You are on page 1of 19

Vấn đề 1: chức năng và bộ máy NN

1,Chức năng của NN


+ Khái niệm: Chức năng của NN là những phương diện hoạt động chủ yếu của NN nhằm
thực hiện các nhiệm vụ đặt ra.
+căn cứ để xác định chức năng của NN :được xác định xuất phát từ bản chất của NN ,do cơ
sở kinh tế và cơ cấu của giai cấp quyết định
---> Ví dụ : các nước bóc lột được xây dựng trên cơ sở của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất
và bóc lột nhân dân lao động cho nên chúng có những chức năng cơ bản là :bảo vệ chế độ tư
hữu về tư liệu sản xuất ,đàn áp sự phản kháng và phong trào cách mạng của nhân dân lao
động ,tổ chức,tiến hành chiến tranh xâm lược để mở rộng ảnh hưởng và nô dịch các dân tộc
khác...
+Phân loại : căn cứ vào phạm vi hoạt động của nhà nước ,các chức năng được chia thành :
chức năng đối nội ,chức năng đối ngoại .
Chức năng đối nội : là những mặt hoạt động chủ yếu của nhà nước trong nội bộ đất nước.
Ví dụ : xây dựng sân bay quốc tế,trấn áp những phần tử chống đối chế độ,đảm bảo trật tự xã
hội,bảo vệ chế độ kinh tế,.....
Chức năng đối ngoại : thể hiện vai trò của nhà nước trong quan hệ với các nhà nước và
dân tộc khác . Ví dụ như xây dựng đường xuyến Á,xây dựng biên giới quốc gia,thiết lập mối
quan hệ bang giao với các quốc gia khác....
-----> Mối quan hệ giữa chức năng đối nội và chức năng đối ngoại : có mối quan hệ mật thiết
với nhau.Việc xác định và thực hiện các chức năng đối ngoại luôn luôn phải xuất phát từ tình
hình thực hiện các chức năng đối nội .Đồng thời ,kết quả của việc thực hiện các chức năng
đối ngoại sẽ tác động mạnh mẽ tới việc tiến hành các chức năng đối nội . Ví dụ như khi muốn
thực hiện một dự án lớn mà tình hình kinh tế của đát nước ta còn chưa đủ khả năng thì
chúng ta phải hướng tới hợp tác với các nước khác để cùng với họ hoành thành dự án lớn
này.
Để thực hiện các chức năng đối nội và đối ngoại ,nhà nước sử dụng nhiều hình thức và
phương pháp hoạt động khác nhau ,trong đó có 3 hình thức hoạt động chính là : Xây dựng
pháp luật ,tổ chức thực hiện pháp luật ,bảo vệ pháp luật.Trong mỗi NN việc sử dụng 3 hình
thức hoạt động này cũng có những đặc điểm khác nhau .Tùy thuộc vào tình hình cụ thể của
mỗi nước,các phương pháp hoạt động để thực hiện các chức năng của nhà nước cũng rất đa
dạng nhưng nhìn chung có 2 phương pháp chính là thuyết phục và cưỡng chế . Nếu như
trong NN bóc lột ,cưỡng chế được sử dụng rỗng rãi và là phương pháp chủ yếu để thực hiện
các chức năng NN thì trong NN XHCN thuyết phục là phương pháp cơ bản,còn cưỡng chế
được sử dụng kết hợp dựa trên cơ sở của thuyết phục và giáo dục.Các chức năng và nhiệm
vụ của nhà nước được thực hiện thông qua bộ máy nhà nước.
2,Bộ máy nhà nước
+ khái niệm : là hệ thống các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương bao gồm
nhiều cơ quan như lập pháp ,hành pháp ,tư pháp ,,,,được tổ chức và hoạt động theo quy
định của pháp luật để thực hiện chức năng và nhiệm vụ của NN.
+ Đặc điểm của bộ máy NN
Một là : Bộ máy NN bao gồm hệ thống cơ quan NN : từ trung ương cho tới địa
phương : hệ thống cơ quan NN ở trung ương thì có : quốc hội,chính phủ,các bộ vaf các cơ
quan ngang bộ .TAND tối cao,VKSND tối cao .;ở địa phương có: HĐND ,UBND ,tòa án nhân
dân các cấp ,VKSND các cấp
Hai là : Bộ máy NN được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc nhất
định .Chẳng hạn, chức năng của nghị viện (quốc hội) là lập pháp, quyết định những vấn đề
quan trọng của đất nước...; chức năng của toà án là xét xử các vụ án.
Ba là : Bộ máy NN được thiết lập để thực hiện các chức năng ,nhiệm vụ của NN.
+ cơ cấu của bộ máy NN : bao gồm :cơ quan lập pháp ,cơ quan hành pháp và cơ quan tư
pháp
 Cơ quan quyền lực nhà nước (Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước
ở địa phương).
 Cơ quan hành chính nhà nước, tức là cơ quan hành pháp (đứng đầu hệ thống này là
Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc Chính phủ và Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh, huyện, xã, các sở, phòng, ban…).
 Cơ quan tư pháp:
Các cơ quan xét xử (Tòa án nhân dân tối cao, các Tòa án nhân dân địa phương, Tòa án quân
sự…).
Các cơ quan kiểm sát (Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các Viện kiểm sát nhân dân địa
phương, Viện kiểm sát quân sự). Hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước tùy thuộc vào hiệu
lực, hiệu quả hoạt động của từng cơ quan nhà nước.
+ Nguyên tắc tổ chức bộ máy NN :
Tam quyền phân lập :
Nguồn gốc : Trước chế độ dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa, mọi quyền lực nhà
nước đều tập trung vào trong tay một cá nhân. Chính đây là căn nguyên cho mọi hành vi độc
tài, chuyên chế của các công việc nhà nước. Vì vậy, muốn chống chế độ này, một lý thuyết
của nhiều học giả tư sản đã được nêu ra, đó là thuyết phân chia quyền lực.
Nội dung:
Một là :quyền lực tối cao được phân thành 3 quyền : lập pháp, hành pháp và tư pháp.
+ Lập pháp: Biểu hiện ý chí chung của quốc gia . Nó thuộc về toàn thể nhân dân, được trao
cho hội nghị đại biểu nhân dân – Quốc hội
+ Hành pháp: Là việc thực hiện luật pháp đã được thiết lập.
+ Tư pháp: là để trừng trị tội phạm và giải quyết sự xung đột giữa các cá nhân. Các thẩm
phán được lựa chọn từ dân và xử án chỉ tuân theo pháp luật.
Hai là các cơ quan có vị trí ngang nhau kiềm chế giám sát nhau hay còn gọi là đối trọng
của nhau.Quyền lực giữa các cơ quan quyền lực cân bằng, không có loại quyền lực nào vượt
trội hơn. Các cơ quan quyền lực giám sát, kiềm chế đối trọng và chế ước lẫn nhau, để không
có một cơ quan nào có khả năng lạm quyền.
nguyên tắc tập trung quyền lực :
Khái niệm :là nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước thể hiện việc tập trung quyền lực
vảo tay một người hoặc một cơ quan.
Trong nhà nước cũng có sự phân công phối hợp giữa 3 cơ quan tư pháp lập pháp hành
pháp nhưng theo nguyên tắc các cơ quan có vi j trí khác nhau có cơ quan có vị trí cao có cơ
quan có vị trí thấp hơn;
-------. Nguyễn tắc tổ chức bộ máy NN ở Việt Nam :
Thứ nhất, quyền lực nhà nước là thống nhất. Theo đó, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân và tập trung vào Quốc hội theo nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa. Với nhận
thức nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước, nhưng vì không thực hiện được quyền lực
nhà nước một cách trực tiếp nên đã trao toàn bộ quyền lực nhà nước của mình cho Quốc
hội.
Trong khi nhiều nước trên thế giới, quyền lực nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc “tam
quyền phân lập” với những biến thể khác nhau, thì ở nước ta ba nhánh quyền lực này lại
không tổ chức theo hướng độc lập và đối trọng với nhau, mà chỉ có sự phân công, phối hợp
và kiểm soát, cách thức tổ chức quyền lực này tạm gọi là nguyên tắc thứ cấp “phân – hợp –
kiểm”. Trong điều kiện xã hội hiện đại và thể chế nhà nước đơn nhất, chúng ta chỉ vận dụng
yếu tố hợp lý của học thuyết phân quyền là sự phân công quyền lực, chứ không áp dụng
toàn bộ nội dung học thuyết này.
Quyền lực nhà nước không phải sự cộng lại đơn thuần của các quyền lập pháp, hành pháp,
tư pháp, mà có thể yêu cầu chúng tách biệt, độc lập khỏi nhau. Mỗi cơ quan không chỉ thuần
túy, đơn phương thực hiện một quyền, mà không tham gia vào việc thực hiện các quyền
khác. Các cơ quan dù được phân nhiệm thực hiện các quyền khác nhau, nhưng trong quá
trình thực hiện quyền hạn của mình đều phải có sự phối hợp với các cơ quan khác.
Thứ hai, quyền lực nhà nước có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. So với quyền lực nhà
nước là thống nhất thì phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp thể hiện vai trò thứ yếu, hỗ trợ, bổ sung.
Điều này có nghĩa là việc phân công, phối hợp, kiểm soát phải dướng đến thống nhất thực
hiện quyền lực nhà nước.
– Phân công: mặc dù có sự phân định ba quyền nhưng cả ba quyền lập, hành, tư pháp không
tách biệt hoàn toàn mà “ràng buộc lẫn nhau” . Mục đích của việc phân công quyền lực nhà
nước là để giao phó cho các cơ quan nắm giữ một phần quyền lực nhà nước hướng đến việc
kiểm soát quyền lực nhà nước, bảo đảm tính pháp quyền của nhà nước để tăng cường sự
giám sát từ phía nhân dân, chứ không phải để phân chia, tách biệt các nhánh quyền lực nhà
