You are on page 1of 23

Chương 7: VẤN ĐỀ GIA ĐÌNH TRONG THỜI

KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

Tên thành viên MSSV Thứ tự thuyết trình


Phạm Lâm Trung Thiện 2257010194 1
Trịnh Lý Gia Quyên 2257010159 2
Chu Bá Dương 2257010041 3
Nguyễn Thị Minh Thư 2257010205 4
Mai Xuân Viên 2257010240 5
Ngô Huỳnh Dung 2257010034 6
Văn Mỹ Trân 2257010221 7
Đặng Khánh Ly 2257010097
Lưu Quỳnh Như 2257010141 Nhóm phản biện
Nguyễn Thị Kim Yến 2257010248

MỤC LỤC

1
NỘI DUNG............................................................................................................3
I. Khái niệm, vị trí và chức năng của gia đình.............................................................3
1. Khái niệm gia đình.......................................................................................................3
2. Vị trí của gia đình trong xã hội.....................................................................................4
a) Gia đình là tế bào của xã hội..........................................................................................4
b) Gia đình là tổ ấm, mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hòa trong đời sống các nhân
của mỗi thành viên.................................................................................................................5
c) Gia đình là cầu nối giữa cá nhân với xã hội....................................................................5
3. Chức năng cơ bản của gia đình...................................................................................6
a) Chức năng tái sản xuất ra con người.............................................................................6
b) Chức năng nuôi dưỡng, giáo dục...................................................................................6
c) Chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng.........................................................................8
d) Chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình cảm gia đình.............................8
e) Một số chức năng khác..................................................................................................9
II. Cơ sở xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội......................9
1. Cơ sở kinh tế - xã hội...................................................................................................9
2. Cơ sở chính trị - xã hội.................................................................................................9
3. Cơ sở văn hóa............................................................................................................11
4. Chế độ hôn nhân tiến bộ...........................................................................................11
III. Xây dựng gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội............14
1. Sự biến đổi của gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.........14
2. Biến đổi trong thực hiện các chức năng của gia đình...............................................14
a) Chức năng tái sản xuất ra con người...........................................................................14
b) Chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng.......................................................................15
c) Chức năng giáo dục (xã hội hóa)..................................................................................15
d) Chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình cảm.........................................15
3. Biến đổi trong các mối quan hệ gia đình...................................................................16
4. Phương hướng cơ bản xây dựng và phát triển gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội (nhằm phát huy những điểm tích cực và khắc phục những điểm
hạn chế)............................................................................................................................17

CÂU HỎI.............................................................................................................19

2
NỘI DUNG
I. Khái niệm, vị trí và chức năng của gia đình
1. Khái niệm gia đình
- Gia đình là một hình thức cộng đồng xã hội đặc biệt, được hình thành,
duy trì và củng cố chủ yếu dựa trên cơ sở hôn nhân, quan hệ huyết
thống và quan hệ nuôi dưỡng, cùng với những quy định về quyền và
nghĩa vụ của các thành viên trong gia đình.
- Sỡ dĩ nói gia đình là cộng đồng xã hội đặc biệt vì: Gia đình có vai trò
quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội.
- Cơ sở chính hình thành gia đình:
+ Quan hệ hôn nhân
+ Quan hệ huyết thống
- Quan hệ hôn nhân:
+ Là mối quan hệ giữa những người không cùng dòng máu được xã
hội thừa nhận
+ Là cơ sở, nền tảng hình thành nên các quan hệ khác trong gia đình
+ Là cơ sở pháp lý cho tồn tại gia đình
- Quan hệ huyết thống:
+ Là mối quan hệ giữa cha, mẹ với con cái, giữa anh, chị em
+ Là quan hệ giữa những người cùng dòng máu, nảy sinh từ quan hệ
hôn nhân
+ Là yếu tố mạnh mẽ nhất để gắn kết các thành viên trong gia đình
- Mối tương quan giữa QHHN và QHHT
+ QHHN hình thành QHHT
+ QHHT là cơ sở để duy trì QHHN
+ Hôn nhân và QHHN có thể thay đổi
+ Huyết thống và QHHT không thể thay đổi
- Các hình thức gia đình
+ Dựa trên hôn nhân
● Gia đình tập thể:
○ Huyết tộc: Tồn tại trong giai đoạn đầu; hôn nhân tập
thể có phân theo thế hệ
○ Bạn thân (Punaluan): Hôn nhân tập thể; Loại bỏ hôn
nhân giữa anh em trai và chị em gái (bên mẹ)
○ Cặp đôi (Đối ngẫu): Hôn nhân tập thể; Trong nhiều vợ
có 1 vợ chính, trong nhiều chồng có một chồng chính

3
● Gia đình cá thể:
○ CHNL
○ CDPK
○ TBCN
○ Chế độ một vợ một chồng là hình thức gia đình đầu
tiên không dựa vào điều kiện tự nhiên mà dựa vào
những điều kiện kinh tế
+ Dựa trên Mối quan hệ:
● Gia đình Mẫu hệ
● Gia đình Phụ quyền
● Gia đình bình đẳng
2. Vị trí của gia đình trong xã hội
a) Gia đình là tế bào của xã hội
- Gia đình có vai trò quyết định đối với sự tồn tại, vận động và phát triển
của xã hội.
- Ph. Ăngghen:" Theo quan điểm duy vật, nhân tố quyết định trong lịch sử,
quy đến cùng, là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống trực tiếp"
- Sự sản xuất có hai loại:
1. Sản xuất ra tư liệu sinh hoạt (thực phẩm, quần áo, nhà ở,...)
2. Sự sản xuất ra bản thân con người (sự truyền nòi giống)
- Những trật tự xã hội do hai loại sản xuất quyết định => việc phát triển
trình độ gia đình => phát triển xã hội.
- Tuy nhiên, mức độ tác động của gia đình đối với xã hội lại phụ thuộc vào
bản chất của từng xã hội, vào đường lối, chính sách của giai cấp cầm
quyền, và phụ thuộc vào chính bản thân mô hình, kết cấu, đặc điểm của
mỗi hình thức gia đình trong lịch sử.
- Ví dụ: Xã hội trong quá khứ với tư tưởng trọng nam khinh nữ. Trong hôn
nhân và gia đình, người đàn ông sẽ là người quyết định, người phụ nữ sẽ
tuân theo → hạn chế năng lực của phụ nữ khi họ chỉ có thể quanh quẩn
bếp núc và nhà cửa, đồng thời sự đánh giá thấp của người chồng với
người vợ sẽ dẫn tới nhiều yếu tố, những yếu tố đó tạo nên một gia đình
không hạnh phúc. Kết luận: Phụ nữ bị đánh giá thấp và không được tham
gia sản xuất → Xã hội sẽ mất đi rất nhiều nhân tố tài năng có thể đóng
góp cho xã hội phát triển. Bên cạnh đó, gia đình không hạnh phúc không
những không tạo ra giá trị có ích cho xã hội mà còn tạo ra những mặt bất
lợi. Tuy nhiên xã hội trong giai đoạn hiện nay so với trước kia đã thay
đổi: Nhiều phụ nữ được đối xử công bằng với nam giới, hôn nhân gia

