You are on page 1of 19

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH


KHOA LUẬT DÂN SỰ

TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN


MÔN: NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ LUẬT DÂN SỰ, TÀI
SẢN VÀ THỪA KẾ

ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA GIAO DỊCH DÂN SỰ

Người thực hiện:


MSSV:
Lớp:

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – NĂM 2021


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU............................................................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài......................................................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu...................................................................................................................1
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu....................................................................................................1
4. Phương pháp nghiên cứu.............................................................................................................. 1
5. Kết cấu của đề tài……....................……………………………………………………………..2
NỘI DUNG......................................................................................................................................... 3
CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIAO DỊCH DÂN SỰ...........................................................3
1.1 Khái niệm về giao dịch dân sự...................................................................................................3
1.1.1. Khái niệm……………...………………………………………………………………….3
1.1.2. Đặc điểm của giao dịch dân sự………………..…………………………………………..3
1.2 Phân loại giao dịch dân sự.........................................................................................................3
1.2.1. Hợp đồng dân sự.................................................................................................................3
1.2.2. Hành vi pháp lý đơn phương..............................................................................................4
1.3 Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự…………………………………………….....…….4
KẾT LUẬN CHƯƠNG I:……………………………………………………………………………5
CHƯƠNG 2. ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA GIAO DỊCH DÂN SỰ VÀ LIÊN HỆ THỰC
TIỄN................................................................................................................................................... 4
2.1. Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự...............................................................................4
2.1.1. Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân
sự được xác lập............................................................................................................................. 4
2.1.2. Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện.....................................................6
2.1.3. Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái
đạo đức xã hội.............................................................................................................................. 7
2.1.4. Hình thức của giao dịch phải phù hợp với quy định của pháp luật.....................................7
2.2 Thực tiễn về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự và bất cập trong điều kiện có hiệu lực
của giao dịch dân sự......................................................................................................................... 9
2.2.1. Thực tiễn về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự.....................................................9
2.2.2. Vấn đề bất cập về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự..........................................10
KẾT LUẬN....................................................................................................................................... 12
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................................13
1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Các hoạt động trao đổi hay mua, bán hàng hóa luôn được diễn ra hàng ngày và quen thuộc
với mỗi chúng ta nhằm mục đích để phục vụ các nhu cầu về sinh hoạt, tiêu dùng, kinh doanh phát
sinh trong đời sống hằng ngày. Theo cách gọi của khoa học pháp lý cũng như thực tiễn thì những
hoạt động trao đổi và mua, bán hàng hóa đó sẽ được gọi là giao dịch dân sự. Giao dịch dân sự được
xem là sự kiện pháp lý thông dụng và phổ biến trong đời sống xã hội ngày nay. Đặc biệt trong điều
kiện nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ngày càng phát triển của nước ta. Việt Nam đang trong
thời kỳ hội nhập quốc tế, bùng nổ điều kiện kinh tế, chính trị, các giao dịch dân sự luôn được diễn ra
liên tục, hàng ngày, hàng giờ. Tuy nhiên, để hiểu rõ bản chất cũng như biết được một giao dịch dân
sự thế nào là hợp pháp, thế nào là có hiệu lực thì có lẽ không phải ai cũng biết được. Khi nghiên cứu
về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự sẽ giúp ta hiểu và biết rõ hơn được giao dịch nào là
hợp pháp, giao dịch nào thì có hiệu lực. Để rồi từ đó làm cơ sở cho việc pháp luật sẽ bảo vệ cho
chúng ta khi nào nếu có tranh chấp xảy ra trong một giao dịch dân sự. Xuất phát từ tầm quan trọng
của giao dịch dân sự trong thực tiễn mà Bộ luật dân sự năm 2015 đã có những quy định chặt chẽ, cụ
thể về các điều kiện để một giao dịch dân sự có hiệu lực. Và để làm rõ được điều kiện có hiệu lực
của một giao dịch dân sự thì em xin được lựa chọn đề tài: “Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân
sự” để tìm hiểu.

2. Tình hình nghiên cứu


Vấn đề điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự luôn là vấn đề lớn và được nhiều người
nghiên cứu, ngay cả những nhà khoa học, sinh viên chuyên ngành luật và người làm trong lĩnh vực
pháp luật nghiên cứu. Và mỗi tác giả khi nghiên cứu về vấn đề này lại có một quan điểm, góc nhìn
khác nhau. Một số bài công trình nghiên cứu có thể kể đến như:

Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2018), Giáo trình Những quy định chung về
Luật dân sự, Nxb. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam: Giáo trình đã trình bày khái quát về đặc
điểm, tính chất, quan hệ của luật dân sự , đăc biệt là trong điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân
sự.

Trường Đại học Luật Hà Nội (2019), Giáo trình Luật dân sự Việt Nam tập 1, Nxb. Công an
nhân dân: Giáo trình nêu ra khái quát, cách dễ hiểu nhất về vấn đề điều kiện có hiệu lực của giao
dịch dân sự
Án lệ số 39/2020/AL, án lệ về xác định giao dịch dân sự có điều kiện vô hiệu do điều kiện
không xảy ra đã được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 13/8/2020.

