Professional Documents
Culture Documents
+ Hình thức cấu trúc :Hình thức cấu trúc nhà nước là cách thức tổ chửc quyền lực nhà nước
theo các đơn vị hành chính - lãnh thổ và xác lập mối quan hệ giữa các cấp chính quyền nhà
nước với nhau.
hình thức cấu trúc nhà nước có thể được chia thành hai dạng cơ bản là nhà nước đơn nhất
và nhà nước liên bang, ngoài ra có thể có một dạng cấu trúc nhà nước không cơ bản là nhà
nước liên minh.
+Nhà nước đơn nhất là hình thức cấu trúc nhà nước truyền thống và rất phổ biến ữên
thế giới, tuy nhiên hình thức cấu trúc này rất đa dạng và phức tạp, phụ thuộc vào điều kiện
kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội... của mỗi nước.
+Nhà nước liên bang được hình thành bằng nhiều con đường khác nhau. Chẳng hạn,
nhà nước liên bang có thể được hình thành từ việc các nhà nước đơn nhất tự nguyện liên
kết với nhau;1 có thể thông qua con đường xâm chiếm, mua bán lãnh thổ. Chẳng hạn: Liên
Xô, Tiệp Khắc, 13 bang đầu tiên của Mỹ... Bang Floriđa là Mỹ mua của Tây Ban Nha, bang
Louisiana mua của Pháp, bang Alasca mua của Nga...; cũng có thể từ một nhà nước đơn nhất
được liên bang hoá...
+ Chế độ chính trị :, chế độ chính trị là tổng thể các phương pháp mà nhà nước sử
dụng để thực hiện quyền lực nhà nước. có thể chia thành hai dạng cơ bản là chế độ chính trị
dân chủ và chế độ chính trị phản dân chủ.
Dân chủ là chế độ chỉnh trị mà nhân dân có quyền tham gia vào việc tố chức, hoạt động
của các cơ quan nhà nước, bàn bạc, thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng của
đất nước.
Phản dân chủ là chế độ chính trị mà nhân dân không có quyền tham gia vào việc tổ chức,
hoạt động của các cơ quan nhà nước, không có quyền bàn bạc, thảo luận và quyết định
những vấn đề quan trọng của đất nước.
--------------> Tóm lại : hình thức nhà nước trên thế giới vô cùng đa dạng, phức tạp. Cũng
như các yếu tố khác của nhà nước, hình thức nhà nước phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã
hội của đất nước; tương quan lực lượng giữa các giai cấp, các lực lượng xã hội; phong tục,
tập quán, đặc điểm tâm lí, truyền thống dân tộc và xu thế của thời đại...
jCâu 3 Bộ máy Nhà nước CHXHCN Việt Nam
Nhà nước xã hội chủ nghĩa có bản chất và mục đích khác với các kiểu nhà nước đã tồn tại
trước nó, vì vậy nó đòi hỏi phải có một bộ máy tương ứng, phản ánh đúng bản chất của nhà
nước, phù hợp với các quy luật vận động và phát triển khách quan của xã hội, phù hợp với
các điều kiện lịch sử. chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và các yếu tố truyền thống,đạo đức
của mỗi nước trong mỗi giai đoạn cụ thể.
Bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa nói chung cũng như bộ máy của nhà nước ta hiện nay có
những đặc điểm riêng,thể hiện ở những mặt cơ bản sau:
Thứ nhất, bộ máy quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa phát triển mạnh và không ngừng
được củng cố, hoàn thiện.
Thứ hai. bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa được tổ chức theo nguyên tắc quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Thứ ba, bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa có đội ngũ cán bộ là những công chức mới.
