You are on page 1of 28

1

CÂU HỎI VÀ ĐÁP ÁN ÔN THI TỐT NGHIỆP


MÔN NHÀ NƯỚC PHÁP LUẬT

Câu 1: Phân tích các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Nhà nước XHCN. Liên
hệ thực tiễn.

Trả lời:
Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước XHCN là những tư tưởng chỉ
đạo chi phối tổ chức và hoạt động của Nhà nước. Đó là những yêu cầu khách quan thể
hiện bản chất và bảo đảm hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước XHCN, được thể
chế hóa thành các quy định cụ thể về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
1. Nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; nhân dân tham gia
xây dựng nhà nước, tham gia quản lý xã hội
Nhà nước CNXHCN là tổ chức để nhân dân lao động thực hiện quyền làm chủ của
mình, là nhà nước của dân, do dân, vì dân. Đó là bản chất, là nguồn gốc sức mạnh và
hiệu lực quản lý của nhà nước kiểu mới. Vì vậy, việc phát huy và bảo đảm quyền lực
của nhân dân trong tổ chức và hoạt động của nhà nước XHCN là vấn đề có tính quy
luật, ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của nhà nước XHCN, ảnh hưởng
đến quá trình xây dựng và sự bền vững của chế độ XHCN. Điều 2 Hiến pháp 1992
(sửa đổi năm 2001) khẳng định “Nhà nước CHXHCN Việt Nam là Nhà nước pháp
quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và đội ngũ trí thức.
Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp…
Thực hiện nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân trong tổ chức, hoạt
động của bộ máy nhà nước thực chất là bảo đảm quyền lực của nhân dân trong quản lý
nhà nước và xã hội. Nhân dân là người chủ thực sự của đất nước. Các cơ quan và cán
2

bộ, nhân viên nhà nước thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình chính là
thực hiện quyền lực của nhân dân giao phó.
Nhân dân lao động thực hiện quyền lực của mình thông qua quốc hội và Hội đồng
nhân dân các cấp. Đồng thời, quyền lực của nhân dân trong tổ chức, hoạt động của bộ
máy nhà nước thể hiện trên nhiều mặt; nhân dân trực tiếp tham gia xây dựn nhà nước
và tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội; tham gia thảo luận và quyết định những
vấn đề quan trọng của đất nước và địa phương, cơ sở (về chính trị, kinh tế, văn hóa –
xã hội, an ninh – quốc phòng, đối ngoại…); nhân dân kiểm tra, giám sát hoạt động của
các cơ quan và cán bộ, nhân viên nhà nước. Nhà nước phải xây dựng thiết chế bảo đảm
cho nhân dân trực tiếp thực hiện quyền lực đó.
Để đảm bảo cho nhân dân thực hiện quyền lực của mình, bảo đảm tất cả quyền lực của
nhà nước thuộc về nhân dân, cần trú trọng những vấn đề sau:
- Bảo đảm cho Quốc hội và HĐND các cấp thực sự là cơ quan đại diện có ý chí và
nguyện vọng của nhân dân, có thực quyền và năng lực thực hiện các chức năng của cơ
quan quyền lực như Hiến pháp đã quy định.
- Nhà nước phải thể chế hóa các quyền tự do, dân chủ của nhân dân, quy định chặt chẽ
cơ chế bảo đảm thực hiện các quyền đó.
- Nhà nước phải quy định chế độ trách nhiệm phục vụ nhân dân của các cơ quan, cán
bộ, công chức nhà nước, đồng thời ngăn ngừa và xử lý nghiêm minh những biểu hiện
quan liêu, vô trách nhiệm, hách dịch, cửa quyền và các biểu hiện vi phạm quyền làm
chủ của nhân dân. Điều 8, Hiến pháp 1992 quy định: “Các cơ quan nhà nước, cán bộ,
viên chức nhà nước phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ
với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân, kiên quyết đấu tranh
chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu hách dịch, cửa quyền”.
2. Nguyên tắc tập trung dân chủ
Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc quan trọng trong hệ thống các nguyên tắc
tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước XHCN. Vị trí quan trọng của nguyên tắc này
thể hiện ở chỗ nó là nguyên tắc cơ bản quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và
3

mối quan hệ giữa các cơ quan, tổ chức trong bộ máy nhà nước; quy định mối quan hệ
giữa cơ quan Trung ương với các cơ quan nhà nước địa phương, giữa cấp trên với cấp
dưới, giữa thủ trưởng cơ quan, đơn vị với cán bộ, nhân viên trong cơ quan; quy định cơ
chế chuẩn bị, thảo luận thông qua Hiến pháp, các văn bản pháp luật, các chủ trương,
chính sách, các quyết định trong hoạt động quản lý của Nhà nước; quy định lề lối làm
việc quan hệ lãnh đạo, giám sát, kiểm tra và xử lý công việc trong hoạt động của bộ
máy nhà nước… Điều 6 Hiến pháp 1992 (sửa đổi 2001) quy định: “Quốc hội, HĐND
và các cơ quan khác của nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung
dân chủ”.
Để bảo đảm thực hiện các yêu cầu của nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức,
hoạt động của bộ máy nhà nước cần phải giải quyết các vấn đề sau:
- Phân định rõ những vấn đề, lĩnh vực, quy mô loại công việc thuộc quyền quyết định
của mỗi cấp từ Trung ương đến cơ sở;
- Phân định rõ trách nhiệm của tập thể cơ quan, tổ chức Nhà nước và có trách nhiệm cá
nhân của từng chức danh trong bộ máy nhà nước.
- Quy định chặt chẽ chế độ kỷ luật nhà nước: cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa
phương phải phục tùng Trung ương, các quyết định của cấp trên, của Trung ương có
giá trị bắt buộc đối với cấp dưới, cấp địa phương; cán bộ, nhân viên phải phục tùng thủ
trưởng.
- Xây dựng cơ chế làm việc dân chủ ở các cơ quan nhà nước. Đặc biệt ở Quốc hội và
HĐND các cấp. Cần quy định chặt chẽ cơ chế chuẩn bị, thảo luận và thông qua dự thảo
các văn bản pháp luật, các chủ trương, chính sách, kế hoạch, các quyết định quản lý.
Thảo luận, lấy ý kiến rộng rãi nhưng khi quyết định thông qua phải theo nguyên tắc
thiểu số phục tùng đa số.
- Quy định và thực hiện chế độ kiểm tra, báo cáo, thông tin: các cơ quan quyền lực
thực hiện chức năng giám sát hoạt động của tất cả các cơ quan nhà nước khác; cấp
trên, thủ trưởng cơ quan kiểm tra hoạt động của cấp dưới, của cán bộ, nhân viên nhà
nước, các cơ quan nhà nước phải thực hiện thông tin, báo cáo với cấp trên, với cơ quan
4

quyền lực, Quốc hội và HĐND. Đại biểu Quốc hội và HĐND phải báo cáo cho nhân
dân về tình hình đất nước và hoạt động của nhà nước…
- Các biện pháp bảo đảm xử lý nghiêm minh kịp thời mọi hành vi vi phạm nguyên tắc
tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
Cần đề phòng hai khuynh hướng: một là, chỉ nhấn mạnh tập trung mà làm ảnh hưởng
đến quyền tự chủ, sáng tạo của cấp dưới, của địa phương, cơ sở và quyền làm chủ của
nhân dân lao động. Hai là, tuyệt đối hóa quyền tự chủ của cấp dưới, của địa phương,
đơn vị cơ sở mà thấp vai trò chỉ đạo tập trung thống nhất cần thiết của cấp trên, của
Trung ương và người thủ trưởng.
3. Nguyên tắc tập trung thống nhất quyền lực nhưng cả sự phân công, phân cấp
phối hợp và kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước về mặt lập pháp, hành
pháp và tư pháp.
Trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, quyền lực nhà nước được thực hiện
trên 3 chức năng: lập pháp, hành pháp, tư pháp. Các chức năng đó bao chùm mọi lĩnh
vực đời sống xã hội và trên toàn bộ lãnh thổ đất nước. Vấn đề đặt ra là tổ chức thực
hiện quyền lực nhà nước đó như thế nào để bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc
về nhân dân và bảo đảm hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước. Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH đã chỉ rõ: “Tô chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung, dân chủ, thống nhất quyền lực,
có sự phân công phân cấp, đồng thời đảm bảo sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương”.
Quyền lực nhà nước thống nhất, duy nhất, không thể phân chia vì bản chất quyền lực
đó là quyền lực của nhân dân. Bộ máy nhà nước có nhiều hệ thống cơ quan tương ứng
thực hiện các chức năng của quyền lực nhà nước nhưng đều nhằm tổ chức thực hiện
quyền của nhân dân, vì lợi ích của nhân dân.
Quyền lực nhà nước là thống nhất không thể phân chia nhưng được phân công rành
mạch giữa quyền lập pháp, hành pháp, phân cấp rành mạch giữa nhà nước trung ương
với chính quyền địa phương và cơ sở.
5