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu trong phạm vi bài làm này là những vấn đề lý luận chung
về giao dịch dân sự và các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự.
2

4. Phương pháp nghiên cứu


Bài làm sử dụng phương pháp phân tích, bình luận và đánh giá.
5. Kết cấu của đề tài ( 2 chương)
Chương 1: Lý luận chung về giao dịch dân sự
Chương 2: Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự và liên hệ thực tiễn
3

CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIAO DỊCH DÂN SỰ


1.1 Khái niệm về giao dịch dân sự
1.1.1. Khái niệm

Trong Bộ luật Dân sự năm 2015, tại Điều 116 quy định Giao dịch dân sự là “hợp đồng hoặc
hành vi pháp lí đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”.
1.1.2. Đặc điểm của giao dịch dân sự
Theo khái niệm trên, có thể thấy giao dịch dân sự sẽ có một số đặc điểm sau:

Thứ nhất, giao dịch dân sự được xác lập sự trên ý chí của chủ thể trong giao dịch: Giao dịch
dân sự là hợp đồng hay hành vi đơn phương của các chủ thể trong giao dịch. Việc thực hiện giao
dịch dân sự đều xuất phát từ những mong muốn, nguyện vọng bên trong của các chủ thể, từ đây các
chủ thể sẽ thể hiện ra bên ngoài thế giời khách quan dưới dạng hình thức nhất định (dưới dạng hợp
đồng hoặc hành vi đơn phương). Trong trường hợp, giao dịch dân sự là hợp đồng thì phải có sự thể
hiện và thống nhất ý chí từ các bên chủ thể. Còn trường hợp là hành vi pháp lý đơn phương thì là sự
thể hiện ý chí của một bên chủ thể. Có thể thấy, ý chí và việc bày tỏ ý chí của các chủ thể trong giao
dịch dân sự phải thống nhất và phù hợp với nhau, nếu không giao dịch dân sự sẽ bị tuyên bố vô
hiệu.1

Thứ hai, Giao dịch dân sự làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ của các chủ
thể trong giao dịch dân sự. Dù được thể hiện dưới dạng hợp đồng hay hành vi pháp lý đơn phương
thì hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự đều hướng tới việc làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt
quyền và nghĩa vụ dân sự của các chủ thể trong giao dịch dân sự. Cụ thể:

Một, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự: Đây là việc các bên chủ thể tiên tới việc xác lập
quyền và nghĩa vụ dân sự trong giao dịch dân sự.

Hai, làm thay đổi quyền và nghĩa vụ dân sự: Khi giao dịch dân sự đã được xác lập, các bên
chủ thể đã tồn tại các quyền và nghĩa vụ được ghi trong hợp đồng giao dịch. Tuy nhiên, các bên lại
có sự thỏa thuận làm thay đổi, bổ sung hợp đồng từ đó làm thay đổi quyền và nghĩa vụ của bên.

Ba, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự: Trường hợp các bên đã có những quyền và nghĩa vụ
dân sự với nhau, sau đó các bên xác lập giao dịch để chấm dút các quyền và nghĩa vụ ấy.

1.2 Phân loại giao dịch dân sự


1.2.1. Hợp đồng dân sự

Theo quy định tại điều 385 Bộ luật dân sự năm 2015 thì Hợp đồng được định nghĩa như sau:
Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt, quyền và nghĩa vụ
dân sự.

1
Trường Đại học Luật Hà Nội (2019), Giáo trình Luật dân sự Việt Nam tập 1, Nhà xuất bản Công an Nhân dân, Tr. 136
4

Trong giao dịch dân sự, có thể nói hợp đồng dân sự là một loại giao dịch dân sự phổ biến
và thông dụng trong đời sống hằng ngày. Hợp đồng dân sự thường là trong đó sẽ có hai bên tham
gia hoặc, có những hợp đồng sẽ có nhiều bên tham gia (từ hai bên trở lên). Thông qua hợp đồng, các
bên chủ thể tham gia sẽ thể hiện ý chí của mình. Sự thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng đó
chính là sự bày tỏ ý chí và đòi hỏi sự đáp lại ý chí của bên còn lại. Khi ý chí của một bên được bên
còn lại chấp thuận thì sẽ tạo thành sự thống nhất ý chí của các bên. Do đó, có thể coi hợp đồng dân
sự là sự thỏa thuận nhằm thống nhất về ý chí của hay nhiều bên.
1.2.2. Hành vi pháp lý đơn phương
Hành vi pháp lý đơn phương là hành vi dược xác lập bởi một bên chủ thể theo đó chủ thể tự
mình bày tỏ ý chí của một bên nhằm làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự2.

Hành vi pháp lý đơn phương có thể được xác lập theo ý chí của một người hoặc nhiều
người. Đa phần, hậu quả của hành vi pháp lý chỉ xảy ra khi có người đáp ứng được những yêu cầu
mà người xác lập đưa ra.

1.3. Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự

Trong giao dịch dân sự nói riêng và quan hệ dân sự nói chung, ngoài các nguyên tắc cơ bản
được thể hiện tại Điều 3 BLDS 2015 thì trong giao dịch, pháp luật cũng đặt ra một số yêu cầu buộc
các chủ thể phải tuân theo. Đó là các điều kiện có hiệu lực của giao dịch. Chỉ khi các chủ thể tham
gia giao dịch tuân thủ đầy đủ các điều kiện thì lúc đó giao dịch mới hợp pháp, mới làm phát sinh
quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia giao dịch.

Các điều kiện có hiệu lực của giao dịch được quy định tại Điều 117 BLDS 2015:

“ 1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:

a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự
được xác lập.

b) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện.

c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo
đức xã hội.

2. Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp
luật có quy định.”