nước.
– Phối hợp: là sự kết hợp các hoạt động của các cơ quan lại với nhau theo một cách thức
nhất định để bảo đảm cho các cơ quan đó thực hiện đầy đủ, hiệu quả chức năng, nhiệm vụ
của mình nhằm tạo ra sự thống nhất, đồng thuận và hiệu quả trong việc các cơ quan nhà
nước thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình.
– Kiểm soát: mục đích chính của kiểm soát quyền lực nhà nước nhằm ngăn chặn, hạn chế sự
lạm quyền của một bộ phận quyền lực trong bộ máy nhà nước. Tinh thần dùng quyền lực để
chế ước, kiểm soát quyền lực đã được Đảng ta thừa nhận và trở thành quan điểm chỉ đạo
trong việc thiết kế mô hình quyền lực trong giai đoạn hiện nay. Theo đó, phân công quyền
lực và kiểm soát quyền lực có quan hệ chặt chẽ với nhau. Phân công quyền lực là cơ sở, tiền
đề cho kiểm soát quyền lực còn phân công để xác định rõ chức năng, thẩm quyền của mỗi
nhánh quyền lực.
------>bản chất của tổ chức quyền lực nhà nước là việc chủ thể của quyền lực (nhân dân) sử
dụng các phương tiện pháp lý để hiện thực hóa chủ quyền nhân dân, đảm bảo quyền lực
thuộc về nhân dân, đảm bảo quyền lực nhà nước nằm trong quỹ đạo phục vụ nhân dân.
Vấn đề 2 : Kiểu NN và hình thức nhà nước
1, Kiểu nhà nước
- Khái niệm : là những dấu hiệu cơ bản đặc thù thể hiện bản chất giai cấp,điều kiện phát triển
của NN trong một hình thái kinh tế xã hội nhất định
---> Dựa vào khái niệm kiểu NN chúng ta có thể nhận thức được một cách cụ thể và logic về
bản chất và ý ý nghĩa xã hội của các NN được xếp vào cùng loại ,về những điều kiện tồn tại và
phát triển của NN đó.Ví dụ khi xác định một NN đã tồn tại trong một thời điểm lịch sử nhất
định thuộc kiểu NN chủ nô,chúng ta sẽ có ngay những thông tin cơ bản về bản chất và những
dấu hiệu đặc trưng của NN đó.
- Trong lịch sử xã hội có giai cấp đã tồn tại bốn hình thái KTXH : chiếm hữu nô lệ ,phong
kiến,tư bản chủ nghĩa,xã hội chủ nghĩa.Phù hợp với bốn hình thức kinh tế xã hội đã có 4 kiểu
NN:
+ kiểu nhà nước chủ nô: Bản chất của nhà nước chủ nô:Nhà nước chủ nô cũng có hai bản
chất tính giai cấp và tính xã hội:
Cơ sở kinh tế của nhà nước chủ nô là quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ. Những quan hệ sản
xuất này được xây dựng trên cơ sở chế độ chiếm hữu của chủ nô đối với toàn bộ tư liệu sản
xuất và cả người sản xuất là nô lệ
Cơ sở xã hội của nhà nước chủ nô: Trong xã hội chiếm hữu nô lệ tồn tại hai giai cấp cơ bản
là chủ nô và nô lệ. Chủ nô chỉ là một thiểu số dân cư trong xã hội những tất cả: đất đai, tư
liệu sản xuất, nô lệ, tự do cá nhân và toàn quyền thống trị đối với nô lệ. Nô lệ chiếm số đông
trong xã hội nhưng tính mạng, số phận cũng như các hoạt động xã hội nhưng tính mạng, số
phận cũng như các hoạt động xã hội của họ đều do chủ nô quyết định.
– Tính giai cấp
Nhà nước chủ nô là công cụ bạo lực để duy trì sự thống trị mọi mặt của giai cấp chủ nô đối
lưu lệ và các tầng lớp nhân dân lao động trong xã hội, duy trì tình trạng bất bình đẳng giữa
chủ nô với lu lệ với các tầng lớp nhân dân lao động khác.
– Tính xã hội
Các nhà nước chủ nô ở các mức độ khác nhau đã tiến hành những hoạt động mang tính xã
hội như: hoạt động làm thuỷ lợi ở các quốc gia chiếm hữu nô lệ phương Đông, xây dựng và
bảo vệ các công trình công cộng, hay hoạt động phát triển kinh tế thương mại ở Hy Lạp.
+ Kiểu NN phong kiến :
Cơ sở kinh tế của nhà nước phong kiến là phương thức sản xuất phong kiến với nét đặc
trưng là chế độ chiếm hữu ruộng đất của vua chúa phong kiến và giai cấp địa chủ. Lực lượng
sản xuất chủ yếu trong xã hội là giai cấp nông dân.
Xã hội phong kiến có kết cấu xã hội phức tạp, giai cấp thống trị trong xã hội gồm vua, chúa,
quan lại, quý tộc (công, hầu, bá, tử, nam), địa chủ, tăng lữ, cố đạo... Giai cấp bị thống trị là
các tầng lớp nông dân nghèo, những người lao động tự do, tầng lớp tiểu thương và nông nô.
Nhà nước phong kiến cũng có hai bản chất là tính giai cấp và tính xã hội:
Tính giai cấp: Bộ máy chuyên chính của giai cấp địa chủ, phong kiến, là công cụ để thực hiện
và bảo vệ lợi ích, quyền, địa vị thống trị của giai cấp địa chủ, quý tộc phong kiến trong xã hội
trên cả 3 lĩnh vực: KT, CT, TT.
Tính xã hội: còn là tổ chức quyền lực chung của xã hội, là đại diện chính thức của toàn xã hội
nên NNPK có nhiệm vụ tổ chức và điều hành các hoạt động chung của xã hội vì sự tồn tại và
lợi ích chung của cả cộng đồng xã hội (+) tiến hành 1 số hoạt động nhằm phát triển kinh tế –
xã hội.
=> Tính xã hội mờ nhạt, hạn chế, tính giai cấp thể hiện công khai, rõ rệt.
+ kiểu NN tư sản :
* Tính giai cấp
– Thời kì 1: “NNTB là UB giải quyết công việc chung của gia cấp tư sản”: nhà nước đối xử với
các giai cấp tư sản hoàn toàn như nhau => nhà nước đều là phương tiện, công cụ giải quyết
công việc chung.
– Thời kì 2: “……………tập đoàn TB lũng đoạn” => NNTB sẵn sang tước đoạt, chà đạp quyền
lợi nhà tư bản nhỏ và vừa dưới danh nghĩa quốc hữu hóa vì quyền lợi quốc gia.
* Tính xã hội
Đặc điểm chung qua các thời kì:
– Giai đoạn của CNTB tự do cạnh tranh: TS và với là đồng minh chống phong kiến.
+ Cạnh tranh tự do cá thể
+ Chưa có yếu tố độc quyền
– Giai đoạn của CNTB độc quyền lũng đoạn nhà nước hay gđ chủ nghĩa đế quốc: bộ máy bạo
lực đàn áp phong trào đấu tranh.
+ Hình thành tập đoàn tư bản lớn sở hữu tập thể.
+ Xuất hiện sở hữu tư bản nhà nước (Tập đoàn tư bản khống chế, không phải sở hữu toàn
dân).
– Giai đoạn của CNTB hiện đại:
+ Yếu tố tư nhân hóa phát triển mạnh.
+ Người lao động có sở hữu tư liệu sản xuất.
+ Kiểu NN xã hội chủ nghĩa:
Cơ sở kinh tế của nhà nước xã hội chủ nghĩa là quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa mà đặc
trưng là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất.
Cơ sở xã hội của nhà nước xã hội chủ nghĩa là quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp trong xã
hội, trong đó nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp
trí thức.
------> Sự khắc nhau giữa NN XHCN với các NN còn lại :Các kiểu NN chủ nô ,phong kiến,tư sản
đều là những kiểu NN bóc lột được xây dựng trên cơ sở của chế độ tư hữu về tư liệu sản
xuất .NN khi đó sẽ là công cụ để bảo vệ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất ,duy trì sự thống trị
của giai cấp bóc lột đối với nhân dân lao động .Còn NN XHCN là kiểu NN mới có bản chất
khác với kiểu NN bóc lột .Nhiệm vụ của NN XHCN là thực hiện dân chủ XHCN ,phát triển và
duy trì quyền làm chủ của nhân dân ,thực hiện công bằng xã hội.
2,HÌnh thức NN
-khái niệm : là cách thức tổ chức và thực hiện quyền lực NN của giai cấp thống trị bao gồm
hình thức chủ thể ,hình thức cấu trúc và chế độ chính trị
+ hình thức chính thể :
Hình thức chinh thể là cách thức và trình tự thành lập cơ quan cao nhất của quyền lực
nhà nước, xác lập moi quan hệ giữa cơ quan đó với cơ quan cẩp cao khác và với nhân dân.
Hình thức chính thể thành hai dạng cơ bản là chính thể quân chủ và chính thể cộng hoà.
Hình thức Quân chủ là chính thể mà trong đó quyền lực tối cao của nhà nước tập trung
toàn bộ hoặc một phần vào tay một cá nhân (vua, quốc vương...) theo phương thức cha
truyền con nổi (thế tập).
Chính thể quân chủ bao gồm nhiều dạng với những đặc trưng khác nhau, trong đó có
hai dạng cơ bản là quân chủ tuyệt đối và quân chủ hạn chế.
+Quân chủ tuyệt đổi là chính thể mà trong đó nhà vua có quyền lực tối cao và vô hạn
trong cả ba lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp, không bị chia sẻ cho ai và cũng không
chịu một sự hạn chế nào.
+Quân chủ hạn chế là chính thể mà trong đỏ nhà vua chỉ nắm giữ một phần quyền lực
tối cao của nhà nước, bên cạnh vua còn có cơ quan khác để chia sẻ quyền lực với vua.
Cộng hoà là chỉnh thể mà trong đó quyền lực cao nhẩt của nhà nước thuộc về cơ quan
(tập thể) đại diện của nhân dân.
Tuỳ theo đối tượng được quyền tham gia vào việc thành lập cơ quan tối cao của nhà
nước, chính thể cộng hoà được chia thành hai dạng khác nhau là cộng hoà quý tộc và cộng
hoà dân chủ
+Cộng hoà quý tộc là chỉnh thể mà trong đó quyền bầu cử cơ quan tối cao của quyền
lực nhà nước thuộc về tầng lớp quỷ tộc.
+Cộng hoà dân chủ là chính thể mà trong đó quyền bầu cử cơ quan tối cao của quyền
lực nhà nứớc thuộc về các tầng lớp nhân dân...

