You are on page 1of 24

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP HỒ CHÍ MINH

ĐẠI HỌC BÁCH KHOA




BÀI TẬP LỚN


MÔN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
ĐỀ TÀI:

VẤN ĐỀ GIA ĐÌNH TRONG THỜI KÌ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI,
GIÁO DỤC GIỚI TÍNH TRONG GIA ĐÌNH VIỆT NAM HIỆN NAY

LỚP L04 --- NHÓM 14 --- HK 222


NGÀY NỘP 16/02/2022
Giảng viên hướng dẫn: ThS.Đặng Kiều Diễm
Sinh viên thực hiện MSSV Điểm số
Bùi Minh Tú 2115211
Nguyễn Văn Nguyên 2114233
Cái Thị Thảo My 2114090
Huỳnh Tấn Nhân 1914432
Phạm Cảnh Hưng 2010029
Hồ Thị Hoa Trân 1915605

Thành phố Hồ Chí Minh – 2022


TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA
KHOA KHOA HỌC ỨNG DỤNG

BỘ MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

BÁO CÁO KẾT QUẢ LÀM VIỆC NHÓM VÀ BẢNG ĐIỂM BTL

Môn: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC (MSMH: SP1035)

Nhóm/Lớp: L04 Tên nhóm: 14 HK 222 Năm học 2022


Đề tài:

VẤN ĐỀ GIA ĐÌNH TRONG THỜI KÌ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI,
GIÁO DỤC GIỚI TÍNH TRONG GIA ĐÌNH VIỆT NAM HIỆN NAY

STT MSSV Họ Tên Nhiệm vụ % Điểm Điểm Ký


được phân BTL BTL Tên
công
1 2115211 Bùi Minh Tú Kết luận, 100%
tổng hợp
bài
2 2114233 Nguyễn Văn Nguyên 2.1 100%
3 2114090 Cái Thị Thảo My 2.3 100%
4 1914432 Huỳnh Tấn Nhân Phần mở 100%
đầu, 1.1.1
5 2010029 Phạm Cảnh Hưng 2.2 100%
6 1915605 Hồ Thị Hoa Trân 1.1.2, 1.1.3 100%
7 1.2 100%

Họ và tên nhóm trưởng: Bùi Minh Tú, Số


ĐT:0327592855 .............................................................Email:
tu.bui10032003@hcmut.edu.vn
Nhận xét của GV:
................................................................................................................................................
.........................................................................
................................................................................................................................................
.........................................................................................................
NHÓM TRƯỞNG
GIẢNG VIÊN (Ký và ghi rõ họ, tên)
(Ký và ghi rõ họ, tên)

VẤN ĐỀ GIA ĐÌNH TRONG THỜI KÌ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI,
GIÁO DỤC GIỚI TÍNH TRONG GIA ĐÌNH VIỆT NAM HIỆN NAY

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Gia đình là tế bào của xã hội, là cộng đồng xã hội đặc biệt và là nơi để con người được
trau dồi, học hỏi và chăm lo cả về thể chất, trí tuệ, đạo đức. Việc giáo dục cho con người
không chỉ ở trong gia đình mà còn ở ngoài xã hội, đặc biệt là ở trong học đường. Ngày
nay, đất nước đang trong thời kỳ đổi mới, xã hội có nhiều thay đổi nên sự quan tâm và
giáo dục dành cho con người cần được chú trọng nhiều hơn nữa. Qua đó, ta có thể thấy
được vai trò quan trọng của gia đình, xã hội đối với thế hệ trẻ là vô cùng cần thiết để phát
triển họ trở thành những người có ích cho cộng đồng, xã hội. Chính vì thế, tôi đã chọn đề
tài “VẤN ĐỀ GIA ĐÌNH TRONG THỜI KÌ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI” làm
đề tài nghiên cứu.

2. Nhiệm vụ của đề tài

- Khái quát tổng quan về gia đình và tầm quan trọng của gia đình trong quá trình hình
thành, tác động và thay đổi tư duy của con người.
- Nhận thức và hiểu biết về cách xây dựng và phát triển gia đình trong chế độ xã hội chủ
nghĩa.

- Phổ biến và nâng cao kiến thức về giáo dục giới tính, góp phần nâng cao nhận thức
đúng đắn về ý thức, phát triển giáo dục giới tính trong xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam nói
riêng và thế giới nói chung.

PHẦN NỘI DUNG

Chương 1: VẤN ĐỀ GIA ĐÌNH TRONG THỜI KÌ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA
XÃ HỘI

1.1 Khái niệm, vị trí và chức năng của gia đình

1.1.1 Khái niệm gia đình và các hình thức gia đình trong lịch sử

- Khái niệm: Gia đình là một hình thức cộng đồng xã hội đặc biệt, được hình thành, duy
trì và củng cố chủ yếu dựa trên cơ sở hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi
dưỡng, cùng với những quy định về quyền và nghĩa vụ của các thành viên trong gia đình.

- Các hình thức gia đình trong lịch sử:

+ Quan hệ hôn nhân là cơ sở nền tảng hình thành nên các mối quan hệ khác trong gia
đình, là cơ sở pháp lý cho sự tồn tại của mỗi gia đình.

+ Quan hệ huyết thống là quan hệ giữa những người cùng một dòng máu, nảy sinh từ
quan hệ hôn nhân.

+ Quan hệ giữa ông bà với cháu chắt, giữa anh chị em với nhau, giữa cô, dì, chú bác với
cháu, …

+ Quan hệ cha mẹ nuôi với con nuôi trong quan hệ gia đình.

1.1.2 Vị trí của gia đình trong xã hội

Gia đình là tế bào của xã hội:


Gia đình là tế bào của xã hội, nơi duy trì nòi giống, môi trường lưu giữ, giáo dục, trao
truyền các giá trị văn hoá dân tộc cho các thành viên trong gia đình. Xây dựng gia đình
hạnh phúc chính là tạo nền tảng để xây dựng xã hội hạnh phúc, là vấn đề hết sức hệ trọng
của dân tộc ta. Công tác xây dựng gia đình vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát
triển bền vững đất nước.

