You are on page 1of 32

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC DUY TÂN


KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
----------

BÀI TIỂU LUẬN


MÔN HỌC: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

ĐỀ TÀI: LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIA ĐÌNH-LIÊN HỆ VỚI


THỰC TRẠNG GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

GVHD: TH.S NGUYỄN THỊ HẢI LÊN


LỚP: POS 351 AE
SINH VIÊN THỰC HIỆN:
ĐOÀN THỊ MỸ LY (MSSV: 29204662056)
NGUYỄN KHÁNH LY (MSSV: 29206754533)
HÀ NGUYỄN NY NA (MSSV: 29206757682)
NGÔ NGUYỄN YẾN NHI (MSSV: 29206751121)
TRỊNH HOÀI THƯƠNG (MSSV: 29206755507)
PHAN LINH TRANG (MSSV: 29206739103)

ĐÀ NẴNG, 2023
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...................................................................................................... 3

I. Tính cấp thiết của đề tài........................................................................ 3

II. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.........................................................4

III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu..........................................................4

IV. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.............................................4

V. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của đề tài....................................................4

NỘI DUNG.................................................................................................. 6

Phần I: Lý luận................................................................................................. 6

Phần II: Liên hệ thực tiễn và liên hệ bản thân.................................................18

KẾT LUẬN............................................................................................... 28

TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................ 29

2
MỞ ĐẦU
I. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI

Gia đình là môi trường quen thuộc với mọi người và bất kỳ cá nhân nào cũng
có thể trực tiếp tham gia vào quá trình tạo dựng và xây dựng gia đình. Mỗi gia
đình được coi là một tế bào của xã hội, bao gồm nhiều lĩnh vực phong phú nhưng
phức tạp, đầy mâu thuẫn, biến động. Vì vậy, gia đình là vấn đề quan trọng được
toàn thể nhân loại, các dân tộc trong thời xa xưa cũng như hiện đại, cả trong và
ngoài nước quan tâm. Nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
việc thực hiện quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa thực chất là sự thay đổi
toàn diện, căn bản trong hoạt động sản xuất và hoạt động quản lý kinh tế. Cùng
với sự phát triển của mọi mặt của xã hội, những vấn đề mới cũng nảy sinh, trong
đó vấn đề gia đình cũng có nhiều biến đổi phức tạp. Bên cạnh những thay đổi tích
cực, các gia đình Việt Nam ngày nay cũng đang phải đối mặt với nhiều vấn đề
tiêu cực do tác động to lớn của kinh tế, chính trị đất nước. , văn hóa và xã hội.
Vì vậy, việc lựa chọn đề tài nghiên cứu “Lý luận tổng quát về gia đình và mối
quan hệ của nó với thực trạng gia đình Việt Nam” không chỉ có ý nghĩa lý luận
mà còn có giá trị thực tiễn cao, là đề tài nghiên cứu cần thiết nhằm giải quyết
những vấn đề nóng hổi hiện nay của người Việt Nam. các gia đình. . Giải quyết
vấn đề gia đình là bước tiến lớn trong việc giải quyết các điểm yếu của xã hội, nó
không chỉ tạo tiền đề cho sự phát triển của xã hội mà còn cho sự phát triển kinh
tế, chính trị của đất nước.

II. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU


2.1. Mục đích nghiên cứu:
Mục đích của đề tài nghiên cứu là làm sang rõ những lý luận chung của chủ
nghĩa xã hội khoa học về vấn đề gia đình, và liên hệ với sự biến đổi chức năng

3
trong gia đình, trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cùng những
vấn đề thực trạng gia đình ở nước ta hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Giải quyết phân tích lý luận chung về gia đình: làm rõ khái niệm, chức năng,
vai trò của gia đình và cơ sở xay dựng gia đình trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa
xã hội.
- Phân tích những biến đổi cụ thể của chức năng gia đình trong thời kì quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay; xác định nguyên nhân, hệ quả tác động
của sự thay đổi đó.
- Liên hệ tới thực trạng gia đình ở Việt Nam hiện nay với đa dạng các vấn đề
“nóng” phức tạp đã thu hút sự quan tâm của toàn xã hội thời gian qua như vấn đề
hôn nhân, đạo đức trong gia đình, hay quan hệ gia đình,…
- Đánh giá quan điểm cá nhân của bản than về vấn đề hôn nhân, gia đình của
cộng đồng LGBT.
III. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Tiểu luận nghiên cứu về gia đình và những vấn đề liên quan trong thời kì quá độ
lên chủ nghĩa xã hội. Phạm vi nghiên cứu giới hạn trong những vấn đề gia đình
xảy ra ở Việt Nam từ khi đất nước bắt đầu đổi mới kinh tế, chính trị, bước vào thời
kì quá độ đi lên xã hội chủ nghĩa (năm 1986) cho đến hiện nay.
IV. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Tiểu luận nghiên cứu về vấn đề gia đình dựa trên những lý luận chung của chủ
nghĩa xã hội khoa học và những cơ sở đã được đặt nhằm xây dựng gia đình trong
thời kì quá độ lên xã hội chủ nghĩa.
Các phương pháp phân tích tài liệu, đánh giá, tổng hợp, khái quát hóa thông
tin tổng hợp và liên hệ các vấn đề liên quan để làm rõ vấn đề cần tìm hiểu đã
được sử dụng trong quá trình hoàn thành tiểu luận. Đồng thời, các phương pháp
logic, so sánh, đối chiếu những vấn đề cần tìm hiểu trong từng giai đoạn, thời kì

4
lịch sử cụ thể cũng được vận dụng nhằm tăng tính khách quan, bao quát cho đề
tài.
V. Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
Về mặt lý luận, đề tài nghiên cứu làm rõ, đầy đủ những lý luận chung về vấn đề
gia đình và những cơ sở lý luận xây dựng gia đình trong thời kì quá độ lên xã hội
chủ nghĩa.
Về mặt thực tiễn, đề tài phân tích, nghiên cứu tác động, nguyên nhân sự biến
đổi chức năng gia đình và thực trạng một số vấn đề gia đình ở Việt Nam, từ đó đề
xuất giải pháp phù hợp cho quá trình xây dựng gia đình hiện nay.

5
NỘI DUNG
PHẦN I: LÝ LUẬN

1.1. Khái niệm gia đình:


Gia đình là một tổ chức xã hội được hình thành từ rất sớm trong lịch sử loài
người. Ngay từ đầu lịch sử, khi con người bắt đầu tổ chức cuộc sống thành một
cộng đồng độc lập, đó cũng là lúc mô hình cộng đồng nhỏ - hình thức nguyên thủy
của gia đình - ra đời. Vì vậy, gia đình là một hình thức cộng đồng xã hội đặc biệt,
trong đó mọi người gắn kết với nhau trên cơ sở quan hệ hôn nhân, huyết thống,
con nuôi và quy định các quyền, nghĩa vụ của các thành viên trong gia đình đối
với nhau.

Hiện nay, chưa có sự thống nhất về định nghĩa gia đình, thậm chí còn có nhiều
mâu thuẫn. Hầu hết các khái niệm chỉ dừng lại ở những khái niệm phổ biến nhất
về các kiểu gia đình lịch sử và không bao gồm những hình thức gia đình mới xuất
hiện trong xã hội hiện đại ngày nay như gia đình, hộ gia đình một người.

1.2. Các hình thức gia đình hiện nay

Dựa vào quy mô, gia đình được chia thành hai loại chính, đó là gia đình nhỏ -
gia đình hạt nhân và gia đình lớn – gia đình đa thế hệ.

1.2.1. Gia đình hạt nhân

Gia đình hạt nhân là gia đình gồm hai thế hệ cùng chung sống dưới một mái
nhà, gồm vợ chồng và con cái nên có thể có gia đình trọn vẹn và gia đình không
trọn vẹn. Gia đình trọn vẹn bao gồm tất cả các mối quan hệ: vợ, chồng, con cái;

6
ngược lại, gia đình không trọn vẹn là gia đình chỉ có mối quan hệ giữa vợ và
chồng, hoặc chỉ có mối quan hệ giữa cha, mẹ và con cái.