+ Hình thức cấu trúc :Hình thức cấu trúc nhà nước là cách thức tổ chửc quyền lực nhà nước
theo các đơn vị hành chính - lãnh thổ và xác lập mối quan hệ giữa các cấp chính quyền nhà
nước với nhau.
hình thức cấu trúc nhà nước có thể được chia thành hai dạng cơ bản là nhà nước đơn nhất
và nhà nước liên bang, ngoài ra có thể có một dạng cấu trúc nhà nước không cơ bản là nhà
nước liên minh.
+Nhà nước đơn nhất là hình thức cấu trúc nhà nước truyền thống và rất phổ biến ữên
thế giới, tuy nhiên hình thức cấu trúc này rất đa dạng và phức tạp, phụ thuộc vào điều kiện
kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội... của mỗi nước.
+Nhà nước liên bang được hình thành bằng nhiều con đường khác nhau. Chẳng hạn,
nhà nước liên bang có thể được hình thành từ việc các nhà nước đơn nhất tự nguyện liên
kết với nhau;1 có thể thông qua con đường xâm chiếm, mua bán lãnh thổ. Chẳng hạn: Liên
Xô, Tiệp Khắc, 13 bang đầu tiên của Mỹ... Bang Floriđa là Mỹ mua của Tây Ban Nha, bang
Louisiana mua của Pháp, bang Alasca mua của Nga...; cũng có thể từ một nhà nước đơn nhất
được liên bang hoá...
+ Chế độ chính trị :, chế độ chính trị là tổng thể các phương pháp mà nhà nước sử
dụng để thực hiện quyền lực nhà nước. có thể chia thành hai dạng cơ bản là chế độ chính trị
dân chủ và chế độ chính trị phản dân chủ.
Dân chủ là chế độ chỉnh trị mà nhân dân có quyền tham gia vào việc tố chức, hoạt động
của các cơ quan nhà nước, bàn bạc, thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng của
đất nước.

Phản dân chủ là chế độ chính trị mà nhân dân không có quyền tham gia vào việc tổ chức,
hoạt động của các cơ quan nhà nước, không có quyền bàn bạc, thảo luận và quyết định
những vấn đề quan trọng của đất nước.
--------------> Tóm lại : hình thức nhà nước trên thế giới vô cùng đa dạng, phức tạp. Cũng
như các yếu tố khác của nhà nước, hình thức nhà nước phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã
hội của đất nước; tương quan lực lượng giữa các giai cấp, các lực lượng xã hội; phong tục,
tập quán, đặc điểm tâm lí, truyền thống dân tộc và xu thế của thời đại...
jCâu 3 Bộ máy Nhà nước CHXHCN Việt Nam
Nhà nước xã hội chủ nghĩa có bản chất và mục đích khác với các kiểu nhà nước đã tồn tại
trước nó, vì vậy nó đòi hỏi phải có một bộ máy tương ứng, phản ánh đúng bản chất của nhà
nước, phù hợp với các quy luật vận động và phát triển khách quan của xã hội, phù hợp với
các điều kiện lịch sử. chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và các yếu tố truyền thống,đạo đức
của mỗi nước trong mỗi giai đoạn cụ thể.
Bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa nói chung cũng như bộ máy của nhà nước ta hiện nay có
những đặc điểm riêng,thể hiện ở những mặt cơ bản sau:
Thứ nhất, bộ máy quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa phát triển mạnh và không ngừng
được củng cố, hoàn thiện.
Thứ hai. bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa được tổ chức theo nguyên tắc quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Thứ ba, bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa có đội ngũ cán bộ là những công chức mới.
Đội ngũ cán bộ công chức của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa phải đáp ứng những tiêu
chuẩn chung

Bộ máy nhà nước hợp thành từ nhiều cơ quan và tổ chức nhà nước từ trung ương xuống
địa phương, có cơ cấu tổ chức phức tạp, phong phú và đa dạng. Mỗi cơ quan, tổ chức có vị
trí, vai trò, chức năng và nhiệm vụ riêng, nhưng chúng hợp thành một thể thống nhất, tổ
chức và hoạt động theo những nguyên tắc chung, cùng thực hiện các chức năng chung và
nhằm đạt được những mục tiêu thống nhất đặt ra
Các cơ quan nhà nước được thành lập theo quy định của pháp luật. Đó là những tổ chức có
cơ cấu tổ chức chặt chẽ, có biến chế xác định với đội ngũ cán bộ được xếp theo ngạch, bậc
căn cứ vào nhiệm vụ cụ thể được phân công và năng lực, trình độ thực tế của mỗi người.
1. Các loại cơ quan nhà nước xã hội chủ nghĩa
Cơ quan nhà nước là bộ phận cấu thành của Bộ máy nhà nước, đây là tổ chức (hoặc cá
nhân) mang quyền lực nhà nước được thành lập và có thẩm quyền theo quy định của pháp
luật với mục đích nhằm thực hiện nhiệm vụ và chức năng của nhà nước.
Có nhiều cách tiếp cận khác nhau để phân loại các cơ quan của bộ máy nhà nước xã hội
chủ nghĩa.
 Xét theo hình thức thực hiện ba quyền lập pháp hành pháp. tư pháp thì các cơ quan
nhà nước được chia thành cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp.
Tuy nhiên, cách phân chia này cũng chỉ mang tính tương đối và cũng chỉ có thể sử
dụng để xem xét bộ máy nhà nước ở trung ương.
 Xét theo trình tự thành lập, các cơ quan nhà nước xã hội chủ nghĩa có thể được chia
thành các cơ quan do nhân dân trực tiếp bầu ra (hệ cơ quan thứ nhất, có tính phát
sinh) và các cơ quan không do nhân dân trực tiếp bầu ra (hệ cơ quan thứ hai, có tính
phát sinh).
 Xét theo tinh chất thẩm quyền, các cơ quan nhà nước xã hội chủ nghĩa có thể chia
thành các cơ quan có thẩm quyền chung và các cơ quan có thẩm quyền riêng. Loại cơ
quan thứ nhất có quyền xem xét và quyết định bất cứ vấn đề gì để bảo đảm lợi ích xã
hội (gồm Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Hội đồng
nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp). Loại cơ quan thứ hai chỉ có thẩm quyền xem
xét và quyết định những vấn để trong một phạm vi nhất định của đời sống xã
hội(gồm các bộ, các sở, phòng.)
 Xét theo cấp độ thẩm quyền các cơ quan nhà nước xã hội chủ nghĩa được chia thành
các cơ quan nhà nước ở Trung ương và các cơ quan nhà nước ở địa phương.
2. Các cơ quan quyền lực nhà nước

Các cơ quan quyền lực nhà nước (còn gọi là hệ thống cơ quan đại diện) bao gồm Quốc
hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Các cơ quan quyền lực nhà nước do nhân dẫn trực tiếp
bầu ra, nhân danh nhân dân để thể hiện và thực thi một cách thống nhất quyền lực, phải
chịu trách nhiệm và phải báo cáo trước nhân dân (cử tri) về mọi hoạt động của mình.
=> Ở nước ta, Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân và là cơ quan quyền
lực nhà nước cao nhất, là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp.