Nguyên tắc thống nhất quyền lực nhưng có sự phân công, phân cấp, phối hợp và kiểm
soát việc thực hiện quyền lực của nhà nước về mặt lập pháp, hành pháp và tư pháp
được cụ thể hóa thành chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn trách nhiệm và mối quan hệ
giữa các cơ quan nhà nước.
4. Nguyên tắc có kế hoạch
Nguyên tắc có kế hoạch yêu cầu khác quan trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước XHCN. Trong chế độ XHCN, nhà nước là một công cụ thực hiện quyền làm chủ
của nhân dân lao động, là người đại diện cho sở hữu toàn dân đối với tư liệu sản xuất
chủ yếu, nên nhà nước có đủ điều kiện quản lý quá trình phát triển kinh tế, văn hóa,
giáo dục, khoa học và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội một cách có kế hoạch.
Mặt khác, nhà nước bảo đảm sử dụng và phát huy có hiệu quả mọi tiềm năng, nguồn
lực, vật chất và con người để phát triển mọi mặt đời sống của xã hội, đồng thời đáp
ứng nhu cầu vật chất tinh thần ngày càng cao cho mọi thành viên trong xã hội.
Thực hiện nguyên tắc có kế hoạch có nghĩa là toàn bộ tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước phải có kế hoạch dựa trên cơ sở khoa học nhằm thực hiện những mục
tiêu đã dự kiến trước.
Kế hoạch nhà nước là trung tâm cho mọi tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
Vì thế, bộ máy nhà nước phải có tổ chức thích hợp nhằm thực hiện có hiệu quả những
nhiệm vụ, mục tiêu đặt ra trong kế hoạch và mọi hoạt động của bộ máy nhà nước phải
hướng đến việc thực hiện kế hoạch chung đã vạch ra.
Kế hoạch nhà nước là một trong những công cụ chủ yếu để quản lý kinh tế, văn hóa, xã
hội, nhưng không có nghĩa là nhà nước vạch ra một kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
chi tiết cụ thể cho tất các cáp cấp, các ngành, các địa phương.
5. Nguyên tắc pháp chế XHCN
Thực hiện mọi nguyên tắc pháp chế XHCN trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước XHCN có nghĩa là mọi tổ chức, mọi cán bộ, nhân viên nhà nước đều phải
nghiêm chỉnh và triệt để tuân thủ pháp luật khi thi hành quyền hạn và nhiệm vụ của
6

mình. Đồng thời, bộ máy nhà nước phải thực hiện được việc quản lý xã hội bằng pháp
luật, bảo đảm cho pháp luật được tôn trọng và thi hành nghiêm minh.
Thực hiện đúng đắn nguyên tắc pháp chế XHCN trong tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước XHCN là bảo đảm sự thống nhất về kỷ cương trật tự, hiệu lực quản lý
trong hoạt động của bộ máy nhà nước, bảo đảm dân chủ và công bằng xã hội; đồng
thời tránh khuynh hướng cục bộ, tùy tiện, vô chính phủ, đấu tranh có hiệu quả để ngăn
chặn tệ quan liêu, tham nhũng và các hiện tượng tiêu cực khác trong bộ máy nhà nước.
Điều 12 Hiến pháp 1992 (sửa đổi 2001) quy định: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp
luật, không ngừng tăng cường pháp chế XHCN”. Tất cả các cơ quan nhà nước, tổ chức
xã hội, nhân viên nhà nước, nhân viên các tổ chức xã hội và mọi công dân đều phải
nghiêm chỉnh chấp hành hiến pháp và pháp luật, kiên quyết đấu tranh nhằm phòng và
chống các tội phạm các việc làm vi phạm hiến pháp và pháp luật.
Để đảm bảo thực hiện được nguyên tắc pháp chế XHCN trong tổ chức và hoạt động
của bộ máy nhà nước, trước hết, nhà nước phải xây dựng được hệ thống pháp luật đầy
đủ, kịp thời, đồng bộ, có chất lượng cao và ổn định tương đối tạo tiền đề vững chắc
cho việc thực thi pháp luật.
6. Nguyên tắc công khai, minh bạch, lắng nghe ý kiến nhân dân
Thực hiện nguyên tắc công khai, minh bạch, lắng nghe ý kiến nhân dân trong tổ chức
và hoạt động của bộ máy nhà nước XHCN là một trong những nội dung cơ bản nhằm
dân chủ hóa tổ chức hoạt động của nhà nước, bảo đảm nhà nước thực sự là của dân, do
dân, vì dân.
Thực hiện tốt nguyên tắc này đòi hỏi mọi hoạt động của bộ máy nhà nước phải công
khai, minh bạch để dân biết. Đồng thời, trong quá trình tổ chức thực hiện các chủ
trương, chính sách, pháp luật, kế hoạch các quyết định của cơ quan nhà nước, phải
lắng nghe, tiếp thu và giải quyết ý kiến, nguyện vọng và những nhận xét, đánh giá của
quần chúng nhân dân. Cần sử dụng các biện pháp điều tra, thăm dò dư luận xã hội về
những quyết định của nhà nước.
7

Thực hiện công khai hóa tổ chức, hoạt động của các cơ quan nhà nước là bảo đảm cho
nhân dân lao động có điều kiện hiểu biết, nhận thức và phân tích các hoạt động của bộ
máy nhà nước họ có thể bày tỏ ý kiến, thảo luận và đánh giá các hoạt động đó, phát
huy quyền làm chủ của mình trong xây dựng nhà nước và tham gia quản lý nhà nước.
Ngược lại các cơ quan nhà nước, cán bộ, nhân viên nhà nước phải gần dân, trọng dân,
lắng nghe ý kiến của nhân dân chính là để kiểm tra, đánh giá lại chủ trương, chính sách
và các hoạt động của mình. Có như vậy mới kịp thời sửa đổi, bổ sung, uốn nắn những
chủ trương, chính sách và hoạt động đó cho phù hợp. “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra” phải trở thành phương châm hoạt động của tất cả các cơ quan nhà nước, đó
cũng chính là nguồn gốc sức mạnh và hiệu lực của bộ máy nhà nước XHCN.
7. Nguyên tắc bình đẳng giữa các dân tộc
Đoàn kết, bình đẳng, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc cùng xây dựng cuộc sống ấm
no, hạnh phúc, đồng thời giữ gìn và phát huy bản sắc tốt đẹp của mỗi dân tộc là chính
sách nhất quán giữa các dân tộc tạo nên sự đoàn kết, nhất trí, tin tưởng lẫn nhau, cùng
nhau xây dựng xã hội mới. Đồng thời, thực hiện tốt nguyên tắc đó sẽ ngăn chặn và đập
tan mọi sự xuyên tạc, mọi âm mưu thâm độc của kẻ thù hòng chia rẽ, gây mất ổn định
trong quan hệ giữa các dân tộc và chống pháp chủ nghĩa xã hội.
Thực hiện nguyên tắc này là đảm bảo cho các dân tộc có quyền bình đẳng trong xây
dựng nhà nước, tham gia quản lý nhà nước, được hưởng quyền và nghĩa vụ như nhau.
Điều 5, Hiến pháp 1992 (sửa đổi năm 2001) khẳng định: “Nhà nước CHXHCNVN là
Nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam.
Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết tương trợ giữa các dân tộc, nghiêm
cấm hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc.
Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy
những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình.
Nhà nước thực hiện chính sách phát triển về mọi mặt, từng bước nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số”.
8. Nguyên tắc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
8