4
đình giữa vợ chồng bình đẳng và được bổ sung thêm nhiều quyền lợi
nghĩa vụ → kết quả là xã hội của chúng ta đang ngày càng phát triển hơn.
- Vì vậy, trong mỗi giai đoạn của lịch sử, tác động của gia đình đối với xã
hội không hoàn toàn giống nhau.
b) Gia đình là tổ ấm, mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hòa
trong đời sống các nhân của mỗi thành viên
- Gia đình là môi trường tốt nhất để mỗi cá nhân được yêu thương, nuôi
dưỡng, chăm sóc, trưởng thành, phát triển. Sự yên ổn, hạnh phúc của mỗi
gia đình là tiền đề, điều kiện quan trọng cho sự hình thành, phát triển
nhân cách, thể lực, trí lực để trở thành công dân tốt cho xã hội.
- Ví dụ: Quá khứ của những tên sát nhân hàng loạt đều đa số đều bắt nguồn
từ tuổi thơ không mấy tốt đẹp, tuy chỉ là một nguyên nhân trong nguyên
nhân nhưng gia đình góp phần rất quan trọng. (Chúng ta có thể thấy đồng
cảm song không được tha thứ cho những chuyện đã xảy ra)
1. Luis Garavito: Sinh ra trong gia đình có bảy người con. Tất cả các
người con đều phải trải qua một tuổi thơ tồi tệ vì người bố nát
rượu thích hành hạ con cái.
2. Jeffrey Dahmer: Sinh ra trong gia đình thiếu thốn tình thương. Có
một người mẹ mắc chứng trầm cảm và không quan tâm con cái, bố
luôn đi làm xa. Jeff luôn phải chứng kiến cảnh bố mẹ cãi vã và lớn
tiếng với nhau.
- Một gia đình đầy đủ sự yêu thương chan hòa sẽ tạo ra những trái tim lành
lặn và nhiều giá trị có ích cho xã hội. Điều này có thể được nhận thấy rất
rõ.
c) Gia đình là cầu nối giữa cá nhân với xã hội
- Gia đình là cộng đồng đồng xã hội đầu tiên mà mỗi cá nhân sinh sống, có
ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành và phát triển nhân cách của từng
người
- Gia đình là một trong những cộng đồng để xã hội tác động đến cá nhân:
các chủ trương, thông tin, hay chính sách của nhà nước thông qua các cá
nhân trong gia đình bằng nhiều con đường khác nhau. Gia đình là một
trong số đó
→ Thông qua lăng kính gia đình, các nguồn thông tin có thể có tác động
tích cực, hoặc tiêu cực đến sự phát triển của cá nhân (tư tưởng, đạo đức,
lối sống, nhân cách)
- Vai trò của người cha người mẹ trong việc sàng lọc, tiếp nhận và truyền
đạt thông tin là vô cùng quan trọng

5
→ Nếu như cha mẹ tiếp cận thông tin một chiều rồi truyền đạt đến con
cái, về lâu dài ảnh hưởng đến quá trình hình thành nhân cách của con cái
- Chức năng của gia đình có rất nhiều dưới những góc độ khác biệt. Nhưng
dưới góc nhìn của CNKHXH thì gia đình có 4 chức năng cơ bản sau
3. Chức năng cơ bản của gia đình
a) Chức năng tái sản xuất ra con người
- Đây là chức năng đặc thù của gia đình, không một cộng đồng nào có thể
thay thế
→ Mở rộng ra là đáp ứng các nhu cầu về sức lao động và tạo ra nguồn lao
động. Chỉ khi đó xã hội mới có thể tồn tại và phát triển
- Việc khuyến khích hay hạn chế chức năng sinh đẻ của gia đình phụ thuộc
vào yếu tố dân số, vào nguồn nhân lực và các điều kiện kinh tế-xã hội
khác.
- Ở Việt Nam, để hoạch định chính sách hợp lý cho phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước, Nhà nước đã có chính sách kế hoạch hóa gia đình: “Mỗi
gia đình chỉ nên có từ một đến hai con”.
- Việt Nam là quốc gia châu Á đầu tiên vận động sinh đẻ có kế hoạch, vào
năm 1961.
- Sau nhiều năm thực hiện chương trình Dân số - Kế hoạch hóa gia đình ,
số con trung bình của một phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ là 6,3 con vào
năm 1961 giảm xuống 2,3 con vào năm 2000, thấp hơn so với mục tiêu
đề ra là 2,9 con.
- Đến năm 2006, Việt Nam đạt mức sinh thay thế 2,09 con/phụ nữ và tỉ
suất sinh này duy trì ổn định trong một thập kỷ qua.
- Ở Trung Quốc lại khuyến khích chế độ một con từ năm 1977, đến năm
2015 lại đổi thành chính sách hai con
→ Gặp nhiều khó khăn vì "thế hệ con một" đã quen với mô hình này và
không muốn có thêm con, định hình tư duy cả thế hệ đang chiếm phần
lớn trong tầng lớp trung lưu Trung Quốc.
- Phụ nữ trẻ ở Trung Quốc ngày một độc lập hơn, sẵn sàng trì hoãn hôn
nhân hay sinh con để theo đuổi mục tiêu học vấn và thu nhập, bất chấp
sức ép từ gia đình hay nỗ lực vận động của chính phủ.
- Nhiều người đồng ý rằng mô hình này góp phần tăng tốc hiện tượng suy
giảm tỷ lệ sinh khi kinh tế phát triển. Tháng 6 năm nay, Bộ Chính trị
Trung Quốc thông qua chủ trương khuyến khích mỗi gia đình ở các vùng
thành thị sinh ba con nhằm "đối phó tình trạng già hóa dân số và duy trì
lợi thế, nguồn nhân lực".

6
https://vnexpress.net/trung-quoc-hung-hau-qua-tu-the-he-con-mot-
4383410.html
b) Chức năng nuôi dưỡng, giáo dục
- Thể hiện tình cảm thiêng liêng, trách nhiệm của cha mẹ với con cái, đồng
thời thể hiện trách nhiệm của gia đình với xã hội.
- Góp phần to lớn vào việc đào tạo thế hệ trẻ, cung cấp và nâng cao chất
lượng nguồn đào tạo.
- Cần tránh khuynh hướng coi trọng giáo dục gia đình mà hạ thấp giáo dục
của xã hội hoặc ngược lại.
Script:
Tiếng nói đầu tiên là do ai dạy?
Nét chữ đầu tiên là tay ai cầm?
Sai lầm đầu tiên là nhờ ai sửa?
Vấp ngã đầu đời là được ai nâng?
- Đây là một trích đoạn trong bài “Mang tiền về cho mẹ” của rapper Đen
Vâu. Con người từ khi sinh ra, cái ôm đầu tiên là da kề da với mẹ, ánh
nhìn đầu tiên là ánh nhìn hướng về gia đình, người thân. Trong suốt quá
trình trưởng thành, gia đình là cái nôi của những âm thanh, kiến thức, văn
hóa, cái đúng cái sai, là tấm gương soi phản chiếu lên chính những đứa
trẻ.
- Liệu ta còn nhớ chăng, rằng ba mẹ đã phải kiên nhẫn đến mức nào để dạy
ta nói, để rồi vỡ òa trong vui sướng khi ta cất tiếng gọi đầu tiên. Hay chỉ
đơn giản là những bữa ăn đầy đủ dinh dưỡng mà mẹ đã phải cân đo đong
đếm để ta lớn lên mạnh khỏe. Hay là những ngày ngồi sau lưng ba đến
trường dù nắng dù mưa. Chức năng này thể hiện tình cảm thiêng liêng,
trách nhiệm của cha mẹ với con cái, đồng thời thể hiện trách nhiệm
của gia đình với xã hội.
- Là chức năng hết sức quan trọng, góp phần to lớn vào việc đào tạo
thế hệ trẻ, cung cấp và nâng cao chất lượng nguồn đào tạo. Liệu một
đứa trẻ có năng động, có tinh thần học hỏi, có được trang bị đầy đủ kiến
thức, kỹ năng mềm để vận dụng, đóng góp cho xã hội hay không đều chịu
những ảnh hưởng từ gia đình.
(Giả sử phản biện hỏi tại sao lại ảnh hưởng thì đưa ví dụ: nếu cha mẹ cổ
hủ chỉ muốn con vùi đầu học kiến thức, lý thuyết trên trường mà không
dành thời gian trau dồi các kỹ năng mềm, kiến thức thực tiễn nhất là
trong bối cảnh xu hướng hội nhập bây giờ thì sẽ tụt lại so với các bạn
khác.)