*Chủ tịch nước :Trong bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa, chủ tịch nước là một trong những
thành tố rất quan trọng và trong hiến pháp thường có hẳn một chế định pháp luật về chủ
tịch nước.
3. Các cơ quan quản lý nhà nước

Các cơ quan chấp hành và hành chính nhà nước Các cơ quan quản lý nhà nước còn được
gọi là hệ thống cơ quan chấp hành, điều hành hoặc cơ quan hành chính nhà nước.
Ở nước ta. hệ thống cơ quan quản lý nhà nước gồm có: Chính phủ, các bộ, các cơ quan
ngang bộ, các cơ quan thuộc Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp.
Chính phủ là cơ quan cao nhất trong hệ thống cơ quan quản lý nhà nước, là cơ quan có
thẩm quyền chung,
=>các cơ quan nói trên hợp thành một hệ thống cơ quan quản lý thống nhất. Pháp luật còn
xác lập mối quan hệ cụ thể giữa các cơ quan trong hệ thống cơ quan quản lý nhà nước,
quy định thẩm quyền, trách nhiệm và nghĩa vụ cụ thể của mỗi cơ quan và người đứng đầu
cơ quan đó.

4. Các cơ quan quốc phòng và an ninh


Hệ thống cơ quan quốc phòng và an ninh mặc dù nằm trong hệ thống các cơ quan quản lý
nhà nước nhưng lại có vị trí và vai trò rất quan trọng trong bộ máy nhà nước xã hội chủ
nghĩa. Chúng được tổ chức ra nhằm thực hiện chức năng bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự
an toàn xã hội, bảo đảm sự ổn định chính trị và các quyền tự do dân chủ của nhân dân. bảo
vệ những thành quả cách mạng, tính mạng tài sản của nhân dân, tài sản xã hội chủ nghĩa,
đấu tranh phòng ngừa và chống các loại tội phạm.
Ở nước ta hệ thống cơ quan quốc phòng, an ninh gồm có:Hội đồng quốc phòng và an ninh,
Bộ Quốc phòng, Bộ Công an và các cơ quan quốc phòng, an ninh địa phương.
5. Các cơ quan xét xử
Hệ thống các cơ quan xét xử là loại cơ quan có chức năng đặc thù của bộ máy nhà nước xã
hội chủ nghĩa, được thể hiện ở chỗ chúng trực thuộc cơ quan quyền lực nhà nước, chịu trách
nhiệm báo cáo trước cơ quan quyền lực nhà nước, nhưng trong hoạt động lại độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật.
Ở nước ta hệ thống cơ quan xét xử gồm có: Tòa án nhân dân tối cao. các Toà án nhân dân
địa phương, các Toà án quân sự và các toà án khác do luật định.

6.Các cơ quan kiểm sát


Hệ thống cơ quan kiểm sát của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng có đặc thù riêng
đó là, chúng được tổ chức ra không chỉ để thực hiện quyền công tố mà còn để kiểm sát các
hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và
thống nhất.
Ở nước ta hệ thống cơ quan kiểm sát gồm có: Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các Viện kiểm
sát nhân dân địa phương và các Viện kiểm sát quân sự.

*Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động cơ bản của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa
1. Nguyên tắc bảo đảm quyền lực nhân dân trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước. Đây là một trong những nguyên tắc rất quan trọng trong tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước xã hội chủ nghĩa.Nội dung của nguyên tắc :
 Thứ nhất, phải bảo đảm cho nhân dân tham gia đông đảo và tích cực vào việc tổ
chức lập ra bộ máy nhà nước.
 Thứ hai, phải bảo đảm cho nhân dân tham gia đông đảo vào việc quản lý các công
việc nhà nước và quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước.
 Thứ ba, phải có cơ chế bảo đảm cho nhân dân thực hiện việc kiểm tra, giám sát hoạt
động của các cơ quan nhà nước, nhân viên nhà nước, các tổ chức và cá nhân khác
được trao cho những quyền hạn nhất định để quản lý một số công việc của nhà
nước.
2. Nguyên tắc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là tổ chức thông qua đó Đảng cộng sản thực hiện sự lãnh đạo
của mình đối với tiến trình phát triển của xã hội.
Ở nước ta, nguyên tắc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước là nguyên tắc hiến
định. Điều 4 Hiến pháp 1992 đã khẳng định: “Đảng cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo
Nhà nước và lãnh đạo xã hội".
3. Nguyên tắc tập trung dân chủ
Tập trung dân chủ là nguyên tắc thể hiện sự kết hợp hài hoà giữa sự chỉ đạo tập trung
thống nhất của các cơ quan nhà nước ở trung ương và các cơ quan nhà nước cấp trên, là cơ
sở để phát huy tính chủ động, sáng tạo của quần chúng nhân dân, của tập thể và đề cao
trách nhiệm, ý thức kỷ luật của cán bộ, công chức nhà nước.
4. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa
Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa đòi hỏi việc tổ chức và hoạt động của các cơ quan
nhà nước phải được tiến hành theo đúng pháp luật trên cơ sở của pháp luật
Pháp chế xã hội chủ nghĩa là nguyên tắc phản ánh nhu cầu tự nhiên của bộ máy nhà nước,
đồng thời là đòi hỏi, là yêu cầucẩu từ phía nhân dân đối với bộ máy nhà nước và nhân viên
nhà nước.
Ở nước ta nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa là nguyên tắc hiến định.
5. Nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc
Xuất phát từ bản chất của mình các nhà nước xã hội chủ nghĩa đều thực hiện nguyên tắc
bình đẳng và đoàn kết giữa cácgiữacác dân tộc cùng sinh sống trên đất nước. Nhà nước luôn
tạo mọi điều kiện để các dân tộc phát huy mọi khả năng của dân tộc mình tham gia tích cực
vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
Nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc thường được biểu hiện ở những điểm cơ
bản trong lĩnh vực : chính trị ,kinh tế,văn hoá- giáo dục

* Bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam , được thiết lập từ Cách mạng
tháng Tám năm 1945, ngay từ buổi đầu đã thể hiện bản chất của một kiểu nhà nước mới,
một nhà nước có chế độ dân chủ rộng rãi, gắn bỏ chặt chẽ với nhân dân, phục vụ lợi ích của
dân tộc, của nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.Tuy nhiên, trong tổ
chức và hoạt động, bộ máy nhà nước ta còn bộc lộ nhiều khuyết điểm và yếu kém.Tình hình
đó đặt ra yêu cầu cấp thiết phải tiếp tục xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước ta, để bộ
máy đó thực sự trong sạch, vững mạnh, có hiệu lực và hiệu quả.
Việc xây dựng và kiện toàn bộ máy nhà nước ta phải đáp ứng những yêu cầu cơ bản là:
1. Tiếp tục phát huy cao độ bản chất dân chủ, tạo điều kiện cho nhân dân thực hiện
quyền làm chủ của mình thông qua các hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực
tiếp. tham gia tích cực vào việc xây dựng và bảo vệ nhà nước, kiểm tra, giám sát hoạt
động của cơ quan nhà nước và cán bộ, công chức nhà nước.
2. Kiện toàn bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh, tỉnh giản, gọn nhẹ, hoạt động có
hiệu lực và hiệu quả; nâng cao trách nhiệm của cán bộ, công chức nhà nước trước
nhân dân.
3. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước.

Công tác xây dựng và kiện toàn bộ máy nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay bao gồm
những nội dung sau đây:

1. Kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc
hội, trọng tâm là tăng cường công tác lập pháp, quyết định và phân bổ ngân sách nhà
nước, thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước.Xây
dựng một nền hành chính nhà nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện
đại hoá.
2. Cải cách tổ chức, nâng cao chất lượng và hoạt động của các cơ quan tư pháp, nâng
cao tinh thần trách nhiệm của cơ quan và cán bộ tư pháp.Tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước nhằm giữ vững bản chất
của nhà nước, bảo đảm quyền lực nhân dân, đưa công cuộc đổi mới đi đúng định
hướng xã hội chủ nghĩa.
3. Tăng cường tổ chức và cơ chế, tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng
trong bộ máy nhà nước và toàn bộ hệ thống chính trị .