Nhà nước XHCN là một tổ chức, thông quá đó Đảng Cộng sản thực hiện sự lãnh đạo
của mình đối với tiến trình phát triển của xã hội. Sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện
tiên quyết đảm bảo sự ra đời, tồn tại và phát triển của nhà nước kiểu mới. Vì vậy, bảo
đảm và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng là yêu cầu khách quan trong tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước bảo đảm cho nhà
nước có đường lối, phương hướng đúng xây dựng Nhà nước kiểu mới, có đủ năng lực
tổ chức, xây dựng xã hội mới, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước thể hiện trên những mặt cơ bản: Đảng vạch ra
cương lĩnh, đường lối chiến lược và những chủ trương lớn làm cơ sở cho Nhà nước
hoạch định chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, các chính sách và quyết
định trong quản lý, Đảng vạch ra các chủ trương quan trọng về tổ chức bộ máy và
chính sách cán bộ; Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng phương pháp dân chủ, thuyết phục,
bằng công tác tư tưởng và tổ chức, bằng vai trò gương mẫu của Đảng viên và tổ chức
Đảng; Đảng giới thiệu cán bộ có phẩm chất và năng lực vào cương vị lãnh đạo chủ
chốt của bộ máy nhà nước.
Đảng lãnh đạo Nhà nước nhưng không là bao biện, làm thay hoặc khoán trắng cho Nhà
nước. Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước phải vừa bảo đảm sự lãnh đạo của
Đảng trên những mặt nêu trên, vừa bảo đảm phát huy vai trò chủ động của Nhà nước
trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình.
Đảng ta chỉ rõ: để bảo đảm và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức hoạt
động của Nhà nước, vấn đề bao chùm nhất là Đảng phải tự đổi mới và chỉnh đốn, có
kiến thức, năng lực và sức chiến đấu mới. Đảng phải khắc phục có hiệu quả các mặt
yếu kém, khôi phục và nâng cao uy tín của Đảng trong nhân dân và xã hội. Đảng phải
được xây dựng vững mạnh cả về chính trị, cả về tư tưởng, tổ chức, thực sự là đội tiền
phong chính trị có trọng trách lãnh đạo. Nhà nước và nhân dân xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội.
* Liên hệ thực tiễn
9

Nguyên tắc tổ chức và hoạt động (cơ quan đơn vị nào…) đảm bảo những nguyên tắc
nhất định như: Pháp chế; công khai, dân chủ; liên tục, kịp thời; chính xác, khách quan,
trung thực; phù hợp văn hóa – đạo đức công vụ.
Trong quá trình tổ chức và hoạt động tại…. đã thực hiện đúng các quy định đã quy
định trong các văn bản quy phạm pháp luật và những văn bản. Tập thể Lãnh đạo cơ
quan (tên cơ quan…) đã dành nhiều thời gian, công sức, phát huy dân chủ, trí tuệ tập
thể đã xây dựng các văn bản quản lý nội bộ của (cơ quan…) (gần 100 văn bản các loại)
như: Quyết định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của (cơ
quan nào); Quyết định quy định chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức, quy chế làm
việc của các phòng và tương đương. Quy chế hoạt động của (cơ quan…); Quyết định
ban hành Quy chế tiếp nhận công chức, viên chức có nguyện vọng xin chuyển công
tác; quy chế tuyển dụng công chức, viên chức. Đây là các văn bản pháp lý rất quan
trọng để điều hành mọi hoạt động của (cơ quan…), đồng thời tất cả Lãnh đạo cơ quan
và cán bộ đang công tác tại cơ quan… phải tuân thủ thực hiện.
Trong quá trình tổ chức triển khai công tác tổ chức và cán bộ tập thể Lãnh đạo, Chi ủy,
Công đoàn cơ quan (ghi tên cơ quan vào) đã bảo đảm thực hiện tốt nguyên tắc tập
trung dân chủ, công khai, minh bạch, khách quan, bảo đảm đúng quy trình, thủ tục theo
quy chế của cơ quan, quy định của Bộ Nội vụ và phân cấp thẩm quyền của Bộ trưởng.
Để tăng cường công tác công khai về tài chính, cơ quan… đã ban hành Quy chế chi
tiêu nội bộ, Quy chế mua sắm sửa chữa tài sản, Quy chế về sử dụng xe ô tô, Quy chế
về thực hành tiết kiệm chống lãng phí,… Các quy chế này trước khi ban hành đã tổ
chức hội nghị lấy ý kiến góp ý của toàn thể cán bộ trong cơ quan và được đồng thuận
của toàn thể cán bộ, công chức, viên chức của cơ quan báo cáo Vụ Kế hoạch Tài chính
thẩm định, có ý kiến trả lời bằng văn bản sau đó Thủ trưởng cơ quan ký ban hành.
Hàng quý, công tác tài chính được thông báo công khai tại các cuộc họp giao ban của
cơ quan, thông báo công khai lên bảng tin của cơ quan đồng thời gửi báo cáo Vụ Kế
hoạch Tài chính, Lãnh đạo Bộ để theo dõi. Việc thu, chi tài chính, báo cáo quyết toán
hàng năm, cơ quan… đã thực hiện theo đúng quy định của Lãnh đạo Bộ và của Bộ Tài
10

chính theo quy định. Thường xuyên tự kiểm tra nội bộ về công tác tài chính – kế toán
nhờ đó mọi hoạt động về tài chính đã được thực hiện tốt.
Lãnh đạo cơ quan đã phân công nhiệm vụ rõ ràng và thực hiện đúng theo quy chế hoạt
động của cơ quan. Thủ trưởng, đứng đầu cơ quan luôn thực hiện đúng nguyên tắc
trong điều hành công việc chung của cơ quan, thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở;
tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, mọi công việc của cơ quan đều được bàn bạc thảo
luận công khai daanchur, khách quan, đúng nguyên tắc. Các công việc quan trọng của
cơ quan (tuyển dụng, điều động, đề bạt cán bộ, bình xét thi đua, khen thưởng, đào tạo,
nâng lương…) đều họp liên tịch bàn bạc tập thể, công khai, Bí thư Chi bộ kiêm lãnh
đạo cơ quan quyết định theo đa số các thành viên dự họp. Có phân công nhiệm vụ cụ
thể trong tập thể Lãnh đạo cơ quan, không có biểu hiện độc đoán chuyên quyền, đùn
đẩy trách nhiệm.
Trong quá trình điều hành hoạt động của cơ quan, thủ trưởng đã phối hợp chặt chẽ với
tập thể Lãnh đạo, Chi ủy, Công đoàn nhờ đó tạo ra một tập thể đoàn kết, nhất trí,
không bè phái, không cục bộ, không có tình trạng thành tích thì của mình, khuyết điểm
đổ cho tập thể.
Việc tổ chức hoạt động tại cơ quan… được thực hiện thường xuyên, liên tục, nhờ đó cá
cán bộ trong cơ quan thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà
nước, các nội quy quy định của cơ quan, vì vậy hàng năm 100% cán bộ của cơ quan
đạt danh hiệu lao động tiên tiến trở lên, tập thể cơ quan đạt danh hiệu tập thể lao động
xuất sắc.

Câu 2: Khái niệm và phân tích các vai trò của pháp luật XHCN. Liên hệ thực tiễn
Trả lời:
1. Khái niệm pháp luật xã hội chủ nghĩã:
Pháp luật XHCN là hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước XHCN ban hành và bảo
đảm thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động,là yếu tố
11

điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm mục đích xây dựng một xã hội xã hội chủ nghĩa ổn
định và phát triển.
2. Vai trò của pháp luật XHCN:
Với tư cách là yếu tố điều chỉnh các quan hệ xã hội, pháp luật có vai trò quan trọng
trong việc bảo đảm sự ổn định và phát triển xã hội. Trong công cuộc xây dựng nhà
nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam hiện nay, vai trò quan trọng của pháp luật lại
càng được nhấn mạnh. Điều 12 Hiến pháp 1992 sửa đổi ghi nhận: “Nhà nước quản lý
xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế XHCN”. Vai trò của pháp
luật được thể hiện ở những khía cạnh sau:
2.1. Vai trò của pháp luật XHCN đối với kinh tế:
Pháp luật là yếu tố của kiến trúc thượng tầng xã hội. Do đó, trước hết được ra đời trên
cơ sở hạ tầng và được quy định bởi quy định cơ sở hạ tầng. Trong mối quan hệ giữa
pháp luật và kinh tế, các điều kiện kinh tế không chỉ là nguyên nhân trực tiếp quy định
sự ra đời của pháp luật mà còn quyết định toàn bộ nội dung và sự phát triển của nó.
Tuy nhiên, mặc dù ra đời từ các điều kiện và tiền đề kinh tế nhưng pháp luật không
phản ánh một cách thụ động các quan hệ kinh tế, mà còn có tính độc lập tương đối và
tác động trở lại đối với kinh tế. Điều đó thể hiện ở chỗ, nếu pháp luật được xây dựng
phù hợp với các quy định kinh tế - xã hội thì có vai trò tích cực đối với sự phát triển
kinh tế. Nếu pháp luật được xây dựng không phù hợp với các quy luật kinh tế - xã hội
thì nó kìm hãm sự phát triển của kinh tế. Cụ thể, vai trò của pháp luật đối với kinh tế
thể hiện:
Thứ nhất, pháp luật là phương tiện tạo lập cơ sở pháp lý để các chủ thể kinh tế tiến
hành sản xuất kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật. Có nghĩa, nhờ có các quy định
của pháp luật các chủ thể kinh tế có thể trở thành các chủ thể quan hệ pháp luật kinh tế
với những quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể. Từ đó các nhà sản xuất, kinh doanh hoàn
toàn có thể yên tâm sản xuất kinh doanh theo những ngành nghề mình đã lựa chọn,
miễn là thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật.
12

