vụ chứng minh nó là tài sản riêng và nếu ông Tuấn không
chứng minh được nó là tài sản riêng thì là tài sản chung. Căn cứ theo khoản 2 Điều 59 thì
tài sản chung được chia đôi. Căn nhà định giá 1,5 tỷ thì mỗi người là 750 triệu (ông Trí
750tr, bà Mai: 750tr).
Nhận định: Trong quan hệ nuôi con nuôi, vợ chồng có thể không cùng là một bên
chủ thể với tư cách nhận nuôi con nuôi.
Nhận định sai. Theo khoản 3 Điều 8 LHNGĐ 2014 thì 1 người chỉ được làm con nuôi của
1 người độc thân hoặc của cả 2 người là vợ chồng. Theo đó, một trong những điều kiện
để được quyền nhận con nuôi phải là cá nhân đang độc thân, hoặc cặp vợ chồng có quan
hệ hôn nhân hợp pháp (đã kết hôn theo quy định pháp luật). Như vậy thì trong quan hệ
nuôi con nuôi, vợ chồng cùng nhau là một bên chủ thể với tư cách nhận nuôi con nuôi
Nhận định: Hai người đồng tính chung sống với nhau không có quyền nhận nuôi
con nuôi chung.
Nhận định đúng. Căn cứ khoản 3 Điều 8 Luật Nuôi con nuôi 2010 quy định một người
chỉ được làm con nuôi của một người độc thân hoặc của cả hai người là vợ chồng.
Theo đó, một trong những điều kiện để được quyền nhận con nuôi phải là cá nhân đang
độc thân, hoặc cặp vợ chồng có quan hệ hôn nhân hợp pháp (đã kết hôn theo quy định
pháp luật).
Hiện nay, tại khoản 2 Điều 8 Luật Hôn nhân gia đình, Nhà nước Việt Nam không thừa
nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính. Pháp luật cũng không có quy định cấm
kết hôn giữa những người cùng giới. Vì vậy, quan hệ hôn nhân giữa những người cùng
giới tính hay hai người đồng tính sống chung với nhau vẫn chưa phải là quan hệ hôn nhân
hợp pháp. Điều đó có nghĩa là cặp đôi đồng tính không thể nhận con nuôi theo quy định
pháp luật.
Tuy nhiên, người đồng tính có thể nhận nuôi con nuôi với tư cách là cá nhân độc thân với
điều kiện cá nhân người đồng tính đó phải đáp ứng các điều kiện quy định tại Điều
14 Luật Nuôi con nuôi 2010.
Nhận định: Mẹ kế với con riêng của chồng có thể phát sinh quyền thừa kế theo pháp
luật của nhau dù các bên không có quan hệ huyết thống.
Nhận định đúng. Theo điều 654 BLDS 2015 thù mẹ kế với con riêng của chồng nếu có
quan hệ chăm sóc nuôi dưỡng nhau như mẹ con thì được hưởng di sản của nhau và được
thừa kế di sản theo quy định Điều 652 và 653 Bộ luật này. Như vậy, mẹ kế với con riêng
của chồng có thể phát sinh quyền thừa kế theo pháp luật của nhau dù các bên không có
quan hệ huyết thống trong trường hợp thỏa mãn điều kiện theo Điều 654 BLDS thì có thể
thể phát sinh quyền thừa kế theo pháp luật của nhau dù các bên không có quan hệ huyết
thống.

Nhận định: Giải quyết ly hôn phải thông qua thủ tục hòa giải
Nhận định sai. Có những trường hợp giải quyết ly hôn không cần thông qua thủ tục hòa
giải:
+ Không được hòa giải quan hệ không hợp pháp Theo Điều 206 BLTTDS
+ Không được hòa giải trong trường hợp bị đơn bị tuyên mất tích, đương sự mất
NLHSDS hoặc thỏa thuận không hòa giải
+ Không hòa giải được trong trường hợp vắng 2 lần không lý do.

You might also like