Câu 4: NGUỒN GỐC,ĐẶC ĐIỂM CỦA PHÁP LUẬT

1.Nguồn gốc của pháp luật


Những nguyên nhân làm phát sinh nhà nước cũng là những nguyên nhân dẫn đến sự ra
đời của pháp luật. Trong xã hội cộng sản nguyên thủy, những tập quán (và tín điều tôn giáo)
đã là những quy phạm xã hội rất phù hợp để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội lúc đó, bởi vì
chúng phản ánh đúng trình độ phát triển kinh tế - xã hội của chế độ cộng sản nguyên thủy.
Khi chế độ tư hữu xuất hiện và xã hội đã phân chia thành giai cấp thì những tập quán đó
không còn phù hợp nữa, vì tập quán thể hiện ý chí chung của mọi người trong thị tộc. Trong
điều kiện lịch sử mới khi những xung đột về lợi ích giai cấp diễn ra gay gắt và cuộc đấu tranh
giai cấp là không thể điều hòa được, thì cần thiết phải có một loại quy phạm mới để thiết lập
cho xã hội một "trật tự", một loại quy phạmnhạm thể hiện ý chí của giai cấp thống trị, đó là
quy phạm
pháp luật.
Hệ thống pháp luật của các nhà nước được hình thành dần dần từng bước phụ thuộc vào
những điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước. Nhưng nói chung, giai cấp thống trị đều
tìm cách vận dụng các tập quán để phục vụ lợi ích của giai cấp mình, dần dần thay đổi nội
dung của các tập quán và bằng con đường nhà nước nâng chúng thành các quy ... phạm
pháp luật. Ví dụ: Đạo luật 12 bảng của La-mã chính là kết quả của quá trình chuyển hóa các
tập quán thành các quy phạm pháp luật. Trong tổ chức công xã La-mã cổ đại đã có tập quán
về quyền sở hữu tập thể đối với ruộng đất và nô lệ. Khi tổ chức công xã tan rã (điều này diễn
ra trong thời gian dài) thì nội dung của tập quán trên thay đổi dần dần và cuối cùng, theo
Luật 12 bảng của La-mã, mỗi gia đình La-mã có quyền định đoạt đối với phần đất của mình,
còn nô lệ và súc vật trở thành tài sản riêng của mỗi gia đình giàu có.

Hệ thống pháp luật của các nhà nước còn được hình thành từ một nguồn khác, đó là các
văn bản do các cơ quan nhà nước ban hành. Việc chuyển hóa các tập quán để nâng chúng
thành luật chỉ là một bộ phận trong sự hình thành hệ thống pháp luật của các nhà nước.
Những mối quan hệ phức tạp mới phát sinh trong xã hội, đòi hỏi phải có các quy phạm pháp
luật mới để điều chỉnh. Vì vậy, hoạt động xây dựng pháp luật của các nhà nước ra đời. Tuy
nhiên, hoạt động này lúc đầu còn đơn giản và phiến diện, nhiều quyết định của các cơ quan
tư pháp, tòa án đã có ý nghĩa như những nguyên tắc chung, những quy định chung. Hệ
thống pháp luật được hình thành dẫn cùng với sự phát triển của các nhà nước và hoạt động
xây dựng pháp luật của các cơ quan trung ương. Nhà nước đã ban hành ra các văn bản pháp
luật nhằm củng cố chế độ tư hữu và quy định đặc quyền cho giai cấp thống trị. Ví dụ: Những
văn bản pháp luật của nhà nước chủ nô như đạo luật HammurabiHãmmurapi, đạo luật
Manu...
=>Như vậy, pháp luật là hệ thống các quy phạm do nhà nước ban hành, thể hiện ý chí của
giai cấp thống trị. Nó khác hoàn toàn với các quy phạm xã hội khác (bao gồm chủ yếu là các
tập quán) thể hiện ý chí của tất cả mọi người. Pháp luật ra đời cùng với nhà nước, pháp luật
là công cụ sắc bén để thực hiện quyền lực nhà nước, duy trì địa vị và bảo vệ lợi ích của giai
cấp thống trị. Nhà nước ban hành ra pháp luật và đảm bảo cho pháp luật được thực hiện. Cả
hai hiện tượng đều là sản phẩm của cuộc đấu tranh giai cấp.

2. Đặc điểm của pháp luật

Pháp luật có 03 đặc điểm (dấu hiệu) cơ bản sau đây:

* Pháp luật do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện:
Pháp luật do Nhà nước ban hành thông qua rất nhiều những trình tự thủ tục chặt chẽ và
phức tạp với sự tham gia của rất nhiều các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, các tổ chức và
các cá nhân nên pháp luật luôn có tính khoa học, chặt ché, chính xác trong điều chỉnh các
quan hệ xã hội.Pháp luật được nhà nước bảo đảm thực hiện bằng nhiều biện pháp, trong đó
các biện pháp cưỡng chế nhà nước rất nghiêm khắc như phạt tiền, phạt tù có thời hạn, tù
chung thân … Với sự bảo đảm của nhà nước đã làm cho pháp luật luôn được các tổ chức và
cá nhân tôn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh, có hiệu quả trong đời sống xã hội.

* Pháp luật có tính quy phạm phổ biến, gồm những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung:
Pháp luật gồm các quy tắc xử sự chung, được thể hiện trong những hình thức xác định, có
kết cấu logic rất chặt chẽ và được đặt ra không phải xuất phát từ một trường hợp cụ thể mà
là sự khái quát hóa từ rất nhiều những trường hợp có tính phổ biến trong xã hội. Điều này đã
làm cho quy định pháp luật có tính khái quát hóa cao, là những khuôn mẫu điển hình để các
chủ thể (tổ chức, cá nhân) thực hiện theo khi gặp phải những tình huống mà pháp luật đã dự
liệu.Pháp luật mang tính bắt buộc chung, các quy định pháp luật được dự liệu không phải
cho một tổ chức hay cá nhân cụ thể mà cho tất cả các tổ chức và cá nhân có liên quan. Xuất
phát từ vị trí, vai trò của nhà nước trong xã hội (tổ chức đại diện chính thức cho toàn xã hội),
nên pháp luật là bắt buộc đối với tất cả, việc thực hiện pháp luật

* Pháp luật có tính xác định chặt chẽ về hình thức:


Pháp luật luôn được thể hiện dưới những hình thức phải nhất định, nói cách khác, những
quy định pháp luật phải được chứa đựng trong các nguồn luật như tập quán pháp, tiền lệ
pháp, văn bản quy phạm pháp luật … Sự xác định chặt chẽ về hình thức là điều kiện để phân
biệt giữa pháp luật với những quy định không phải là pháp luật, đồng thời, cũng tạo nên sự
thống nhất, chặt chẽ, rõ ràng, chính xác về nội dung của pháp luật.