Đội ngũ cán bộ công chức của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa phải đáp ứng những tiêu
chuẩn chung
Bộ máy nhà nước hợp thành từ nhiều cơ quan và tổ chức nhà nước từ trung ương xuống
địa phương, có cơ cấu tổ chức phức tạp, phong phú và đa dạng. Mỗi cơ quan, tổ chức có vị
trí, vai trò, chức năng và nhiệm vụ riêng, nhưng chúng hợp thành một thể thống nhất, tổ
chức và hoạt động theo những nguyên tắc chung, cùng thực hiện các chức năng chung và
nhằm đạt được những mục tiêu thống nhất đặt ra
Các cơ quan nhà nước được thành lập theo quy định của pháp luật. Đó là những tổ chức có
cơ cấu tổ chức chặt chẽ, có biến chế xác định với đội ngũ cán bộ được xếp theo ngạch, bậc
căn cứ vào nhiệm vụ cụ thể được phân công và năng lực, trình độ thực tế của mỗi người.
1. Các loại cơ quan nhà nước xã hội chủ nghĩa
Cơ quan nhà nước là bộ phận cấu thành của Bộ máy nhà nước, đây là tổ chức (hoặc cá
nhân) mang quyền lực nhà nước được thành lập và có thẩm quyền theo quy định của pháp
luật với mục đích nhằm thực hiện nhiệm vụ và chức năng của nhà nước.
Có nhiều cách tiếp cận khác nhau để phân loại các cơ quan của bộ máy nhà nước xã hội
chủ nghĩa.
Xét theo hình thức thực hiện ba quyền lập pháp hành pháp. tư pháp thì các cơ quan
nhà nước được chia thành cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp.
Tuy nhiên, cách phân chia này cũng chỉ mang tính tương đối và cũng chỉ có thể sử
dụng để xem xét bộ máy nhà nước ở trung ương.
Xét theo trình tự thành lập, các cơ quan nhà nước xã hội chủ nghĩa có thể được chia
thành các cơ quan do nhân dân trực tiếp bầu ra (hệ cơ quan thứ nhất, có tính phát
sinh) và các cơ quan không do nhân dân trực tiếp bầu ra (hệ cơ quan thứ hai, có tính
phát sinh).
Xét theo tinh chất thẩm quyền, các cơ quan nhà nước xã hội chủ nghĩa có thể chia
thành các cơ quan có thẩm quyền chung và các cơ quan có thẩm quyền riêng. Loại cơ
quan thứ nhất có quyền xem xét và quyết định bất cứ vấn đề gì để bảo đảm lợi ích xã
hội (gồm Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Hội đồng
nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp). Loại cơ quan thứ hai chỉ có thẩm quyền xem
xét và quyết định những vấn để trong một phạm vi nhất định của đời sống xã
hội(gồm các bộ, các sở, phòng.)
Xét theo cấp độ thẩm quyền các cơ quan nhà nước xã hội chủ nghĩa được chia thành
các cơ quan nhà nước ở Trung ương và các cơ quan nhà nước ở địa phương.
2. Các cơ quan quyền lực nhà nước
Các cơ quan quyền lực nhà nước (còn gọi là hệ thống cơ quan đại diện) bao gồm Quốc
hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Các cơ quan quyền lực nhà nước do nhân dẫn trực tiếp
bầu ra, nhân danh nhân dân để thể hiện và thực thi một cách thống nhất quyền lực, phải
chịu trách nhiệm và phải báo cáo trước nhân dân (cử tri) về mọi hoạt động của mình.
=> Ở nước ta, Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân và là cơ quan quyền
lực nhà nước cao nhất, là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp.
*Chủ tịch nước :Trong bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa, chủ tịch nước là một trong những
thành tố rất quan trọng và trong hiến pháp thường có hẳn một chế định pháp luật về chủ
tịch nước.
3. Các cơ quan quản lý nhà nước
Các cơ quan chấp hành và hành chính nhà nước Các cơ quan quản lý nhà nước còn được
gọi là hệ thống cơ quan chấp hành, điều hành hoặc cơ quan hành chính nhà nước.
Ở nước ta. hệ thống cơ quan quản lý nhà nước gồm có: Chính phủ, các bộ, các cơ quan
ngang bộ, các cơ quan thuộc Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp.
Chính phủ là cơ quan cao nhất trong hệ thống cơ quan quản lý nhà nước, là cơ quan có
thẩm quyền chung,
=>các cơ quan nói trên hợp thành một hệ thống cơ quan quản lý thống nhất. Pháp luật còn
xác lập mối quan hệ cụ thể giữa các cơ quan trong hệ thống cơ quan quản lý nhà nước,
quy định thẩm quyền, trách nhiệm và nghĩa vụ cụ thể của mỗi cơ quan và người đứng đầu
cơ quan đó.
*Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động cơ bản của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa
1. Nguyên tắc bảo đảm quyền lực nhân dân trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước. Đây là một trong những nguyên tắc rất quan trọng trong tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước xã hội chủ nghĩa.Nội dung của nguyên tắc :
Thứ nhất, phải bảo đảm cho nhân dân tham gia đông đảo và tích cực vào việc tổ
chức lập ra bộ máy nhà nước.
Thứ hai, phải bảo đảm cho nhân dân tham gia đông đảo vào việc quản lý các công
việc nhà nước và quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước.
Thứ ba, phải có cơ chế bảo đảm cho nhân dân thực hiện việc kiểm tra, giám sát hoạt
động của các cơ quan nhà nước, nhân viên nhà nước, các tổ chức và cá nhân khác
được trao cho những quyền hạn nhất định để quản lý một số công việc của nhà
nước.
2. Nguyên tắc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là tổ chức thông qua đó Đảng cộng sản thực hiện sự lãnh đạo
của mình đối với tiến trình phát triển của xã hội.
Ở nước ta, nguyên tắc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước là nguyên tắc hiến
định. Điều 4 Hiến pháp 1992 đã khẳng định: “Đảng cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo
Nhà nước và lãnh đạo xã hội".
3. Nguyên tắc tập trung dân chủ
Tập trung dân chủ là nguyên tắc thể hiện sự kết hợp hài hoà giữa sự chỉ đạo tập trung
thống nhất của các cơ quan nhà nước ở trung ương và các cơ quan nhà nước cấp trên, là cơ
sở để phát huy tính chủ động, sáng tạo của quần chúng nhân dân, của tập thể và đề cao
trách nhiệm, ý thức kỷ luật của cán bộ, công chức nhà nước.
4. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa
Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa đòi hỏi việc tổ chức và hoạt động của các cơ quan
nhà nước phải được tiến hành theo đúng pháp luật trên cơ sở của pháp luật
Pháp chế xã hội chủ nghĩa là nguyên tắc phản ánh nhu cầu tự nhiên của bộ máy nhà nước,
đồng thời là đòi hỏi, là yêu cầucẩu từ phía nhân dân đối với bộ máy nhà nước và nhân viên
nhà nước.
Ở nước ta nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa là nguyên tắc hiến định.
5. Nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc
Xuất phát từ bản chất của mình các nhà nước xã hội chủ nghĩa đều thực hiện nguyên tắc
bình đẳng và đoàn kết giữa cácgiữacác dân tộc cùng sinh sống trên đất nước. Nhà nước luôn
tạo mọi điều kiện để các dân tộc phát huy mọi khả năng của dân tộc mình tham gia tích cực
vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
Nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc thường được biểu hiện ở những điểm cơ
bản trong lĩnh vực : chính trị ,kinh tế,văn hoá- giáo dục
* Bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam , được thiết lập từ Cách mạng
tháng Tám năm 1945, ngay từ buổi đầu đã thể hiện bản chất của một kiểu nhà nước mới,
một nhà nước có chế độ dân chủ rộng rãi, gắn bỏ chặt chẽ với nhân dân, phục vụ lợi ích của
dân tộc, của nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.Tuy nhiên, trong tổ
chức và hoạt động, bộ máy nhà nước ta còn bộc lộ nhiều khuyết điểm và yếu kém.Tình hình
đó đặt ra yêu cầu cấp thiết phải tiếp tục xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước ta, để bộ
máy đó thực sự trong sạch, vững mạnh, có hiệu lực và hiệu quả.
Việc xây dựng và kiện toàn bộ máy nhà nước ta phải đáp ứng những yêu cầu cơ bản là:
1. Tiếp tục phát huy cao độ bản chất dân chủ, tạo điều kiện cho nhân dân thực hiện
quyền làm chủ của mình thông qua các hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực
tiếp. tham gia tích cực vào việc xây dựng và bảo vệ nhà nước, kiểm tra, giám sát hoạt
động của cơ quan nhà nước và cán bộ, công chức nhà nước.