2
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2018), Giáo trình Những quy định chung về Luật dân sự, Nxb. Hồng Đức - Hội
Luật gia Việt Nam, tr.279.
5
6

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Tóm lại, nghiên cứu về giao dịch dân sự, Bộ luật dân sự năm 2015 đã nêu rõ khái niệm, thế
nào là giao dịch dân sự. Trong giao dịch dân sự đó, có thể được thực hiện bằng hợp đồng, hoặc cũng
có thể chỉ là hành vi pháp lý đơn phương. Tại giao dịch dân sự đó, các bên chủ thể khi tham gia giao
dịch sẽ bày tỏ ý chí và thể hiện ý chí. Các chủ thể khi tham gia giao dịch dân sự đều hướng tới mỗi
mục đích nhất định. Khi mục đích của các bên tham gia giao dịch đạt được và giao dịch dân sự được
xác lập thì lúc này việc thực hiện giao dịch dân sự sẽ làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền,
nghĩa vụ dân sự. Mặc dù, khi phân loại giao dịch dân sự thì sẽ chia thành hành vi pháp lý đơn
phương và hợp đồng dân sự. Việc phân loại giao dịch dân sự cũng sẽ có những ý nghĩa riêng rất
quan trọng. Tuy giao dịch dân sự được phân loại thành hai loại khác nhau. Nhưng cả hai loại giao
dịch dân sự này đều có điểm chung đó là hậu quả của nó sẽ làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt
quyền, nghĩa vụ dân sự.
7

CHƯƠNG 2. ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA GIAO DỊCH DÂN SỰ VÀ LIÊN HỆ THỰC
TIỄN
2.1. Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
Để làm rõ điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự, cần phân tích rõ 4 điều kiện sau:
2.1.1. Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao
dịch dân sự được xác lập
Thuật ngữ “chủ thể” ở đây phải hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm các chủ thể của quan hệ pháp luật
dân sự: Cá nhân, pháp nhân.
2.1.1.1. Cá nhân
Bản chất của giao dịch dân sự là sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí của chủ thể tham gia
giao dịch. Căn cứ vào bản chất của giao dịch thì chỉ có những người có năng lực hành vi dân sự mới
làm chủ được nhận thức của mình, đồng thời thông qua hành vi của mình xác lập giao dịch dân sự,
cũng như chịu trách nhiệm về việc xác lập và thực hiện giao dịch. Cho nên, giao dịch dân sự do cá
nhân xác lập chỉ có hiệu lực nếu phù hợp với mức độ năng lực hành vi dân sự của cá nhân được quy
định từ Điều 16 đến Điều 24 BLDS 2015.
Một chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự
được xác lập hay không cần xem xét đến hai yếu tố:
Thứ nhất, độ tuổi của người xác lập giao dịch: Trong GDDS, có những giao dịch phải xem độ
tuổi của hai bên chủ thể (mua, bán, vay, mượn, thuế,..), nhưng có những giao dịch chỉ cần quan tâm
đến độ tuổi của một bên như tặng cho, thưởng,… Trên thực tế cần phải kiểm tra tại thời điểm xác
lập giao dịch, chủ thể giao dịch đang bao nhiêu tuổi, có phù hợp với yêu cầu của giao dịch hay
không.
Người từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đẩy đủ, trừ trường hợp bị tòa án tuyên
bố mất năng lực hành vi, tuyên bố hạn chế năng lực hành vi. Người có năng lực hành vi dân sự đầy
đủ được toàn quyền xác lập mọi giao dịch.
Ví dụ: Tính tới ngày 25/6/2021, Anh A tròn 18 tuổi . Anh A có một chiếc xe đạp trị giá 2 triệu.
A đem bán cho B. Sau khi ba mẹ phát hiện thì bắt A yêu cầu B trả lại chiếc xe, đồng thời hoàn lại số
tiền cho B. Tuy nhiên B không đồng ý. Xét thấy, tại thời điểm A bán cho B chiếc xe, A đủ 18 tuổi,
có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, anh A xác nhận việc bán tài sản là tự nguyên nên giao dịch hợp
lệ.
Người đủ từ 6 đến chưa đủ 15 tuổi: Các giao dịch liên quan đến chủ thể này phải do người đại
diện theo pháp luật của người đó thực hiện (cha, mẹ, người giám hộ khác) tức pháp luật dân sự xác
định chủ thể này không tự xác lập giao dịch dân sự với người khác do nặng lực hành vi dân sự chưa
đầy đủ. Tuy nhiên, căn cứ tại Khoản 3 Điều 21 và Điểm a Khoản 2 Điều 125 Bộ luật dân sự năm
2015 quy định trường hợp giao dịch dân sự do người chưa đủ 15 tuổi thực hiện không bị vô hiệu nếu
giao dịch đó “nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu hằng ngày” của người dưới 6 tuổi và “giao dịch dân
sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt hằng ngày phù hợp với lứa tuổi”3 của người từ 6 tuổi đến dưới 15 tuổi.