Thứ hai, pháp luật là phương tiện để nhà nước thực hiện chức năng quản lý của mình
đối với nền kinh tế. Do tính chất phức tạp “nhiều vấn đề, nhiều quan hệ cần giải quyết”
và phạm vi rộng của chức năng quản lý kinh tế, nhà nước không thể trực tiếp tham gia
vào các hoạt động kinh tế cụ thể mà chỉ thực hiện quản lý hành chính – kinh tế. Quá
trình đó không thể được nếu không dựa vào pháp luật. Chỉ có pháp luật với những tính
chất đặc thù của nó mới là cơ sở để đảm bảo cho nhà nước hoàn thành chức năng quản
lý kinh tế của mình.
Thứ ba, pháp luật là phương tiện bảo vệ lợi ích kinh tế chính đáng cho các chủ thể kinh
tế, trong nền kinh tế thị trường, tranh chấp kinh tế, vi phạm hợp đồng kinh tế là những
hiện tượng hay xảy ra. Trong những trường hợp như vậy pháp luật là phương tiện để
các cơ quan chức năng giải quyết tranh chấp, bảo vệ lợi ích chính đáng của các bên
tham gia quan hệ kinh tế.
Thứ tư, pháp luật là một phương tiện giải quyết những vấn đề xã hội nảy sinh trong
nền kinh tế thị trường: mặt trái của nền kinh tế thị trường rễ gây ra vấn đề mất cân
bằng xã hội, phân hóa giàu nghèo, thất nghiệp… chính trong những trường hợp ấy
pháp luật là phương tiện điều tiết xã hội, giải quyết các vấn đề xã hội nảy sinh như bảo
vệ lợi ích người tiêu dùng, bảo vệ môi trường sinh thái, quy định các chính sách đối
với người về hưu, người thất nghiệp, người già cô đơn,… cũng như bất kỳ một chính
sách nào khác, chính sách xã hội chỉ có thể được thực thi một cách có hiệu lực, hiệu
quả khi nó được xác lập dưới những hình thức pháp lý nhất định và được bảo đảm thực
thi bởi một cơ chế pháp lý thích hợp.
2.2. Vai trò của pháp luật đối với xã hội
Pháp luật và xã hội có mối quan hệ mất thiết với nhau. Mỗi bước phát triển lớn của xã
hội, của đất nước đều kéo theo những thay đổi lớn trong pháp luật. Sự hình thành pháp
luật là kết quả của sự tác động khác quan, tất yếu lẫn nhau của những nhân tố xã hội,
của những biến đổi xã hội. Các nhận tố xã hội ở nghĩa rộng nhất bao gồm các nhân tố
kinh tế xã hội, chính trị, văn hóa, truyền thống, đạo đức, khoa học và công nghệ… và
những biến đổi của các nhân tố đó, các tiền đề xã hội tạo thành cơ sở cho việc hình
13

thành và ra đời của pháp luật. Mặc dù nội dung của những nhân tố xã hội quyết định sự
hình thành pháp luật, nhưng ngược lại pháp luật có tác động trở lại, có vaitrof quan
trọng đối với xã hội. Vai trò của pháp luật đối với xã hội thể hiện:
Thứ nhất, pháp luật bảo vệ lợi ích chính đáng của con người của công dân. Pháp luật
XHCN thể chế hóa quyền con người, quyền công dân và bảo đảm về mặt pháp lý cho
các quyền đó được thực hiện trên thực tế. Mặt khác, pháp luật là phương tiện để các
thành viên của xã hội có quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Thứ hai, pháp luật XHCN là phương tiện bảo đảm thực hiện nền dân chủ XHCN. Dưới
chủ nghĩa xã hội, các quyền dân chủ của nhân dân được pháp luật ghi nhận và bảo đảm
thực hiện. Chẳng hạn ở Việt Nam các quyền dân chủ của nhân dân ở cơ sở đã được
Đảng và Nhà nước ghi nhận và bảo đảm thực hiện bằng văn bản có tính pháp lý là
Pháp lệnh về dân chủ ở cơ sở. Pháp lệnh về dân chủ ở cơ sở là một văn bản pháp luật
của Nhà nước, là cơ sở pháp lý quy định việc thực hiện dân chủ đốivới cấp cơ sở trong
cả nước.
Thứ ba, pháp luật là phương tiện để gìn giữ trật tự an toàn xã hội. Pháp luật XHCN với
tư cách là phương tiện điều chỉnh các quan hệ xã hội, có vai trò quan trọng trong việc
bảo đảm sự ổn định, trật tự an toàn xã hội. Trong hệ thống quy phạm pháp luật được
đặt ra để điều chỉnh, ngoài các quy phạm cho phép, bắt buộc, pháp luật còn chứa đựng
các quy phạm cấm mọi hành vi gây mất ổn định và trật tự an toàn xã hội, xâm hại đến
lợi ích của Nhà nước, tập thể và công dân. Những biện pháp được pháp luật quy định
để áp dụng trong những trường hợp có vi phạm pháp luật (của cá nhân hay một tổ
chức) thể hiện sức mạnh Nhà nước một cách công khai có ý nghĩa rất lớn để răn đe,
phòng ngừa, đồng thời là cơ sở để xử lý và trừng trị nghiêm khắc những hành vi nguy
hiểm của xã hội. Trong lĩnh vực này, pháp luật là công cụ sắc bén nhất bởi vì nó thể
hiện sức mạnh của nhà nước trong việc giữ vững an ninh, trật tự an toàn xã hội.
2.3. Vai trò của pháp luật đối với sự lãnh đạo của Đảng
Bất kỳ giai cấp thống trị nào cũng dựa vào pháp luật để thể hiện ý chí và thực hiện
đường lối chính trị của mình. Pháp luật trở thành hình thức ghi nhận đường lối chính
14

trị của giai cấp thống trị, là công cụ thực hiện hiệu quả nhất những yêu cầu, mục đích,
nội dung chính trị của giai cấp cầm quyền. Mối liên hệ giữa pháp luật và chính trị thể
hiện ở mối liên hệ giữa đường lối, chính sách của Đảng cầm quyền với pháp luật của
nhà nước. Đường lối chính trị của Đảng cầm quyền có ý nghĩa chỉ đạo việc xây dựng,
tuyên truyền, giáo dục pháp luật. Vai trò của pháp luật đối với sự lãnh đạo của Đảng
thể hiện:
Thứ nhất, pháp luật là phương tiện thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng, làm cho đường lối đó có hiệu lực thực thi bắt buộc chung trên quy mô toàn xã
hội. Chủ trương đường lối của Đảng được thể chế hóa thành các quy phạm pháp luật
và được áp dụng trong thực tiễn cuộc sống.
Thứ hai, pháp luật là phương tiện để Đảng kiểm nghiệm đường lối của mình trong thực
tiễn. Các quy phạm pháp luật được áp dụng trong thực tiễn cuộc sống và phát huy hiệu
quả điều chỉnh các quan hệ xã hội thì nó khẳng định tính đúng đắn, phù hợp của những
tư tưởng trong đường lối chủ trương của Đảng mà nó thể hiện. Ngược lại, nếu các quy
phạm pháp luật không phát huy được hiệu quả điều chỉnh các quan hệ xã hội thì nó
phủ định tính đúng đắn và phù hợp trong đường lối chủ trương của Đảng đã được thể
hiện trong pháp luật. Chẳng hạn, từ sau đổi mới Đảng Cộng sản Việt Nam đã có chủ
trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Chủ
trương đó đã được thể chế hóa thành pháp luật. Cụ thể, chủ trương đó đã được ghi
nhận trong Hiến pháp năm 1992. Sau khi được thể chế hóa thành pháp luật, chủ trương
đó được áp dụng trong thực tế. Qua các kỳ đại hội Đảng ta đã đánh giá, kiểm nghiệm
chủ trương đó và khẳng định đây là chủ trương đúng đắn, phù hợp với điều kiện phát
triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, chủ trương
của Đảng về vấn đề phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam vẫn tiếp tục được thể chế hóa thành các quy phạm pháp luật.
Thứ ba, pháp luật là phương tiện phân định rõ chức năng lãnh đạo của Đảng bằng
đường lối chính trị với chức năng tổ chức, quản lý, điều hành mọi hoạt động xã hội của
nhà nước bằng pháp luật và theo pháp luật. Đảng lãnh đạo bằng chủ trương, đường lối
15