2. Kiện toàn bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh, tỉnh giản, gọn nhẹ, hoạt động có
hiệu lực và hiệu quả; nâng cao trách nhiệm của cán bộ, công chức nhà nước trước
nhân dân.
3. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước.
Công tác xây dựng và kiện toàn bộ máy nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay bao gồm
những nội dung sau đây:
1. Kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc
hội, trọng tâm là tăng cường công tác lập pháp, quyết định và phân bổ ngân sách nhà
nước, thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước.Xây
dựng một nền hành chính nhà nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện
đại hoá.
2. Cải cách tổ chức, nâng cao chất lượng và hoạt động của các cơ quan tư pháp, nâng
cao tinh thần trách nhiệm của cơ quan và cán bộ tư pháp.Tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước nhằm giữ vững bản chất
của nhà nước, bảo đảm quyền lực nhân dân, đưa công cuộc đổi mới đi đúng định
hướng xã hội chủ nghĩa.
3. Tăng cường tổ chức và cơ chế, tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng
trong bộ máy nhà nước và toàn bộ hệ thống chính trị .
Hệ thống pháp luật của các nhà nước còn được hình thành từ một nguồn khác, đó là các
văn bản do các cơ quan nhà nước ban hành. Việc chuyển hóa các tập quán để nâng chúng
thành luật chỉ là một bộ phận trong sự hình thành hệ thống pháp luật của các nhà nước.
Những mối quan hệ phức tạp mới phát sinh trong xã hội, đòi hỏi phải có các quy phạm pháp
luật mới để điều chỉnh. Vì vậy, hoạt động xây dựng pháp luật của các nhà nước ra đời. Tuy
nhiên, hoạt động này lúc đầu còn đơn giản và phiến diện, nhiều quyết định của các cơ quan
tư pháp, tòa án đã có ý nghĩa như những nguyên tắc chung, những quy định chung. Hệ
thống pháp luật được hình thành dẫn cùng với sự phát triển của các nhà nước và hoạt động
xây dựng pháp luật của các cơ quan trung ương. Nhà nước đã ban hành ra các văn bản pháp
luật nhằm củng cố chế độ tư hữu và quy định đặc quyền cho giai cấp thống trị. Ví dụ: Những
văn bản pháp luật của nhà nước chủ nô như đạo luật HammurabiHãmmurapi, đạo luật
Manu...
=>Như vậy, pháp luật là hệ thống các quy phạm do nhà nước ban hành, thể hiện ý chí của
giai cấp thống trị. Nó khác hoàn toàn với các quy phạm xã hội khác (bao gồm chủ yếu là các
tập quán) thể hiện ý chí của tất cả mọi người. Pháp luật ra đời cùng với nhà nước, pháp luật
là công cụ sắc bén để thực hiện quyền lực nhà nước, duy trì địa vị và bảo vệ lợi ích của giai
cấp thống trị. Nhà nước ban hành ra pháp luật và đảm bảo cho pháp luật được thực hiện. Cả
hai hiện tượng đều là sản phẩm của cuộc đấu tranh giai cấp.
* Pháp luật do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện:
Pháp luật do Nhà nước ban hành thông qua rất nhiều những trình tự thủ tục chặt chẽ và
phức tạp với sự tham gia của rất nhiều các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, các tổ chức và
các cá nhân nên pháp luật luôn có tính khoa học, chặt ché, chính xác trong điều chỉnh các
quan hệ xã hội.Pháp luật được nhà nước bảo đảm thực hiện bằng nhiều biện pháp, trong đó
các biện pháp cưỡng chế nhà nước rất nghiêm khắc như phạt tiền, phạt tù có thời hạn, tù
chung thân … Với sự bảo đảm của nhà nước đã làm cho pháp luật luôn được các tổ chức và
cá nhân tôn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh, có hiệu quả trong đời sống xã hội.