3
Khoản 20 Điều 3 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định “Nhu cầu thiết yếu là nhu cầu sinh hoạt thông thường về ăn, mặc, ở,
học tập, khám bệnh, chữa bệnh và nhu cầu sinh hoạt thông thường khác không thể thiếu cho cuộc sống của mỗi người, mỗi gia
đình.”
8

Ví dụ: Anh N 13 tuổi tự ý lấy số tiền 4 triệu đồng bố mẹ cho để mua một chiếc điện thoại. Xét
thấy anh N là người chưa thành niên, thuộc diện “ Người từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 15 tuổi ”. Như
vậy khi thực hiện một GDDS, cụ thể là mua điện thoại phải được người đại diện theo pháp luật là ba
mẹ đồng ý, trừ giao dịch dân sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp lứa tuổi. Tuy nhiên,
việc thực hiện giao dịch mua bán điện thoại thì không phải là phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày
và không phù hợp với lứa tuổi nên không được pháp luật công nhận. 
Người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi được tự mình xác lập, thực hiện các giao dịch, loại trừ
các giao dịch liên quan đến bất động sản (đất đai, nhà cửa…), động sản phải đăng ký hoặc giao dịch
dân sự khác mà luật quy định phải được người đại diện pháp luật đồng ý.
Những người chưa đủ 6 tuổi, người mất năng lực hành vi không được phép xác lập giao dịch
dân sự. Mọi giao dịch dân sự của những người này đều do người đại diện theo pháp luật xác lập,
thực hiện.
Thứ hai, phải xem xét người xác lập giao dịch có bị mất, hạn chế năng lực hành vi dân sự hay
có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hay không. Để biết một người bị mất năng lực hành vi
dân sự, hạn chế năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức làm chủ hành vi thì cần
nghiên cứu kỹ các quy định tại Điều 22, Điều 23 và Điểu 24 BLDS 2015. Về nguyên tắc, các giao
dịch do người này phải được người đại diện xác lập, thực hiện hoặc đồng ý.
Giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình
(Điều 128 Bộ luật dân sự năm 2015): Trường hợp này chỉ áp dụng cho những người có năng lực
hành vi dân sự. Tuy nhiên, tại thời điểm giao kết người đó rơi vào tình trạng không nhận thức và
làm chỉ được hành vi của mình thì sao đó chính người đó có quyền yêu cầu toàn án tuyên bố giao
dịch vô hiệu. Việc phân định trách nhiệm bồi thường phụ thuộc vào lỗi của các bên chủ thể tham
gia.4
Giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa đủ thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự,
người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác
lập, thực hiện (Điều 125 BLDS 2015): Người không có năng lực hành vi hoặc có năng lực hành vi
không đầy đủ không có đủ điều kiện để thực hiện một giao dịch dân sự mà giao dịch ấy phải được
xác lập, thực hiện dưới sự kiểm soát của người khác hoặc do người khác xác lập, thực hiện. Tuy
nhiên, giao dịch của người này chỉ bị coi là vô hiệu khi có yêu cầu của người đại diện của họ, nếu
người đại diện không khởi kiện yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu thì giao dịch đó vẫn có
hiệu lực.
Ví dụ: Anh H 25 tuổi, vào Tháng 5 năm 2019 bị tai nạn giao thông dẫn đến tâm thần. Biết tình
trạng của anh H, anh L – bạn anh H vào T10/2020 đã lợi dụng tình trạng bệnh tật của anh H và dụ
dỗ anh H bán căn nhà của mình (Căn nhà thuộc sở hữu của anh H). Biết được sự việc, gia đình anh
H đến gặp anh L và yêu cầu hủy hợp đồng mua bán. Tuy nhiên anh L không đồng ý và gia đình anh
H đã đâm đơn kiện ra tòa. Trong trường hợp này, mặc dù có chữ kí của anh H, nhưng trong thời
điểm xác lập giao dịch anh H đã mất năng lực hành vi dân sự theo Điều 128 BLDS 2015 nên hợp
đồng vô hiệu. Căn nhà vẫn thuộc quyền sở hữu của anh H.
2.1.1.2. Pháp nhân
Các chủ thể này tham gia vào giao dịch dân sự thông qua người đại diện của họ (đại diện theo
pháp luật, theo uỷ quyền). Người đại diện xác lập, thực hiện giao dịch dân sự nhân danh người được
4
Trường Đại học Luật Hà Nội (2019), Giáo trình Luật dân sự Việt Nam tập 1, Nhà xuất bản Công an Nhân dân, Tr. 153,154
9