và được cụ thể hóa bằng các Nghị quyết, Chỉ thị… nhà nước quản lý và điều hành các
hoạt động của xã hội bằng pháp luật và theo pháp luật. Pháp luật là phương tiện khắc
phục những khiếm khuyết trong thực tiễn như hiện tượng bao biện, làm thay của Đảng
đối với sự quản lý, điều hành của Nhà nước. Cụ thể, pháp luật là phương tiện ghi nhận
chỉ có nhà nước mới có chức năng ban hành pháp luật và sử dụng pháp luật để quản lý
xã hội (luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật chỉ có Quốc hội mới có quyền ban
hành Hiến pháp và luật chỉ có Chính phủ mới có thẩm quyền ban hành Nghị định và
Bộ ban hành Thông tư…).
2.4. Vai trò của pháp luật đối với Nhà nước
Pháp luật và nhà nước là hai bộ phận của kiến trúc thượng tầng, luôn có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau. Cả hai hiện tượng này đều có chung nguồn gốc ra đời và phát triển.
Trong mối quan hệ này, nhà nước là tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, nhưng
quyền lực đó chỉ có thể được thực hiện và có hiệu lực trên cơ sở của pháp luật. Còn
pháp luật là hệ thống nhữn quy tắc xử sự do nhà nước ban hành và luôn phản ánh quan
điểm, đường lối chính trị của lực lượng nắm quyền lực nhà nước, bảo đảm cho quyền
lực đó được thực hiện trong xã hội. Với ý nghĩa đó, nhà nước không thể tồn tại và phát
huy quyền lực nếu thiếu pháp luật. Ngược lại, pháp luật chỉ phát sinh, tồn tại và có
hiệu lực khi dựa trên cơ sở sức mạnh của quyền lực nhà nước. Vai trò của pháp luật
đối với nhà nước được thể hiện cụ thể:
Thứ nhất, pháp luật là phương tiện để Nhà nước quản lý xã hội. Để quản lý xã hội, Nhà
nước dùng nhiều phương tiện, biện pháp (quy phạm đạo đức, dư luận xã hội, quy phạm
pháp luật) nhưng pháp luật là phương tiện quan trọng nhất. Pháp luật có khả năng đưa
chủ trương, chính sách của Nhà nước vào cuộc sống nhanh nhất, có hiệu quả nhất.
Thứ hai, pháp luật là phương tiện ghi nhận trách nhiệm của Nhà nước đối với toàn xã
hội và mọi công dân, là cơ sở pháp lý để Nhà nước kiểm tra, giám sát hoạt động của
các tổ chức, cơ quan, nhân viên Nhà nước và mọi công dân.
Thứ ba, pháp luật là phương tiện để Nhà nước tự hoàn thiện chính bản thân Nhà nước.
Thông qua các quy định pháp luật về hình thức chính thể, cơ cấu tổ chức bộ máy nhà
16

nước nguyên tắc tổ chức và hoạt động, quy chế công chức, viên chức nhà nước, chức
năng, nhiệm vụ của các cơ quan quản lý Nhà nước,… mà Nhà nước tự hoàn thiện tổ
chức và bộ máy của mình. Cụ thể, trong thời gian gần đây, Nhà nước Việt Nam đã ban
hành hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội trong
lĩnh vực tổ chức và hoạt động của các cơ quan quản lý Nhà nước như Pháp lệnh cán bộ
công chức năm 2003, Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Chính phủ, Luật tổ chức
Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003, Luật phòng chống tham nhũng…
2.5. Vai trò của pháp luật đối với các tổ chức chính trị - xã hội
Thứ nhất, pháp luật là phương tiện quy định về tổ chức và hoạt động của các tổ chức
chính trị - xã hội. Các tổ chức chính trị - xã hội chỉ có thể được thành lập và hoạt động
theo các quy định của pháp luật. Chẳng hạn, Mặt trận Tổ quốc được tổ chức và hoạt
động theo Luật Mặt trận Tổ quốc…
Thứ hai, pháp luật tạo cơ sở pháp lý để các tổ chức chính trị - xã hội, nhân dân đấu
tranh chống lại những hành vi vi phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước, nhân viên
nhà nước, mọi công dân. Các tổ chức chính trị xã hội như Hội Phụ nữ, Đoàn thanh
niên,… không thể đưa ra các kiến nghị cụ thể đối với các cơ quan chức năng để bảo vệ
các quyền và lợi ích hợp pháp của các hội viên của mình nếu không dựa trên các quy
định cụ thể của pháp luật.
2.6. Vai trò của pháp luật đối với đạo đức và tư tưởng
a/ Vai trò của pháp luật đối với đạo đức: Pháp luật xã hội chủ nghĩa có mối liên hệ
chặt chẽ với đạo đức XHCN. Chúng bổ sung và hỗ trợ lẫn nhau trong việc điều chỉnh
các quan hệ xã hội. Bất kỳ kiểu pháp luật nào cũng dựa trên một nền tảng đạo đức nhất
định và là phương tiện khẳng định, duy trì đạo đức đó. Dưới chủ nghĩa xã hội, các
nguyên tắc cơ bản của đạo đức mới được Nhà nước thể chế hóa thành các quy phạm
pháp luật. Pháp luật XHCN là phương tiện khẳng định, bảo vệ các giá trị đạo đức
XHCN như tính công bằng, chủ nghĩa nhân đạo, cái thiện, lương tâm,… của con
người.
b/ Vai trò của pháp luật với tư tưởng:
17

Thứ nhất, pháp luật XHCN ghi nhận và khuyến khích sự phát triển của một hay nhiều
hệ tư tưởng nào đó. Pháp luật XHCN là phương tiện thừa nhận và đăng tải thế giới
quan khoa học, các giá trị và tư tưởng của loài người tiến bộ và có khả năng tác động
lên sự hình thành, phát triển và biến đổi tư tưởng. Chẳng hạn, chủ nghĩa Mác – Lê nin,
tư tưởng Hồ Chí Minh được ghi nhận trong điều 4, Hiến pháp 1992 (sửa đổi 2001) của
Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.
Thứ hai, pháp luật XHCN phủ nhận, cấm sự tồn tại hoặc hạn chế sự phát triển của
những hệ tư tưởng không phù hợp với hệ tư tưởng giữ địa vị thống trị trong xã hội.
Chẳng hạn, pháp luật Việt Nam không thừa nhận những tư tưởng kỳ thị dân tộc, chống
chủ nghĩa xã hội, mê tín dị đoan,… trong điều 5, 13, 30 Hiến pháp 1992 sửa đổi.
2.7. Vai trò của pháp luật đối với quan hệ quốc tế
Thứ nhất, pháp luật là phương tiện thể chế hóa quan điểm của Đảng về quan hệ đối
ngoại. Các quan điểm, đường lối của Đảng về vấn đề quan hệ quốc tế trong từng thời
kỳ phát triển của đất nước được cụ thể hóa trong các văn bản quy phạm pháp luật do
nhà nước ban hành.
Thứ hai, pháp luật tạo cơ sở pháp lý để Nhà nước hội nhập nền kinh tế quốc tế. Dựa
trên các quy định của pháp luật, Nhà nước ký kết các điều ước quốc tế song phương và
đa phương và tham gia vào các mối quan hệ quốc tế.
3. Liên hệ thực tiễn:
Ngày nay, trong thời kỳ đẩy mạnh công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước và hội nhập quốc tế, vì mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh; Đảng lãnh đạo xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là yêu cầu tất yếu, khách quan, bảo đảm Nhà nước ta thực sự là nhà
nước của dân, do dân và vì dân, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng của Bác
Hồ về Nhà nước pháp quyền hình thành từ rất sớm (Trong tám Yêu sách của nhân dân
An Nam mà Nguyễn Ái Quốc gửi đến Hội nghị Hòa bình ở Versailles ngày 19/06/1919,
có bốn yêu sách về các quyền tự do (báo chí và ngôn luận, lập hội và hội họp, cư trú ở
nước ngoài và xuất dương, học tập, thành lập các trường kỹ thuật tại tất cả các tỉnh
18

cho người bản xứ), và yêu sách thứ bảy (Thay chế độ ban hành các sắc lệnh bằng chế
độ ban hành các luật), đó là Nhà nước của dân, do dân làm chủ, mọi quyền lực của
Nhà nước đều thuộc về nhân dân; đó là, sự ban hành và từng bước hoàn thiện Hiến
pháp và hệ thống pháp luật. Văn kiện Hội nghị Trung ương 2 (khóa VII) và Văn kiện
Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ (khóa VII) năm 1994 của Đảng ta đã xác
định rõ nhiệm vụ và phương hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và đã được các Đại hội VIII, IX, X
và XI của Đảng tiếp tục phát triển và hoàn thiện.
Trong Nhà nước pháp quyền, tính tối thượng của pháp luật được tôn trọng, pháp luật
thể hiện ý chí chung của nhân dân và vì lợi ích của nhân dân. Do đó, không thể đặt cơ
quan của Đảng, đường lối của Đảng lên trên pháp luật. Các hoạt động của Đảng bám
sát thực tiễn, phù hợp pháp luật sẽ nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước và xã hội. Để hoàn thành sứ mệnh lãnh đạo Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, Đảng ta phải thực sự trong sạch, vững mạnh, mỗi cán bộ, đảng viên
phải thực sự là người gương mẫu chấp hành nghiêm các quy định của pháp luật. Nghị
quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI) Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng
hiện nay là bước đột phá có ý nghĩa quyết định sự thành công của quá trình tiếp tục
xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nhiệm vụ
của Đảng về công tác định hướng xây dựng và thực thi pháp luật, đẩy mạnh công tác
PCTN, lãng phí trong giai đoạn hiện nay chính là một bước hướng tới xây dựng môi
trường xã hội có kỷ cương, đảm bảo mọi người sống và làm việc theo pháp luật; thúc
đẩy cải cách hành chính nhằm kịp thời lành mạnh hóa nền hành chính quốc gia, trong
sạch hóa đội ngũ cán bộ, công chức; đề cao vai trò điều chỉnh của pháp luật trong đời
sống xã hội.