Các gia đình ở Việt Nam đã trải qua nhiều thay đổi trong những thập kỷ gần
đây: cha mẹ già không còn sống chung nhà với con cái mà ngày càng thích sống tự
lập và duy trì mối quan hệ thân thiết với con cái. Tuy nhiên, những thay đổi này
không phải do ảnh hưởng của văn hóa phương Tây mà chủ yếu là do những thay
đổi về kinh tế - xã hội và điều kiện sống ở Việt Nam. Gia đình hạt nhân sẽ tiếp tục
là mô hình thống trị và ngày càng trở nên phổ biến nhất là khi dịch vụ xã hội chăm
quan tới dạng gia đình trong quá khứ, là một tập hợp nhóm người ruột thịt của một
vài thế hệ sống chung với nhau dưới một mái nhà, thường từ ba thệ hệ trở lên,
trong phạm vi của nó còn có cả những người ruột thịt từ tuyến phụ.
Cấu trúc của gia đình mở rộng cũng thay đổi cùng với những biến đổi của xã
hội. Dạng cổ điển của gia đình mở rộng có đặc tính tổ chức chặt chẽ, là liên kết
của ít nhất là vài gia đình nhỏ và những người lẻ loi và các thành viên trong gia
đình được xếp đặt trật tự theo ý muốn của người lãnh đạo gia đình mà thường là
người đàn ông cao tuổi nhất trong gia đình. Ngày nay, do nhiều sự biến động của
điều kiện kinh tế - xã hội mà gia đình mở rộng thường gồm một cặp vợ chồng,
con cái và bố mẹ của họ và trong gia đình này, quyền hành không ở trong tay của
người lớn tuổi nhất.
Ngoài ra, trên thế giới hiện nay và cả ở Việt Nam hiện nay vẫn còn một số
dạng gia đình không phổ biến như: hộ gia đình một người, gia đình một thế hệ
(chỉ gồm một cặp vợ chồng),…
1.3. Vị trí của gia đình trong xã hội
1.3.1. Gia đình là tế bào của xã hội
Gia đình là khối xây dựng cơ bản, tự nhiên của mọi cộng đồng và xã hội. Gia
đình có vai trò cốt lõi trong cuộc sống của mỗi người, là nơi đảm bảo đời sống vật
chất và tinh thần của mỗi cá nhân, là một trong những giá trị xã hội quan trọng
nhất của người dân Châu Á, trong đó có Việt Nam. Đối với mỗi quốc gia, gia đình

7
được coi là “tế bào xã hội sản xuất”. Vì vậy, sức mạnh bền vững của dân tộc, dân
tộc phụ thuộc rất lớn vào sự tồn tại và phát triển của gia đình.Đối với bất kỳ giai
đoạn phát triển xã hội nào, sự ổn định, vững chắc của nền tảng gia đình cũng sẽ là
yếu tố quyết định sự thịnh vượng của đất nước. Vì vậy, chú trọng đến yếu tố gia
đình là hướng đi đúng đắn để tạo dựng một xã hội ổn định, bền vững. Điều này
càng rõ ràng hơn khi chúng ta nhận thức đầy đủ về địa vị, vai trò, chức năng của
gia đình trong xã hội ngày nay. Như Karl Marx đã nói: “…con người tái tạo cuộc
sống của mình mỗi ngày, bắt đầu tạo ra những người khác, nhân lên, nhân lên – đó
là mối quan hệ giữa vợ chồng, cha mẹ và con cái. Con cái, đây là gia đình”. Yếu tố
tình cảm là đặc điểm cơ bản nhất của gia đình. Tuy nhiên, nhìn từ góc độ rộng hơn
và toàn diện hơn, gia đình không chỉ là đơn vị tâm lý - tình cảm mà còn là tổ chức
kinh tế - tiêu dùng, môi trường giáo dục - văn hóa, thiết chế xã hội có cấu trúc đặc
biệt. Tất cả những đặc điểm này cho thấy gia đình có vai trò vô cùng quan trọng
đối với sự phát triển của toàn xã hội.
Vậy nên gia đình có vai trò quyết định đối với sự tồn tại, vận động và phát
triển của xã hội, nếu không có gia đình để tái sản xuất con người thì xã hội không
thể tồn tại và phát triển vì sản xuất ra hàng tiêu dùng. Tạo ra đơn vị cơ bản của cơ
thể - xã hội. Vì vậy, muốn có một xã hội lành mạnh, chúng ta phải chú trọng xây
dựng những gia đình tốt đẹp. Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng của gia đình đến xã
hội ở mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, tùy thuộc vào bản chất của từng chế độ xã
hội và chính sách của giai cấp thống trị. Các mối quan hệ xã hội và quan hệ gia
đình hạn chế rất nhiều ảnh hưởng của gia đình đối với xã hội, xây dựng một xã hội
quan tâm đến sự bình đẳng, gia đình hạnh phúc là một nội dung rất quan trọng
trong việc hoàn thiện cách mạng xã hội chủ nghĩa.’’Gia đình là tế bào của xã hội ”.
Chúng ta luôn tin vào điều này và điều này đúng bất kể hoàn cảnh hay xã hội nào.
Đó là mối quan hệ chặt chẽ giữa gia đình và xã hội, giống như một sự tương tác
hữu cơ mang tính trao đổi chất duy trì sự sống của con người. Một xã hội (thân
thể) lành mạnh tạo điều kiện cho gia đình tiến bộ, gia đình hạnh phúc (tế bào) góp
phần vào sự phát triển hài hòa của xã hội.

8
1.3.2. Gia đình là tổ ấm mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hòa trong
đời sống của mỗi cá nhân thành viên.
Gia đình là mái ấm yêu thương mang lại hạnh phúc cho mọi người. Mọi
người đều gắn bó mật thiết với gia đình mình trong suốt cuộc đời, từ lúc còn trong
bụng mẹ cho đến lúc chào đời. Trong gia đình, mọi người đều được bảo vệ về vật
chất và giáo dục tinh thần, con cái có điều kiện lớn lên an toàn, người già có chỗ
dựa, người lao động có điều kiện phục hồi sức khỏe và được an ủi tinh thần... Ở
đó, những chuyện xảy ra hằng ngày giữa con người với nhau. Các mối quan hệ, vợ
chồng, cha con, anh chị em...những người cùng chí hướng, đồng cảm và hỗ trợ
nhau trong suốt cuộc đời. Khi đó, gia đình chính là ngôi nhà thực sự của mỗi
người.Gia đình là môi trường phát triển tốt nhất cho mọi người, nơi mọi thành
viên đều được yêu thương, nuôi dưỡng, chăm sóc, trưởng thành và phát triển. Sự
hòa thuận, hạnh phúc của gia đình là điều kiện tiên quyết, quan trọng cho sự phát
triển toàn diện nhân cách, thể lực, trí tuệ của mỗi thành viên, trở thành công dân
ưu tú của xã hội. Chỉ trong môi trường gia đình hòa thuận, mọi người mới có thể
cảm thấy bình yên, hạnh phúc và có động lực làm việc chăm chỉ để trở thành
người xã hội xuất sắc.
1.3.3. Gia đình là cầu nối giữa cá nhân và xã hội
Có một nơi để về - và đó là nhà. Có người yêu thương - đó là hạnh phúc. Có
được cả hai - đó là gia đình. Gia đình là tổ ấm yêu thương nhất, hạnh phúc nhất và
an toàn nhất trong cuộc đời mỗi người. Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu đã dạy khi
còn sống: “Phải quý trọng gia đình. , nhiều gia đình tạo nên xã hội. Xã hội tốt thì
gia đình tốt. Gia đình tốt thì xã hội tốt ‘’. Cốt lõi của xã hội là gia đình. Gia đình là
cộng đồng xã hội đầu tiên đáp ứng nhu cầu quan hệ xã hội của mỗi cá nhân và là
môi trường đầu tiên con người tiếp xúc và phát triển các mối quan hệ xã hội. Vì
vậy, gia đình cũng là một trong những cộng đồng được xã hội tác động đến mỗi cá
nhân, là cầu nối để mỗi cá nhân nhận được sự giáo dục, chăm sóc, các mối quan
hệ xã hội, quyền lợi và nghĩa vụ. Nhiều thông tin, hiện tượng xã hội lọt qua lăng

9
kính gia đình, có tác động tích cực hoặc tiêu cực đến tư tưởng đạo đức, lối sống,
sự phát triển nhân cách của mỗi người.
1.4. Chức năng cơ bản của gia đình
Chức năng cơ bản của gia đình là vai trò cơ bản của gia đình mà vai trò đó làm
cơ sở cho toàn bộ sự hoạt động và phát triển của gia đình. Từ lâu người ta đã coi
gia đình là tế bào của xã hội. Tế bào gia đình khỏe mạnh, xã hội sẽ lành mạnh, mọi
người đều có cơ hội phát triển và hưởng hạnh phúc. Tế bào gia đình lỏng nẻo,
không đảm đương tốt các vai trò và chức năng của mình, xã hội có nguy cơ xáo
động ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống vật chất và tinh thần của mọi thành viên
trong xã hội. Vì vậy việc củng cố nền tảng gia đình là phải thực hiện tốt các chức
năng cơ bản và đó luôn là mối quan tâm của các quốc gia trên thế giới. Chúng ta
cần hiểu rõ trong xã hội, gia đình có các chức năng cơ bản sau:
1.4.1. Chức năng sinh sản-tái sản xuất con người

Gia đình bắt đầu hình thành khi thực hiện nhu cầu hôn nhân (trong đó có tình
dục giữa cha và mẹ - hai nhân vật chính đầu tiên kiến tạo nên gia đình), từ đó thực
hiện chức năng sinh con đẻ cái, duy trì nòi giống, tái sản xuất ra con người. Tái
sản xuất ra con người theo nghĩa hẹp là sinh con đẻ cái, theo nghĩa rộng bao hàm
cả nuôi dưỡng và giáo dục của gia đình.