*Ngoài các đặc điểm cơ bản nói trên, pháp luật còn có những điểm khác nữa như tính ổn
định, tính hệ thống …
Câu 5: Kiểu pháp luật và hình thức pháp luật:
* Kiểu pháp luật: Là tổng thể những dấu hiệu, đặc thù cơ bản của pháp luật, thể hiện bản
chất giai cấp và và điều kiện tồn tại của pháp luật trong 1 hình thái kte xh nhất định.
Là một bộ phận thuộc kiến trúc thượng tầng dựa trên các cơ sở kinh tế, chính trị của một xã
hội nhất định, tương ứng với các hình thái kinh tế – xã hội có giai cấp có các kiểu pháp luật
sau đây:
– Kiểu pháp luật chủ nô
– Kiểu pháp luật phong kiến
– Kiểu pháp luật tư sản
– Kiểu pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Trong số các kiểu pháp luật đã và đang tồn tại trong lịch sử xã hội loài người, kiểu pháp luật
xã hội chủ nghĩa đang trên con đường hình thành và phát triển, thể hiện ý chí của đa số nhân
dân lao động trong xã hội, xây dựng một xã hội công bằng, bình đảng và đảm bảo giá trị của
con người.
- Các kiểu pháp luật trong lịch sử
1. Kiểu pháp luật chủ nô
a) Về bản chất
Pháp luật chủ nô là hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước chủ nô đặt ra hoặc thừa nhận và
bảo đảm thực hiện, chủ yếu thể hiện ý chí và bảo vệ địa vị của giai cấp chủ nô, là nhân tố
điều chỉnh luật chủ nô thể hiện qua tính giai cấp và tính xã hội. C và bảo đảm cho sự phát
triển ổn định của các quan hệ xã hội chiếm hữu nô lệ. Bản chất của phụ thể
– Tính giai cấp: pháp luật chủ nô là sự thể hiện ý chí của giai cấp chủ nô và nhằm bảo vệ lợi
ích
Tính xã hội: Pháp luật chủ nô góp phần xác lập trật tự xã hội thông qua việc xác định các
khuôn mẫu ứng xử cho con người, định hình các quy tắc hành vi trong các hoạt động sinh
hoạt, lao động, buôn bán, dịch vụ… Giống như nhà nước chủ nô, tính giai cấp của nhà nước
chủ nô thể hiện công khai và rõ rệt hơn nhiều so với tính xã hội
– Tính giai cấp nổi trội: Pháp luật hợp pháp hóa sự bóc lột không có giới hạn của chủ nô đối
với nô lệ, pháp luật ghi nhận và củng cố, bảo vệ tình trạng phân biệt đẳng cấp trong xã hội.
Pháp luật ghi nhận địa vị thống trị của người gia trưởng đối với các thành viên khác trong gia
đình.
b) Đặc điểm
Pháp luật chủ nô pháp luật chủ nô tạo cơ sở pháp lý cho việc củng cố và bảo vệ quan hệ sản
– Pháp luật chủ nô quy định một hệ thống hình phạt và cách thi hành hình phạt hết sức dã
man, tàn bạo chiếm hữu nô lệ, hợp pháp hóa chế độ bóc lột của chủ nô đối với nô lệ.
– Pháp luật chủ nô ghi nhận quyền tư hữu tuyệt đối và vô giới hạn của chủ nô đối với tư
liệu sản xuất và nô lệ
– Pháp luật chủ nô có tính tản mạn, thiếu thống nhất.
c) Nguồn và hình thức của pháp là củng cố tình trạng bất bình đẳng trong xã hội và trong gia
đình.
Có thể nói nguồn quan trọng nhất của pháp luật chủ nô là phong tục tập quán và đạo đức.
Pháp luật chủ nô có cả ba hình thức cơ bản là tập quán pháp, tiền lệ pháp và văn bản quy
phạm pháp luật, trong đó hình thức tập quán pháp chiếm ưu thế tuyệt đối.
2. Kiểu pháp luật phong kiến
a) Bản chất
– Pháp luật phong kiến là kiểu pháp luật thứ hai trong lịch sử, ra đời cùng với sự ra đời của
nhà nước phong kiến. Kiểu pháp luật Phong kiến thay thế cho kiểu pháp luật chủ nô, chứa
đựng nhiều yếu tố tiến bộ hơn pháp luật chủ nô. Xét về bản chất của pháp luật phong kiến
do chính các điều kiện kinh tế xã hội phong kiến quy định hay nói cách khác nó do quan hệ
sản xuất mặt bản phong kiến quy định. Vì vậy, về mặt bản chất giai cấp, pháp luật phong
kiến thế hiện ý chí của giai cấp địa chủ, phong kiến, là phương tiện để bảo vệ trật tự xã hội
phong kiến, trước hết là quan hệ sản xuất phong kiến. Nó ghi nhận sự bất bình đẳng giữa các
đẳng cấp khác nhau trong xã hội, sự lệ thuộc của nông dân vào giai cấp địa chủ, bảo vệ sự áp
bức bóc lột của giai cấp địa chủ phong kiến đối với nông dân.
– Về phương diện xã hội pháp luật phong kiến có vai trò xã hội nhất định. Nó là phương tiện
để nhà nước phong kiến thực hiện những công việc chung của xã hội, ghi nhận và phát triển
các quan hệ xã hội của hình thái kinh tế xã hội phong kiến cao hơn, tiến bộ hơn so với hình
thái kinh tế xã hội chiếm hữu nô lệ. Đồng thời pháp luật phong kiến là phương tiện để nhà
nước phong kiến thực hiện những công việc chung, những chức năng xã hội. Trong những
hoàn cảnh, điều kiện lịch sử cụ thể pháp luật phong kiến không chỉ thể hiện ý chí của giai cấp
địa chủ phong kiến mà còn phản ánh ý chí chung của toàn xã hội.
b) Đặc điểm
– Pháp luật phong kiến là pháp luật đẳng cấp và đặc quyền
+ Pháp luật phong kiến chia giai cấp trong xã hội thành nhiều đẳng cấp khác nhau. Mỗi đẳng
cấp có địa vị xã hội và địa vị pháp lý khác nhau. Pháp luật phong kiến công khai tuyên bố
cho mỗi đẳng cấp có những đặc quyền riêng. Quyền lợi cao nhất trong xã hội Phong kiến
thuộc về vua, vua có toàn quyền, sau vua là các địa chủ lớn, tăng lữ có rất nhiều quyền
(quyền xét xử đối với nông dân, đặt ra luật lệ, quyền thu thuế, quyền bắt nông dân phải lao
dịch cho mình…). Như vậy, một mình tên địa chủ vừa là nhà làm luật, vừa là quan tòa, là vị
chúa tể có toàn quyền ở trang ấp của mình
+ Tính chất đặc quyền của pháp luật còn thể hiện ở việc quy định các biện pháp trách nhiệm
khác nhau căn cứ vào đẳng cấp, thứ bậc của người phạm tội và người bị hại trong xã hội.
Người thuộc đẳng cấp dưới có hành vi xâm hại đến người thuộc đẳng cấp trên, đặc biệt là
vua chúa thì bị trừng trị rất nặng. Ngược lại, người thuộc đẳng cấp trên xâm hại người thuộc
đẳng cấp dưới bao giờ cũng được hưởng hình phạt nhẹ hơn.
– Pháp luật phong kiến mang tính dã man, tàn bạo.
+Mục đích hình phạt của pháp luật phong kiến chủ yếu nhằm gây đau đớn về thể xác và tinh
thần cho con người, làm nhục, hạ thấp danh dự, nhân phẩm của con người. Chính vì vậy, các
hình phạt được quy định trong pháp luật như: chém đầu, treo cố, dìm nước, voi giày, tứ mã
phanh thấy, ném vạc dầu, thích chữ vào mặt… được áp dụng rộng khắp ở các nhà nước
phong kiến.
+Bên cạnh đó pháp luật phong kiến còn cho phép áp dụng trách nhiệm hình sự liên đới dựa
trên hai nguyên tắc: Thứ nhất, đối với những người có cùng huyết thống, dòng tộc và quan
hệ hôn nhân. Thứ hai, đối với những người có quan hệ hàng xóm, đồng cư với người phạm
tội. Ví dụ như vụ án Lệ Chi viên đã áp dụng hình phạt chu di tam tộc với 2 dòng họ của
Nguyễn Trãi và Thị Lộ ở Triều Lê.
+Pháp luật phong kiến hợp pháp hoá tính chất chuyên quyền và tuỳ tiện sử dụng bạo lực. Ở
giai đoạn đầu pháp luật phong kiến cho phép các lãnh chúa phong kiến có pháp luật của
riêng lãnh địa mình. Pháp luật cho pháp sử dụng bạo lực để giải quyết tranh chấp. Ví dụ
những quy định về đấu gươm, đấu súng ở Châu Âu.
+Mặt khác, Toà án phong kiến được quyền xét xử bất kỳ vụ việc nào từ những lĩnh vực thuộc
về nhà nước cho đến những việc thuộc về đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật…
– Pháp luật phong kiến liên quan mật thiết tới tôn giáo và đạo đức phong kiến.
+Trong xã hội phong kiến có sự liên kết chặt chế giữa nhà nước và các tổ chức tôn giáo, vì
thế trong nhiều trường hợp tổ chức tôn giáo can thiệp vào công việc của nhà nước và ngược
lại nhà nước cũng can thiệp vào các công việc tôn giáo. Điều này dẫn đến thực trạng nhà
nước phong kiến ghi nhận, thể chế hoá nhiều quy định của lễ, giáo, đạo đức phong kiến
thành pháp luật của nhà nước.
+Ngoài ra, Hình thức án lệ và văn bản (lệnh, chiếu chỉ) được sử dụng khá rộng rã. Bộ máy
pháp luật phong kiến tiến bộ hơn rất nhiều so với kiểu pháp luật chủ nô.
3. Kiểu pháp luật tư sản
a) Bản chất – b) Đặc điểm – c) Nguồn gốc
Pháp luật tư sản là hệ thống các quy phạm pháp luật ( các quy tắc ) có tính chất bắt buộc
chung, do Nhà nước tư sản ban hành ( hoặc thừa nhận ) và bảo đảm thực hiện bằng sức
mạnh cưỡng chế, trực tiếp thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản, là công cụ có
hiệu lực nhất để điều chỉnh các quan hệ xã hội chủ yếu phù hợp với ý chí và lợi ích cơ bản
của giai cấp tư sản.
Những điểm tiến bộ của pháp luật tư sản so với pháp luật phong kiến Pháp luật phong kiến
là pháp luật đặc quyền về đẳng cấp còn pháp luật tư sản quy định mọi công dân bình đẳng
trước pháp luật. Với sự ra đời của pháp luật tư sản lần đầu tiên trong lịch sử Pháp luật của
nhân loại, nguyên tắc mọi công dân bình đẳng trước pháp luật được thiết lập.
Pháp luật tư sản tồn tại và phát triển trên cơ sở của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và
chịu sự chi phối có tính chất quyết định của các quan hệ đó. Theo Mác, nhà nước, pháp luật,
đạo đức, khoa học, nghệ thuật … thực chất chỉ là các loại hình đặc biệt của nền sản xuất và vì
thế phải tuân thủ quy luật phổ biến của nó. Kết luận này của Mác có ý nghĩa phương pháp
luận rất lớn đối với việc nghiên cứu bản chất của pháp luật tư sản. Không thể hiểu được bản
chất của pháp luật tư sản nếu không nói đến các điều kiện kinh tế – xã hội hợp thành cơ sở
tồn tại của nó.
Quan hệ sản xuất tư bản là quan hệ sản xuất hàng hóa tồn tại dựa trên chế độ tư hữu và bóc
lột lao động làm thuê. Chính vì vậy, giai cấp tư sản đặc biệt quan tâm đến việc duy trì và
củng cố chế độ tư hữu, cạnh tranh tự do. Điều này không chỉ thể hiện ở việc giai cấp tư sản
biến việc bảo vệ chế độ tư hữu thành một trong những chức năng cơ bản của nhà nước mà
ở việc thể chế hóa nó thành pháp luật
Như vậy, pháp luật tư sản thể hiện ý chí của giai cấp tư sản là bằng mọi giá phải duy trì và
củng cố chế độ tư hữu và sự chi phối không hạn chế của nó đối với các yếu tố xã hội, kinh tế
và chính trị.
4. Kiểu pháp luật xã hội chủ nghĩa
Kiểu pháp luật xã hội chủ nghĩa là kiểu pháp luật cuối cùng trong lịch sử nhà nước và pháp
luật, hình thành sau cách mạng vô sản và thiết lập nhà nước chuyên chính vô sản.
Đặc điểm cơ bản của kiểu pháp luật xã hội chủ nghĩa là: thể hiện ý chí và bảo vệ quyền lợi
của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả cộng đồng dân tộc nói chung; có mối quan
hệ mật thiết với đường lối chủ trương chính sách của Đảng cộng sản; thừa hưởng những
thành quả của pháp luật ra đời trong xã hội tư sản; không chia thành công pháp và tư pháp;
có hình thức chủ yếu là văn bản quy phạm pháp luật.
Xét ở góc độ chung, cũng như các kiểu pháp luật khác, pháp luật xã hội chủ nghĩa vừa mang
tính giai cấp vừa thể hiện tính xã hội. Tuy nhiên, do những điều kiện, kinh tế, chính trị, xã
hội, văn hóa, hệ tư tưởng trong chủ nghĩa xã hội nên pháp luật xã hội chủ nghĩa có những
đặc thù riêng, điều này làm cho bản chất của pháp luật xã hội chủ nghĩa khác hẳn với bản
chất của các kiểu pháp luật trước đó.
Bản chất của pháp luật xã hội chủ nghĩa được thể hiện ở những đặc điểm cơ bản sau:
- Pháp luật xã hội chủ nghĩa là hệ thống quy tắc xử sự có tính thống nhất nội tại cao
- Pháp luật xã hội chủ nghĩa thể hiện ý chí của giai cấp công nhân
- Pháp luật xã hội chủ nghĩa có quan hệ chặt chẽ với các quy phạm xã hội
* Hình thức pháp luật:
- Là cách thức mà giai cấp thống trị sử dụng để nâng ý chí của giai cấp mình lên thành pháp
luật.
- Có ba hình thức pháp luật phổ biến là pháp luật tập quán, pháp luật án lệ và văn bản quy
phạm pháp luật.
1) Pháp luật tập quán (tập quán pháp) là những tập quán được Nhà nước thừa nhận và đảm
bảo thực hiện bằng cưỡng chế nhà nước;
2) Án lệ pháp luật (án lệ pháp, tiền lệ pháp) là hình thức pháp luật hình thành từ