Câu 10. Khái niệm pháp chế, phân tích các nguyên tắc các biện pháp tăng cường
pháp chế XHCN ở Việt Nam
Trả lời:
19

1. Khái niệm Pháp chế


Nhà nước ta là: “Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân” (Điều 2, Hiến pháp 1992). Đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền là: “Nhà
nước quản lý XH bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế XHCN” (Điều
12, Hiến pháp 1992). Pháp chế thường được hiểu là “Chế độ trong đó đời sống và hoạt
động xã hội được bảo đảm bằng pháp luật”. Pháp chế còn được hiểu là “Chế độ chính
trị của một nước trong đó việc quản lý Nhà nước, quản lý xã hội và điều hành các quan
hệ xã hội đều căn cứ vào pháp luật. Pháp luật và pháp chế là hai hiện tượng pháp lý
khác nhau, độc lập tương đối với nhau nhưng có mối quan hệ phổ biến, mật thiết với
nhau: pháp luật là hệ thống quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành thể hiện ý chí của giai
cấp thống trị; được Nhà nước bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế; là nhân tố
điều chỉnh các quan hệ xã hội. Như vậy pháp luật được biểu hiện chủ yếu trong hệ
thống các văn bản quy phạm pháp luật: hiến pháp, bộ luật, luật, pháp luật, nghị quyết,
lệnh, nghị định,…. Pháp luật đó mới tạo ra khả năng có thể được thực hiện.
2. Các nguyên tắc của pháp chế xã hội chủ nghĩa
Nguyên tắc pháp chế XHCN là những tư tưởng chủ đạo, cơ bản thể hiện bản chất và
đặc điểm của pháp chế XHCN.
Pháp chế XHCN bao gồm những nguyên tắc cơ bản sau:
2.1. Bảo đảm sự thống nhất của pháp chế trên quy mô toàn quốc
Hệ thống pháp luật là tổng thể nhiều ngành luật, rất phong phú, đa dạng “như pháp chế
thì phải thống nhất”. Pháp chế thống nhất nghĩa là trên quy mô toàn quốc chỉ có một
nền pháp chế duy nhất, không có và không thể có pháp chế của địa phương này hay
của địa phương khác.
Sự thống nhất của pháp chế bảo đảm cho pháp luật phải được ban hành và tổ chức thực
hiện thống nhất trong phạm vi cả nước; đảm bảo cho mọi công dân đều bình đẳng
trước pháp luật, mọi vi phạm pháp luật phải được xử lý nghiêm minh, không chấp
nhận bất kỳ một đặc quyền hay ngoại lệ nào. V.I.Lê nin viết: “pháp chế không theerlaf
pháp chế của tình Caluga hoặc của tình Cadan được, mà phải là pháp chế duy nhất cho
20

toàn nước Nga và cho cả toàn thể liên bang của đất nước Cộng hòa Xô viết nữa”. Đây
là nguyên tắc bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật, tạo điều kiện cho hệ
thống đó phát triển ngày càng hoàn thiện, làm cơ sở củng cố và tăng cường pháp chế
XHCN. Do đó nó đòi hỏi không những phải có một sự nhận thức thực sự nhất trí về
pháp chế, mà còn phải “có khả năng gìn giữ cho luật pháp được áp dụng một cách thực
sự thống nhất trong toàn nước Cộng hòa và trong toàn liên bang, bảo đảm cho mọi
công dân hiểu biết, sử dụng đúng quyền và thực hiện tốt nghĩa vụ đối với nhà nước,
đối với xã hội, hướng tới mục tiêu xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Thực hiện nguyên tắc thống nhất của pháp chế XHCN là điều kiện quan trọng để xóa
bỏ tư tưởng cục bộ, địa phương chủ nghĩa, đảm bảo công bằng xã hội. Nguyên tắc
thống nhất của pháp chế không những không loại bỏ mà còn không ngừng phát huy
khả năng áp dung sáng tạo pháp luật của từng địa phương từng cơ sở trong việc xây
dựng các quy chế hoạt động và quản lý phù hợp với đặc điểm, điều kiện cụ thể của
mình. Nhưng sự áp dụng sáng tạo đó phải phù hợp với sự thống nhất của pháp luật của
nhà nước. V.I.Lê nin đã nhấn mạnh, không những một nước cộng hòa, một tỉnh mà
ngay cả một nhà nước, một làng đều có quyền áp dụng theo cách thức riêng của mình
những luật lệ Xô viết chung. Điều quan trọng là khả năng áp dụng sáng tạo đó cần phải
được nhận thức đúng đắn và có giới hạn, xác định rõ quyền và nghĩa vụ, quyền chủ thể
luôn luôn gắn liền với nghĩa vụ pháp lý, không được vin vào “ở các địa phương có
những đặc điểm và những ảnh hưởng” mà bất chấp pháp luật. Những đặc điểm và
những ảnh hưởng ấy chỉ là những yếu tố cần được tính đến khi nghiên cứu, tìm tòi các
biện pháp có hình thức để áp dụng pháp luật đưa pháp luật vào cuộc sống.
2.2. Nguyên tắc bảo đảm hiệu lực pháp lý cao nhất của Hiến pháp
Đây là nguyên tắc bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật, tạo điều kiện cho
hệ thống đó phát triển và ngày càng hoàn chỉnh, làm cơ sở củng cố và tăng cường pháp
chế trong hệ thống pháp luật, các văn bản pháp luật tồn tại trong mối quan hệ phụ
thuộc và quy định lẫn nhau. Hiến pháp là văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất.
Những văn bản khác kể cả văn bản luật đều phụ thuộc vào hiệu lực của hiến pháp,
21

được ban hành trên cơ sở hiến pháp và nhằm cụ thể hóa, thực hiện hiến pháp. Không
có quá trình cụ thể hóa đó thì những quy định của hiến pháp sẽ khó khăn đi vào đời
sống xã hội.
Nguyên tắc trên là điều kiện bảo đảm hoạt động lập pháp, lập quy đúng đắn, kịp thời,
đúng thẩm quyền, thể hiện được ý chí và quyền uy của nhà nước trong tổ chức và điều
hành mọi hoạt động của xã hội. Trong quá trình đó, các cơ quan nhà nước cấp dưới
phải phục tùng cơ quan cấp trên, các văn bản do các cơ quan quản lý nhà nước cũng
như của các cấp chính quyền địa phương phải phù hợp với hiến pháp, luật và không
được trái với những văn bản của các cơ quan quản lý nhà nước cấp trên. Nhấn mạnh
tính phụ thuộc ấy, V.I.Lê nin viết: “bất cứ quyết định nào của bất cứ một cơ quan hành
chính địa phương nào cũng không được đi ngược lại với pháp luật”. Để nguyên tắc này
được thực hiện một mặt nhà nước quan tâm hoàn thiện hiến pháp – luật cơ bản của nhà
nước và là cơ sở của hệ thống pháp luật, mặt khác, tăng cường xây dựng và hoàn chỉnh
hệ thống pháp luật để cụ thể hóa hiến pháp, đưa hiến pháp vào đời sống xã hội.
2.3. Thực hiện pháp luật là nguyên tắc bắt buộc chung đối với mọi người, không
có ngoại lệ
Một trong những đặc điểm của pháp luật là tính bắt buộc chung đối với mọi người
không có ngoại lệ. Pháp luật phải dược triệt để tuân theo và chấp hành nghiêm chỉnh,
không cho phép một ngành, một cơ quan, một cá nhân nào đó tự cho phép mình không
thực hiện những quy định của pháp luật khi mà những quy định đó đang còn có hiệu
lực chưa bị sửa đổi hoặc chưa bị bãi bỏ. Sự tuân theo và chấp hành đó là vô điều kiện.
Đặc biệt là sự chấp hành pháp luật từ phía các cơ quan nhà nước, các tổ chức kinh tế,
các tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và những người có chức vụ sẽ góp phần quan trọng
trong việc tăng cường pháp chế XHCN. Ngược lại, nếu các cơ quan nhà nước, các tổ
chức kinh tế, các tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và những người có chức vụ, không
chấp hành pháp luật sẽ dẫn đến sự phá vỡ pháp chế XHCN. Một trong những nguyên
nhân phổ biến của tình trạng này thường là do thiếu hiểu biết về pháp luật, pháp chế
XHCN của cán bộ, công chức nhà nước.
22