Xã hội tồn tại và phát triển dựa trên hai cơ sở quan trọng là tái sản xuất ra của
cải vật chất và tái sản xuất ra chính bản thân con người. Sự tồn tại của loài người
phụ thuộc vào quá trình tái sản xuất này của gia đình. Việc tái sản xuất ra thế hệ
tương lai, một mặt đáp ứng yêu cầu cung cấp lực lượng lao động mới cho xã hội,
mặt khác đáp ứng và thỏa mãn nhu cầu của chính gia đình. Con cái trở thành chỗ
dựa, nguồn tình cảm của ông bà, cha mẹ và của cả dòng tộc.
1.4.2. Chức năng nuôi dưỡng, giáo dục
Gia đình là nơi nuôi dưỡng và trường học đầu tiên tác động đến con người về
nhiều mặt (thể chất, văn hóa, trí tuệ, xã hội, lao động…).

10
Giáo dục xã hội và giáo dục nhà trường là những yếu tố quyết định để định
hướng sự phát triển nhân cách. Tuy nhiên, giáo dục gia đình lại có vai trò quan
trọng đầu tiên trong việc hình thành và phát triển nhân cách cá nhân. Nội dung
giáo dục gia đình bao gồm các yếu tố của văn hóa gia đình, văn hóa cộng đồng,
nhằm tạo lập và phát triển nhân cách của con người như: đạo đức, lối sống, ứng
xử, tri thức, lao động và khoa học. Giáo dục gia đình được thực hiện trong suốt
quá trình sống của con người với những hình thức và nội dung giáo dục cụ thể,
phong phú. Mỗi thành viên trong gia đình đều có vị trí, vai trò nhất định, vừa là
chủ thể vừa là khách thể trong việc nuôi dưỡng, giáo dục của gia đình.
Chức năng giáo dục thể hiện tình cảm thiêng liêng, trách nhiệm của cha mẹ
với con cái cũng như trách nhiệm của gia đình với xã hội. Thực hiện tốt chức năng
nuôi dưỡng, giáo dục, đòi hỏi mỗi người làm cha, làm mẹ phải có kiến thức cơ
bản, tương đối toàn diện về mọi mặt: tri thức, kinh nghiệm, đạo đức, lối sống,
nhân cách, thẩm mỹ,... Phương pháp giáo dục gia đình khá đa dạng, phổ biến với
phương pháp nêu gương, thuyết phục về lối sống, gia phong của gia đình truyền
thống.
1.4.3. Chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng
Cùng với quá trình phát triển lực lượng sản xuất, gia đình trở thành một đơn
vị kinh tế. Gia đình là một đơn vị có chung tài sản, trước hết về mặt vật chất và
sáng tạo ra các tài sản đó thông qua hành vi sản xuất, làm kinh tế. Đây là một nền
tảng vật chất không thể thiếu của gia đình. Tất nhiên, mức độ biểu hiện của chức
năng này rất khác nhau trong tiến trình lịch sử. Đây cũng là chức năng nhằm đảm
bảo sự tồn tại và phát triển của mỗi gia đình, góp phần vào sự phát triển toàn xã
hội. Lao động của mỗi thành viên gia đình hoặc hoạt động kinh tế của gia đình
nhằm tạo ra nguồn lợi đáp ứng các nhu cầu đời sống vật chất (ăn, ở, đi lại) lẫn nhu
cầu tinh thần (học hành tiếp cận thông tin, vui chơi giải trí). Gia đình còn là đơn vị
tiêu dùng, việc tiêu dùng sản phẩm hàng hóa dịch vụ trong xã hội đã tác động vào
sản xuất, tiền tệ, thúc đẩy kinh tế đất nước phát triển. Gia đình là một thực thể xã

11
hội, sự tồn tại của nó được xã hội thừa nhận. Như vậy bản thân gia đình đã mang
một giá trị xã hội. Chính các chức năng của gia đình mới đem lại cho nó một giá
trị đích thực. Cho đến nay các chức năng cơ bản của gia đình vẫn còn giữ nguyên
giá trị. Sự thừa nhận các chức năng của gia đình tức là đã thừa nhận gia đình là
một giá trị trong xã hội.
Gia đình thực hiện chức năng tổ chức tiêu dùng hàng hóa để duy trì đời sống
của gia đình về lao động sản xuất cũng như các sinh hoạt trong gia đình.Việc tổ
chức đời sống gia đình chính là việc sử dụng hợp lý các khoản thu nhập và thời
gian của các thành viên để tạo ra môi trường văn hóa lành mạnh trong gia đình,
đời sống vật chất của mỗi thành viên được đảm bảo, sức khỏe được nâng cao,
đồng thời duy trì sắc thái, sở thích riêng của mỗi người.
Theo từng giai đoạn phát triển của xã hội thì chức năng kinh tế của gia đình
có sự khác nhau về quy mô sản xuất, sở hữu tư liệu sản xuất, cách thức tổ chức sản
xuất và phân phối. Vị trí, vai trò của kinh tế gia đình và mối quan hệ của nó với
các đơn vị kinh tế khác trong xã hội cũng không hoàn toàn giống nhau.
1.4.4. Chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lí, duy trì tình cảm trong
gia đình
Trong quá trình sống của con người, nhiều vấn đề tâm - sinh lý thuộc giới
tính, thế hệ... luôn diễn ra trong phạm vi gia đình mà trước hết là trong quan hệ
giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con cái. Bởi vậy, sự hiểu biết tâm - sinh lý cá
nhân, sở thích của nhau để ứng xử phù hợp, tế nhị, chân thành, tạo nên không khí
tinh thần lành mạnh, ổn định, hài hòa là vấn đề quan trọng mà gia đình phải và có
thể đảm nhận.
Nhờ vào quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết thống nên thành viên gia đình có
tình yêu thương và ý thức, trách nhiệm với nhau. Chính vì vậy, gia đình là nơi để
mỗi được chăm sóc cả về vật chất lẫn tinh thần, được thỏa mãn nhu cầu tình cảm,
cân bằng tâm lý, giải tỏa ức chế... từ các quan hệ xã hội.

12
Không phải ngẫu nhiên người ta gọi gia đình với cách gọi yêu thương, trìu
mến, ấm áp. Trong gia đình người già được chăm sóc khỏe mạnh, vui vẻ lạc quan,
truyền lại cho con cháu vốn sống, cách ứng xử đẹp. Nơi đó, con cái biết yêu kính,
vâng lời cha mẹ, vợ chồng quan tâm chia sẻ vui buồn cực nhọc với nhau... Ở đó,
mỗi người cảm nhận được sự gần gũi, thân thương từ khoảng sân, mái nhà, chiếc
giường... đến những quan hệ họ hàng thân thiết.
Khi một thành viên gặp biến cố, gia đình, dòng họ sẽ có sự quan tâm, chia sẻ
và có sự giúp đỡ để niềm vui được nhân đôi, nỗi buồn được vơi đi một nửa. Điều
đó sẻ tạo nên sợi dây vô hình nhưng bền chặt kết nối nghĩa tình những người trong
gia đình, dòng họ, thân tộc lại với nhau. Mối quan hệ đồng bào cũng từ đó mà hình
thành trong làng xóm, trong xã hội, trở thành nền tảng của tình yêu quê hương, đất
nước, con người.
Như vậy, gia đình là thiết chế đa chức năng. Thông qua việc thực hiện các vai
trò, chức năng trên đây mà gia đình tồn tại và phát triển, đồng thời tác động đến
tiến độ chung của cộng đồng (làng, xã, khu phố...) và xã hội. Các chức năng thực
hiện trong sự thúc đẩy, hỗ trợ lẫn nhau. Dĩ nhiên, việc phân chia các chức năng
của gia đình chỉ là tương đối. ở các giai đoạn lịch sử khác nhau, những nội dung
của mỗi chức năng được biến đổi phù hợp với những điều kiện cụ thể, với quá
trình phát triển xã hội. Do đó, trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH nhằm sớm
đưa nước ta trở thành một nước phát triển thì việc xây dựng gia đình có vai trò hết
sức quan trọng và cần được các cấp, các ngành và các địa phương quan tâm, cũng
như có chính sách phù hợp cho sự phát triển tiến bộ, công bằng và thịnh vượng
của gia đình.
1.5. Cơ sở xây dựng gia đình thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam hiện nay
1.5.1. Cơ sở kinh tế- xã hội:
Cơ sở kinh tế – xã hội để xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội là sự phát triển của lực lượng sản xuất và tương ứng trình độ của lực lượng