hoạt động xét xử của Toà án. Các bản án mẫu mực sau khi được một Hội đồng Thẩm phán có
thẩm quyền thừa nhận sẽ trở thành khuôn mẫu áp dụng cho các vụ việc tương tự về sau;
3) Văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo thủ tục,
trình tự luật định trong đó có chứa đựng các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung, được
Nhà nước đảm bảo thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội quan trọng, cơ bản hoặc
cần thiết.

Câu 6: Quan hệ pháp luật:


* Khái niệm:
Quan hệ pháp luật là các quan hệ xã hội được điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật khác
nhau, những quan hệ xã hội này xác lập, phát triển, tồn tại hay chấm dứt dựa trên quy định
của pháp luật, các bên tham gia vào quan hệ đó là những chủ thể có quyền chủ thể và nghĩa
vụ pháp lý phát sinh được pháp luật quy định và Nhà nước sẽ bảo đảm thực hiện.
* Đặc điểm:
+ Quan hệ này được phát sinh trên cơ sở quy phạm pháp luật. Trong đó, quy phạm pháp luật
là sự dự liệu tình huống nảy sinh quan hệ pháp luật, xác định được chủ thể tham gia, quyền
lợi và nghĩa vụ pháp lý.
+ Quan hệ mang tính ý chí, đây là ý chí của Nhà nước sau đó mới là ý chí của các bên tham
gia vào quan hệ đó.
+ Nhà nước đảm bảo cho việc thực hiện quan hệ pháp luật, thậm chí là bảo đảm bằng các
biện pháp cưỡng chế thi hành.
+ Khi tham gia quan hệ này, các bên bị ràng buộc bằng quyền chủ thể và nghĩa vụ mà pháp
luật quy định.
+ Quan hệ pháp luật còn mang tính cụ về chủ thể tham gia là cá nhân, tổ chức hay cơ quan
nhà nước cũng như quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia.
* Yếu tố cấu thành:
Các yếu tố cấu thành quan hệ pháp luật gồm có: Chủ thể của quan hệ pháp luật; Khách thể
của quan hệ pháp luật và Nội dung của quan hệ pháp luật.
1.Chủ thể quan hệ pháp luật
– Chủ thể trong quan hệ pháp luật có thể là cá nhân, tổ chức phải có năng pháp luật, năng
lực hành vi phù hợp phù hợp để tham gia vào các quan hệ đó và thực hiện các quyền, lợi ích
hợp pháp cũng như nghĩa vụ pháp lý theo quy định.
– Trong đó chủ thể là cá nhân và tổ chức khác nhau, cụ thể:
+ Chủ thể quan hệ pháp luật là cá nhân: Năng lực pháp luật của cá nhân là khả năng để cá
nhân đó có quyền và nghĩa vụ dân sự. Còn năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng
mà cá nhân đó bằng hành vi của mình để xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự.
+ Chủ thể quan hệ pháp luật là tổ chức: Đối với chủ thể này, năng lực pháp luật dân sự và
năng lực hành vi sẽ xuất hiện đồng thời khi tổ chức đó thành lập theo quy định của pháp luật
và chấm dứt tư cách pháp lý khi bị phá sản, giải thể.
2/ Khách thể quan thể quan hệ pháp luật
– Khách thể của quan hệ pháp luật là những lợi ích mà các chủ thể mong muốn đạt được đó
là lợi ích về vật chất hoặc tinh thần, khi tham gia vào quan hệ pháp luật.
– Khách thể trong quan hệ pháp mà các bên hướng đến có thể là tài sản vật chất, lợi ích phi
vật chất hay hành vi xử sự của con người.
Ví dụ:
+ Vàng, trang sức, đá quý, tiền. xe, nhà, đất,… (tài sản vật chất)
+ Khám chữa bệnh, vận chuyển hàng hóa, chăm sóc sắc đẹp, tham gia bầu cử,…(hành vi xử
sự)
+ Quyền nhân thân, danh dự, nhân phẩm, học hàm học vị,…(Lợi ích phi vật chất)
3/ Nội dung quan hệ pháp luật:
– Nội dung của quan hệ pháp luật là tổng thể quyền và nghĩa vụ pháp của các chủ thể tham
giam trong quan hệ đó. Trong đó:
+ Quyền của chủ thể tham gia: Chủ thể thực hiện quyền của mình thông qua việc thực hiện
các hành vi trong khuôn khổ pháp luật, yêu cầu chủ thể khác thực hiện hoặc kiềm chế thực
hiện hành vi nhất định.
+ Nghĩa vụ của chủ thể tham gia: Chủ thể tham gia phải xử sự theo quy định của pháp luật và
chịu trách nhiệm trước pháp luật.