đại diện. Các quyền, nghĩa vụ do người đại diện xác lập làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của pháp
nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác. Tuy nhiên pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác chỉ tham gia các giao
dịch dân sự phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của mình. Người đại diện xác lập giao dịch dân sự
làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác trong phạm vi nhiệm vụ của
chủ thể đó được điều lệ hoặc pháp luật quy định
Về điều kiện của giao dịch dân sự có hiệu lực đối với pháp nhân thì tham gia giao dịch thông
qua người đại diện, theo điều 85 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “Đại diện của pháp nhân có
thể là đại diện theo pháp luật, hoặc đại diện theo ủy quyền.”
2.1.2. Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện
Bản chất của giao dịch dân sự chính là sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí cho nên vấn
đề tự nguyện luôn được đặt ra hàng đầu. Nếu không có sự tự do ý chí và bày tỏ ý chí thì không thể
có sự tự nguyện. Nếu thiếu đi một trong hai điều này thì cũng không thể có sự tự nguyện. Hiểu một
cách dễ hình dung là người tham gia giao dịch họ tự do ý chí và bày tỏ ý chí một cách tự nguyện
theo mong muốn của chính mình, họ thích thì họ tham gia giao dịch, không thích thì không tham gia
giao dịch đó. Không ai có thể ép, buộc họ tham gia một giao dịch mà họ không thích, không mong
muốn nào đó ép buộc. Cho nên giao dịch này sẽ có hiệu lực pháp lý. Về bản chất, khi xác lập giao
dịch họ hoàn toàn bình thường về mặt sinh học và không có yếu tố gì tắc động đến nhận thức của họ
thì được coi là hoàn toàn tự nguyện. Trừ những trường hợp:
Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo (Điều 124 BLDS năm 2015): Giao dịch dân sự vô hiệu
do giả tạo là khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch dân
sự khác thì giao dịch dân sự giả tạo vô hiệu, còn giao dịch dân sự bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ
trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này hoặc luật khác có liên quan.
Đồng thời trường hợp xác lập giao dịch dân sự giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì
giao dịch dân sự đó vô hiệu. Ví dụ: Giao kết hợp đồng tặng cho tài sản nhằm chê giấu hợp đồng gửi
giữ.
Giao dịch dân sự vô hiệu do nhầm lẫn ( Điều 126 BLDS năm 2015): Giao dịch dân sự vô
hiệu do nhầm lẫn là khi bên xác lập giao dịch dân sự hình dung sai về nội dung của giao dịch mà
tham gia vào giao dịch gây thiệt hại cho mình và cho bên kia. Sự nhầm lẫn xuất phát từ nhận thức
của các bên hoặc phán đoán sai lầm về đối tượng sự việc. Nếu bên bị nhầm lẫn chứng minh được sự
nhầm lẫn của mình thì giao dịch có thể bị tuyên vô hiệu
Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép (Điều 127 BLDS năm 2015)
Trường hợp một bên tham gia giao dịch dân sự bị đe dọa, cưỡng ép: Đe dọa, cưỡng ép là hành vi
cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia phải thực hiện giao dịch dân sự nhằm tránh
thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của người thân
thích của mình
Ví dụ: Do cờ bạc thua , Anh A – 20 tuổi thiếu nợ xã hội đen 500 triệu. Do anh A không có khả
năng trả nợ nên chủ nợ đưa người đến đe dọa tính mạng, ép cha mẹ phải bán nhà để trợ nợ thay con.
Trường hợp một bên tham gia giao dịch dân sự bị lừa dối: Lừa dối là hành vi cố ý của một bên
hoặc người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội
dung của giao dich dân sự nên đã xác lập giao dịch.
10

2.1.3. Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không
trái đạo đức xã hội.
Căn cứ vào Điều 118 BLDS năm 2015, Mục đích của giao dịch dân sự là lợi ích mà chủ thể
mong muốn đạt được khi xác lập giao dịch đó. Còn nội dung của giao dịch dân sự là tổng hợp các
điều khoản mà các bên đã cam kết, thỏa thuận trong giao dịch. Như vậy mục đích và nội dung của
giao dịch dân sự không vi phạm điều cầm của luật có nghĩa là các bên chủ thể không được phép
thực hiện những hành vi nhất định theo quy định của pháp luật ngăn cấm. Đồng thời không được trái
với với đạo đức xã hội là không được có những hành vi đi ngược lại với những chuẩn mực ứng xử
chung trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng.
Ví dụ: Anh A và Chị B không thể có con với nhau, tìm đến tổ chức mang thai hộ bất hợp
pháp. Tại đây bà C đã giới thiệu người mang thai hộ với giá là 700 triệu, anh A chị B đồng ý chi trả
cho bà C 700 triệu để tiến hành hợp đồng giao dịch. Tuy nhiên căn cứ vào Điểm g Khoản 2: “Cấm
các hành vi dưới đây” của Điều 5: “Bảo vệ chế độ hôn nhân gia đình” của Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2014: “Thực hiện sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản vì mục đích thương mại, mang
thai hộ vì mục đích thương mại, lựa chọn giới tính thai nhi, sinh sản vô tính”. Như vậy, việc giao
dịch giữa bà C và anh A chị B đã làm trái với Điểm g Khoản 2 Điều 5 của Luật Hôn nhân và gia
đình, làm trái với chuẩn mực xã hội. Nếu tiến hành giao dịch sẽ phải chịu trách nhiệm pháp lí theo
quy định của luật.
2.1.4. Hình thức của giao dịch phải phù hợp với quy định của pháp luật

Hình thức của giao dịch dân sự là phương tiện thể hiện nội dung của giao dịch. Nó có ý
nghĩa vô cùng quan trọng trong tố tụng dân sự - là chứng cứ xác nhận các quan hệ đã, đang tồn tại
giữa các bên, qua đó xác định trách nhiệm dân sự khi có hành vi vi phạm xảy ra.

Căn cứ vào Điều 119 BLDS năm 2015, trong giao dịch dân sự có nhiều hình thức như lời
nói, văn bản hoặc hành vi cụ thể. Mỗi một hình thức lại có những ưu điểm, hạn chế riêng phụ thuộc
vào yêu cầu của người giao dịch.

Thứ nhất, hình thức bằng lời nói: là hình thức xác lập giao dịch diễn ra tương đối thông
dụng trong cuộc sống hàng ngày. Nó được thực hiện trên cơ sự tin tưởng lẫn nhau giữa các chủ thể
tham gia giao dịch mà nội dung của giao dịch thường có giá trị nhỏ chỉ cần hai bên đồng ý xác lập
giao dịch thì giao dịch đó có hiệu lực (Ví dụ như mua bán hàng hóa trao tay, người thâm cho vay
mượn tài sản,..). Tuy nhiên hình thức này có hiệu lực rất thấp nên khi sảy ra tranh chấp sẽ rất khó
chứng minh được nội dung mà mình đã giao dịch cũng như các quyền và nghĩa vụ cần thực hiện khi
giao dịch đã có hiệu lực nếu bên kia phủ nhận.
11