* Pháp luật có tính quy phạm phổ biến, gồm những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung:
Pháp luật gồm các quy tắc xử sự chung, được thể hiện trong những hình thức xác định, có
kết cấu logic rất chặt chẽ và được đặt ra không phải xuất phát từ một trường hợp cụ thể mà
là sự khái quát hóa từ rất nhiều những trường hợp có tính phổ biến trong xã hội. Điều này đã
làm cho quy định pháp luật có tính khái quát hóa cao, là những khuôn mẫu điển hình để các
chủ thể (tổ chức, cá nhân) thực hiện theo khi gặp phải những tình huống mà pháp luật đã dự
liệu.Pháp luật mang tính bắt buộc chung, các quy định pháp luật được dự liệu không phải
cho một tổ chức hay cá nhân cụ thể mà cho tất cả các tổ chức và cá nhân có liên quan. Xuất
phát từ vị trí, vai trò của nhà nước trong xã hội (tổ chức đại diện chính thức cho toàn xã hội),
nên pháp luật là bắt buộc đối với tất cả, việc thực hiện pháp luật
*Ngoài các đặc điểm cơ bản nói trên, pháp luật còn có những điểm khác nữa như tính ổn
định, tính hệ thống …
Câu 5: Kiểu pháp luật và hình thức pháp luật:
* Kiểu pháp luật: Là tổng thể những dấu hiệu, đặc thù cơ bản của pháp luật, thể hiện bản
chất giai cấp và và điều kiện tồn tại của pháp luật trong 1 hình thái kte xh nhất định.
Là một bộ phận thuộc kiến trúc thượng tầng dựa trên các cơ sở kinh tế, chính trị của một xã
hội nhất định, tương ứng với các hình thái kinh tế – xã hội có giai cấp có các kiểu pháp luật
sau đây:
– Kiểu pháp luật chủ nô
– Kiểu pháp luật phong kiến
– Kiểu pháp luật tư sản
– Kiểu pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Trong số các kiểu pháp luật đã và đang tồn tại trong lịch sử xã hội loài người, kiểu pháp luật
xã hội chủ nghĩa đang trên con đường hình thành và phát triển, thể hiện ý chí của đa số nhân
dân lao động trong xã hội, xây dựng một xã hội công bằng, bình đảng và đảm bảo giá trị của
con người.
- Các kiểu pháp luật trong lịch sử
1. Kiểu pháp luật chủ nô
a) Về bản chất
Pháp luật chủ nô là hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước chủ nô đặt ra hoặc thừa nhận và
bảo đảm thực hiện, chủ yếu thể hiện ý chí và bảo vệ địa vị của giai cấp chủ nô, là nhân tố
điều chỉnh luật chủ nô thể hiện qua tính giai cấp và tính xã hội. C và bảo đảm cho sự phát
triển ổn định của các quan hệ xã hội chiếm hữu nô lệ. Bản chất của phụ thể
– Tính giai cấp: pháp luật chủ nô là sự thể hiện ý chí của giai cấp chủ nô và nhằm bảo vệ lợi
ích
Tính xã hội: Pháp luật chủ nô góp phần xác lập trật tự xã hội thông qua việc xác định các
khuôn mẫu ứng xử cho con người, định hình các quy tắc hành vi trong các hoạt động sinh
hoạt, lao động, buôn bán, dịch vụ… Giống như nhà nước chủ nô, tính giai cấp của nhà nước
chủ nô thể hiện công khai và rõ rệt hơn nhiều so với tính xã hội
– Tính giai cấp nổi trội: Pháp luật hợp pháp hóa sự bóc lột không có giới hạn của chủ nô đối
với nô lệ, pháp luật ghi nhận và củng cố, bảo vệ tình trạng phân biệt đẳng cấp trong xã hội.
Pháp luật ghi nhận địa vị thống trị của người gia trưởng đối với các thành viên khác trong gia
đình.
b) Đặc điểm
Pháp luật chủ nô pháp luật chủ nô tạo cơ sở pháp lý cho việc củng cố và bảo vệ quan hệ sản
– Pháp luật chủ nô quy định một hệ thống hình phạt và cách thi hành hình phạt hết sức dã
man, tàn bạo chiếm hữu nô lệ, hợp pháp hóa chế độ bóc lột của chủ nô đối với nô lệ.