7
- “Muốn sang thì bắc cầu Kiều, muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy” là quan
niệm đã có từ thời xa xưa. Và đến tận bây giờ vẫn còn được lưu truyền
khi có những bậc cha mẹ quà cáp giáo viên vì mong con mình được nhận
nhiều sự quan tâm hơn, đồng thời xem nhẹ sự giáo dục từ chính gia đình,
quy trách nhiệm giáo dục về nhà trường, giáo viên. Nhưng chính sự lơ là,
thiếu trách nhiệm đó lại khiến những đứa trẻ mất đi kết nối với gia đình,
cha mẹ không có thời gian lắng nghe, chia sẻ, giúp đỡ khi con có những
khó khăn. Cần tránh khuynh hướng coi trọng giáo dục gia đình mà hạ
thấp giáo dục của xã hội hoặc ngược lại.
- Những đứa trẻ bị bạo hành, những đứa trẻ sa lầy vào tệ nạn xã hội, hay
những đứa trẻ lựa chọn kết thúc cuộc đời của mình vì trầm cảm, hay cả
những đứa trẻ mang trong mình những tổn thương tâm lý ở tuổi thơ.
Những câu chuyện đau thương trên là căn cứ rõ ràng nhất về tầm quan
trọng của trách nhiệm nuôi dưỡng, giáo dục của gia đình.
- Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “…nhiều gia đình cộng lại mới thành xã
hội, xã hội tốt thì gia đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt
nhân của xã hội chính là gia đình”
c) Chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng
- Tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất và tái sản sản xuất ra tư liệu sản
xuất và tư liệu tiêu dùng.
- Đặc thù của gia đình là đơn vị duy nhất tham gia vào quá trình sản xuất
và tái sản xuất ra sức lao động cho xã hội.
- Là một đơn vị tiêu dùng trong xã hội.
Script:
- Gia đình được xem là một xã hội thu nhỏ cũng có sở hữu tư liệu sản xuất,
tổ chức sản xuất, phân phối và tiêu dùng sản phẩm. Gia đình tham gia
trực tiếp vào quá trình sản xuất và tái sản sản xuất ra tư liệu sản
xuất và tư liệu tiêu dùng.
- Tuy nhiên, đặc thù của gia đình là đơn vị duy nhất tham gia vào quá
trình sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động cho xã hội.
- Gia đình không chỉ tham gia trực tiếp vào sản xuất và tái sản xuất ra
của cải vật chất và sức lao động, (một yếu tố quan trọng) mà còn là
một đơn vị tiêu dùng trong xã hội.
d) Chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình cảm gia đình
- Là chức năng thường xuyên của gia đình, bao gồm:
+ Thỏa mãn nhu cầu tình cảm, văn hóa, tinh thần cho các thành viên
+ Đảm bảo cân bằng tâm lý
+ Bảo vệ, chăm sóc sức khỏe người ốm, người già, trẻ em

8
- Việc duy trì tình cảm giữa các thành viên trong gia đình có ý nghĩa quyết
định đến sự ổn định và phát triển của xã hội
+ Gia đình hạnh phúc → sức khỏe tinh thần các thành viên ổn định
→ tăng năng suất lao động, giảm các tệ nạn xã hội
+ Gia đình rạn nứt → bất hòa → vấn đề về sức khỏe tinh thần (lo âu,
trầm cảm, phẫn nộ,...) → tệ nạn, án mạng
VD: những vụ bạo lực gia đình, bạo hành trẻ em gần đây
(nhắc lại về câu chuyện của Jeffrey Dahmer ở phần trước)
e) Một số chức năng khác
- Chức năng văn hóa:
+ Gia đình là nơi lưu giữ truyền thống văn hóa của dân tộc, tộc người
VD: những phong tục, tập quán của cộng đồng (cúng 23 Tết, lì
xì,...)
+ Không chỉ lưu giữ mà còn sáng tạo và thụ hưởng những giá trị văn
hóa của xã hội
- Chức năng chính trị:
+ Gia đình là một tổ chức chính trị của xã hội, thực hiện chính sách,
pháp luật của nhà nước và quy chế (hương ước) của làng
+ Là cầu nối của mối quan hệ giữa nhà nước với công dân
II. Cơ sở xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội
1. Cơ sở kinh tế - xã hội
- Cơ sở: sự phát triển của LLSX và tương ứng trình độ của LLSX là QHSX
mới (XHCN)
+ Cốt lõi QHSX mới: chế độ XHCN đối với TLSX → từng bước
thay thế chế độ tư hữu về TLSX → xóa bỏ nguồn gốc của áp bức,
bóc lột và bất bình đẳng → xây dựng quan hệ bình đẳng trong gia
đình, giải phóng phụ nữ
+ Xóa bỏ chế độ tư hữu → xóa bỏ sự thống trị của người đàn ông về
kinh tế → xóa bỏ sự thống trị của người đàn ông trong gia đình
+ Xóa bỏ chế độ tư hữu → biến lao động tư nhân trong gia đình
thành lao động xã hội trực tiếp → dù phụ nữ tham gia lao động xã
hội hay gia đình thì đều đóng góp cho sự vận động, phát triển của
xã hội
+ Xóa bỏ chế độ tư hữu → Hôn nhân được dựa trên cơ sở tình yêu
chứ không vì kinh tế, địa vị hay tính toán khác
2. Cơ sở chính trị - xã hội

9
[Dẫn dắt] Như đã đề cập trong những phần trước, gia đình là tế bào của xã hội,
và chỉ khi con người được yên ấm hòa thuận trong gia đình thí mới có thể yên
tâm lao động, sáng tạo và góp sức mình cho xã hội và ngược lại. Chính vì vậy,
quan tâm xây dựng quan hệ gia đình bình đẳng, hạnh phúc là vấn đề hết sức
quan trọng trong CMXHCN.
- Chỉ có dưới nhà nước XHCN, nam và nữ mới được bình đẳng
- Cơ sở: thiết lập chính quyền nhà nước của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động, nhà nước xã hội chủ nghĩa
- Biểu hiện:
+ Việt Nam chúng ta thiết lập chế độ dân chủ cộng hòa sau CMT8
1945 => Hiến pháp 1946 ra đời, đã ban bố quyền tự do dân chủ,
quyền bầu cử ứng cử không hề phân biệt tôn giáo, nam nữ, dân tộc.
(Từ các giá trị cơ bản về quyền con người ấy, trên con đường xây dựng một
nước Việt Nam độc lập – tự do – hạnh phúc, các giá trị gia đình Việt Nam mới
được xác lập, gìn giữ, phát huy. Nó tiếp tục tạo nền tảng vững chắc để các gia
đình sản sinh ra những người con đủ tình yêu với quê hương, đất nước, đủ trí
thông minh, lòng dũng cảm và đức hy sinh, góp phần vào thắng lợi của 2 cuộc
kháng chiến chống thực dân, đế quốc, đưa cả nước cùng đi lên xây dựng chủ
nghĩa xã hội.)
+ Lập ra pháp luật, bảo vệ lợi ích của gia đình
● Luật hôn nhân và gia đình
● Luật Phòng chống bạo lực gia đình
+ Lập ra hệ thống chính sách xã hội đảm bảo lợi ích các thành viên
trong gia đình
Căn cứ quy định trên thì nhà nước có những chính sách sau đây đối với công
tác phòng chống bạo lực gia đình, gồm:
- Hằng năm, Nhà nước bố trí ngân sách cho công tác phòng chống bạo lực
gia đình.
- Khuyến khích cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia, tài trợ cho hoạt động
phòng chống bạo lực gia đình; phát triển các mô hình phòng ngừa bạo lực gia
đình và hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình.
- Khuyến khích việc nghiên cứu, sáng tác văn học, nghệ thuật về phòng chống
bạo lực gia đình.
- Tổ chức, hỗ trợ việc bồi dưỡng cán bộ làm công tác phòng chống bạo lực
gia đình.
- Người trực tiếp tham gia phòng chống bạo lực gia đình mà có thành tích thì
được khen thưởng, nếu bị thiệt hại về sức khoẻ, tính mạng và tài sản thì được
hưởng chế độ theo quy định của pháp luật.
+ Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ, từng bước bảo đảm sự
tham gia bình đẳng giữa nam và nữ trong lĩnh vực giáo dục và đào