13
sản xuất là quan hệ sản xuất mới, xã hội chủ nghĩa. Cốt lõi của quan hệ sản xuất mới
ấy là chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa đối với tư liệu sản xuất từng bước hình thành
và củng cố thay thế chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Nguồn gốc của sự áp
bức bóc lột và bất bình đẳng trong xã hội và gia đình dần dần bị xóa bỏ, tạo cơ sở
kinh tế cho việc xây dựng quan hệ bình đẳng trong gia đình và giải phóng phụ nữ
trong trong xã hội.
V.I.Lênnin đã viết: “Bước thứ hai và là bước chủ yếu là thủ tiêu chế độ tư hữu
về ruộng đất, công xưởng và nhà máy. Chính như thế và chỉ có như thế mới mở
được con đường giải phóng hoàn toàn và thật sự cho phụ nữ, mới thủ tiêu được “chế
độ nô lệ gia đình” nhờ có việc thay thế nền kinh tế gia đình cá thể bằng nền kinh tế
xã hội hóa quy mô lớn”.
Xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất là xóa bỏ nguồn gốc gây nên tình
trạng thống trị của người đàn ông trong gia đình, sự bất bình đẳng giữa nam và nữ,
giữa vợ và chồng, sự nô dịch đối với phụ nữ. Bởi vì sự thống trị của người đàn ông
trong gia đình là kết quả sự thống trị của họ về kinh tế, sự thống trị đó tự nó sẽ tiêu
tan khi sự thống trị về kinh tế của đàn ông không còn. Xóa bỏ chế độ tư hữu về tư
liệu sản xuất đồng thời cũng là cơ sở để biến lao động tư nhân trong gia đình thành
lao động xã hội trực tiếp, người phụ nữ dù tham gia lao động xã hội hay tham gia
lao động gia đình thì lao động của họ đóng góp cho sự vận động và phát triển, tiến
bộ của xã hội. Như Ph.Ăngghen đã nhấn mạnh: “Tư liệu sản xuất chuyển thành tài
sản chung, thì gia đình cá thể sẽ không còn là đơn vị kinh tế của xã hội nữa. Nền
kinh tế tư nhân biến thành một ngành lao động xã hội. Việc nuôi dạy con cái trở
thành công việc của xã hội”. Do vậy, phụ nữ có địa vị bình đẳng với đàn ông trong
xã hội. Xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất cũng là cơ sở làm cho hôn nhân
được thực hiện dựa trên cơ sở tình yêu chứ không phải vì lý do kinh tế, địa vị xã hội
hay một sự tính toán nào khác.
1.5.2. Cơ sở chính trị- xã hội:

14
Cơ sở chính trị để xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
là việc thiết lập chính quyền nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động, nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trong đó, lần đầu tiên trong lịch sử, nhân dân
lao động được thực hiện quyền lực của mình không có sự phân biệt giữa nam và
nữ. Việt Nam chúng ta thiết lập chế độ dân chủ cộng hòa sau CMT8 1945, sau đó
thì Hiến pháp 1946 ra đời, đã ban bố quyền tự do dân chủ, quyền bầu cử ứng cử
không hề phân biệt tôn giáo, nam nữ, dân tộc.
=> Tiến bộ và văn minh. (của dân, do dân, vì dân) Bình đẳng trong xã hội
là cơ sở của bình đẳng trong gia đình.
Nhà nước cũng chính là công cụ xóa bỏ những luật lệ cũ kỹ, lạc hậu, đè nặng
lên vai người phụ nữ đồng thời thực hiện việc giải phóng phụ nữ và bảo vệ hạnh
phúc gia đình. Và việc thực hiện thành công giải phóng phụ nữ trong Cách mạng
Tháng Mười Nga, từ lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là
cơ sở quan trọng để Đảng ta đề ra những quan điểm, chủ trương, Nhà nước đề ra
đường lối, chính sách pháp luật về giải phóng phụ nữ, về bình đẳng giới.
Tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào các vị trí quản lý, lãnh đạo nhằm từng
bước giảm dần khoảng cách giới trong lĩnh vực chính trị, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực nữ, từng bước bảo đảm sự tham gia bình đẳng giữa nam và nữ
trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo. Bảo đảm bình đẳng giới trong lĩnh vực văn hóa
và thông tin, bảo đảm bình đẳng giới trong đời sống gia đình, từng bước xóa bỏ
bạo lực trên cơ sở giới…
Nhà nước xã hội chủ nghĩa ban hành pháp luật liên quan đến gia
đình, đặc biệt là luật mới như Luật Hôn nhân và gia đình 2014 và Luật Phòng
chống bạo lực gia đình cùng với hệ thống chính sách xã hội đảm bảo lợi ích của
công dân, các thành viên trong gia đình, đảm bảo sự bình đẳng giới, chính sách
dân số, việc làm, y tế, bảo hiểm xã hội….Hệ thống pháp luật và chính sách xã hội
đó vừa định hướng vừa thúc đẩy quá trình hình thành gia đình mới trong thời kỳ
quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Chừng nào và ở đâu, hệ thống chính sách, pháp

15
luật chưa hoàn thiện thì việc xây dựng gia đình và đảm bảo hạnh phúc gia đình
còn hạn chế.
1.5.3. Cơ sở văn hóa:
Cơ sở văn hóa cho việc xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội chính là nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa, vừa kế thừa những giá trị văn
hóa dân tộc và nhân loại tốt đẹp, vừa sáng tạo những giá trị văn hóa mới. Những
giá trị văn hóa được xây dựng trên nền tảng hệ tư tưởng chính trị của giai cấp công
nhân từng bước hình thành và dần dần giữ vai trò chi phối nền tảng văn hóa, tinh
thần của xã hội, đồng thời chống lại những quan điểm không đúng, những hiện
tượng không đúng về hôn nhân, những cổ hủ của gia đình cũ. Ví dụ như trọng nam
khinh nữ, tư tưởng phụ quyền gia trưởng của người đàn ông trong gia đình, tư
tưởng dần được thay đổi vì tư tưởng đã ăn sâu vào tiềm thức của con người và cần
thời gian để cải thiện bằng các kiến thức mới như Luật Hôn nhân và gia đình, Luật
Phòng chống bạo lực gia đình, và Luật Bình đẳng giới được Quốc hội thông qua
ngày 29/11/2006 và có hiệu lực ngày 01/7/2007. Vì vậy thời kì 4.0 hiện nay vẫn
còn tồn đọng những suy nghĩ lạc hậu, những định kiến Trọng nam khinh nữ, tư
tưởng phu quyền gia trưởng. Những quy định, điều lệ trong này chính là kim chỉ
nam để hướng tới mục tiêu xóa bỏ phân biệt đối xử về giới, tạo cơ hội như nhau
cho namvà nữ trong phát triển kinh tế – xã hội và phát triển nguồn nhân lực, tiến
tới bình đẳng giới thực chất giữa nam, nữ và thiết lập, củng cố quan hệ hợp tác, hỗ
trợ giữa nam, nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình.
Phát triển hệ thống giáo dục, đào tạo, khoa học và công nghệ nâng cao trình
độ dân trí,kiến thức khoa học, công nghệ của xã hội, cho các thành viên trong gia
đình. Kiến thứcmới ở đây là các kiến thức về gia đình, kiến thức ứng xử giữa các
thành viên trong giađình, hiểu biết được luật từ đó sẽ giảm thiểu vi phạm pháp
luật, từ đó sẽ hình thành giá trị chuẩn mực mới tốt đẹp.
1.5.4. Thực hiện chế độ hôn nhân tiến bộ:
*Hôn nhân tự nguyện:

16
Hôn nhân tiến bộ là hôn nhân xuất phát từ tình yêu giữa nam và nữ và tất yếu
dẫn đến hôn nhân tự nguyện. Hôn nhân tự nguyện là đảm bảo cho nam nữ có
quyền tự do trong việc lựa chọn người kết hôn, không chấp nhận sự áp đặt của cha
mẹ. Sẽ không còn những tư tưởng cổ hủ như Cha mẹ đặt đâu thì con ngồi đó nữa,
Tuy nhiên hiện nay có những phong tục rất cổ hủ như Tục Bắt vợ của người Mèo,
ngủ thử 5 ngày mới được cưới, lễ bắt chồng ở Tây Nguyên. Tất nhiên, hôn nhân tự
nguyện không bác bỏ việc cha mẹ quan tâm, hướng dẫn giúp đỡ con cái có nhận
thức đúng, có trách nhiệm trong việc kết hôn.
Hôn nhân tiến bộ còn bao hàm cả quyền tự do ly hôn khi tình yêu giữa nam và
nữ không còn nữa. Tuy nhiên, hôn nhân tiến bộ không khuyến khích việc ly hôn,
vì ly hôn để lại hậu quả nhất định cho xã hội, cho cả vợ, chồng và đặc biệt là con
cái. Vì vậy, cần ngăn chặn những trường hợp nông nổi khi ly hôn, ngăn chặn hiện
tượng lợi dụng quyền ly hôn và những lý do ích kỷ hoặc vì mục đích vụ lợi.
*Hôn nhân một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng :
Bản chất của tình yêu là không thể chia sẻ được, nên hôn nhân một vợ một
chồng là kết quả tất yếu của hôn nhân xuất phát từ tình yêu. Thực hiện hôn nhân
một vợ một chồng là điều kiện đảm bảo hạnh phúc gia đình, đồng thời cũng phù
hợp với quy luật tự nhiên, phù hợp với tâm lý, tình cảm, đạo đức con người.
Hôn nhân một vợ một chồng đã xuất hiện từ sớm trong lịch sử xã hội loài
người, khi có sự thắng lợi của chế độ tư hữu đối với chế độ công hữu nguyên thủy.
Thực hiện chế độ hôn nhân một vợ một chồng là thực hiện sự giải phóng đối với
phụ nữ, thực hiện sự bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau giữa vợ và chồng. Trong đó vợ
và chồng đều có quyền lợi và nghĩa vụ ngang nhau về mọi vấn đề của cuộc sống
gia đình. Vợ và chồng được tự do lựa chọn những vấn đề riêng, chính đáng như
nghề nghiệp, công tác xã hội, học tập và một số nhu cầu khác v.v... Đồng thời
cũng có sự thống nhất trong việc giải quyết những vấn đề chung của gia đình như
ăn, nuôi dạy con cái... nhằm xây dựng gia đình hạnh phúc.
Quan hệ vợ chồng bình đẳng là cơ sở cho sự bình đẳng trong quan hệ giữa cha
mẹ với con cái và quan hệ giữa anh chị em với nhau. Nếu như cha mẹ có nghĩa vụ

17
yêu thương con cái, ngược lại, con cái cũng có nghĩa vụ biết ơn, kính trọng, nghe
lời dạy bảo của cha mẹ. Tuy nhiên, quan hệ giữa cha mẹ và con cái, giữa anh chị
em sẽ có những mâu thuẫn không thể tránh khỏi do sự chênh lệch tuổi tác, nhu
cầu, sở thích riêng của mỗi người. Do vậy, giải quyết mâu thuẫn trong gia đình là
vấn đề cần được mọi người quan tâm, chia sẻ.
*Hôn nhân được đảm bảo về pháp lý :
Quan hệ hôn nhân, gia đình thực chất không phải là vấn đề riêng tư của mỗi
gia đình mà là quan hệ xã hội. Tình yêu giữa nam và nữ là vấn đề riêng của mỗi
người, xã hội không can thiệp nhưng khi hai người đã thỏa thuận để đi đến kết
hôn, tức là đã đưa quan hệ riêng bước vào quan hệ xã hội, thì phải có sự thừa nhận
của xã hội, điều đó được biểu hiện bằng thủ tục pháp lý trong hôn nhân. Thực hiện
thủ tục pháp lý trong hôn nhân, là thể hiện sự tôn trọng trong tình tình yêu, trách
nhiệm giữa nam và nữ, trách nhiệm của cá nhân với gia đình và xã hội và ngược
lại. Đây cũng là biện pháp ngăn chặn những cá nhân lợi dụng quyền tự do kết hôn,
tự do ly hôn đề thảo mãn những nhu cầu không chính đáng, để bảo vệ hạnh phúc
của cá nhân và gia đình. Thực hiện thủ tục pháp lý trong hôn nhân không ngăn cản
quyền tự do kết hôn và tự do ly hôn chính đáng, mà ngược lại, là cơ sở để thực
hiện những quyền đó một cách đầy đủ nhất.

PHẦN II: LIÊN HỆ THỰC TIỄN VÀ LIÊN HỆ BẢN THÂN

1.1. Các vấn đề gia đình trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
hiện nay.
1.1.1. Sự biến đổi chức năng gia đình
Trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước để hòa nhập với toàn
cầu, chức năng gia đình Việt Nam đã có những biến đổi mạnh mẽ do có sự va
chạm và thay thế nhau giữa yếu tố truyền thống và hiện đại, cơ cấu của xã hội
cũng có tốc độ biến đổi chênh lệch với tốc độ biến đổi của gia đình trong đó: chức
năng xã hội hóa dần dần mất đi một cách rõ rệt, chức năng chăm sóc và bảo vệ trẻ

18
em, nuôi dưỡng người già và các thành viên khác trong cùng một gia đình cũng
giảm dần đi, sự liên kết giữa các thành viên giảm đi đáng kể dẫn đến giảm thiểu
vai trò thỏa mãn về cả mặt vật chất lẫn tinh thần.
a) Về chức năng sinh sản
Ở Việt Nam đại đa số gia đình vẫn cho rằng sinh sản là chức năng quan trọng
nhất là ở những hộ gia đình nông thôn. Ông cha ta ngày xưa có quan niệm con đàn
cháu đống thì dường như việc dựng vợ gả chồng và quan hệ tình dục chỉ là để
phục vụ chức năng sinh sản, duy trì nòi giống, tạo nguồn nhân lực lao động vì
nghề truyền thống của nước ta là ngành công nghiệp lúa nước.
Giờ đây xã hội ngày càng phát triển nên tư duy về sinh sản của người dân Việt
Nam đã được suy nghĩ sang chiều hướng tích cực và tự giác, ví dụ như nam nữ tự
nguyện lấy nhau chứ không phải do sự thúc ép của gia đình. Ngày nay bộ y tế Việt
Nam cũng đã phổ biến cho người dân về các biện pháp tránh thai, để lan rộng sự
hiểu biết đó thì những biện pháp tránh thai này đã được đưa vào bài giảng ở các
tiết học để giảng dạy các em học sinh, và rồi người ta đã tách được chức năng
sinh đẻ ra khỏi đáp ứng nhu cầu sinh lý. Nhờ có những biện pháp tránh thai mà
giúp thõa mãn nhu cầu quan hệ tình dục mà không ảnh hưởng đến hạnh phúc hôn
nhân, gia đình.
b) Về chức năng giáo dục
Trong thời đại công nghiệp hóa - hiện đại hóa kéo theo sự phát triển của mạng
internet ngày càng nhanh, làm cho khoảng cách giữa các thế hệ trong gia đình:
giữa bố mẹ, ông bà và con trẻ không hề có xu hướng được rút ngắn đi mà lại còn
làm nảy sinh nhiều bất đồng thế hệ về cả tư duy lẫn hành động, nhất là các xung
đột trong tương quan về thế hệ, giữa những giá trị truyền thống và hiện đại. Cuộc
sống ngày càng hiện đại cùng những lối sống mới khiến họ coi trọng sự tự do, độc
lập trong cả suy nghĩ lẫn hành động của giới trẻ; giờ đây họ nhận thấy được quyền
bình đẳng của mình ngang với thế hệ trên ở nhiều vấn đề xã hội và họ luôn luôn
sẵn sàng bộc lộ mong muốn, thể hiện ý kiến, quan điểm cá nhân hay theo đuổi một
lối sống riêng mà họ cảm thấy nó thoải mái và phù hợp với bản thân. Và cái quan