– Pháp luật chủ nô ghi nhận quyền tư hữu tuyệt đối và vô giới hạn của chủ nô đối với tư
liệu sản xuất và nô lệ
– Pháp luật chủ nô có tính tản mạn, thiếu thống nhất.
c) Nguồn và hình thức của pháp là củng cố tình trạng bất bình đẳng trong xã hội và trong gia
đình.
Có thể nói nguồn quan trọng nhất của pháp luật chủ nô là phong tục tập quán và đạo đức.
Pháp luật chủ nô có cả ba hình thức cơ bản là tập quán pháp, tiền lệ pháp và văn bản quy
phạm pháp luật, trong đó hình thức tập quán pháp chiếm ưu thế tuyệt đối.
2. Kiểu pháp luật phong kiến
a) Bản chất
– Pháp luật phong kiến là kiểu pháp luật thứ hai trong lịch sử, ra đời cùng với sự ra đời của
nhà nước phong kiến. Kiểu pháp luật Phong kiến thay thế cho kiểu pháp luật chủ nô, chứa
đựng nhiều yếu tố tiến bộ hơn pháp luật chủ nô. Xét về bản chất của pháp luật phong kiến
do chính các điều kiện kinh tế xã hội phong kiến quy định hay nói cách khác nó do quan hệ
sản xuất mặt bản phong kiến quy định. Vì vậy, về mặt bản chất giai cấp, pháp luật phong
kiến thế hiện ý chí của giai cấp địa chủ, phong kiến, là phương tiện để bảo vệ trật tự xã hội
phong kiến, trước hết là quan hệ sản xuất phong kiến. Nó ghi nhận sự bất bình đẳng giữa các
đẳng cấp khác nhau trong xã hội, sự lệ thuộc của nông dân vào giai cấp địa chủ, bảo vệ sự áp
bức bóc lột của giai cấp địa chủ phong kiến đối với nông dân.
– Về phương diện xã hội pháp luật phong kiến có vai trò xã hội nhất định. Nó là phương tiện
để nhà nước phong kiến thực hiện những công việc chung của xã hội, ghi nhận và phát triển
các quan hệ xã hội của hình thái kinh tế xã hội phong kiến cao hơn, tiến bộ hơn so với hình
thái kinh tế xã hội chiếm hữu nô lệ. Đồng thời pháp luật phong kiến là phương tiện để nhà
nước phong kiến thực hiện những công việc chung, những chức năng xã hội. Trong những
hoàn cảnh, điều kiện lịch sử cụ thể pháp luật phong kiến không chỉ thể hiện ý chí của giai cấp
địa chủ phong kiến mà còn phản ánh ý chí chung của toàn xã hội.
b) Đặc điểm
– Pháp luật phong kiến là pháp luật đẳng cấp và đặc quyền
+ Pháp luật phong kiến chia giai cấp trong xã hội thành nhiều đẳng cấp khác nhau. Mỗi đẳng
cấp có địa vị xã hội và địa vị pháp lý khác nhau. Pháp luật phong kiến công khai tuyên bố
cho mỗi đẳng cấp có những đặc quyền riêng. Quyền lợi cao nhất trong xã hội Phong kiến
thuộc về vua, vua có toàn quyền, sau vua là các địa chủ lớn, tăng lữ có rất nhiều quyền
(quyền xét xử đối với nông dân, đặt ra luật lệ, quyền thu thuế, quyền bắt nông dân phải lao
dịch cho mình…). Như vậy, một mình tên địa chủ vừa là nhà làm luật, vừa là quan tòa, là vị
chúa tể có toàn quyền ở trang ấp của mình
+ Tính chất đặc quyền của pháp luật còn thể hiện ở việc quy định các biện pháp trách nhiệm
khác nhau căn cứ vào đẳng cấp, thứ bậc của người phạm tội và người bị hại trong xã hội.
Người thuộc đẳng cấp dưới có hành vi xâm hại đến người thuộc đẳng cấp trên, đặc biệt là
vua chúa thì bị trừng trị rất nặng. Ngược lại, người thuộc đẳng cấp trên xâm hại người thuộc
đẳng cấp dưới bao giờ cũng được hưởng hình phạt nhẹ hơn.