10
tạo; Bảo đảm bình đẳng giới trong lĩnh vực văn hóa và thông tin;
từng bước xóa bỏ bạo lực trên cơ sở giới
(Tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào các vị trí quản lý, lãnh
đạo nhằm từng bước giảm dần khoảng cách giới trong lĩnh vực
chính trị <Cựu chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân, Phó chủ tịch nước Võ Thị
Ánh Xuân, Bộ trưởng bộ y tế Đào Hồng Loan, …>)
⇒ Hệ thống pháp luật và chính sách xã hội đó vừa định hướng,
vừa thúc đẩy quá trình hình thành gia đình mới trong thời kỳ
quá độ lên CNXH.
3. Cơ sở văn hóa
- Cơ sở văn hóa: nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa
+ Kế thừa những giá trị văn hóa dân tộc và nhân loại tốt đẹp
+ Sáng tạo những giá trị văn hóa mới mà nền tảng là hệ tư tưởng
chính trị của giai cấp công nhân [ KTTT tương ứng với CSHT (nhà
nước của giai cấp công nhân và nhân dân lao động) ]
+ Đấu tranh xóa bỏ những quan điểm hôn nhân lạc hậu.
- Sự phát triển hệ thống giáo dục, đào tạo, khoa học và công nghệ góp phần
nâng cao trình độ dân trí, làm nên nền tảng cho sự hình thành những giá
trị, chuẩn mực mới, điều chỉnh các mối quan hệ gia đình trong quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội.
[ Giải thích] Gia đình có chức năng giáo dục, nuôi dưỡng, đóng vai trò quyết định trong việc
một cá nhân có trở thành con người xã hội tốt hay không
⇒ Giáo dục các bậc làm cha, làm mẹ các kiến thức mới về gia đình ( vai trò, nghĩa vụ, quyền
lợi của các thành viên,... cũng như biết và và hiểu những điều luật liên quan đến gia đình…)
-> thực hiện tốt hơn chức năng nuôi dưỡng giáo dục → đào tạo được những công dân tốt
góp phần đưa đất nước đi lên CNXH
- Nếu thiếu đi cơ sở văn hóa hay cơ sở văn hóa không đi liền cơ sở CT-XH
thì việc xây dựng gia đình sẽ lệch lạc, không đạt hiệu quả cao.
[Giải thích]
- Xu hướng toàn cầu hóa, tác động tich cực và tiêu cực đến văn hóa gia đình
- Một bộ phận gia đình do sự hấp dẫn từ lợi nhuận kinh tế đã mải mê lo làm giàu,
kiếm tiền, sao nhãng thời gian dành cho gia đình, không quan tâm chăm lo việc giáo
dục tư tưởng, đạo đức, lối sống, nếp sống văn hoá trong gia đình cho các thế hệ; ít
quan tâm chú ý đến việc phụng dưỡng, chăm sóc ông bà, cha mẹ, giáo dục con cái.
-> Gia đình có hạnh phúc không ? Có đóng góp tích cực cho xã hội không ? Những
đứa con khi trưởng thành có trở thành một con người xã hội tốt hay không ?
● https://hcmcpv.org.vn/tin-tuc/bai-1-vi-sao-van-hoa-chua-ngang-hang-voi-
kinh-te-chinh-tri-xa-hoi-1491887537
● http://smot.bvhttdl.gov.vn/xay-dung-van-hoa-gia-dinh-trong-phat-trien-ben-
vung/

11
4. Chế độ hôn nhân tiến bộ
- Chế độ hôn nhân tiến bộ được thể hiện qua 3 yếu tố:
● Hôn nhân tự nguyện
● Hôn nhân một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng
● Hôn nhân được đảm bảo về mặt pháp lý
*Hôn nhân tự nguyện:
- Là hôn nhân xuất phát từ tình yêu chân chính giữa nam và nữ. Tức
nếu hôn nhân xuất phát từ tình yêu thì tất yếu sẽ dẫn đến hôn nhân tự
nguyện.
- Hôn nhân tự nguyện bảo đảm cho công dân có quyền tự do lựa chọn
đối tượng kết hôn, và quyền quyết định phải xuất phát từ hai người
trong cuộc, chứ không phải từ sự áp đặt của cha mẹ. Việc cha mẹ áp đặt
con cái kết hôn với ai là sai pháp luật và đi ngược lại với luân thường
đạo lý, đạo đức của xã hội.
- Bên cạnh đó, hôn nhân tự nguyện còn bao hàm cả quyền tự do ly hôn
khi tình yêu giữa hai người nam và nữ không còn nữa. Về vấn đề này,
Ăng-ghen đã nêu rằng: “Nếu tình yêu đã hoàn toàn phai nhạt hoặc bị
một tình yêu say đắm mới át đi, thì ly hôn sẽ là điều hay cho cả đôi bên
cũng như cho xã hội”. Tuy nhiên, hôn nhân tiến bộ không khuyến khích
ly hôn, vì ly hôn để lại hậu quả nhất định cho xã hội, cho cả vợ, chồng và
đặc biệt là con cái . Vì vậy, cần ngăn chặn những trường hợp nông nổi
khi ly hôn, ngăn chặn hiện tượng lợi dụng quyền ly hôn, và những lý do
ích kỷ hoặc vì mục đích vụ lợi. Nhưng khi không còn tình yêu phải thực
hiện ly hôn thì việc ly hôn được xem một bước tiến tiến bộ của hôn nhân
tự nguyện.
⇒ Liên hệ mở rộng
● Thời xưa, “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”; đạo tam tòng: “tại gia
tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử” → nghĩa là người con
gái khi chưa lấy chồng là phải theo cha, cha quyết định con kết hôn
với ai là con phải lấy người đấy
● Người phụ nữ xưa phải cam chịu, không dám ly hôn vì định kiến
của xã hội: “gái chính chuyên chỉ có một chồng”, do đó ly hôn sẽ
bị xem là phản bội.
*Hôn nhân một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng
- Là kết quả tất yếu của hôn nhân xuất phát từ tình yêu. Thực hiện hôn
nhân một vợ một chồng là điều kiện đảm bảo hạnh phúc gia đình, đồng