Thứ hai, hình thức văn bản: là hình thức xác lập giao dịch cụ thể bằng văn bản hay còn gọi
là hợp đồng giao dịch. Trong đó, nội dung của văn bản thể hiện mong muốn của hai bên tham gia
vào giao dịch sau khi đã thống nhất và có hiệu lực ngay sau khi hai bên chủ thể ký kết. Hình thức
này mang tính chất pháp lý cao, trong trường hợp xảy ra tranh chấp thì bản hợp đồng giao dịch
giữa hai bên sẽ là chứng cứ cụ thể để pháp luật dựa vào đó để đưa ra quyết định cho hai bên. Vì thế
thích hợp với những giao dịch có nội dung nhạy cảm, có giá trị lớn. Trong đó:

 Văn bản thường: Áp dụng trong trường hợp các bên tham gia giao dịch thoả thuận hoặc pháp
luật quy định giao dịch phải thể hiện bằng hình thức văn bản. Nội dung giao dịch dân sự được thể
hiện trên văn bản có chữ kí xác nhận của các chủ thể.

Ví dụ: Điều 502 của BLDS 2015 quy định: “Hợp đồng về quyền sử dụng đất phải được lập
thành văn bản theo hình thức phù hợp với quy định của Bộ luật này, pháp luật về đất đai và quy định
khác của pháp luật có liên quan”

Văn bản có công chứng chứng nhận, uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền chứng thực: Được áp
dụng trong những trường hợp pháp luật quy định giao dịch dân sự bắt buộc phải được lập thành văn
bản hoặc các bên có thoả thuận phải có chứng nhận, chứng thực, đăng kí hoặc xin phép thì khi xác
lập giao dịch các bên phải tuân thủ hình thức, thủ tục đó (mua bán nhà, chuyển quyền sử dụng
đất...).

Ví dụ: Tại Điểm a Khoản 3 Điều 167 Luật Đất đai 2013 quy định: “ Hợp đồng chuyển nhượng,
tặng cho, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất
phải được công chứng hoặc chứng thực, trừ trường hợp kinh doanh bất động sản quy định tại điểm b
khoản này”.

Thứ ba, hình thức giao dịch bằng hành vi: Giao dịch có thể được xác lập thông qua những hành
vi nhất định theo quy ước định trước. Đây là hình thức đơn giản tiện nhất của GDDS. GDDS có thể
xác lập thông qua hình thức này mà không nhất thiết phải có sự hiện diện đồng thời của tất cả các
bên tại nơi giao kết.

Tóm lại, thông qua việc phân tích các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự có thể thấy
mỗi điều kiện sẽ có những đặc điểm riêng khác nhau. Khi tham gia vào một giao dịch dân sự, mỗi
chủ thể cần phải thỏa mãn những điều kiện đã được pháp luật quy định đó là: Năng lực dân sự, năng
lực hành vi pháp luật dân sự; Các chủ thể khi tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện; Mục
đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội
12

và điều kiện cuối cùng là hình thức của giao dịch dân sự phải phù hợp với quy định của pháp luật.
Chỉ khi nào thỏa mãn được những điều kiện được pháp luật quy định thì những giao dịch dân sự đó
mới có hiệu lực và khi phát sinh tranh chấp sẽ được pháp luật bảo vệ.
2.2 Thực tiễn về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự và bất cập trong điều kiện có hiệu
lực của giao dịch dân sự
2.2.1. Thực tiễn về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự

Giao dịch dân sự diễn ra liên tục hàng giờ, hàng ngày với đầy đủ các loại đối tượng được
mang ra giao dịch. Như đã phân tích ở trên là để một giao dịch dân sự có hiệu lực thì cần phải tuân
thủ theo các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự đã được quy định tại điều 117 Bộ luật dân sự
năm 2015. Tuy nhiên, chúng ta có thể thấy rằng trong thực tiễn, không phải ai cũng biết về các điều
kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự. Có lẽ, sẽ không nói quá khi cho rằng, để biết và hiểu về điều
kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự thì chỉ những người làm luật, những người học luật, giảng
viên, người làm việc trong lĩnh vực ngành luật là hiểu rõ. Bởi trình độ hiểu biết, nhận thức của
người dân ta còn nhiều hạn chế, cũng như ý thức về pháp luật cũng không được cao. Một phần nữa
là vì nhiều người khi tham gia các giao dịch dân sự họ cũng không quan tấm đến các điều kiện để có
hiệu lực của một giao dịch dân sự. Các chủ thể khi tham gia giao dịch cứ nghĩ rằng, làm sao để
thuận mua vừa bán là được rồi, chứ không cần biết liệu giao dịch dân sự mà mình tham gia đó đã có
đủ các điều kiện có hiệu lực của một giao dịch dân sự hay chưa. Cho nên không phải ai khi tham gia
vào các giao dịch dân sự họ cũng điều rằng là. Đối với loại giao dịch này thì mình không được tham
gia, hoặc khi tham gia vào giao dịch này thì mình phải làm thế này, thế kia. Như vậy, khi tham gia
giao dịch dân sự mà không thỏa mãn các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự thì điều này đã
dẫn đến một hệ quả là có nhiều giao dịch dân sự được xác lập đáng lẽ ra là bị vô hiệu. Thế nhưng,
có lẽ do chưa xảy ra tranh chấp hoặc chưa có những thiệt hại nào đó nên các giao dịch dân sự đó vẫn
được tiến hành hàng ngày và mặc nhiên mọi người tự cho rằng là nó có hiệu lực.