19
điểm, lối sống như vậy thường là sẽ đi ngược lại mong muốn của đại bộ phận thế
hệ trước, họ không thích nghi kịp thời với sự đổi thay nhanh chóng của xã hội và
luôn ôm trọn mình tâm niệm rằng “cha mẹ đặt đầu thì con ngồi đấy", "trứng mà
đòi khôn hơn vịt". Thế giới hiện đại cùng với những phát triển của kinh tế, xã hội
đã đem lại những nhận thức, tư duy đổi mới dường như đến từng ngóc ngách của
đất nước, khiến những bất đồng thế hệ, thậm chí gây tranh cãi càng ngày càng phổ
biến. Thậm chí, những bất đồng này còn được đẩy lên thành một xung đột gay gắt
khó lòng hóa giải, cũng như là một dấu hiệu cảnh báo cho sự đổ vỡ phần nào chức
năng giáo dục của gia đình và có nguy cơ tổn hại đến các mối quan hệ trong gia
đình.
Tuy nhiên quá trình hiện đại này cũng làm đổi mới kinh tế, chính trị dẫn đến
thúc đẩy gia đình phát huy tối đa chức năng giáo dục của mình. Ngày nay nhu cầu
đòi hỏi nguồn lao động có tay nghề tăng cao và nó buộc phải đáp ứng đầy đủ các
tư chất cần thiết nhất phù hợp với thời đại mới làm cho tiêu chuẩn dưỡng dục con
cái của cha mẹ nâng lên một cách đáng kể. Tương lai của những thế hệ sau này sẽ
không còn phải xoay quanh ruộng đồng, ao sâu nữa, mà thay vào đó là cả một thế
giới năng động đầy tiềm năng sáng tạo đang rộng mở rất nhiều cơ hội đến cho tất
cả mọi người. Đây cũng là lí do chính thu hút sự quan tâm của cha mẹ đối với việc
học của con cái, vì không có phụ huynh nào mà không muốn con mình có cơ hội
được học tập, phát triển trong một môi trường có đầy đủ yếu tố để phát huy tốt
hơn trong tương lai. Tuy nhiên, mối quan tâm này rất đa dạng và phân hóa khác
nhau tùy vào từng khu vực, vùng, miền và dân tộc.
c) Về chức năng tâm lí tình cảm
Cuộc sống bộn bề con người ai cũng lo cơm áo gạo tiền,quỹ đạo thời gian một
ngày xoay quay 2 chữ công việc ,ai cũng phải xa quê lập nghiệp khiến cho những
thành viên trong gia đình thu hẹp thời gian dành cho nhau. Những bữa cơm nhà
hiếm khi đông đủ các thành viên trong gia đình, mỗi người ai cũng lo toan về công
việc riêng của riêng mình.Mọi người dần thu mình ,áp lực về công việc đã không
còn chia sẽ hay tâm sự nhiều với gia đình của chính mình.Khi mà ta ở lứa tuổi vô

20
lo vô nghĩ gia đình là nơi yêu thương chứa đầy tình cảm và ai cũng muốn trở về
nhà nhưng từ khi đến độ tuổi gắn liền với cơm áo gạo tiền có nhiều người không
xem gia đình là nơi bình yên để tựa vào sau những ngày dài mệt mõi vì công việc
deadline hay những vấn đề ngoài xã hội đã khiến họ trở nên như vậy. Sự phổ biến
hơn của lối sống thực dụng, ích kỉ, đề cao cuộc sống hưởng thụ, cổ súy cho tư
tưởng tự do phát triển cá nhân… cũng là nguy cơ làm mai một, xói mòn nhiều giá
trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của gia đình.
d) Về chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng
Xã hội phát triển đã thay đổi ít nhiều suy nghĩ của con người từ xưa đến nay
đó là người đàn ông là nền kinh tế chính của gia đình. Bây giờ, người phụ nữ hay
đàn ông đều bình đẳng như nhau,ai cũng có vai trò quan trọng trong gia đình.
Người phụ nữ độc lập tài chính cũng với nghĩa người phụ nữ cũng có tiếng nói
trong gia đình,ra ngoài xã hội sẽ tiếp thu thêm điều mới mẻ và phát triển bản thân
chứ không còn phải gắn liền với ruộng vườn hay trở thành bà mẹ bỉm sữa .Đồng
thời, quá trình công nghiệp hoá khiến gia đình và nơi làm việc bị tách rời nhau về
mặt không gian khiến chức năng sản xuất của gia đình cũng suy giảm hoặc hoàn
toàn mất đi; thay vào đó, chức năng tiêu dùng lại được tăng cường. Điều này có
thể dẫn đến lối sống của gia đình được quyết định bởi mức thu nhập của các thành
viên trong gia đình và tiêu chuẩn tiêu dùng của gia đình và chúng ảnh hưởng trực
tiếp đến mức độ thỏa mãn sinh hoạt của gia đình. Với các hộ gia đình ở nông thôn,
chức năng sản xuất và chức năng tiêu dùng của gia đình không bị phân chia rạch
ròi nhưng dưới cơ chế xã hội lấy việc sản xuất phục vụ cho sự trao đổi thì việc sản
xuất tự cung tự cấp của gia đình cũng bị suy giảm.
1.2. Thực trạng gia đình ở Việt Nam hiện nay
1. 2.1. Đạo đức gia đình
Đạo đức gia đình là toàn bộ những quan niệm về giá trị và quy phạm về hành
vi của con người trong vấn đề hôn nhân và gia đình. Mọi cử chỉ, hành vi, thái độ
của mỗi người về hôn nhân và gia đình vừa thể hiện bản chất đạo đức cá nhân, vừa

21
cho biết bản chất đạo đức của mối quan hệ trong gia đình. Sự hình thành đạo đức
gia đình không chỉ dựa trên những quy định của pháp luật, của phong tục tập quán
và truyền thống dân tộc, mà còn dựa trên niềm tin và dư luận xã hội.
Ở nước ta, từ xa xưa, "tam tòng tứ đức”, “chung thuỷ”, "trinh tiết"đã từng là
quy định của đạo đức gia đình đối với người phụ nữ, hiếu đễ đã từng là quy định
của đạo đức gia đình về quan hệ cha mẹ - con cái, anh chị em. Cùng với sự phát
triển của đất nước, tự do kết hôn, hôn nhân một vợ một chồng, tình yêu chung
thuỷ đối với cả hai vợ chồng hay mối quan hệ giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành
viên trong gia đình… cũng đã được coi là những quy định của đạo đức gia đình
mới. Nước ta đang trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập
trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Quá trình này cùng
lúc kéo theo những biến đổi trong văn hoá, đạo đức xã hội cũng như đạo đức gia
đình. Những đợt sóng biến đổi nhiều mặt của xã hội đã dội vào gia đình, tác động
đến đạo đức gia đình. Không ít những giá trị đạo đức gia đình đang bị vi phạm, thể
hiện lệch lạc. Nghiên cứu về đạo đức gia đình, có thể nêu ra một số vấn đề mới
nảy sinh như sau.
Trước hết phải kể đến quan niệm về đạo đức hôn nhân. Nam nữ yêu nhau, đi
đến quyết định kết hôn và quá trình chung sống của gia đình vẫn thường được coi
là một vấn đề hệ trọng của đời người. Nhưng hiện nay, ở một số người, quan niệm
đạo đức hôn nhân đang trở nên lộn xộn. Ở họ, tính nghiêm túc của hôn nhân đang
bị xem thường. Với quan niệm "Tình yêu bốc lửa, yêu nhanh, cưới nhanh" mà từ
đó đã có không ít trường hợp kết thúc với kết quả là "cưới nhanh, tan vỡ ngay". Từ
lập luận kết hôn khi yêu nhau và ly hôn khi không còn tình yêu vợ chồng, họ đã bỏ
qua tất cả các khía cạnh ràng buộc của mối quan hệ cha mẹ - con cái. Biểu hiện
xem nhẹ mức độ nghiêm trọng của việc ly hôn đôi khi còn có nguyên do là: lấy
việc kết hôn làm "bàn đạp" để đạt một mục đích nào đó.
Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ, từ 1987 - 1994, ở 6 tỉnh của nước ta đã có
60.556 vụ ly hôn. Xu hướng ly hôn tăng nhanh đặc biệt từ những năm 90 trở lại
đây siều cuộc ly hôn chẳng những đã tạo nên những xung đột mạnh trong đạo đức