12
thời cũng phù hợp với quy luật tự nhiên, phù hợp với tâm lý, tình cảm,
đạo đức con người.
- Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện sự giải phóng đối
với phụ nữ, thực hiện sự bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau giữa vợ và
chồng. Trong các xã hội trước, hôn nhân một vợ một chồng thực chất chỉ
đối với người phụ nữ. “Chế độ một vợ một chồng sinh ra tự sự tập trung
nhiều của cải vào tay một người, vào tay người đàn ông, và từ nguyện
vọng chuyển của cải ấy lại cho con cái của người đàn ông ấy, chứ không
phải của người nào khác. Vì thế, cần phải có chế độ một vợ một chồng về
phía người vợ, chứ không phải về phía người chồng”. Trong đó vợ và
chồng đều có quyền lợi và nghĩa vụ ngang nhau về mọi vấn đề của cuộc
sống gia đình. Vợ và chồng được tự do lựa chọn những vấn đề riêng,
chính đáng như nghề nghiệp, công tác xã hội, học tập và một số nhu cầu
khác v.v.. Đồng thời cũng có sự thống nhất trong việc giải quyết những
vấn đề chung của gia đình như ăn, ở, nuôi dạy con cái… nhằm xây dựng
gia đình hạnh phúc.
- Là cơ sở cho sự bình đẳng trong quan hệ giữa cha mẹ và con cái và
quan hệ giữa anh chị em với nhau. Nếu như cha mẹ có nghĩa vụ yêu
thương con cái, ngược lại, con cái cũng có nghĩa vụ biết ơn, kính trọng,
nghe lời dạy bảo của cha mẹ. Tuy nhiên, quan hệ giữa cha mẹ và con cái,
giữa anh chị em sẽ có những mâu thuẫn không thể tránh khỏi do sự
chênh lệch tuổi tác, nhu cầu, sở thích riêng của mỗi người. Do vậy, giải
quyết mâu thuẫn trong gia đình là vấn đề cần được mọi người quan tâm,
chia sẻ.
⇒ Liên hệ và so sánh với chế độ đa thê “5 thê 7 thiếp” và chế độ gia trưởng
trong xã hội cũ
*Hôn nhân được đảm bảo về pháp lý:
- Quan hệ hôn nhân gia đình thực chất không phải là vấn đề riêng tư mà là quan
hệ xã hội tình yêu giữa nam và nữ có thể được xem là vấn đề riêng của mỗi
người, xã hội không can thiệp, nhưng khi hai người đã thỏa thuận để đi đến kết
hôn tức là đã đưa quan hệ riêng đó bước vào quan hệ xã hội, thì phải có sự
thừa nhận của xã hội, điều đó được biểu hiện bằng thủ tục pháp lý
trong hôn nhân.
- Thể hiện sự tôn trọng trong tình tình yêu, trách nhiệm giữa nam và
nữ, trách nhiệm của cá nhân với gia đình và xã hội và ngược lại.
- Ngăn chặn những cá nhân lợi dụng quyền tự do kết hôn, tự do ly hôn
để thảo mãn những nhu cầu không chính đáng, để bảo vệ hạnh phúc
của cá nhân và gia đình.

13
- Thực hiện thủ tục pháp lý trong hôn nhân không ngăn cản quyền tự
do kết hôn và tự do ly hôn chính đáng, mà ngược lại, là cơ sở để thực
hiện những quyền đó một cách đầy đủ nhất.
⇒ Liên hệ mở rộng với vấn đề, tập tục đi ngược với chế độ hôn nhân tiến bộ:
● Nạn tảo hôn - trường hợp kết hôn mà cô dâu và chú rể hoặc một
trong hai người chưa đủ tuổi để kết hôn
● Tục “cướp vợ” – phong tục lâu đời của dân tộc Mông
● Nạn kết hôn, ly hôn giả tạo: “hợp đồng hôn nhân”, “nhập quốc
tịch”, v.v
● Trào lưu “sống thử”
III. Xây dựng gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội
1. Sự biến đổi của gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội
- Gia đình Việt Nam ngày nay có thể được coi là gia đình quá độ trong
bước chuyển biến từ xã hội nông nghiệp cổ truyền sang xã hội công
nghiệp hiện đại.
- Gia đình hạt nhân đang ngày càng phổ biến ở các đô thị và cả ở nông
thôn-thay thế cho kiểu gia đình truyền thống.
- Gia đình hạt nhân có số thành viên trong gia đình ít hơn, chỉ có có hai thế
hệ cùng chung sống: cha mẹ - con cái, các biệt còn có số ít gia đình đơn
thân.
- Quy mô gia đình Việt Nam ngày ngày nhỏ đáp ứng nhu cầu và điều kiện
thời đại mới đặt ra. sự biến đổi của gia đình cho thấy chính nó đang làm
chức năng tích cực, làm cho xã hội trở nên thích nghi và phù hợp hơn với
tình hình mới, thời địa mới.
- Tuy nhiên, quá trình biến đổi đó gây ra những phản chức năng như tạo ra
sự ngăn cách giữa các thành viên trong gia đình, tạo khó khăn trong việc
giữ gìn tình cảm cũng như các giá trị văn hóa truyền thống của gia đình.
2. Biến đổi trong thực hiện các chức năng của gia đình
a) Chức năng tái sản xuất ra con người
- Với những thành tự của y học hiện đại, việc sinh đẻ hiện nay được các gia
đình tiến hành một cách chủ động về số lượng và thời điểm sinh con.
- Hơn nữa, việc sinh con còn chịu sự điều chỉnh của nhà nước tùy vào tình
hình dân số và nhu cầu về sức lao động
+ Những năm 70 và 80 của thế kỷ XX, khuyến khích mỗi cặp vợ
chồng nên có từ 1 đến 2 con.
+ Đầu thế kỉ XXI, mỗi cặp vợ chồng nên sinh đủ 2 con.

14
- Nếu như trước đây, nhu cầu về con cái thể hiện qua 3 phương diện: phải
có con, càng đông con càng tốt và phải sinh được con trai nối dõi, thì
ngày nay,nhu cầu ấy đã có những thay đổi căn bản. trong gia đình hiện
đại, sự bền vững của hôn nhân phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố tâm lý,
tình cảm, kinh tế chứ không chỉ về vấn đề con cái.
b) Chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng
- Cho đến nay kinh tế gia đình đã có 2 bước chuyển mang tính bước ngoặt:
+ Thứ nhất, từ kinh tế tự cấp tự túc thành kinh tế hàng hóa.
+ Thứ hai, từ đơn vị kinh tế mà đặc trưng là sản xuất hàng hóa đáp
ứng nhu cầu của thị trường quốc gia thành tổ chức kinh tế của nền
kinh tế thị trường hiện đại đáp ứng nhu cầu của thị trường toàn cầu.
- Hiện nay kinh tế gia đình đang trở thành 1 bộ phận quan trọng trong nền
kinh tế quốc dân
- Do kinh tế gia đình phần lớn có quy mô nhỏ, lao động ít và tự sản xuất là
chính → Kinh tế gia đình gặp rất nhiều khó khăn, trở ngại trong việc
chuyển sang sản xuất kinh doanh hàng hóa theo hướng chuyên sâu trong
kinh tế thị trường hiện đại
- Sự phát triển của kinh tế hàng hóa và nguồn thu nhập bằng tiền của gia
đình tăng lên → Các gia đình Việt Nam đang tiến tới việc sử dụng hàng
hóa và dịch vụ xã hội và trở thành một đơn vị tiêu dùng quan trọng.
c) Chức năng giáo dục (xã hội hóa)
- Trong xã hội Việt Nam truyền thống, giáo dục gia đình là cơ sở của giáo
dục xã hội. Nhưng ngày nay, giáo dục xã hội bao trùm lên giáo dục gia
đình và đưa ra những mục tiêu, yêu cầu của giáo dục xã hội cho giáo dục
gia đình.
- Giống nhau (tương đồng) giữa Gd gia đình truyền thống và gd xã hội
mới: nhấn mạnh sự hy sinh của cá nhân cho cộng đồng.
- GD gia đình ngày nay phát triển theo hướng sự đầu tư tài chính của gia
đình cho giáo dục con cái tăng lên, hướng đến giáo dục kiến thức khoa
học hiện đại, trang bị công cụ để con cái hòa nhập với thế giới.
- Tuy nhiên trong nền kinh tế ngày nay, vai trò của giáo dục của các chủ
thể trong gia đình có xu hướng giảm nhưng các hiện tượng tiêu cực trong
xã hội và trong nhà trường có xu hướng tăng lên.
- Hiện tượng trẻ em hư, bỏ học sớm, lang thang, sa vào tệ nạn xã hội phần
nào thể hiện sự bất lực và bế tắc của xã hội và giáo dục gia đình trong
việc chăm sóc giáo dục trẻ.
d) Chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình cảm