Không chỉ thế so với BLDS 2005 thì Điều 117 BLDS 2015 điểm mới hoàn thiện hơn :

Thứ nhất, tại điểm a khoản 1, BLDS năm 2015 đã sửa từ “người” thành từ “chủ thể”. Đây là một
sự thay đổi hợp lí bởi chủ thể của giao dịch có thể là cá nhân (con người về mặt sinh học) hoặc pháp
nhân (con người về mặt pháp lí). Hơn nữa, trong mỗi loại giao dịch khác nhau thì điều kiện về chủ
thể cũng sẽ là khác nhau. Vì vậy, không thể quy định một cách chung chung như quy định của
BLDS 2005.5

Thứ hai, trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội,
BLDS năm 2015 đã thay thế từ “pháp luật” bởi từ “luật” trong quy định giao dịch dân sự do vi phạm
điều cấm của BLDS 2005. Có thể thấy rằng từ “pháp luật” có nội hàm rộng hơn so với từ “luật”. Ở
đây, pháp luật là hệ thống các quy định trong Hiến pháp, luật, nghị định, thông tư,… điều chỉnh lĩnh
5
Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong dự thảo bộ luật dân sự (sửa đổi) – Dương Anh Sơn – Tạp chí Nghiên cứu Lập
pháp số 13 (293)/Kỳ 1, tháng 7/2015
13

vực có liên quan. Còn từ “luật” là để chỉ các quy định trong văn bản luật mà không phải các quy
định trong nghị định, thông tư,… Như vậy, BLDS 2015 đề cao tầm quan trọng cũng như hiệu lực
của văn bản luật so với văn bản dưới luật, khắc phục được tình trạng mâu thuẫn và chồng chéo giữa
văn bản luật và dưới luật.

Ví dụ: Theo quy định tại khoản 3 điều 167 Luật đất đai năm 2013 thì hợp đồng tặng cho quyền
sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất phải được công chứng, chứng thực. Thế
nhưng do hiểu biết về pháp luật còn hạn chế, nên nhiều trường hợp giao dịch về quyền sử dụng đất,
các bên tham gia giao dịch lại không đi tiến hành công chứng, chứng thực. Thậm chí có trường hợp
mua bán đất đai còn không tiến hành lập văn bản bằng hợp đồng, mà chỉ là thỏa thuận, tiến hành
bằng lời nói. Như vậy, sau này khi có xảy ra tranh chấp thì việc giải quyết sẽ trở nên khó khăn hơn
nhiều, nhất là với nhiều loại giao dịch dân sự khi vô hiệu thì việc khôi phục lại tình trạng ban đầu,
hoàn trả cho nhau những gì đã nhận sẽ trở nên khó khăn 6. Thực tiễn đã cho thấy, hàng năm Tòa án
nhân dân xét xử rất nhiều vụ việc liên quan đến giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định
về hình thức hay rồi các giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo.

Từ đó, yêu cầu đặt ra ở đây là phải không ngừng tuyên truyền, phổ biến nâng cao pháp luật
để cho mọi người dân biết được không chỉ những điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự mà cả
những vấn đề pháp luật khác nữa. Khi trình độ hiểu biết pháp luật đã nâng cao hơn thì mọi người khi
tham gia các giao dịch dân sự cũng tự biết bảo vệ cho bản thân cũng như bảo vệ cho người thân, gia
đình tránh những thiệt hại có thể xảy ra khi xảy ra tranh chấp. Đồng thời nhận biết được giao dịch
nào là giao dịch có phát sinh hiệu lực, khi xảy ra tranh chấp sẽ được pháp luật bảo vệ.
2.2.2. Vấn đề bất cập về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
Có thể thấy rằng, thực tiễn pháp luật về các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
trong Bộ luật dân sự năm 2015 của nước ta đã hoàn thiện và đi vào đời sống được nhiều năm. Tuy
nhiên vẫn còn đó những vấn đề mà chúng ta cần làm rõ hơn.

Thứ nhất đó là tại điểm c khoản 1 điều 117 Bộ luât dân sự năm 2015 quy định: “Mục đích
và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội”. Có
thể hiểu điều cấm của luâ ̣t là những quy định của luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành
vi nhất định. Vậy nếu trong Luật không cấm thì câu hỏi được đặt ra là các giao dịch được xác lập mà
không vi phạm điều cấm của luật, mà trong luật lại không có quy định về vấn đề này thì khi xảy ra
mâu thuẫn, tranh chấp thì sẽ giải quyết như thế nào. Ví dụ: Pháp luật không cấm vợ chồng cùng lập
di chúc chung. Và việc lập di chúc chung này là chắc chắn không vi phạm điều cấm của luật, không
trái với đạo đức của xã hội. Thế nhưng khi vợ chồng cùng lập di chúc chung thì khi nào di chúc đó
có hiệu lực, khi có xảy ra tranh chấp, mâu thuẫn thì phải xử lý như thế nào. Trước đây, Bộ luật dân
sự năm 2005 có quy định về việc vợ chồng lập di chúc chung, tuy nhiên đến Bộ luật dân sự năm
6
Xem điều 131 Bộ luật dân sự năm 2015: Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu
14

2015 đã không còn quy định điều này. Có lẽ, sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái với
đạo đức xã hội là một điều đáng lưu tâm khi bàn về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự.