Gia đình có vai trò quyết định đối với sự tồn tại, vận động và phát triển của xã hội. Ph.
Ăngghen đã chỉ rõ: “Theo quan điểm duy vật thì nhân tố quyết định trong lịchsử, quy cho
đến cùng, là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống trực tiếp. Nhưng bản thânsự sản xuất đó
lại có hai loại. Một mặt là sản xuất ra tư liệu sinh hoạt: thực phẩm, quầnáo, nhà ở và
những công cụ cần thiết để sản xuất ra những thứ đó; mặt khác là sự sảnxuất ra bản thân
con người, là sự truyền nòi giống. Những trật tự xã hội, trong đónhững con người của
một thời đại lịch sử nhất định và của một nước nhất định đangsống, là do hai loại sản
xuất quyết định: một mặt là do trình độ phát triển của lao độngvà mặt khác là do trình độ
phát triển của gia đình”1.Với việc sản xuất ra tư liệu tiêu dùng, tư liệu sản xuất, tái sản
xuất ra con người,gia đình như một tế bào tự nhiên, là một đơn vị cơ sở để tạo nên cơ thể
- xã hội. Khôngcó gia đình để tái tạo ra con người thì xã hội không thể tồn tại và phát
triển được. Vìvậy, muốn có một xã hội phát triển lành mạnh thì phải quan tâm xây dựng
tế bào giađình tốt, như chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “…nhiều gia đình cộng lại mới
thành xãhội, xã hội tốt thì gia đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân của
xã hộichính là gia đình”.2Tuy nhiên, mức độ tác động của gia đình đối với xã hội lại phụ
thuộc vào bảnchất của từng chế độ xã hội, vào đường lối, chính sách của giai cấp cầm
quyền, và phụthuộc vào chính bản thân mô hình, kết cấu, đặc điểm của mỗi hình thức gia
đình tronglịch sử. Vì vậy, trong mỗi giai đoạn của lịch sử, tác động của gia đình đối với
xã hộikhông hoàn toàn giống nhau. Trong các xã hội dựa trên cơ sở của chế độ tư hữu về
tưliệu sản xuất, sự bất bình đẳng trong quan hệ xã hội và quan hệ gia đình đã hạn chế
rấtlớn đến sự tác động của gia đình đối với xã hội. Chỉ khi con người được yên ấm,
hòathuận trong gia đình, thì mới có thể yên tâm lao động, sáng tạo và đóng góp sức

1
C.Mác và Ăngghen, Toàn tập, Nxb. CTQG, H.1995, Tập 21, Tr.44
2
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. CTQG, H.2011, Tập 9, Tr.531
mìnhcho xã hội và ngược lại. Chính vì vậy, quan tâm xây dựng quan hệ xã hội, quan hệ
giađình bình đẳng, hạnh phúc là vấn đề hết sức quan trọng trong cách mạng xã hội chủ
nghĩa. Gia đình là tổ ấm, mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hòa trong đời sống cánhân
của mỗi thành viênTừ khi còn nằm trong bụng mẹ, đến lúc lọt lòng và suốt cả cuộc đời,
mỗi cánhân đều gắn bó chặt chẽ với gia đình. Gia đình là môi trường tốt nhất để mỗi cá
nhân được yêu thương, nuôi dưỡng, chăm sóc, trưởng thành, phát triển. Sự yên ổn, hạnh
phúc của mỗi gia đình là tiền đề, điều kiện quan trọng cho sự hình thành, phát triển nhân
cách, thể lực, trí lực để trở thành công dân tốt cho xã hội. Chỉ trong môi trườngyên ấm
của gia đình, cá nhân mới cảm thấy bình yên, hạnh phúc, có động lực để phấnđấu trở
thành con người xã hội tốt

Gia đình là cầu nối giữa cá nhân với xã hội:

Gia đình là cầu nối giữa mọi thành viên trong gia đình với xã hội. Nhiều thông tin về xã
hội tác động đến con người thông qua gia đình. Xã hội nhận thức đầy đủ và toàn diện hơn
về một người khi nhận rõ hoàn cảnh gia đình của người ấy. Nhiều nội dung quản lý xã
hội không chỉ thông qua hoạt động của các thiết chế xã hội, mà còn thông qua hoạt động
của gia đình để tác động đến con người; nghĩa vụ và quyền lợi xã hội của mỗi người được
thực hiện với sự hợp tác chung của các thành viên trong gia đình. Qua đó ý thức công dân
được nâng cao và sự gắn bó giữa gia đình và xã hội có ý nghĩa thiết thực.

Gia đình là cộng đồng xã hội đầu tiên mà mỗi cá nhân sinh sống, có ảnh hưởngrất lớn đến
sự hình thành và phát triển nhân cách của mỗi người. Chỉ trong gia đình mới thể hiện
được quan hệ tình cảm thiêng liêng, sâu đậm giữa vợ và chồng, cha mẹvà con cái, anh chị
em với nhau mà không cộng đồng có được và có thể thay thế. Tuy nhiên, mỗi cá nhân lại
không thể chỉ sống trong quan hệ tình cảm gia đình, mà còn có nhu cầu quan hệ xã hội,
quan hệ với những người khác, ngoài các thànhviên trong gia đình. Mỗi cá nhân không
chỉ là thành viên của gia đình mà còn là thànhviên của xã hội. Quan hệ giữa các thành
viên trong gia đình đồng thời cũng là quan hệ giữa các thành viên của xã hội. Không có
cá nhân bên ngoài gia đình, cũng không thểcó cá nhân bên ngoài xã hội. Gia đình là cộng
đồng xã hội đầu tiên đáp ứng nhu cầu quan hệ xã hội của mỗi cá nhân. Gia đình cũng
chính là môi trường đầu tiên mà mỗi cánhân học được và thực hiện quan hệ xã hội.
Ngược lại, gia đình cũng là một trong những cộng đồng để xã hội tác động đến cá nhân.
Nhiều thông tin, hiện tượng của xã hội tác động thông qua lăng kính gia đình mà tác động
tích cực hoặc tiêu cực đến sự phát triển của mỗi cá nhân về tư tưởng, đạo đức, lối sống,
nhân cách v.v… Xã hội nhận thức đầy đủ và toàn diện hơn về khi xem xétcá nhân trong
quan hệ với gia đình. Có những vấn đề quản lý xã hội phải thông qua hoạt động của gia
đình để tác động đến cá nhân. Nghĩa vụ và quyền lợi của mỗi cá nhân được thực hiện với
sự hợp tác của các thành viên trong gia đình. Chính vì vậy, ở bất cứ xã hội nào, giai cấp
cầm quyền muốn quản lý xã hội theo yêu cầu của mình, cũng đều coi trọng việc xây dựng
và củng cố gia đình. Vậy nên, đặc điểm của gia đìnhtrong mỗi chế độ xã hội có khác
nhau. Trong xã hội phong kiến, để củng cố, duy trì chế độ bóc lột, với quan hệ gia
trưởng, độc đoán, chuyên quyền đã có những quy định rất khắt khe đối với phụ nữ, đòi
hỏi người phụ nữ phải tuyệt đối trung thành với ngườichồng, người cha - những người
đàn ông trong gia đình. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, để xây dựng một xã
hội thật sự bình đẳng, con người được giải phóng, giai cấp công nhân chủ trương bảo vệ
chế độ hôn nhân một vợ một chồng, thực hiện sựbình đẳng trong gia đình, giải phóng phụ
nữ. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ
nghĩa xã hội chỉ một nữa”
1
Vì vậy, quan hệgia đình có đặc điểm khác về chất so với các xã hội trước đó