Vấn đề 7: Thực hiện pháp luật


1. Khái niệm:
 Thực hiện pháp luật là hành vi thực tế, hợp pháp, có mục đích của các chủ thể được
hình thành trong quá trình hiện thực hóa các quy định pháp luật.
 Từ việc hiểu “Thực hiện pháp luật” là gì có thể khái quát được hai thực tế:
 Thực hiện pháp luật là hành vi hợp pháp của các chủ thể pháp luật.
 Thực hiện pháp luật được tiến hành bởi nhiều chủ thể với nhiều cách thức
khác nhau, chủ thể có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi.
2. Các hình thức thực hiện pháp luật:
 Tuân thủ pháp luật: Là hình thức thực hiện pháp luật mà chủ thể pháp luật kiềm chế
mình để không thực hiện điều pháp luật cấm. Tuân thủ pháp luật mang tính chất
bắt buộc.
 Hình thức thể hiện: Thường dưới dạng những quy định cấm đoán. Tức quy
phạm không bắt buộc chủ thể không được thực hiện những hành vi nhất
định.
 Đối tượng thực hiện: Mọi chủ thể.
 Bản chất: Tuân thủ pháp luật có tính chất thụ động và thể hiện dưới dạng
hành vi không hành động.
Ví dụ: Pháp luật cấm hành vi mua bán mại dâm, mua bán ma túy, vũ khí....
 Thi hành pháp luật: Là việc chủ thể pháp luật chủ động thực hiện điều pháp luật yêu
cầu. Thi hành pháp luật mang tính bắt buộc thực hiện.
 Hình thức thể hiện: Thường dưới những quy phạm bắt buộc. Do đó chủ thể
buộc phải thực hiện hành vi hành động mang tính hợp pháp.
 Đối tượng thực hiện: Mọi chủ thể.
 Bản chất: Việc thi hành pháp luật có tính chủ độngđọng, tích cực, thực hiện
pháp luật dưới hình thức hành vi hành động.
Ví dụ: Pháp luật quy định về việc đóng thuế của doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân...
 Sử dụng pháp luật: Là hình thức các chủ thể thực hiện pháp luật sử dụng các quyền
mà pháp luật cho phép. Đây là hình thức thực hiện pháp luật chủ động và tích cực
bằng các hành vi cụ thể của các chủ thể quan hệ pháp luật.
 Hình thức thể hiện: Thường được thể hiện dưới những quy phạm trao
quyền, tức pháp luật quy định về quyền hạn của các chủ thể.
 Đối tượng thực hiện: Mọi chủ thể.
 Bản chất: Đây có thể là hành vi hành động hoặc hành vi không hành động
tùy vào quy định của pháp luật.
Ví dụ: Khi bên A cho rằng mình bị xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp bởi bên B. Bên A có
quyền khởi kiện bên B ra tòa án.
 Áp dụng pháp luật: Nhà nước thông qua các cơ quan có thẩm quyền tổ chức cho các
chủ thể pháp luật thực hiện các quy định của pháp luật hoặc ban hành quy định làm
phát sinh, thay đổi, chấm dứt các quan hệ pháp luật cụ thể. Áp dụng pháp luật
mang tính bắt buộc thực hiện.
 Hình thức thể hiện: Tất cả các loại quy phạm. Bởi nhà nước có quyền hạn và
nghĩa vụ tổ chức cho các chủ thể khác thực hiện pháp luật.
 Đối tượng thực hiện: Chỉ cán bộ, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
 Bản chất: Đây là hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước, được thể hiện
dưới hình thức hành vi hành động và hành vi không hành động.
Ví dụ: Khi bên A khởi kiện bên B, tòa án có trách nhiệm xem xét và thụ lý đơn khởi kiện của
bên A.
3. So sánh sự khác nhau giữa các hình thức thực hiện pháp luật:
Nội
Thi hành pháp Tuân thủ pháp
dung so Áp dụng pháp luật Sử dụng pháp luật
luật luật
sánh
Chủ động thực Mang tính bắt Cơ quan nhà nước Thực hiện điều mà
hiện điều mà buộc, không có thẩm quyền tổ pháp luật cho phép.
pháp luật yêu được làm điều chức cho các chủ
Khái
cầu. mà pháp luật thể khác thực hiện
niệm
cấm. quyền hoặc nghĩa
vụ do pháp luật
quy định.
Chủ động, tích Có tính chất thụ Mang tính quyền Chủ động thực hiện
cực thực hiện động và thể lực nhà nước, Thể điều mà pháp luật
pháp luật dưới hiện dưới dạng hiện dưới hình cho phép, thực hiện
Bản
hình thức “hành “hành vi không thức “hành vi dưới dạng “hành vi
chất
vi hành động” hành động” hành động” và hành động” hoặc
“hành vi không “hành vi không hành
hành động” động”
Thường thể hiện Thường được Tất cả các laoij quy Thường được thể
dưới dạng quy thể hiện dưới phạm vì nhà nước hiện dưới những
Hình
phạm bắt buộc. dạng những quy có nghĩa vụ cũng quy phạm trao
thức
phạm cấm như quyền hạn tổ quyền.
thực
đoán. chức cho các chủ
hiện
thể khác thực hiện
pháp luật.
Đối Mọi chủ thể Mọi chủ thể Cơ quan nhà nước Mọi chủ thể
tượng có thẩm quyền
thực
hiện
Mọi chủ thể bắt Mọi chủ thể bắt Mọi chủ thể đều Các chủ thể thực
buộc phải thực buộc phải thực bắt buộc phải thực hiện hoặc không
Tính bắt hiện theo quy hiện theo quy hiện theo quy định thực hiện, không bị
buộc định pháp luật định pháp luật pháp luật mag ép buộc.
thực mà không có sự mà không có sự không có sự lựa
hiện lựa chọn. lựa chọn. chọn.

Vấn đề 8: Vi phạm pháp luật


1. Khái niệm về vi phạm pháp luật:
 Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật, có lỗi do chủ ss thể có năng lực
trách nhiệm pháp lý thực hiện, xâm hại các quan hệ xã hội được pháp luật
bảo vệ.
2. Dấu hiệu vi phạm pháp luật:
1. Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật:
Chỉ thông qua hành vi, con người mới tác động và có khả năng gây thiệt hại cho các quan hệ
xã hội.
 Suy nghĩ chưa biểu hiện thành hành vi, không gây hại và không có căn cứ
xác định.
 Hành vi biểu hiện dưới dạng: hành động và không hành động.
2. Vi phạm pháp luật là hành vi của chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý
 Năng lực trách nhiệm pháp lý: Khả năng điều khiển hành vi và chịu trách
nhiệm về hành vi của cá nhân/
 Phụ thuộc: độ tuổi, khả năng nhận thức.
3. Vi phạm pháp luật là hành vi có lỗi của chủ thể:
 Nhận thức được hành vi của mình và hậu quả của hành vi đó: tính nguy
hiểm cho xã hội.
 có khả năng Điều khiển được hành vi của mình: cố ý thực hiện/ để mặc cho
xảy ra.
4. Vi phạm pháp luật là hành vi xâm hại tới các quan hệ xã hội được pháp luật xác lập và
bảo vệ.
3. Cấu thành vi phạm pháp luật: là những dấu hiệu đặc trưng tạo thành 1 VPPL cụ thể
1. Khách thể:
 Là những quan hệ xã hội được pháp luậtluâth bảo vệ.
 Nhiều hành vi xâm hại đến xã hội nhưng đó là quan hệ xã hội không được
pháp luật điều chỉnh -> không phải vi phạm pháp luật.
 Ys nghĩa của khách thể: phản ánh tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội
của hành vi VPPL
2. Chủ thể của vi phạm pháp luật:
 Là cá nhân hoặc tổ chức có năng lực trách nhiệm pháp lý mà theo quy định
của pháp luật họ phải chịu trách nhiệm đối với hành vi trái pháp luật của
mình.
 Cá nhân: từ đủ 16 tuổi trở lên/ từ đủ 14-<16; có khả năng nhận thức
và điều khiển hành vi.
 Tổ chức: Xác định thông qua lỗi của thành viên; trừ trg hợp ĐƯQT quy
định khác
3. Mặt khách quan của vi phạm pháp luật:
 Là tổng hợp những dấu hiệu biểu hiện ra bên ngoài của thế giới khách quan.
vi phạm pháp luật.
 Mặt khách quan: Hành vi trái pháp luật, hậu quả của hành vi trái pháp
luật(thiệt hại về người, tài sản, tinh thần), mối quan hệ nhân quả giữa hành
vi trái pl và hậu quả.
4. Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật:
 Là những biểu hiện tâm lý bên trong của chủ thể khi thực hiện hành vi vi
phạm pháp luật.
 Mặt chủ quan: Lỗi, động cơ, mục đích.
 Lỗi là trạng thái tâm lý của chủ thể đối với hành vi trái pháp luật của
mình và hậu quả do hành vi đó mang lại.
 Lỗi cố ý: Nhận thức rõ, Vẫn thực hiện/ để mặc hậu quả xảy ra.
 Lỗi vô ý: Biết có hậu quả nhưng cho rằng không xảy ra. Không biết dù
buộc phải biết.
4. Các loại vi phạm pháp luật:
 Vi phạm pháp luật hình sự (tội phạm): Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho
xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách
nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý,
 xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm
phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng an ninh,
trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp
pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp
luật XHCN.
 Vi phạm pháp luật hành chính: là hành vi có lỗi của chủ thể có năng lực
trách nhiệm hành chính trái với các quy định của pháp luật về quản lý nhà
nước mà không phải là tội phạm hoặc trái với các quy định của pháp luật về
an ninh, trật tự, an toàn xã hội nhưng chưa đến mức phải truy cứu trách
nhiệm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử lý hành chính.
 Vi phạm pháp luật kỷ luật: Là hành vi có lỗi của chủ thể trái với các quy chế,
quy tắc xác lập trật tự trong nội bộ cơ quan, tổ chức, tức là không thực hiện
đúng kỷ luật lao động, học tập, công tác hoặc phục vụ được đề ra trong nội
bộ cơ quan, tổ chức đó.
 Vi phạm pháp luật dân sự: Là hành vi trái pháp luật và có lỗi của chủ thể có
năng lực trách nhiệm dân sự xâm hại tới các quan hệ tài sản và các quan hệ
nhân thân phi tài sản.

You might also like