Thứ hai, Tại điểm b khoản 1 của Điều 122 có ghi: “Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn
toàn tự nguyện”. Có nghĩa giao dịch không được xác lập trên cơ sở tự nguyện có thể dẫn đến vô
hiệu. Tuy nhiên, nếu xét theo nhiều góc độ khác nhau thì tự nguyện chưa hẳn đã là sự tự do lựa
chọn. Trong giao dịch, có hai loại tự nguyện là tự nguyện trong bối cảnh có nhiều sự lựa chọn và có
ít sự lựa chọn hoặc không còn sự lựa chọn nào khác. Xét trường hợp có nhiều sụ lựa chọn, lúc này ý
chí của chủ thể sẽ được thể hiện một cách tự do nhất, không chịu bất kì một sự tác động nào. Hay
nói cách khác là tự do ý chí được thể hiện một cách đầy đủ. Trong trường hợp có ít hoặc không còn
sự lựa chọn nào khác, lúc này chủ thể sẽ vẫn trên tinh thần tự nguyện nhưng chịu sự tác động rất lớn
từ yếu tố bên ngoài. Họ tự nguyện tham gia đơn giản vì không còn sự lựa chọn nào khác. Ví dụ, Anh
A vì thiếu nợ quá nhiều nên buộc phải bán căn nhà đi để có tiền trả nợ. Mặc dù là tự nguyện bán
nhưng vì thiếu nợ không còn sự lựa chọn nào khác mới phải bán căn nhà. Như vậy, để hợp lí và
hoàn thiện hơn thì nên sửa: “Giao dịch được xác lập trên cơ sở tự do, tự nguyện của chủ thể” hoặc
“Chủ thể tham gia giao dịch hoàn toàn tự do, tự nguyện”.
15

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Tóm lại, thông qua việc phân tích các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự có thể thấy
mỗi điều kiện sẽ có những đặc điểm riêng khác nhau. Khi tham gia vào một giao dịch dân sự, mỗi
chủ thể cần phải thỏa mãn những điều kiện đã được pháp luật quy định đó là: Năng lực dân sự, năng
lực hành vi pháp luật dân sự; Các chủ thể khi tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện; Mục
đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội
và điều kiện cuối cùng là hình thức của giao dịch dân sự phải phù hợp với quy định của pháp luật.
Chỉ khi nào thỏa mãn được những điều kiện được pháp luật quy định thì những giao dịch dân sự đó
mới có hiệu lực và khi phát sinh tranh chấp sẽ được pháp luật bảo vệ. Thực tiễn thực hiện quy định
của pháp luật dân sự, cụ thể là giao dịch dân sự và các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự.
Có thể nhận thấy, pháp luật dân sự nước ta đã có những quy định đầy đủ và hoàn thiện về điều kiện
có hiệu lực của giao dịch dân sự. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn những điều cần phải hoàn thiện
hơn nữa để có thể phù hợp với thực tiễn.
16

KẾT LUẬN

Nghiên cứu về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự, có thể thấy pháp luật nước ta đã có
những quy định rất rõ ràng để một giao dịch dân sự có hiệu lực. Từ những quy định về điều kiện
năng lực hành vi pháp luật dân sự, đến quy định về sự tự nguyện khi tham gia giao dịch dân sự hay
cả yêu cầu về hình thức. Ngày nay, song hành với sự phát triển nền kinh tế đất nước thì đi cùng với
đó là các giao dịch dân sự được xác lập cũng trở nên nhiều hơn. Với nhiều giao dịch dân sự được
xác lập, thực hiện đó thì yêu cầu về hiểu biết các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự lại càng
quan trọng hơn bao giờ hết. Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự luôn là vấn đề lớn và quan
trọng trong cả nghiên cứu lý luận cũng như trong thực tiễn. Thông qua việc phân tích và tìm hiểu
các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự giúp cho ta xác định được những giao dịch nào là có
hiệu lực và phát sinh hậu quả pháp lý. Hiểu rõ được điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự giúp
cho mỗi cá nhân khi tham gia một giao dịch dân sự sẽ phần nào tự bảo vệ được quyền lợi của chúng
ta, đồng thời từ đó khi có xảy ra tranh chấp, mâu thuẫn trong các giao dịch đó thì chúng ta sẽ được
pháp luật bảo vệ và cũng dễ dàng giải quyết mâu thuẫn hơn. Do vậy vấn đề được đặt ra là cần phải
không ngừng hoàn thiện hơn nữa những quy định của pháp luật về điều kiện có hiệu lực của giao
dịch dân sự. Những quy định luôn phải phù hợp với thực tiễn, linh hoạt, nhưng cũng đòi hỏi mỗi cá
nhân cần có ý thức tự giác thực hiện, tuân thủ pháp luật hơn nữa. Với cá nhân em là một sinh viên
luật thông qua bài làm này em cũng đã nhận thấy rõ được tầm quan trọng của vấn đề điều kiện có
hiệu lực của giao dịch dân sự.
1

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trường Đại học Luật Hà Nội (2019), Giáo trình Luật dân sự Việt Nam tập 1, Nxb Công an
nhân dân
2. Bộ luật Dân sự năm 2015
3. Luật Nhà ở năm 2014
4. Luật Đất đai năm 2013
5. Nguyễn Văn Điền, Giao dịch dân sự và điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự theo quy
định pháp luật hiện hành, link: https://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?
ItemID=2445&fbclid=IwAR0p0zAYjIjGQShm2mmRb3Lnxi9qw_kqfCoyQCH6rrJTywG3O
Of8d9bsCOE.
6. Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong dự thảo bộ luật dân sự (sửa đổi) – Dương
Anh Sơn – Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 13 (293)/Kỳ 1, tháng 7/2015.

You might also like