1.1.3 Chức năng cơ bản của gia đình

Chức năng tái sản xuất ra con người

Gia đình bắt đầu hình thành khi thực hiện nhu cầu hôn nhân (trong đó có tình dục giữa
cha và mẹ - hai nhân vật chính đầu tiên kiến tạo nên gia đình), từ đó thực hiện chức năng
sinh con đẻ cái, duy trì nòi giống, tái sản xuất ra con người. Tái sản xuất ra con người
theo nghĩa hẹp là sinh con đẻ cái, theo nghĩa rộng bao hàm cả nuôi dưỡng và giáo dục của
gia đình.

1
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. CTQG, H.2011, Tập 9, Tr.531
Xã hội tồn tại và phát triển dựa trên hai cơ sở quan trọng là tái sản xuất ra của cải vật
chất và tái sản xuất ra chính bản thân con người. Sự tồn tại của loài người phụ thuộc vào
quá trình tái sản xuất này của gia đình. Việc tái sản xuất ra thế hệ tương lai, một mặt đáp
ứng yêu cầu cung cấp lực lượng lao động mới cho xã hội, mặt khác đáp ứng và thỏa mãn
nhu cầu của chính gia đình. Con cái trở thành chỗ dựa, nguồn tình cảm của ông bà, cha
mẹ và của cả dòng tộc.

Đây là chức năng đặc thù của gia đình, không một cộng đồng nào có thể thaythế. Chức
năng này không chỉ đáp ứng nhu cầu tâm, sinh lý tự nhiên của con người, đáp ứng nhu
cầu duy trì nòi giống của gia đình, dòng họ mà còn đáp ứng nhu cầu vềsức lao động của
xã hội. Việc thực hiện chức năng tái sản xuất ra con người diễn ra trong từng gia đình,
nhưng nó không chỉ là việc việc riêng của gia đình mà là vấn đề xã hội. Bởi vì, nó quyết
định đến mật độ dân cư và nguồn lực lao động của một quốc gia và quốc tế, mộtyếu tố
cấu thành của tồn tại xã hội. Thực hiện chức năng này liên quan chặt chẽ đến sự phát
triển mọi mặt đời sống của xã hội. Vì vậy, tùy theo từng nơi, phụ thuộc vào nhu cầu của
xã hội, chức năng này được thực hiện theo xu hướng hạn chế hay khuyếnkhích. Trình độ
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ảnh hưởng đến chất lượng nguồn lựclao động mà gia
đình cung cấp.

Chức năng nuôi dưỡng, giáo dục

Gia đình là nơi nuôi dưỡng và trường học đầu tiên tác động đến con người về nhiều mặt
(thể chất, văn hóa, trí tuệ, xã hội, lao động…). Bên cạnh chức năng sinh đẻ, gia đình còn
có trách nhiệm nuôi dưỡng, dạy dỗcon cái trở thành người có ích cho gia đình, cộng đồng
và xã hội. Chức năng này thểhiện tình cảm thiêng liêng, trách nhiệm của cha mẹ với con
cái, đồng thời thể hiệntrách nhiệm của gia đình với xã hội. Thực hiện chức năng này, gia
đình có ý nghĩa rấtquan trọng đối với sự hình thành nhân cách, đạo đức, lối sống của mỗi
người. Bởi vì, ngay khi sinh ra, trước tiên mỗi người đều chịu sự giáo dục trực tiếp của
cha mẹ và người thân trong gia đình. Những hiểu biết đầu tiên, mà gia đình đem lại đều
có ý nghĩa rất quan trọng đối với một đời người. Vì vậy, gia đình là một môi trường văn
hóa, giáo dục, và là khách thể chịu sự giáo dục của các thành viên khác trong gia đình.
Chức năng nuôi dưỡng, giáo dục có ảnh hưởng lâu dài và toàn diện đối với mỗi cá nhân
trong suốt cuộc đời, từ lúc còn bé cho đến khi trưởng thành và tuổi già. Mỗi thành viên
trong gia đình đều có vị trí, vai trò nhất định vừa là chủ thể, vừa là khách thể trong việc
nuôi dưỡng, giáo dục của gia đình. Đây là chức năng hết sức quan trọng, mặc dù, trong
xã hội có nhiều cộng đồng khác (nhà trường, các đoàn thể, chính quyềnv.v..) cũng thực
hiện chức năng này, nhưng không thể thay thế chức năng giáo dục củagia đình. Với chức
năng này, gia đình góp phần to lớn vào việc đào tạo thế hệ trẻ, thếhệ tương lai của xã hội,
cung cấp nguồn lao động để duy trì sự trường tồn của xã hội. Vì vậy, giáo dục của gia
đình gắn liền với giáo dục của xã hội. Nếu giáo dục của gia đình không gắn liền với giáo
dục của xã hội, mỗi cá nhân sẽ khó khăn khi hòa nhập với xã hội, và ngược lại, giáo dục
của xã hội sẽ không đạt được hiệu quả cao khikhông kết hợp với giáo dục gia đình, không
lấy giáo dục gia đình là nền tảng. Do vậy, cần tránh khuynh hướng coi trọng giáo dục gia
đình mà hạ thấp giáo dục xã hội hoặcngược lại. Bởi cả hai khuynh hướng ấy, mỗi cá nhân
đều không phát triển toàn diện. Thực hiện tốt chức năng nuôi dưỡng, giáo dục, đòi hỏi
mỗi người làm cha, làm mẹ phải có kiến thức cơ bản, tương đối toàn diện về mọi mặt văn
hóa, học vấn, đặcbiệt là phương pháp giáo dục.

Chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng

Cùng với quá trình phát triển lực lượng sản xuất, gia đình trở thành một đơn vị kinh tế.
Gia đình là một đơn vị có chung tài sản, trước hết về mặt vật chất và sáng tạo ra các tài
sản đó thông qua hành vi sản xuất, làm kinh tế. Đây là một nền tảng vật chất không thể
thiếu của gia đình. Tất nhiên, mức độ biểu hiện của chức năng này rất khác nhau trong
tiến trình lịch sử. Trong hoạt động sống, gia đình luôn thực hiện việc tiêu dùng của gia
đình để đáp ứng các nhu cầu hàng ngày về ăn, uống, mặc, ở, đi lại, học hành, giải trí...
của các thành viên gia đình. Gia đình không chỉ là một đơn vị sản xuất, mà còn là một
đơn vị tiêu dùng. Gia đình trở thành nơi nghỉ ngơi, vui chơi, giải trí, tổ chức việc tiêu
dùng vật chất và hưởng thụ các sản phẩm văn hóa sau giờ lao động. Cũng như các đơn vị
kinh tế khác, gia đình tham gia trực tiếp vào quá trình sảnxuất và tái sản sản xuất ra tư
liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng. Tuy nhiên, đặc thù củagia đình mà các đơn vị kinh tế
khác không có được, là ở chỗ, gia đình là đơn vị duy nhất tham gia vào quá trình tái sản
xuất ra sức lao động cho xã hội. Gia đình không chỉ tham gia trực tiếp vào quá trình sản
xuất ra của cải vật chấtvà sức lao động cho xã hội, mà còn là một đơn vị tiêu dùng trong
xã hội.

Gia đình thực hiện chức năng tổ chức tiêu dùng hàng hóa để duy trì đời sống của gia đình
về laođộng sản xuất cũng như sinh hoạt gia đình. Đó là việc sử dụng hợp lý các khoản
thunhập của các thành viên trong gia đình vào việc đảm bảo đời sống vật chất và tinh
thầncủa mỗi thành viên cùng với việc sử dụng quỹ thời gian nhàn rỗi để tạo ra một
môitrường văn hóa lành mạnh trong gia đình, nhằm nâng cao sức khỏe, đồng thời để
duytrỉ sở thích, sắc thái riêng của mỗi người. Cùng với sự phát triển của xã hội, ở mỗi
hình thức gia đình và ngay cả ở mộthình thức gia đình, nhưng tùy theo từng giai đoạn
phát triển của xã hội, chức năng kinh tế của gia đình có sự khác nhau, về quy mô sản
xuất, sở hữu tư liệu sản xuất vàcách thức tổ chức sản xuất và phân phối. Vị trí, vai trò của
kinh tế gia đình và mối quan hệ của kinh tế gia đình với các đơn vị kinh tế khác trong xã
hội cũng không hoàn toàn giống nhau. Thực hiện chức năng này, gia đình đảm bảo nguồn
sinh sống, đáp ứng nhu cầu vật chất, tinh thần của các thành viên trong gia đình. Hiệu quả
hoạt động kinh tế củagia đình quyết định hiệu quả đời sống vật chất và tinh thần của mỗi
thành viên giađình. Đồng thời, gia đình đóng góp vào quá trình sản xuất và tái sản xuất ra
của cải, sựgiầu có của xã hội. Gia đình có thể phát huy một cách có hiệu quả mọi tiềm
năng của mình về vốn, về sức lao động, tay nghề của người lao động, tăng nguồn của cải
vật chất cho gia đình và xã hội. Thực hiện tốt chức năng này, không những tạo cho gia
đình có cơ sở để tổ chức tốt đời sống, nuôi dạy con cái, mà còn đóng góp to lớn đối với
sự phát triển của xã hội.

Chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình cảm gia đình

Trong quá trình sống của con người, nhiều vấn đề tâm - sinh lý thuộc giới tính, thế hệ...
luôn diễn ra trong phạm vi gia đình mà trước hết là trong quan hệ giữa vợ và chồng, giữa
cha mẹ và con cái. Bởi vậy, sự hiểu biết tâm - sinh lý cá nhân, sở thích của nhau để ứng
xử phù hợp, tế nhị, chân thành, tạo nên không khí tinh thần lành mạnh, ổn định, hài hòa
là vấn đề quan trọng mà gia đình phải và có thể đảm nhận. Đây là chức năng thường
xuyên của gia đình, bao gồm việc thỏa mãn nhu cầu tình cảm, văn hóa, tinh thần cho các
thành viên, đảm bảo sự cân bằng tâm lý, bảo vệ chăm sóc sức khỏe người ốm, người già,
trẻ em. Sự quan tâm, chăm sóc lẫn nhau giữacác thành viên trong gia đình vừa là nhu cầu
tình cảm vừa là trách nhiệm, đạo lý, lương tâm của mỗi người. Do vậy, gia đình là chỗ
dựa tình cảm cho mỗi người, là nơinương tựa về mặt tinh thần chứ không chỉ là nơi
nương tựa về vật chất của con người. Với việc duy trì tình cảm giữa các thành viên, gia
đình có y nghĩa quyết định đến sự ổn định và phát triển của xã hội. Khi các quan hệ tình
cảm gia đình rạn nứt, quan hệ tình cảm trong xã hội cũng có nguy cơ bị phá vỡ. Ngoài
những chức năng trên, gia đình còn có chức năng văn hóa, chức năng chính trị… Với
chức năng văn hóa, gia đình là nơi lưu giữ truyền thống văn hóa củadân tộc cũng như tộc
người. Những phong tục, tập quán, sinh hoạt văn hóa của cộngđồng được thực hiện trong
gia đình. Gia đình không chỉ là nơi ưu giữ mà còn là nớisáng tạo và thực hiện những giá
trị đạo đức, văn hóa. Với chức năng chính trị, gia đìnhlà một tổ chức chính trị của xã hội,
là nơi tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật của nhà nước và quy chế (hương ước) của
làng xã và hưởng lợi từ hệ thống pháp luật, chính sách và quy chế đó. Gia đình cũng là
cầu nối của mối quan hệ giữa nhà nước với công dân.