15
- Trong xã hội hiện đại, độ bền vững của gia đình phụ thuộc vào rất nhiều
yếu tố: mối quan hệ về trách nhiệm nghĩa vụ của vợ chồng con cái, sự hy
sinh lợi ích cá nhân cho lợi ích gia đình, mối quan hệ hòa hợp tình cảm
giữa vợ chồng con cái, sự đảm bảo hạnh phúc cá nhân, sinh hoạt tự do
chính đáng của mỗi thành viên trong cuộc sống chung
- Chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình cảm là một yếu tố
rất quan trọng tác động đến sự tồn tại bền vững của hạnh phúc gia đình và
sự bảo vệ chăm sóc trẻ em và người cao tuổi.
- Các gia đình hiện nay đang đối mặt với nhiều khó khăn thách thức. Đặc
biệt là do tỷ lệ gia đình một con tăng lên thì tâm lý-tình cảm của trẻ em và
người lớn kém phong phú hơn do thiếu đi tình yêu của anh chị em.
- Tác động của công nghiệp hóa và toàn cầu hóa dẫn đến tình trạng phân
hóa giàu nghèo sâu sắc giữa các gia đình. Nhà nước cần có chính sách hỗ
trợ các hộ nghèo, khắc phục khoảng cách giàu nghèo.
- Đồng thời, cần thay đổi sự bất bình đẳng của con trai và con gái.
- Nhà nước cần có những giải pháp biện pháp nhằm:
+ Bảo đảm an toàn tình dục, giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản
cho các thành viên gia đình;
+ Củng cố chức năng xã hội hóa của gia đình, xây dựng những chuẩn
mực và mô hình mới về giáo dục gia đình;
+ Giải quyết những mâu thuẫn trong gia đình (nhu cầu tự do tiến bộ
của phụ nữ hiện đại với trách nhiệm làm dâu theo quan niệm
truyền thống, lợi ích giữa các thế hệ, giữa gia đình và con cái).
- Nó đòi hỏi sự hình thành những chuẩn mực mới, đảm bảo sự hài hòa lợi
ích giữa các thành viên trong gia đình cũng như lợi ích giữa gia đình và
xã hội.
3. Biến đổi trong các mối quan hệ gia đình
- Sự biến đổi quan hệ hôn nhân:
+ Trước đây:
● Quan hệ vợ chồng - gia đình chặt chẽ
● Tỷ lệ ly hôn, ly thân, ngoại tình thấp
● Ít xuất hiện bi kịch, bạo hành, tệ nạn trong gia đình
● Gia đình đơn thân thấp
● Hôn nhân dễ dàng
+ Hiện nay:
● Quan hệ vợ chồng - gia đình ít chặt chẽ
● Tỷ lệ ly hôn, ly thân, ngoại tình tăng

16
● Xuất hiện nhiều bi kịch, bạo hành, tệ nạn trong gia đình
● Gia đình đơn thân cao
● Hôn nhân khó khăn
- Sự biến đổi quan hệ vợ chồng:
+ Trước đây:
● Chồng là trụ cột gia đình
● Quyền lực thuộc đàn ông
● Đàn ông là chủ sở hữu tài sản
● Quyết định các công việc quan trọng là đàn ông
+ Hiện nay:
● Chồng không nhất thiết là trụ cột gia đình
● Quyền lực bình đẳng
● Sở hữu tài sản bình đẳng giữa các thành viên
● Quyết định các công việc quan trọng có sự bàn bạc giữa các
thành viên.
4. Phương hướng cơ bản xây dựng và phát triển gia đình Việt Nam
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (nhằm phát huy những điểm
tích cực và khắc phục những điểm hạn chế)
1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao nhận thức xã hội về xây
dựng và phát triển gia đình VN.
Chúng ta tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền để các tổ chức đoàn thể
từ TW đến cơ sở nhận thức sâu sắc về vị trí vai trò và tầm quan trọng của
gia đình và các công tác xây dựng và phát triển gia đình VN hiện nay và
coi đây là một trong những đặc điểm quan trọng để quyết định thành công
sự phát triển bền vững xã hội trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Biểu hiện tăng cường sự lãnh đạo của Đảng: đưa nội dung, mục
tiêu công tác phát triển GĐ vào các chiến lược phát triển kinh tế xã hội.
Ví dụ về những nhiệm vụ, giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác xây dựng
gia đình trong tình hình mới: xây dựng và nhân rộng các mô hình gia đình
văn hóa tiêu biểu, nền nếp, tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp
luật về gia đình theo hướng lấy hoạt động của gia đình làm trọng tâm, bảo
đảm sự gắn kết xã hội và vai trò của gia đình, nâng cao năng lực quản lý
nhà nước về công tác xây dựng gia đình, đẩy mạnh, đổi mới công tác phổ
biến, tuyên truyền, giáo dục chính sách, pháp luật về hôn nhân và gia
đình
2. Đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống kinh tế - vật chất
hộ gia đình (nguyên lý vật chất quyết định ý thức)

17
Xây dựng và hoàn thiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội để góp phần
củng cố, ổn định và phát triển kinh tế hộ gia đình; có chính sách ưu tiên
hỗ trợ phát triển kinh tế gia đình cho các gia đình liệt sỹ, gia đình thương
binh bệnh binh, gia đình các dân tộc thiểu số, gia đình nghèo, gia đình ở
vùng sâu, vùng xa vùng khó khăn. Có chính sách kịp thời hỗ trợ gia đình
phát triển kinh tế, sản xuất kinh doanh các sản phẩm mới, sản phẩm sử
dụng nguyên liệu tại chỗ, hỗ trợ gia đình tham gia sản xuất phục vụ xuất
khẩu. Tích cực khai thác và tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ gia đình
vay vốn ngắn hạn và dài hạn nhằm xoá đói giảm nghèo, chuyển dịch cơ
cấu sản xuất, mở rộng phát triển kinh tế, đẩy mạnh loại hình kinh tế trang
trại, vươn lên làm giàu chính đáng.
3. Kế thừa những giá trị của gia đình truyền thống, đồng thời tiếp thu
những tiến bộ của nhân loại về gia đình trong xây dựng gia đình VN hiện
nay (đứng trên phủ định biện chứng để đánh giá, xem xét loại bỏ những
cái xấu)
Gia đình truyền thống được hun đúc từ lâu đời trong lịch sử dân tộc.
Bước vào thời kỳ mới gia đình ấy bộc lộ cả những mặt tích cực và tiêu
cực. Do vậy, Nhà nước cũng như các cơ quan văn hóa, các ban ngành liên
quan cần phải xác định, duy trì những nét đẹp có ích; đồng thời, tìm ra
những hạn chế và tiến tới khắc phục những hủ tục của gia đình cũ (Ví dụ:
quan niệm trọng nam khinh nữ, tục “cầu tự”, tục “thách cưới”...). Xây
dựng gia đình Việt Nam hiện nay là xây dựng mô hình gia đình hiện đại,
phù hợp với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập
kinh tế quốc tế. Xây dựng và phát triển gia đình Việt Nam hiện nay vừa
phải kế thừa và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của
gia đình Việt Nam, vừa kết hợp với những giá trị tiên tiến của gia đình
hiện đại để phù hợp với sự vận động phát triển tất yếu của xã hội. Tất cả
nhằm hướng tới thực hiện mục tiêu làm cho gia đình thực sự là tế bào
lành mạnh của xã hội, là tổ ấm của mỗi người.
4. Tiếp tục phát triển và nâng cao chất lượng phong trào xây dựng gia đình
văn hóa (đừng biến nó thành phong trào mà phải đi vào thực chất)
Phong trào xây dựng gia đình văn hóa đã thực sự tác động đến nền tảng
gia đình với những quy tắc ứng xử tốt đẹp, phát huy giá trị đạo đức
truyền thống của gia đình Việt Nam. Chất lượng cuộc sống gia đình ngày
càng được nâng cao. Do vậy, để phát triển gia đình Việt Nam hiện nay
cần tiếp tục nghiên cứu, nhân rộng xây dựng các mô hình gia đình văn
hóa trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa với những giá trị mới