Ở nước ta, hiện nay vẫn còn không ít trường hợp cán bộ, công chức nhà nước, đã lợi
dụng chức quyền coi thường pháp luật, không tôn trọng những quy định của nhà nước,
lạm quyền, vượt quyền, độc đoán và chuyên quyền. Nói cách khác, họ hành động theo
nhận thức chủ quan, bất chấp pháp luật và dẫn đến vi phạm quyền dân chủ của nhân
dân, ức hiếp nhân dân, làm suy yếu quyền lực của nhà nước và làm giảm lòng tin của
nhân dân đối với nhà nước, đối với chế độ. Cho nên, mục tiêu tăng cường pháp chế
XHCN, trước hết là nhằm thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ công dân theo luật định
“nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ XHCN bảo đảm quyền lực
thuộc về nhân dân”.
2.4. Nguyên tắc phải chịu trách nhiệm pháp lý bắt buộc khi vi phạm pháp luật
Trách nhiệm pháp lý là bắt buộc đối với tất cả những ai đã vi phạm pháp luật. Những
người vi phạm pháp luật nhất thiết phải bị xử lý. Không một người nào có thể biện
bạch cho những hành vi vi phạm pháp luật của mình, dù người đó ở cương vị nào trong
xã hội hoặc do bất kỳ lý do nào gây nên. Ở đây, điều quan trọng là phải thực hiện được
mọi hành vi vi phạm pháp luật để xử lý công minh theo pháp luật. Kiên quyết đấu
tranh chống những biểu hiện lợi dụng chức quyền để vi phạm pháp luật hoặc dung
túng bao che cho những hành vi phạm pháp. Nếu những hành vi phạm pháp không bị
xử lý, thì đó chính là sự buông lỏng tạo tiền đề cho những hành vi phạm pháp tiếp
theo. Hơn nữa nó còn gây nên tâm lý coi thường pháp luật, gây tổn hại cho pháp chế
và trật tự pháp luật. Nhà nước có nhiệm vụ khuyến khích, bảo vệ cho những người
trung thực, thẳng thắn đấu tranh bảo vệ chân lý. Báo cáo chính trị tại đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VI đã chỉ rõ: “mọi vi phạm đều phải được xử lý. Bất cứ ai phạm
pháp đều bị đưa ra xét xử theo pháp luật, không được giữ lại để xử lý “nội bộ” không
làm theo kiểu phong kiến: dân thì chịu hình pháp, quan thì xử theo “lẽ”… cấm bao che
hành động phạm pháp và người phạm pháp dưới bất cứ hình thức nào”.
Để tăng cường pháp chế XHCN không những phải sử dụng những nguyên tắc cơ
bản trên mà còn phải chú ý tới các mối tương quan sau đây:
- Mối tương quan giữa pháp chế XHCN và trình độ văn hóa
23

Tình trạng pháp chế được quy định bởi khả năng tự nhận thức, tự điều chỉnh hành vi
phù hợp với lợi ích xã hội của các thành viên xã hội; tích cực và thái độ trách nhiệm
của xã hội đối với họ. Như vậy, tình trạng pháp chế không những phụ thuộc vào trình
độ học vấn nói chung mà còn phụ thuộc vào ý thức pháp luật của mỗi người, vào lối
sống, quan niệm và chuẩn mực đạo đức mà họ theo đuổi.
Dù là pháp luật của chế độ nhà nước nào là pháp luật hành văn hay những quy tắc tập
quán được nhà nước thừa nhận đều phản ánh dưới hình thức pháp lý những điều kiện
sinh hoạt vật chất, tinh thần của xã hội. Hiệu lực của nó có quan hệ chặt chẽ tới môi
trường tâm lý xã hội, đến trình độ, ý thức pháp luật của mỗi người dân trong xã hội.
Thực tiễn nhiều năm qua ở nước ta cho thấy, một trong những nguyên nhân quan trọng
của tình trạng vi phạm pháp luật ngày càng gia tăng về số lượng vụ việc nghiêm trọng
về tính chất là do cán bộ, công chức nhà nước và nhân dân có nhiều người không hiểu
biết pháp luật, không nắm vững các quyền và nghĩa vụ của minh trong những hành vi
xử sự cụ thể. Vì vậy, một số đã cố ý hoặc vô ý có những hành động vi phạm pháp luật,
còn một số người khác lại không biết xử dụng pháp luật để đấu tranh thậm chí lại né
tránh trước những hành vi phạm pháp họ không am hiểu pháp luật. Một bộ phận không
ít cán bộ, công chức nhà nước không thấy rõ được quyền và nghĩa vụ của mình trong
hoạt động, công tác, nên đã lạm dụng quyền lực nhà nước dẫn đến vi phạm pháp luật,
phá vỡ pháp chế.
Để khắc phục nguyên nhân trên đây, nhà nước rất quan tâm đến việc nâng cao trình độ
văn hóa tăng cường giáo dục pháp luật cho nhân dân nói chung, cho cán bộ công chức
nhà nước nói riêng, nhằm từng bước hình thành và nâng cao ý thức pháp luật cho mọi
thành viên trong xã hội, góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế
XHCN. Ngược lại như V.I.Lê nin đã chỉ ra nếu không “thiết lập pháp chế thống nhất…
thì không thể nào nói đến vấn đề bảo vệ và xây dựng bất cứ một nền văn hóa nào
được”.
Mối tương quan giữa pháp chế và tính hợp lý
24

Trong hoạt động thực tiễn, để tuân theo và chấp hành những quy định của pháp luật,
vấn đề quan trọng là phải nhận thức được rõ mối tương quan giữa pháp chế và tính hợp
lý của việc áp dụng các quy định pháp luật đồng nhất hoặc đối lập giữa pháp chế và
tính hợp lý đều là sai lầm. Nhận thức đúng đắn mối tương quan giữa pháp chế và tính
hợp lý, chúng ta sẽ khắc phục được những biểu hiện quan liêu hoặc giáo điều trong
việc áp dụng các quy phạm pháp luật.
3. Các biện pháp tăng cường pháp chế XHCN ở Việt Nam
Tăng cường pháp chế XHCN là một trong những yêu cầu khách quan và cấp thiết của
công cuộc đổi mới toàn diện và sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội hiện
nay. Thông qua tăng cường pháp chế XHCN, các quyền tự do, lợi ích hợp pháp của
công dân cũng như những thể chế dân chủ khác mới trở thành thực tế đời sống. Tăng
cường pháp chế cũng sẽ tác động trực tiếp đến công cuộc cải cách và nâng cao hiệu
quả quản lý nhà nước. Nó cũng ngăn chặn và loại trừ những vi phạm pháp luật đặc biệt
là tệ tham nhũng đang phổ biến, nó thúc đẩy nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
vận hành theo cơ chế thị trường năng động và hiệu quả hơn. Trong giai đoạn hiện nay
Tăng cường pháp chế XHCN, chúng ta phải thực hiện tốt một số biện pháp như sau:
- Một là, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật XHCN: Pháp luật XHCN là cơ sở
tiền đề của pháp chế XHCN, vì vậy muốn tăng cường pháp chế XHCN phải xây dựng
pháp luật đầy đủ và hệ thống, bảo đảm cho tất cả hoạt động nhà nước đều dựa trên cơ
cấu thích hợp và cơ chế chặt chẽ, bảo đảm cho tất cả các hoạt động của công dân đều
có pháp luật làm cơ sở. Hiện nay, hệ thống pháp luật của ta chưa hoàn chỉnh, có
những nhóm quan hệ xã hội quan trọng nhưng chưa được pháp luật điều chỉnh đầy đủ.
Trong số các văn bản hiện hành có nhiều văn bản chồng chéo với nhau hoặc đã lỗi
thời. Công tác tập hợp hóa và pháp điểm hóa pháp luật tiến hành còn chậm. Thời gian
qua báo cáo Quốc hội khóa IX chỉ xây dựng được khoảng 60% văn bản quy phạm
pháp luật cần ban hành. Từ đó Nghị quyết đại hội IX đã nhấn mạnh rằng: tăng cường
công tác lập pháp, xây dựng chương trình dài hạn về lập pháp, hoàn thiện hệ thống
pháp luật, đổi mới quá trình ban hành và hướng dẫn thi hành luật. Để tạo tiền đề cho
25