1.2 Những cơ sở xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

1.2.1 Cơ sở kinh tế - xã hội:

Cơ sở kinh tế - xã hội để xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là
sự phát triển của lực lượng sản xuất và tương ứng trình độ của lực lượng sản xuất là quan
hệ sản xuất mới, xã hội chủ nghĩa. Cốt lõi của quan hệ sản xuất mới ấy là chế độ sở hữu
xã hội chủ nghĩa đối với tư liệu sản xuất từng bước hình thành và củng cố thay thế chế độ
sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Nguồn gốc của sự áp bức bóc lột và bất bình đẳng
trong xã hội và gia đình dần dần bị xóa bỏ, tạo cơ sở kinh tế cho việc xây dựng quan hệ
bình đẳng trong gia đình và giải phóng phụ nữ trong trong xã hội.
V.I.Lênin đã viết: “Bước thứ hai và là bước chủ yếu là thủ tiêu chế độ tư hữu về ruộng
đất, công xưởng và nhà máy. Chính như thế và chỉ có như thế mới mở được con đường
giải phóng hoàn toàn và thật sự cho phụ nữ, mới thủ tiêu được “chế độ nô lệ gia đình”
nhờ có việc thay thế nền kinh tế gia đình cá thể bằng nền kinh tế xã hội hóa quy mô
lớn”.1

Xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất là xóa bỏ nguồn gốc gây nên tình trạng thống trị
của người đàn ông trong gia đình, sự bất bình đẳng giữa nam và nữ, giữa vợ và chồng, sự
nô dịch đối với phụ nữ. Bởi vì sự thống trị của người đàn ông trong gia đình là kết quả sự
thống trị của họ về kinh tế, sự thống trị đó tự nó sẽ tiêu tan khi sự thống trị về kinh tế của
đàn ông không còn. Xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất đồng thời cũng là cơ sở để
biến lao động tư nhân trong gia đình thành lao động xã hội trực tiếp, người phụ nữ dù
tham gia lao động xã hội hay tham gia lao động gia đình thì lao động của họ đóng góp
cho sự vận động và phát triển, tiến bộ của xã hội. Như Ph.Ăngghen đã nhấn mạnh: “Tư
liệu sản xuất chuyển thành tài sản chung, thì gia đình cá thể sẽ không còn là đơn vị kinh
tế của xã hội nữa. Nền kinh tế tư nhân biến thành một ngành lao động xã hội. Việc nuôi
dạy con cái trở thành công việc của xã hội”. Do vậy, phụ nữ có địa vị bình đẳng với đàn
ông trong xã hội. Xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất cũng là cơ sở làm cho hôn
nhân được thực hiện dựa trên cơ sở tình yêu chứ không phải vì lý do kinh tế, địa vị xã hội
hay một sự tính toán nào khác.

1.2.2 Cơ sở chính trị - xã hội

Cơ sở chính trị để xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là việc
thiết lập chính quyền nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, nhà nước xã
hội chủ nghĩa. Trong đó, lần đầu tiên trong lịch sử, nhân dân lao động được thực hiện
quyền lực của mình không có sự phân biệt giữa nam và nữ. Nhà nước cũng chính là công

1
V.I.Lênin. (1977). Toàn tập, tập 42. Mátxcơva: NXB Tiến bộ, tr.464.
cụ xóa bỏ những luật lệ cũ kỹ, lạc hậu, đè nặng lên vai người phụ nữ đồng thời thực hiện
việc giải phóng phụ nữ và bảo vệ hạnh phúc gia đình. Như V.I.Lênin đã khẳng định:
“Chính quyền xô viết là chính quyền đầu tiên và duy nhất trên thế giới đã hoàn toàn thủ
tiêu tất cả pháp luật cũ kỹ, tư sản, đê tiện, những pháp luật đó đặt người phụ nữ vào tình
trạng không bình đẳng với nam giới, đã dành đặc quyền cho nam giới… Chính quyền xô
viết, một chính quyền của nhân dân lao động, chính quyền đầu tiên và duy nhất trên thế
giới đã hủy bỏ tất cả những đặc quyền gắn liền với chế độ tư hữu, những đặc quyền của
người đàn ông trong gia đình…”1.

Nhà nước xã hội chủ nghĩa với tính cách là cơ sở của việc xây dựng gia đình trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thể hiện rõ nét nhất ở vai trò của hệ thống pháp luật,
trong đó có Luật Hôn nhân và Gia đình cùng với hệ thống chính sách xã hội đảm bảo lợi
ích của công dân, các thành viên trong gia đình, đảm bảo sự bình đẳng giới, chính sách
dân số, việc làm, y tế, bảo hiểm xã hội… Hệ thống pháp luật và chính sách xã hội đó vừa
định hướng vừa thúc đẩy quá trình hình thành gia đình mới trong thời kỳ quá độ đi lên
chủ nghĩa xã hội. Chừng nào và ở đâu, hệ thống chính sách, pháp luật chưa hoàn thiện thì
việc xây dựng gia đình và đảm bảo hạnh phúc gia đình còn hạn chế.

1.2.3 Cơ sở văn hoá

Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cùng với những biến đổi căn bản trong đời
sống chính trị, kinh tế, thì đời sống văn hóa, tinh thần cũng không ngừng biến đổi. Những
giá trị văn hóa được xây dựng trên nền tảng hệ tư tưởng chính trị của giai cấp công nhân
từng bước hình thành và dần dần giữ vai trò chi phối nền tảng văn hóa, tinh thần của xã
hội, đồng thời những yếu tố văn hóa, phong tục tập quán, lối sống lạc hậu do xã hội cũ để
lại từng bước bị loại bỏ.

Sự phát triển hệ thống giáo dục, đào tạo, khoa học và công nghệ góp phần nâng cao trình
độ dân trí, kiến thức khoa học và công nghệ của xã hội, đồng thời cũng cung cấp cho các
thành viên trong gia đình kiến thức, nhận thức mới, làm nền tảng cho sự hình thành
những giá trị, chuẩn mực mới, điều chỉnh các mối quan hệ gia đình trong quá trình xây
1
V.I.Lênin. (1977). Toàn tập, tập 40. Mátxcơva: NXB Tiến bộ, tr.182.
dựng chủ nghĩa xã hội. Thiếu đi cơ sở văn hóa, hoặc cơ sở văn hóa không đi liền với cơ
sở kinh tế, chính trị, thì việc xây dựng gia đình sẽ lệch lạc, không đạt hiệu quả cao.