– Pháp luật phong kiến mang tính dã man, tàn bạo.
+Mục đích hình phạt của pháp luật phong kiến chủ yếu nhằm gây đau đớn về thể xác và tinh
thần cho con người, làm nhục, hạ thấp danh dự, nhân phẩm của con người. Chính vì vậy, các
hình phạt được quy định trong pháp luật như: chém đầu, treo cố, dìm nước, voi giày, tứ mã
phanh thấy, ném vạc dầu, thích chữ vào mặt… được áp dụng rộng khắp ở các nhà nước
phong kiến.
+Bên cạnh đó pháp luật phong kiến còn cho phép áp dụng trách nhiệm hình sự liên đới dựa
trên hai nguyên tắc: Thứ nhất, đối với những người có cùng huyết thống, dòng tộc và quan
hệ hôn nhân. Thứ hai, đối với những người có quan hệ hàng xóm, đồng cư với người phạm
tội. Ví dụ như vụ án Lệ Chi viên đã áp dụng hình phạt chu di tam tộc với 2 dòng họ của
Nguyễn Trãi và Thị Lộ ở Triều Lê.
+Pháp luật phong kiến hợp pháp hoá tính chất chuyên quyền và tuỳ tiện sử dụng bạo lực. Ở
giai đoạn đầu pháp luật phong kiến cho phép các lãnh chúa phong kiến có pháp luật của
riêng lãnh địa mình. Pháp luật cho pháp sử dụng bạo lực để giải quyết tranh chấp. Ví dụ
những quy định về đấu gươm, đấu súng ở Châu Âu.
+Mặt khác, Toà án phong kiến được quyền xét xử bất kỳ vụ việc nào từ những lĩnh vực thuộc
về nhà nước cho đến những việc thuộc về đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật…
– Pháp luật phong kiến liên quan mật thiết tới tôn giáo và đạo đức phong kiến.
+Trong xã hội phong kiến có sự liên kết chặt chế giữa nhà nước và các tổ chức tôn giáo, vì
thế trong nhiều trường hợp tổ chức tôn giáo can thiệp vào công việc của nhà nước và ngược
lại nhà nước cũng can thiệp vào các công việc tôn giáo. Điều này dẫn đến thực trạng nhà
nước phong kiến ghi nhận, thể chế hoá nhiều quy định của lễ, giáo, đạo đức phong kiến
thành pháp luật của nhà nước.
+Ngoài ra, Hình thức án lệ và văn bản (lệnh, chiếu chỉ) được sử dụng khá rộng rã. Bộ máy
pháp luật phong kiến tiến bộ hơn rất nhiều so với kiểu pháp luật chủ nô.
3. Kiểu pháp luật tư sản
a) Bản chất – b) Đặc điểm – c) Nguồn gốc
Pháp luật tư sản là hệ thống các quy phạm pháp luật ( các quy tắc ) có tính chất bắt buộc
chung, do Nhà nước tư sản ban hành ( hoặc thừa nhận ) và bảo đảm thực hiện bằng sức
mạnh cưỡng chế, trực tiếp thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản, là công cụ có
hiệu lực nhất để điều chỉnh các quan hệ xã hội chủ yếu phù hợp với ý chí và lợi ích cơ bản
của giai cấp tư sản.
Những điểm tiến bộ của pháp luật tư sản so với pháp luật phong kiến Pháp luật phong kiến
là pháp luật đặc quyền về đẳng cấp còn pháp luật tư sản quy định mọi công dân bình đẳng
trước pháp luật. Với sự ra đời của pháp luật tư sản lần đầu tiên trong lịch sử Pháp luật của
nhân loại, nguyên tắc mọi công dân bình đẳng trước pháp luật được thiết lập.