22
vợ chồng, mà còn khiến cho một số con cái sau khi bố mẹ ly hôn đã không được
giáo dục đạo đức một cách lành mạnh, đứa trẻ gây nên những hành vi rối nhiễu,
trầm cảm, thậm chí can phạm.
Một biểu hiện sai lệch khác của quan niệm hôn nhân là một số người lấy nhân
tố kinh tế, tiền bạc làm tiêu chuẩn trên hết của việc kết hôn. Họ coi hôn nhân cũng
là "hàng mua bán" để rồi từ đó, đưa đến bao nhiêu nỗi bất hạnh, cho bản thân và
những người trong cuộc.Bên cạnh những biểu hiện không nghiêm túc về hôn nhân,
còn có hiện tượng đạo đức tình dục bị vi phạm. Hành vi tình dục diễn ra trước hôn
nhân hoặc không dẫn tới hôn nhân kiểu "già nhân ngãi, non vợ chồng” bắt đầu
được một số người tán thưởng, dư luận xã hội cho qua. Lầu nay, chúng ta thường
quan niệm tình dục là cái chỉ có sau kết hôn và tình dục phải gắn với hôn nhân.
Nhưng hiện nay, nhờ những người quan niệm tách biệt giữa tình dục và hôn nhân.
Đã có những đôi nam nữ chấp nhận việc có quan hệ tình dục với nhau nhưng
không đi đến hôn nhân. Có trường hợp quan niệm tình dục như một giai đoạn tiền
hôn nhân, giai đoạn thử nghiệm của hôn nhân. Họ coi quan hệ tình dục là biểu
hiện của tình yêu, có "như vậy" mới thật lòng yêu nhau. Nhưng sự thật nghiệt ngã
đã đến với những cô gái dễ dãi: phải đi nạo thai vì quan hệ tình dục. Trong cả hai
trường hợp, rõ ràng đương sự (nam - nữ) đã thoát khỏi trách nhiệm và nghĩa vụ
đối với quan hệ tình dục nam nữ mà thực chất chúng vốn gắn chặt với nhau.
Quan niệm đạo đức hôn nhân trở nên lộn xộn còn thể hiện ở một số người có
hành vi phạm pháp do ngoại tình hay mại dâm. Sự xuống cấp về đạo đức trong gia
đình đã phát sinh nhiều hiện tượng phạm tội dã man, nghiêm trọng, điển hình là
nạn giết vợ (ở Lâm Đồng), quan hệ bất chính với con dâu nên giết vợ (ở Tứ Lộc
Hải Hưng). Hành vi phạm pháp của người chồng đối với vợ có khi còn xuất phát
từ ý thức coi thường phụ nữ, đối xử không bình đẳng trong quan hệ gia đình, dẫn
đến hành vi ngược đãi, hành hạ vợ con.
Tất cả các hiện tượng phạm pháp của người chồng đối với người vợ dù do
ngoại tình hay đó coi thường phụ nữ đều là sự vi phạm đao đức gia đình, làm lay

23
chuyển bản chất nhân văn của gia đình - giá trị cốt lõi của con người trong quan hệ
vợ chồng.
Trong không khí sôi động của cơ chế thị trường, mọi người đều mong muốn
có công ăn việc làm, tăng thu nhập, nâng cao mức sống, chất lượng cuộc sống.
Cùng với xu hướng đó là nhu cầu được hưởng thụ các tiện nghi sinh hoạt hiện đại.
Từ nhu cầu đó, có những người đã đồng nghĩa hạnh phúc gia đình với sự thoả mãn
cao mọi nhu cấu cá nhân. Song khi đạt được sự thoả mãn cao nhu cầu cá nhân thì
cũng là lúc xảy ra xung đột lợi ích giữa các thành viên, đạo đức gia đình bị vi
phạm, hạnh phúc gia đình không còn. Dường như ở đó, người ta coi thương những
yếu tố vô hình làm nên giá trị hạnh phúc gia đình, là nền tảng đạo đức gia đình,
như lòng nhân ái, sự đồng cảm, sự quan tâm lẫn nhau...
Đạo đức gia đình còn thể hiện qua mối quan hệ giữa các thế hệ trong gia đình.
Ở Việt Nam, từ trước đến nay, vẫn đề cao việc chăm sóc con cái và con cái có hiếu
đối với ông bà, cha mẹ. Đó là nét đặc sắc của văn hoá gia đình Việt Nam, văn hoá
gia đình phương Đông. Song, trong nhưng năm gần đây, đã có một số gia đình quá
yêu chiều con cái hoặc không quan tâm, săn sóc ông bà, cha mẹ, không muốn làm
nghĩa vụ phụng dưỡng cha mẹ. Từ chỗ đặt mục đích “lợi ích" làm trọng, họ đã
thúc đẩy các thành viên gia đình đối xử với lớpngười già theo nguyên tắc trao đổi
sòng phẳng. Họ đã lấy mức độ giàu - nghèo làm tiêu chuẩn xác định quan hệ thân
sơ trong họ hàng. Cách đối xử trở nên không bình thường đã làm cho mối quan hệ
vốn có giữa các thế hệ trong gia đình (họ hàng) bị mất thăng bằng. Nhiều chuyện
con cái ngược đãi cha mẹ già, anh chị em xung đột nhau chỉ vì đất đai thừa kế đã
làm đau lòng mọi người.
Cuối cùng, hiện tượng coi thường giáo dục gia đình đang xảy ra ngày càng
nhiều đã góp phần đáng kể phá vờ nền tảng đạo đức gia đình. Có gia đình đã thu
hẹp phạm vi giáo dục gia đình vào việc nuôi con ăn học, chỉ chú ý đến thành tích
học tập hay sức khoẻ thể lực mà bỏ qua việc giáo dục phẩm chất đạo đức cá nhân,
cách ứng xử trong mối quan hệ với người khác. Hiện tượng buông lỏng giáo dục
phẩm chất đạo đức và cách ứng xử đúng đắn, tình nghĩa đã gây ra nhiều hậu .quả

24
tiêu cực. Có những gia đình đã thung túng cho tính tham lam, ích kỷ, ngang ngược
của con cái. Họ đã để cho quan niệm tư lợi, "đồng tiền trên hết" ngự trị, lưu hành
trong mọi hoạt động sống của gia đình. Thậm chí có gia đình, bố mẹ sống buông
thả, có hành vi thất đức, không ý thức rằng đó là những bài học tự nhiên đối với
con cái. Sự lúng túng, bất lực trong việc giáo dục đạo đức gia đình của cha mẹ, sự
coi thường, phủ định sạch trơn những nội dung và hình thức giáo dục đạo đức
truyền thống cho con cái đã dẫn đến phá vỡ mối liên kết tinh thần của tổ ấm gia
đình.
1.2.2. Vấn đề hôn nhân và thực trạng li hôn ngày một tăng
Hôn nhân được coi như là sự gắn bó lâu dài, gần như là trọn đời giữa hai cá
nhân với nhau trên cơ sở tình yêu và luật pháp công nhận. Tuy nhiên trong những
năm gần đây, tỷ lệ ly hôn ngày một tăng lên, nhiều nhất là ở những người trẻ, đặc
biệt là những người kết hôn sớm. Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng khi
cả hai người đang còn sống, do cả hai bên vợ chồng thuận tình và được Tòa án
công nhận bằng quyết định công nhận thuận tình ly hôn hoặc chỉ do một bên yêu
cầu, được Tòa án đưa ra xét xử và phán quyết bằng một bản án cho ly hôn. Có thể
nói, ly hôn là sự lựa chọn của hai người cả vợ và chồng hoặc đơn phương từ một
phía chồng hoặc vợ nhưng tình trạng hôn nhân gia tăng và ngày càng trẻ hóa, việc
hôn nhân tan vỡ không chỉ làm ảnh hưởng đến cuộc sống của gia đình, người thân
mà còn gây nhiều hệ lụy cho xã hội. Bởi gia đình là tế bào của xã hội, khi tế bào
không “khỏe” thì xã hội bị ảnh hưởng nhiều mặt. Sau những cuộc ly hôn, nhiều trẻ
em sống trong cảnh thiếu tình thương và sự chăm sóc, nuôi dưỡng của cha hoặc
mẹ; nhiều trường hợp cha, mẹ đều không thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng, lớn lên
nhờ sự cưu mang của người thân; có trường hợp bị bỏ rơi, ảnh hưởng nghiêm
trọng đến phát triển nhân cách và lối sống của trẻ, dẫn tới phát sinh những hành vi
vi phạm pháp luật, nảy sinh nhiều vấn đề xã hội.... Đây cũng là một trong những lý
do vì sao mà trong những năm gần đây tình trạng tội phạm tuổi vị thành niên có xu
hướng gia tăng.