1.2.4 Chế độ hôn nhân tiến bộ

Hôn nhân tự nguyện

Hôn nhân tiến bộ là hôn nhân xuất phát từ tình yêu giữa nam và nữ. Tình yêu là khát
vọng của con người trong mọi thời đại. Chừng nào, hôn nhân không được xây dựng trên
cơ sở tình yêu thì chừng đó, trong hôn nhân, tình yêu, hạnh phúc gia đình sẽ bị hạn chế.

Hôn nhân xuất phát từ tình yêu tất yếu dẫn đến hôn nhân tự nguyện. Đây là bước phát
triển tất yếu của tình yêu nam nữ, như Ph.Ăngghen nhấn mạnh:

“... nếu nghĩa vụ của vợ chồng là phải thương yêu nhau thì nghĩa vụ của những kẻ yêu
nhau há chẳng phải là kết hôn với nhau và không được kết hôn với người khác”1

Hôn nhân tự nguyện là đảm bảo cho nam nữ có quyền tự do trong việc lựa chọn người
kết hôn, không chấp nhận sự áp đặt của cha mẹ. Tất nhiên, hôn nhân tự nguyện không
bác bỏ việc cha mẹ quan tâm, hướng dẫn giúp đỡ con cái có nhận thức đúng, có trách
nhiệm trong việc kết hôn.

Hôn nhân tiến bộ còn bao gồm cả quyền tự do ly hôn khi tình yêu giữa nam và nữ không
còn nữa. Ph.Ăngghen viết: “Nếu chỉ riêng hôn nhân dựa trên cơ sở tình yêu mới hợp đạo
đức thì cũng chỉ riêng hôn nhân trong đó, tình yêu được duy trì mới là hợp đạo đức
mà thôi... và nếu tình yêu đã hoàn toàn phai nhạt hoặc bị một tình yêu say đắm mới át đi,
thì ly hôn sẽ là điều hay cho cả đôi bên cũng như cho xã hội”. Tuy nhiên, hôn nhân tiến
bộ không khuyến khích việc ly hôn, vì ly hôn để lại hậu quả nhất định cho xã hội, cho cả
vợ, chồng và đặc biệt là con cái. Vì vậy, cần ngăn chặn những trường hợp nông nổi khi ly
hôn, ngăn chặn hiện tượng lợi dụng quyền ly hôn và những lý do ích kỷ hoặc vì mục đích
vụ lợi.

1
C.Mác và Ph.Ăng-ghen. (1995). Toàn tập, tập 21. Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, tr.125.
1.2.5 Chế độ hôn nhân tiến bộ

Hôn nhân tiến bộ còn bao gồm cả quyền tự do ly hôn khi tình yêu giữa nam và nữ không
còn nữa. Ph.Ăngghen viết: “Nếu chỉ riêng hôn nhân dựa trên cơ sở tình yêu mới hợp đạo
đức thì cũng chỉ riêng hôn nhân trong đó, tình yêu được duy trì mới là hợp đạo đức mà
thôi... và nếu tình yêu đã hoàn toàn phai nhạt hoặc bị một tình yêu say đắm mới át đi, thì
ly hôn sẽ là điều hay cho cả đôi bên cũng như cho xã hội”2. Tuy nhiên, hôn nhân tiến bộ
không khuyến khích việc ly hôn, vì ly hôn để lại hậu quả nhất định cho xã hội, cho cả vợ,
chồng và đặc biệt là con cái. Vì vậy, cần ngăn chặn những trường hợp nông nổi khi ly
hôn, ngăn chặn hiện tượng lợi dụng quyền ly hôn và những lý do ích kỷ hoặc vì mục đích
vụ lợi.

Hôn nhân một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng

Bản chất của tình yêu là không thể chia sẻ được, nên hôn nhân một vợ một chồng là kết
quả tất yếu của hôn nhân xuất phát từ tình yêu. Thực hiện hôn nhân một vợ một chồng là
điều kiện đảm bảo hạnh phúc gia đình, đồng thời cũng phù hợp với quy luật tự nhiên, phù
hợp với tâm lý, tình cảm, đạo đức con người.

Hôn nhân một vợ một chồng đã xuất hiện từ sớm trong lịch sử xã hội loài người, khi có
sự thắng lợi của chế độ tư hữu đối với chế độ công hữu nguyên thủy. Tuy nhiên, trong
các xã hội trước, hôn nhân một vợ một chồng thực chất chỉ đối với người phụ nữ. “Chế
độ một vợ một chồng sinh ra là từ sự tập trung nhiều của cải vào tay một người, vào tay
người đàn ông, và từ nguyện vọng chuyển của cải ấy lại cho con cái của người đàn ông
ấy, chứ không phải của người nào khác. Vì thế, cần phải có chế độ một vợ một chồng về
phía người vợ, chứ không phải về phía người chồng”. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, thực hiện sự bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau giữa vợ và chồng. Trong đó vợ và
chồng để có quyền và nghĩa vụ ngang nhau về mọi vấn đề của cuộc sống gia đình. Vợ và
chồng được tự do lựa chọn những vấn đề riêng, chính đáng như nghề nghiệp, công tác xã
hội, học tập và một số nhu cầu khác v.v. Đồng thời cũng có sự thống nhất trong việc giải
quyết những vấn đề chung của gia đình như ăn, ở, nuôi dạy con cái,... nhằm xây dựng gia
đình hạnh phúc.

Quan hệ vợ chồng bình đẳng là cơ sở cho sự bình đẳng trong quan hệ giữa cha mẹ với
con cái và quan hệ giữa anh chị em với nhau. Nếu như cha mẹ có nghĩa vụ yêu thương
con cái, ngược lại, con cái cũng có nghĩa vụ biết ơn, kính trọng, nghe lời dạy bảo của cha
mẹ. Tuy nhiên, quan hệ giữa cha mẹ và con cái, giữa anh chị em sẽ có những mâu thuẫn
không thể tránh khỏi do sự chênh lệch tuổi tác, nhu cầu, sở thích riêng của mỗi người. Do
vậy, giải quyết mâu thuẫn trong gia đình là vấn đề cần được mọi người quan tâm, chia sẻ.