18
tiên tiến cần tiếp thu và dự báo những biến đổi về gia đình trong thời kỳ
mới, đề xuất hướng giải quyết những thách thức trong lĩnh vực gia đình.
Tuy vậy, cần tránh xu hướng chạy theo thành tích, phản ánh không thực
chất phong trào và chất lượng gia đình văn hóa. Các tiêu chí xây dựng gia
đình văn hóa phải phù hợp và có ý nghĩa thiết thực với đời sống của nhân
dân, công tác bình xét danh hiệu gia đình văn hóa phải được tiến hành
theo tiêu chí thống nhất, trên nguyên tắc công bằng, dân chủ, đáp ứng
được nguyện vọng, tâm tư, tình cảm, tạo được sự đồng tình hưởng ứng
của nhân dân.
CÂU HỎI
1. So sánh những điểm giống và khác nhau của kiểu gia đình Việt Nam
truyền thống và gia đình Việt Nam hiện đại dựa trên những chức
năng cơ bản của gia đình và vai trò của các thành viên trong gia
đình?
- Sự biến đổi quan hệ hôn nhân:
+ Trước đây:
● Quan hệ vợ chồng - gia đình chặt chẽ
● Tỷ lệ ly hôn, ly thân, ngoại tình thấp
● Ít xuất hiện bi kịch, bạo hành, tệ nạn trong gia đình
● Gia đình đơn thân thấp
● Hôn nhân dễ dàng
+ Hiện nay:
- Quan hệ vợ chồng - gia đình ít chặt chẽ
- Tỷ lệ ly hôn, ly thân, ngoại tình tăng
- Xuất hiện nhiều bi kịch, bạo hành, tệ nạn trong gia
đình
- Gia đình đơn thân cao
- Hôn nhân khó khăn
- Sự biến đổi quan hệ vợ chồng:
+ Trước đây:
● Chồng là trụ cột gia đình
● Quyền lực thuộc đàn ông
● Đàn ông là chủ sở hữu tài sản
● Quyết định các công việc quan trọng là đàn ông
+ Hiện nay:
● Chồng không nhất thiết là trụ cột gia đình
● Quyền lực bình đẳng

19
● Sở hữu tài sản bình đẳng giữa các thành viên
● Quyết định các công việc quan trọng có sự bàn bạc giữa các
thành viên.)
2. Cho ví dụ cụ thể và phân tích để làm rõ luận điểm “Nhiều thông tin,
hiện tượng của xã hội thông qua lăng kính gia đình mà tác động tích
cực, hoặc tiêu cực đến sự phát triển của mỗi cá nhân về tư tưởng, đạo
đức, lối sống, nhân cách,.. vv”.
- Ngay từ khi sinh ra, gia đình có thể nói là nhà trường đầu tiên của mỗi cá
nhân. Trẻ em rất giỏi bắt chước người lớn, không phải ngẫu nhiên mà ta
nói “cha mẹ phải làm tấm gương sáng cho con cái noi theo”. Để giải thích
cho luận điểm này, có thể nói rắng “lăng kính” là cách tiếp cận các nguồn
thông tin cũng như truyền đạt lại nguồn thông tin ấy cho con cái. Cha mẹ
là người đi trước cũng như người có kinh nghiệm hơn cho nên việc
truyền đạt lại thông tin ấy theo hướng tiêu cực hay tích cực nằm ở bản
thân người làm cha làm mẹ ấy.
- Một ví dụ nhỏ thôi nhưng bao quát được luận điểm này đó là về việc xả
rác bừa bãi. Mặc dù luôn được dạy trên trường lớp rằng đây là một hành
vi sai và trái pháp luật, thế nhưng một số người vẫn thực hiện nó như một
việc đương nhiên. Và điều này xuất phát từ cách giáo dục con cái của mỗi
phụ huynh, mỗi gia đình xả rác bừa bãi: vốn ko tốt nhưng lại vẫn được
dạy. Hay là sự khác biệt giữa nếp sống của các gia đình đến từ nhiều
vùng miền, văn hóa khác nhau. Cùng hưởng một nền giáo dục nhưng thế
giới quan của mỗi cá nhân là khác nhau, phản ánh phần nào vai trò truyền
đạt của gia đình đối với sự phát triển nhân cách của con người.
3. Tại sao nói gia đình là 1 hình thức cộng đồng đặc biệt
- Theo định nghĩa thì cộng đồng xã hội là một lượng lớn người có những
dấu hiệu, đặc điểm xã hội chung về thành phần giai cấp, nghệ nghiệp, nơi
cư trú và đặc điểm sinh tụ → đáp ứng những yêu cầu đó nên ta gọi gia
đình là cộng đồng xã hội. Còn sở dĩ nói gia đình là cộng đồng xã hội “đặc
biệt” vì “gia đình chính là một tế bào của xã hội” → Gia đình có vai trò
quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội. “đặc biệt” ở đây còn
được thể hiện qua các mối quan hệ chặt chẽ giữa các thành viên trong gia
đình, trong mối quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết thống, bên cạnh đó
còn có quan hệ nuôi dưỡng và những mối quan hệ đó đều có trong khuôn
khổ của các quyền lợi và nghĩa vụ và điều đó cũng được quy định trong
luật pháp. Đơn cử là luật hôn nhân gia đình và luật trẻ em.)