pháp chế XHCN, phải đẩy mạnh công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
bao gồm:
+ Thể chế hóa kịp thời đường lối chính sách của Đảng thành pháp luật;
+ Quá trình xây dựng pháp luật phải xuất phát từ nhu cầu khách quan của các điều kiện
kinh tế xã hội ở các thời điểm tồn tại của nó và công tác xây dựng pháp luật phải nhạy
bén và khoa học.
+ Phải có kế hoạch xây dựng phù hợp với mỗi giai đoạn và mang tính khả thi cao,
trong từng giai đoạn cần có trọng tâm, trọng điểm để ban hành các văn bản kịp thòi đối
với sự phát triển của các quan hệ xã hội. Đồng thời cần tránh khuynh hướng chủ quan
nóng vội muốn có ngay hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, từ đó dẫn đến tình trạng pháp
luật xa lạ với nhu cầu của xã hội; hoặc khuynh hướng bảo thủ trì trệ không thấy hết
những nhân tố mới điều kiện mới, không nhận thức đúng vai trò của pháp luật dẫn đến
chờ đợi hoặc dùng những biện pháp khác để dẫn đến quan hệ xã hội. Để thực hiện tốt
các vấn đề này, Quốc hội phải đổi mới tiêu chuẩn đại biểu quốc hội (am hiểu hiến
pháp, pháp luật, nghị quyết và thực tiễn cuộc sống), tăng cường đại biểu hoạt động
chuyên trách của Quốc hội, đảm bảo đổi mới điều kiện làm việc của đại biểu quốc hội
trong hoạt động lập pháp, có chiến lược xây dựng pháp luật lâu dài, toàn diện, bảo đảm
cơ chế giám sát, kiểm tra trước, sau của việc ban hành các văn bản quy phạm pháp
luật, tăng cường chất lượng của cán bộ hoạt động lập pháp và lập quy, bảo đảm tính
dân chủ rộng rãi, thủ tục dễ dàng hơn trong hoạt động lập pháp, lập quy.
- Hai là, tổ chức thực hiện pháp luật: Tổ chức thực hiện pháp luật là biện pháp đặc biệt
quan trọng để tăng cường pháp chế XHCN ở nước ta hiện nay. Biện pháp này bao gồm
nhiều hoạt động nhằm bảo đảm cho pháp luật được tôn trọng và thực hiện, cụ thể là:
+ Tăng cường công tác cụ thể hóa luật, pháp lệnh để triển khai thực hiện nhanh chóng,
có hiệu quả khắc phục tình trạng chậm chễ trong việc cụ thể hóa luật, pháp lệnh. Hiện
nay tình trạng thường xuyên ở nước ta trong quá trình triển khai thi hành luật là: mặc
dù luật đã có hiệu lực thi hành nhưng do nội dung quy định của luật phần là là những
quy định “khung”, do đó không thể triển khai áp dụng ngay mà phải chờ các văn bản
26

hướng dẫn thi hành của Chính phủ (Nghị định), các Bộ (thông tư, thông tư liên tịch,
…), thậm chí có nơi còn phải chờ hướng dẫn của UBND tỉnh, thành phố và các sở,
ngành,… điều này có tác động không tốt đến sự phát triển kinh tế - xã hội và cũng là
nguyên nhân làm tính thống nhất và tính kỷ cương của pháp luật chưa cao.
+ Tăng cường công tác giải thích pháp luật làm sáng tỏ nội dung ý nghĩa của các quy
định pháp luật để mọi chủ thể hiểu và thực hiện đúng.
+ Tăng cường khả năng thông tin tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật bằng mọi
biện pháp, hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh trong cán
bộ, quần chúng nhân dân.
+ Nâng cao ý thức pháp luật, năng lực pháp luật cho công chức viên chức nhà nước để
áp dụng pháp luật trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Kết hợp giáo dục pháp luật
với giáo dục pháp luật xã hội chủ nghĩa. Chú trọng công tác đào tạo bồi dưỡng năng
lực pháp lý.
- Ba là, bảo vệ pháp luật: là đấu tranh chống lại hành vi vi phạm pháp luật, để làm việc
này cần tiến hành đồng bộ các công tác như sau:
+ Tăng cường công tác kiểm tra giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước Quốc hội,
Hội đồng nhân dân, đặc biệt là hiệu quả giám sát của Quốc hội trong lập pháp và lập
quy: để phát huy vai trò, vị trí của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, Quốc hội phải
được kiện toàn tổ chức, đặc biệt là làm tốt chức năng giám sát tối cao của Quốc hội đối
với toàn bộ hoạt động của nhà nước, trước mắt tập trung vào những vấn đề bức xúc
như: sử dụng vốn và tài sản của nhà nước, chống tham nhũng, quan liêu, vấn đề bắt
giam, điều tra, truy tố, xét xử,… mặt khác để nâng cao hiệu quả giám sát, xử lý kịp
thời các vi phạm hiến pháp và pháp luật trong hoạt động của các cơ quan nhà nước
trong thời gian Quốc hội không họp cần phải có chương trình, kế hoạch giám sát hàng
năm của Quốc hội, tăng thẩm quyền của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân
tộc và các Ủy ban của Quốc hội trong lĩnh vực giám sát. Về lâu dài cần thành lập Hội
đồng giám sát Hiến pháp với chức năng và quyền hạn giống như tòa án hiến pháp ở
một nước, có nhiệm vụ xem xét và trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội khi Quốc hội
27

không họp, quyết định về tính hợp hiến của các văn bản pháp quy do Chính phủ, Chủ
tịch nước, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành trong thời
gian Quốc hội không họp.
+ Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra của cơ quan hành chính nhà nước.
+ Phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh những vi phạm pháp luật, bảo đảm mọi
hành vi vi phạm pháp luật không thoát khỏi bị xử lý. Bảo đảm nguyên tắc mọi người
đều bình đẳng trước pháp luật. Xử lý đúng người đúng tội trước pháp luật, không để
xảy ra trường hợp bao che. Đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tệ nạn tham nhũng trong
cơ quan nhà nước, tổ chức Đảng, xã hội.
+ Kiện toàn các cơ quan quản lý nhà nước về tư pháp: về công tác này, nghị quyết đại
hội IX đã xác định rõ một số giải pháp, đổi mới cụ thể như: một là cải cách, kiện toàn
và nâng cao hoạt động của các cơ quan tư pháp theo nguyên tắc: nâng cao tinh thần
trách nhiệm, làm tốt các công tác điều tra, bắt giam, giữ, truy tố, xét xử, không để xảy
ra những trường hợp oan sai. Hai là Viện kiểm sát nhân dân không thực hiện chức
năng kiểm soát chung mà tập trung làm tốt chức năng công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp. Ba là sắp xếp lại hệ thống tòa án nhân dân, phân định thẩm quyền một cách hợp
lý. Bốn là tổ chức lại các cơ quan điều tra theo nguyên tắc gọn đầu mối, có sự chỉ đạo
tập trung thống nhất; kiện toàn cơ quan thi hành án và thành lập cảnh sát tư pháp; cải
cách và kiện toàn các cơ quan bổ trợ tư pháp, cơ quan quản lý hành chính tư pháp.
+ Giải quyết kịp thời các khiếu nại tố cáo của công dân.
- Bốn là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác pháp chế: bảo đảm sự
lãnh đạo của Đảng trong công tác pháp chế là nhân tố quyết định việc tăng cường pháp
chế XHCN ở nước ta. Đảng lãnh đạo công tác pháp chế nhưng không bao biện, làm
thay cho cơ quan nhà nước mà sự lãnh đạo ấy thể hiện thông qua:
+ Đảng đề ra chủ trương, phương hướng xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp
luật và bảo vệ pháp luật trong từng thời kỳ của sự nghiệp đổi mới.
+ Đảng chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ là công tác pháp chế, giáo dục nâng cao ý
thức pháp luật cho Đảng viên.
28

+ Đảng kiểm tra các tổ chức Đảng và Đảng viên chấp hành đường lối chính sách của
Đảng, pháp luật của nhà nước; kết hợp chặt chẽ sự kiểm tra của Đảng với công tác
thanh tra nhà nước, thanh tra nhân dân nhằm phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết
điểm, kịp thời xử lý đảng viên vi phạm pháp luật.

You might also like