25
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng ly hôn ngày càng tăng cao như
hiện nay, nhưng chủ yếu tập trung vào một số nguyên nhân chính sau:
Một là, phần lớn và sâu xa dẫn tới tình trạng ly hôn ngày càng gia tăng, đặc
biệt với các cặp vợ chồng trẻ là do họ thiếu kỹ năng sống. Họ bước vào cuộc sống
hôn nhân khi tuổi đời còn quá trẻ, chưa có sự chuẩn bị về tâm lý, kinh tế, sức khỏe
và những hiểu biết cần thiết cho cuộc sống gia đình, quá đề cao cái tôi của bản
thân, ít quan tâm đến chồng hoặc vợ, khiến phần lớn các cặp vợ chồng trẻ nảy sinh
mâu thuẫn ngay từ những tháng đầu, năm đầu của cuộc hôn nhân. Trong khi đó
nhận thức về cuộc sống gia đình, ý nghĩa của hôn nhân và tình yêu còn hời hợt đã
khiến họ không đủ bản lĩnh và kỹ năng giải quyết, vượt qua các mâu thuẫn, dẫn
đến ly hôn.
Hai là, do kinh tế khó khăn, nghề nghiệp không ổn định, thu nhập bấp bênh,
sinh con sớm khiến vợ chồng thường xuyên nảy sinh mâu thuẫn, không tập trung
đồng thuận để xây dựng kinh tế gia đình, nuôi dạy con cái. Hầu hết trong các
Quyết định công nhận thuận tình ly hôn đều thể hiện các cặp vợ chồng đến xin ly
hôn không có tài sản chung.
Ngoài ra, còn những nguyên nhân khác như: do tư tưởng lạc hậu, người vợ
không sinh được con trai nên người chồng ngoại tình hoặc ly hôn để lấy vợ mới
với mục đích có con “nối dõi tông đường”; vấn đề về bạo lực gia đình, tệ nạn xã
hội; vợ chồng bất hòa, thường xuyên xảy ra mâu thuẫn do nhận thức về xã hội,
pháp luật chưa đầy đủ, thậm chí nhiều trường hợp người chồng cờ bạc, rượu chè

1.3. Liên hệ bản thân về vấn đề hôn nhân, gia đình của người đồng tính trong
xã hội hiện đại
Trong xã hội ngày nay, rất nhiều người đang gặp khó khăn trong cuộc sống và
cần được giúp đỡ. Họ là những người có số phận bất hạnh, cuộc đời khốn khổ,
bệnh tật hiểm nghèo và đôi khi họ là những người sống trong con mắt kỳ thị của
xã hội vì những bất hạnh không phải do họ hay mong muốn của họ gây ra. Trong

26
những kiếp sống đó, tôi muốn nhắc đến những người đồng tính, những người luôn
bị coi là bệnh hoạn trong mắt xã hội. Họ là những người bị gia đình ghẻ lạnh, bị xã
hội phỉ báng, bị tước đoạt quyền được “hạnh phúc” bên những người thân yêu.
Khi tôi đề cập đến điều này, tôi muốn đề cập đến những nghi ngờ và suy nghĩ của
tôi về điều này. Tôi hy vọng họ có được niềm vui khi được làm người bình
thường. Từ đó trở đi, những người đồng tính sẽ được kết hôn và lập gia đình, trở
thành tế bào của xã hội. Họ còn có trách nhiệm giáo dục con cái trở thành những
công dân có ích cho xã hội. Tôi nghĩ hôn nhân đồng giới nên cần được công nhận.
Bảo vệ người đồng tính nam và đồng tính nữ trong xã hội này thông qua nghiên
cứu và điều tra. Tôi tìm thấy những hình ảnh và bằng chứng cho thấy họ là những
con người có tình yêu và thế giới riêng. “Tôi đồng tình với hôn nhân đồng giới ở
Việt Nam” vì tôi biết họ cũng hiểu ghen tuông, giận dữ, oán giận, ham muốn và
đặc biệt họ cũng hiểu sự hy sinh vì tình yêu của mình. Họ biết cách đối mặt với sự
phân biệt đối xử của xã hội và đạt được đích đến cuối cùng là hạnh phúc, nuôi
dưỡng và duy trì một gia đình bằng tình yêu thương.

27
KẾT LUẬN
Gia đình là một thiết chế xã hội đặc biệt trong cơ cấu của xã hội. Sự ổn định
và phát triển của gia đình có vị trí, vai trò hết sức quan trọng đối với sự ổn định và
phát triển xã hội. Việt Nam là một trong số những nước có truyền thống tôn trọng
gia đình. Tuy nhiên, đã có một thời gian dài do phải tập trung giải quyết các vấn
đề giải phóng dân tộc, thống nhất và xây dựng đất nước nên chúng ta đã không có
điều kiện để nghiên cứu về gia đình. Gia đình ở nước ta, bên cạnh những bước
phát triển mới, tiến bộ, thuận lợi cũng phải đối diện với rất nhiều thách thức và
bước đầu có những dấu hiệu của sự khủng hoảng. Những định hướng về xây dựng
giá trị, chuẩn mực gia đình trong thời kỳ mới chưa rõ ràng và chưa trở thành học
thuyết cho các gia đình noi theo. Bởi vậy, nghiên cứu về gia đình nhằm xây dựng
những luận cứ khoa học cho việc củng cố và phát triển gia đình là một trong
những vấn đề quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước Việt
Nam hiện nay.
Gia đình là nơi nuôi dưỡng, bảo tồn và phát huy các giá trị truyền thống tốt
đẹp của dân tộc. Trải qua nhiều thế hệ, gia đình Việt Nam được hình thành và phát
triển với những chuẩn mực giá trị tốt đẹp, góp phần xây dựng bản sắc văn hóa dân
tộc. Những giá trị truyền thống quý báu như lòng yêu nước, yêu quê hương, yêu
thương, đùm bọc lẫn nhau, thủy chung, hiếu nghĩa, hiếu học, cần cù và sáng tạo

28
trong lao động, bất khuất kiên cường vượt qua mọi khó khăn thử thách đã được gia
đình Việt Nam gìn giữ, vun đắp trong suốt quá trình lịch sử dựng nước, giữ nước
của dân tộc và phát huy trong giai đoạn hiện nay.
Có thể thấy rằng, trong sự phát triển chung của xã hội hiện nay, gia đình luôn
đóng một vai trò quan trọng. Không thể có một xã hội giàu mạnh, văn minh nếu
như không dựa trên cơ sở xây dựng những gia đình ấm no, hạnh phúc, tiến bộ. Vì
vậy, xây dựng và phát triển gia đình với những giá trị tốt đẹp trong xã hội hiện đại
là một trong những yếu tố cốt lõi trong mục tiêu chung của xây dựng nền văn hóa
mới XHCN.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


Tài liệu Tiếng Việt
“Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học (Dành cho bậc Đại học-không chuyên lý
luận chính trị)”, NXB Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hà Nội-2019.
Tài liệu trực tuyến
1. “Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng gia đình Việt Nam hiện nay”, GS.TS. Lê
Thị Quý - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Giới và Phát triển.
https://tcnn.vn/news/detail/41771/Co-so-ly-luan-va-thuc-tien
xay-dunggia-dinh-Viet-Nam-hiennay.html
2. Thực trạng hôn nhân tại Việt Nam nhìn từ kết quả Tổng điều tra dân số và Nhà
ở năm 2019.
http://consosukien.vn/thuc-trang-hon-nhan-tai-viet-nam-nhin-tu-ket-qua-tong-
dieu-tra-dan-so-va-nha-o-nam-2019.htm
3. Hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới ở Việt Nam: Nên hay không?
https://www.saovietlaw.com/nghien-cuu-binh-luan-phap-luat/hop-phap-hoa-hon-
nhan-dong-gioi-o-viet-nam-nen-hay-khong-/
4. Gia đình và vị trí, vai trò của gia đình trong xã hội hiện đại.
http://giadinh.bvhttdl.gov.vn/gia-dinh-va-vi-tri-vai-tro-cua-gia-dinh-trong-xa-hoi-
hien-dai/

29
PHÂN CHIA CÔNG VIỆC GIỮA CÁC
STT HỌ VÀ TÊN MSSV NỘI DUNG PHÂN TÍCH %
PHẦN I (1.3)
1 ĐOÀN THỊ MỸ LY 29204662056 100
PHẦN II (1.3)
PHẦN I (1.4)
2 NGUYỄN KHÁNH LY 29206754533 100
PHẦN II (1.2.2)
PHẦN I (1.1&1.2)
3 HÀ NGUYỄN NY NA 29206757682 100
KẾT LUẬN
MỞ ĐẦU I&II
4 NGÔ NGUYỄN YẾN NHI 29206751121 100
PHẦN II (1.1.1 a&b)
PHẦN I (1.5)
5 PHAN LINH TRANG 29206739103 100
PHẦN II (1.2.1)
MỞ ĐẦU III&IV
6 TRỊNH HOÀI THƯƠNG 29206755507 100
PHẦN II (1.1.1 c&d)
THÀNH VIÊN TRONG NHÓM

30
31
32

You might also like