Hôn nhân được đảm bảo về pháp lý

Quan hệ hôn nhân, gia đình thực chất không phải là vấn đề riêng của mỗi gia đình mà là
quan hệ xã hội. Tình yêu giữa nam và nữ là vấn đề riêng của mỗi người, xã hội không can
thiệp, nhưng khi hai người đã thỏa thuận để đi đến kết hôn, tức là đã đưa quan hệ riêng
bước vào quan hệ xã hội, thì phải có sự thừa nhận của xã hội, điều đó được biểu hiện
bằng thủ tục pháp lý trong hôn nhân. Thực hiện thủ tục pháp lý trong hôn nhân, là thể
hiện sự tôn trọng trong tình yêu, trách nhiệm giữa nam và nữ, trách nhiệm của cá nhân
với gia đình và xã hội và ngược lại. Đây cũng là biện pháp ngăn chặn những cá nhân lợi
dụng quyền tự do kết hôn, tự do ly hôn để thỏa mãn những nhu cầu không chính đáng, để
bảo vệ hạnh phúc của cá nhân và gia đình. Thực hiện thủ tục pháp lý trong hôn nhân
không ngăn cản quyền tự do kết hôn và tự do ly hôn chính đáng, mà ngược lại, là cơ sở
để thực hiện những quyền đó một cách đầy đủ nhất.

Tóm tắt

Chương một đã giới thiệu một cách khá tổng quát về khái niệm của gia đình. Rằng gia
đình là một cộng đồng xã hội đặc biệt, hình thành trên quan hệ hôn nhân và được gắn kết
bởi các quy định về pháp luật và đạo đức.
Tiếp theo chương này cũng phân tích về vị trí của gia đình trong xã hội. Cụ thể thì, gia
đình được xem như tế bào của xã hội là cơ sở cầu thành quyết định sự tồn tại của xã hội.
Cùng với đó gia đình còn là tổ ấm, mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hòa trong đời
sống cá nhân của mỗi thành viên và ngoài ra gia đình còn được xem như cầu nối giữa cá
nhân và xã hội, cá nhân tác động đến xã hội thông qua gia đình và xã hội xem xét cá nhân
cũng thông qua sự ràng buộc với gia đình. Song song với đó, chương mở đầu này cũng đề
cập đến các chức năng mà gia đình đảm nhận. Thứ nhất, gia đình có chức năng tái sản
xuất ra con người đây là chức năng mang tính trọng yếu để quy trì xã hội cũng như nhân
loại. Thứ hai, gia đình có chức năng nuôi dưỡng, giáo dục. Thứ ba, gia đình có chức năng
kinh tế và tổ chức tiêu dùng. Và thứ tư, gia đình có chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh
lý, duy trì tình cảm gia đình.

Trong chương còn đưa vào xem xét các cơ sở xây dựng nên gia đình trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, có thể kể đến như là: Cơ sở kinh tế - xã hội, có nền tảng vững
chắc về cơ sở này thì mới có thể xóa bỏ nguồn gốc của sự bóc lột, bất công để xây dựng
gia đình bình đẳng. Kế đến là, cơ sở chính trị xã hội, cơ sở này vừa có tính chất định
hướng vừa có tính thúc đẩy hình thành gia đình mới trong thời kỳ quá độ. Và không thể
thiếu cơ sở văn hóa, cơ sở văn hóa phải luôn được đặt cạnh, song hành cùng cơ sở kinh
tế, chính trị thì việc xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ mới đạt được hiệu quả cao.
Tiếp theo đó là những tìm hiểu về chế độ hôn nhân tiến bộ, được phân tích dựa trên các
tiêu chí: Hôn nhân tự nguyện tức là hôn nhân phải dựa trên cơ sở là tình yêu. Hôn nhân
một vợ một chồng bình đẳng, vì bản chất tình yêu là không thể chia sẻ nên hôn nhân xây
dựng trên tình yêu tất yếu dẫn đến điều này, do đó đây cũng là một điều kiện tiên quyết
để duy trì được hạnh phúc trong gia đình. Cuối cùng, hôn nhân phải được đảm bảo về
mặt pháp lý, như đã phân tích ở trên gia đình có gắn kết lớn đối với xã hội nên vấn đề
hôn nhân không chỉ là vấn đề của riêng gia đình, cá nhân mà cần phải được thừa nhận bởi
xã hội thông qua các thủ tục pháp lý.

Việc tìm hiểu các khái niệm, kiến thức cơ bản ở chương này nhằm giúp cho việc đi sâu
vào phân tích nội dung chính của đề tài ở chương hai đó là vấn đề về thực trạng và giải
pháp trong việc xây dựng gia đình hạnh phúc ở nước ta hiện nay.

2.1. Khái quát tình hình giới tính Việt Nam hiện nay

Giới tính là sự khác biệt giữa nam và nữ về phương diện sinh học, có sẵn từ khi sinh ra,
đồng nhất và không biến đổi (trừ trường hợp có sự can thiệp của y học). Ví dụ nam giới
có thể làm thụ thai, phụ nữ có thể sinh con và cho con bú.

Trong những năm vừa qua, tỷ số về giới tính khi sinh đang có sự gia tăng. Đặc biệt trên
thế giới, Việt Nam là một trong những quốc gia hiếm hoi có sự chênh lệch giới tính khi
sinh ngay từ đứa con đầu tiên, có nghĩa là các cặp vợ chồng đã nghĩ đến việc lựa chọn
giới tính của con ngay khi ở lần sinh đầu tiên.

Tình trạng mất cân bằng giới tính này đưa Việt Nam vào top các quốc gia có tỷ lệ mất
cân bằng giới tính cao nhất. Tại châu Á, tỷ lệ mất cân bằng giới tính khi sinh của Việt
Nam đứng thứ 3 châu Á, chỉ sau Trung Quốc và Ấn Độ.

Trong cuộc tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019, một trong những chỉ số quan trọng
được Tổng cực Thống kê điều tra được là Tỷ số giới tính khi sinh hay còn gọi là SRB
phản ánh sự cân bằng giới tính của số bé trai và bé gái khi được sinh ra. Tỷ số này thông
thường là 104-106 bé trai/100 bé gái sinh ra). Bất kỳ sự thay đổi đáng kể nào của SRB
chệch khỏi mức sinh học bình thường này đều phản ánh những sự can thiệp có chủ ý gây
nên sự ảnh hưởng đến mất cân bằng của tự nhiên và đe dọa sự ổn định dân số của quốc
gia và toàn cầu.