Pháp luật tư sản tồn tại và phát triển trên cơ sở của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và
chịu sự chi phối có tính chất quyết định của các quan hệ đó. Theo Mác, nhà nước, pháp luật,
đạo đức, khoa học, nghệ thuật … thực chất chỉ là các loại hình đặc biệt của nền sản xuất và vì
thế phải tuân thủ quy luật phổ biến của nó. Kết luận này của Mác có ý nghĩa phương pháp
luận rất lớn đối với việc nghiên cứu bản chất của pháp luật tư sản. Không thể hiểu được bản
chất của pháp luật tư sản nếu không nói đến các điều kiện kinh tế – xã hội hợp thành cơ sở
tồn tại của nó.
Quan hệ sản xuất tư bản là quan hệ sản xuất hàng hóa tồn tại dựa trên chế độ tư hữu và bóc
lột lao động làm thuê. Chính vì vậy, giai cấp tư sản đặc biệt quan tâm đến việc duy trì và
củng cố chế độ tư hữu, cạnh tranh tự do. Điều này không chỉ thể hiện ở việc giai cấp tư sản
biến việc bảo vệ chế độ tư hữu thành một trong những chức năng cơ bản của nhà nước mà
ở việc thể chế hóa nó thành pháp luật
Như vậy, pháp luật tư sản thể hiện ý chí của giai cấp tư sản là bằng mọi giá phải duy trì và
củng cố chế độ tư hữu và sự chi phối không hạn chế của nó đối với các yếu tố xã hội, kinh tế
và chính trị.
4. Kiểu pháp luật xã hội chủ nghĩa
Kiểu pháp luật xã hội chủ nghĩa là kiểu pháp luật cuối cùng trong lịch sử nhà nước và pháp
luật, hình thành sau cách mạng vô sản và thiết lập nhà nước chuyên chính vô sản.
Đặc điểm cơ bản của kiểu pháp luật xã hội chủ nghĩa là: thể hiện ý chí và bảo vệ quyền lợi
của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả cộng đồng dân tộc nói chung; có mối quan
hệ mật thiết với đường lối chủ trương chính sách của Đảng cộng sản; thừa hưởng những
thành quả của pháp luật ra đời trong xã hội tư sản; không chia thành công pháp và tư pháp;
có hình thức chủ yếu là văn bản quy phạm pháp luật.
Xét ở góc độ chung, cũng như các kiểu pháp luật khác, pháp luật xã hội chủ nghĩa vừa mang
tính giai cấp vừa thể hiện tính xã hội. Tuy nhiên, do những điều kiện, kinh tế, chính trị, xã
hội, văn hóa, hệ tư tưởng trong chủ nghĩa xã hội nên pháp luật xã hội chủ nghĩa có những
đặc thù riêng, điều này làm cho bản chất của pháp luật xã hội chủ nghĩa khác hẳn với bản
chất của các kiểu pháp luật trước đó.
Bản chất của pháp luật xã hội chủ nghĩa được thể hiện ở những đặc điểm cơ bản sau:
- Pháp luật xã hội chủ nghĩa là hệ thống quy tắc xử sự có tính thống nhất nội tại cao
- Pháp luật xã hội chủ nghĩa thể hiện ý chí của giai cấp công nhân
- Pháp luật xã hội chủ nghĩa có quan hệ chặt chẽ với các quy phạm xã hội
* Hình thức pháp luật:
- Là cách thức mà giai cấp thống trị sử dụng để nâng ý chí của giai cấp mình lên thành pháp
luật.
- Có ba hình thức pháp luật phổ biến là pháp luật tập quán, pháp luật án lệ và văn bản quy
phạm pháp luật.
1) Pháp luật tập quán (tập quán pháp) là những tập quán được Nhà nước thừa nhận và đảm
bảo thực hiện bằng cưỡng chế nhà nước;
2) Án lệ pháp luật (án lệ pháp, tiền lệ pháp) là hình thức pháp luật hình thành từ
hoạt động xét xử của Toà án. Các bản án mẫu mực sau khi được một Hội đồng Thẩm phán có
thẩm quyền thừa nhận sẽ trở thành khuôn mẫu áp dụng cho các vụ việc tương tự về sau;
3) Văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo thủ tục,
trình tự luật định trong đó có chứa đựng các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung, được
Nhà nước đảm bảo thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội quan trọng, cơ bản hoặc
cần thiết.