20
4. Nạn tảo hôn, tác động như thế nào đến các chức năng cơ bản của gia
đình
- Chức năng tái sản xuất ra con người
+ Tảo hôn gây ảnh hưởng rất lớn cho sức khỏe. Nếu như bé gái
dưới 15 tuổi mang thai sẽ bị ảnh hưởng rất lớn thậm chí
nguy cơ chết do mang thai và sinh đẻ cao hơn những người
phụ nữ trên 20 tuổi. Và những đứa trẻ mới sinh ra thường có
khả năng cao nhẹ cân hoặc chết non
- Chức năng nuôi dưỡng, giáo dục
+ Môi trường giáo dục cũng không được đảm bảo khi nam nữ
kết hôn trước độ tuổi luật định bởi ở tuổi đó đáng lẽ cả hai
phải đi học nhưng phần lớn khi kết hôn họ sẽ mất cơ hội học
tập dẫn đến họ không được tiếp cận với những kiến thức
hiện đại với nền giáo dục tiên tiến. Vì thế, trẻ không nhận
thức được đầy đủ và đúng đắn về xã hội, cũng như các vấn
đề liên quan quan đến gia đình → không thể giáo dục con
cái đúng đắn và hiệu quả
- Chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng
+ Tảo hôn gây ảnh hưởng rất lớn đến kinh tế bởi ở độ tuổi đó
những khi phải lo cơm áo gạo tiền họ thường chỉ có cơ hội
tham gia vào lao lao động giản đơn, vì vậy không để đóng
góp hiệu quả cho nền sản xuất xã hội. Vì lao động giản đơn
với mức lương thấp nên cũng không đóng góp hiệu quả với
vai trò là đơn vị tiêu dùng xã hội.
- Chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, tình cảm
+ Tảo hôn gây ảnh hưởng rất lớn tới tinh thần bởi ở lứa tuổi đó
trẻ em thường được vui chơi giải trí phù hợp với lứa tuổi
nhưng khi kết hôn trẻ em sẽ không được thư giãn, nghỉ ngơi.
+ Nhiều trường hợp hôn nhân không dựa trên tình cảm → gia
đình không êm ấm, hòa thuận
5. Cho mình hỏi hôn nhân đồng giới có được chấp nhận là một kiểu gia
đình không? Và người ta thường cho rằng hôn nhân đồng giới là
nguyên nhân trực tiếp của cơ cấu dân số già cũng như các vấn đề xã
hội khác, bạn nghĩ sao về điều này?
- Trước đây Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 có quy định cấm hành vi
kết hôn giữa những người cùng giới tính, thậm chí còn có chế tài xử phạt
hành vi này, đó là phạt tiền từ 100.000 - 500.000 đồng. Tuy nhiên, xuất

21
phát từ thực tế xã hội, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã bỏ quy
định “cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính” mà chỉ không thừa
nhận mối quan hệ hôn nhân này. Theo đó, các bạn có thể tổ chức đám
cưới, sống chung với nhau như vợ chồng nhưng không được thực hiện
thủ tục đăng ký kết hôn tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Do đó,
quan hệ nhân thân giữa hai bạn sẽ không có bất cứ một ràng buộc nào về
mặt pháp lý, hơn nữa quan hệ tài sản giữa hai bạn “trong thời kỳ hôn
nhân” không được pháp luật bảo vệ. Vì vậy theo nhóm mình hôn nhân
đồng giới không được coi rằng là một kiểu gia đình.
- Về ý 2, nhóm chúng mình xin lấy ví dụ về tỷ lệ gia tăng dân số ở các
nước đã chấp nhận hôn nhân đồng giới như Đan Mạch. Năm 1989, Đan
Mạch là quốc gia đầu tiên trao sự công nhận hợp pháp cho các cặp đôi
đồng giới, dưới hình thức quan hệ đối tác đã đăng ký. Đến ngày 15 tháng
6 năm 2012, Đan Mạch công nhận hôn nhân đồng giới. Tại Đan Mạch,
tổng tỷ suất sinh giảm mạnh trong khoảng thời gian 1970-1980 nhưng lại
tăng và giữ ổn định suốt từ năm 1980 đến nay. Như vậy, sau 23 năm thừa
nhận kết đôi dân sự của người đồng tính và các quyền lợi của họ, dân số
Đan Mạch vẫn giữ ở mức ổn định. Như vậy, qua đây, nhóm chúng mình
muốn khẳng định rằng việc thừa nhận các hình thức chung sống của
người đồng giới, hay hôn nhân đồng giới không gây ra những thay đổi
nhân khẩu học, sự giảm suất trong tỷ lệ gia tăng dân số. Quan ngại về sự
diệt vong của xã hội nếu công nhận hôn nhân đồng giới càng không có cơ
sở vì tình trạng này chỉ xảy ra khi toàn bộ dân số trong xã hội là người
đồng tính và họ lựa kết hôn nhưng không sinh đẻ.Ngoài chia sẻ những giá
trị tương đồng, hôn nhân cùng giới cũng mang lại những giá trị tích cực
cho sự phát triển của xã hội và kinh tế Việt Nam. Theo kết quả nghiên
cứu từ Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chiến lược Việt Nam (VESS)
và Viện iSEE năm 2022 chỉ ra rằng việc hợp pháp hóa hôn nhân cùng
giới có thể mang lại cho Việt Nam từ 1.65% đến 4.36% gia tăng trong
GDP mỗi năm do kết quả của việc tăng năng suất lao động và tạo ra môi
trường làm việc dung nạp, hoà nhập hơn. Bên cạnh đó, việc công nhận
hôn nhân cùng giới cũng mang lại cho các ngành công nghiệp có liên
quan đến tổ chức tiệc cưới và xây dựng gia đình gia tăng trong doanh thu
từ 5.26% đến 12.36% so với trường hợp không công nhận.
6. Nguyên nhân sâu xa nào tạo ra sự chênh lệch về tỷ lệ sinh ở các quốc
gia phát triển và các quốc gia đang phát triển?

22
- Ở các nước phát triển, chế độ tư hữu khiến người dân bị áp lực quá mức
về vấn đề kinh tế, bên cạnh cơm áo gạo tiền, họ cũng cần được thỏa mãn
nhu cầu tinh thần → nếu lập gia đình thì vấn đề kinh tế sẽ nặng nề hơn,
họ sẽ phải hy sinh nhu cầu tinh thần để làm tròn trách nhiệm với gia đình.
Điều đó khiến người dân ở các nước phát triển có tâm lý sợ lập gia đình.
- Ngược lại ở các nước đang phát triển, người dân vẫn còn tâm lý ưa đông
con, và các quan hệ gia đình trong xã hội khiến họ cũng có nhu cầu lập
gia đình, sinh con để cái.
- Bên cạnh đó, hệ thống chính sách của các nước ảnh hưởng rất lớn tỷ lệ
sinh, nếu hệ thống chính sách có thể giúp cân bằng đời sống sản xuất, xã
hội của người dân thì họ có thể yên tâm lập gia đình, sinh con đẻ cái hơn
→ tăng tỷ lệ sinh. Tuy nhiên, để thực hiện được điều này không hề dễ
dàng, đòi hỏi nỗ lực rất lớn của nhà nước. Ngày nay, khi vai trò của đời
sống sản xuất lấn át vai trò của đời sống xã hội thì người dân có xu hướng
chăm lo phát triển kinh tế hơn là cân nhắc vấn đề sinh con, đẻ cái.
7. Sinh ra trong một gia đình đổ vỡ hôn nhân của cha mẹ liệu bản thân
có phát triển tốt hay không?
- Tâm lý học tin rằng sự rạn nứt trong hôn nhân của cha mẹ thực sự có thể
gây ra mức độ tổn thương tâm lý khác nhau cho tâm lý của đứa trẻ,
nhưng nó không nghiêm trọng như chúng ta nghĩ. Chìa khóa của vấn đề
là liệu cha mẹ có cung cấp cho con cái của họ đủ tình yêu và sự quan tâm
sau khi ly hôn hay không. Nếu như người cha và mẹ không chọn cách ly
hôn và tiếp tục sống với nhau dù không còn tình cảm thì đứa trẻ sẽ nhận
thấy rõ được điều đó (rằng gia đình của nó không hoàn toàn hạnh phúc).
Cảm xúc tiêu cực đó của ba mẹ tạo nên tâm lý bất ổn cho đứa trẻ. Ngược
lại, nếu ba mẹ chọn ly hôn và sau đó trấn an đứa trẻ cũng như chăm sóc
tinh thần cho trẻ đầy đủ thì trẻ sẽ phát triển tốt và trở thành công dân tốt
cho xã hội như bao đứa trẻ có đầy đủ gia đình khác.

23

You might also like