Báo cáo tổng quan về bình đẳng giới năm 2021 cho biết, tỷ số giới tính khi sinh của Việt
Nam vẫn ở mức rất cao, khoảng  111,5 bé trai trên 100 bé gái. Mất cân bằng giới tính khi
sinh trước đây xảy ra chủ yếu ở thành thị, vùng đồng bằng Bắc Bộ thì nay lan rộng ra hầu
khắp cả nước. Do đó SRB của Việt Nam có xu hướng tang hơn so với mức sinh học tự
nhiên.
Có thể thấy việc ở Việt Nam sự mất cân bằng giới tính khi sinh hay tỷ số giới tính khi
sinh tăng lên là do những nguyên nhân như: Sự ưa thích sinh con trai trong bối cảnh giảm
sinh, văn hóa Nho giáo với phong tục về việc mong muốn có con trai để nối dõi tông
đường, thờ cúng tổ tiên cũng như đánh giá thấp giá trị của nữ giới trong gia đình và xã
hội tại mỗi vùng, miền và việc tiếp cận các dịch vụ y tế dễ dàng hơn trong lựa chọn giới
tính thai nhi khi mang thai hoặc chuẩn đoán giới tính thai nhi dẫn tới nạo phá thai vì lý do
lựa chọn giới tính,…

Tổng cục Thống kê nhận định, cấu trúc dân số của Việt Nam trong những thập kỷ sắp tới
sẽ mang dấu ấn mạnh mẽ của việc lựa chọn giới tính hiện tại. Theo các nhà khoa học xã
hội, tác động của hiện tượng tỉ lệ giới tính tăng cao sẽ liên quan tới quá trình hình thành
và cấu trúc gia đình với quy mô dân số nam vượt trội hơn so với nữ trong một thời gian
dài.

Nam giới trẻ tuổi sau này sẽ bị dư thừa so với nữ giới vì tỷ lệ nữ giới giảm dần trong
cùng một thế hệ và kết quả có thể dấn đến là sự đối mặt với những khó khan nghiêm
trọng khi nam giới tìm kiếm bạn đời. Trì hoãn hôn nhân gia đình và tăng tỷ lệ sống độc
thân là những khả năng sẽ xảy ra trong tương lai do tình trạng thiếu phụ nữ trong độ tuổi
kết hôn. Điều này sẽ tác động lên hệ thống gia đình gây ra sự giảm tỉ lệ sinh trầm trọng
đối với Việt Nam trong tương lai.

2.2. Vai trò của giáo dục giới tính trong đời sống con người ở Việt Nam hiện nay

Giới tính có vai trò quan trọng trong đời sống và hoạt động của con người. Giới tính tạo
nên những cảm xúc đặc biệt khi có sự giao lưu trực tiếp giữa hai người khác giới, làm
cho con người trở nên ý tứ, tế nhị, duyên dáng hơn (xấu hổ, thẹn thùng…) hoặc thận
trọng hơn trong quan hệ nam nữ và lịch sự hơn trong giao tiếp xã hội, giúp con người
phát triển nhân cách hài hoà hơn. Hoạt động của con người sẽ có thuận lợi hơn nếu như
có mối quan hệ cân bằng, hài hoà với người khác giới.
Giáo dục giới tính là nhằm trang bị những kiến thức về tâm lý, về đặc điểm giới tính của
mỗi giới, về hoạt động tình dục cho thanh thiếu niên, từ đò hình thành ở trẻ em những
quan niệm về hạnh phúc lứa đôi, trách nhiệm, làm vợ, làm chồng, làm cha mẹ… Quan
tâm và giáo dục giới tính cho con cái sẽ có ảnh hưởng đến nhận thức của trẻ trong quan
hệ bạn khác giới.

Hiện nay đã có không ít trẻ em phải chào đời khi cha mẹ chúng chưa thành người lớn,
dẫn đến nguy cơ trẻ không được thừa nhận hoặc thiếu sự che chở bảo vệ về vật chất và
tinh thần, dễ rối loạn tâm lý và chức năng thần kinh vì những bố mẹ chưa trở thành người
lớn này thiếu sự hiểu biết cũng như kinh nghiệm về cuộc sống gia đình. Để tránh được
những sai lầm vì không hiểu biết về giới tính và tình dục, các bậc cha mẹ và người thân
trong gia đình cần cung cấp cho trẻ em những kiến thức về tình bạn, tình yêu, cấu tạo và
chức năng của cơ quan sinh sản, những chuẩn mực trong quan hệ với người khác giới.

Theo các chuyên gia, việc thực hiện nội dung này cho trẻ cần có sự phù hợp với từng lứa
tuổi khác nhau. Điều này có thể mang lại nhiều tác dụng. Với trẻ nhỏ, khi nhận biết và
gọi đúng tên các bộ phận trên cơ thể không chỉ giúp ích trong việc truyền đạt cho cha mẹ
nếu gặp vấn đề liên quan tới sức khỏe mà còn phòng, tránh được nguy cơ bị xâm hại hoặc
lạm dụng. Với những trẻ ở độ tuổi lớn hơn, đặc biệt là thời kỳ dậy thì, điều này còn giúp
cho con có những thông tin đúng đắn, chuẩn bị tốt cho những thay đổi trong cơ thể để
không sợ hãi, bỡ ngỡ. Giúp trẻ không bị rơi vào những hoàn cảnh không mong muốn,
chẳng hạn như tệ nạn xã hội, bị kẻ xấu lợi dụng, xâm hại. Giúp bảo vệ sức khỏe bản thân
và cuộc sống lành mạnh hơn: việc hiểu biết về sức khỏe sinh sản, những rung động, tình
yêu, tình dục, cơ chế mang thai, sinh con, ... giúp cho trẻ tránh được nguy cơ quan hệ tình
dục sớm, mang thai ngoài ý muốn hoặc bị bệnh lây qua quan hệ tình dục, ... Bên cạnh đó,
trẻ sẽ biết chăm sóc bản thân đúng cách, đảm bảo sức khỏe và một cuộc sống lành mạnh,
an toàn.

Giáo dục giới tính nếu được tiến hành có chất lượng từ những năm đầu tiên đến trường
sẽ có những tác động sau đây:
Sự hiểu biết của học sinh về những gì có liên quan đến giới, giới tính và những vấn đề
liên quan đến tình dục, hôn nhân và gia đình có tác động định hướng cho các em trong
các quan hệ với bạn bè khác giới, với các vấn đề về hôn nhân và gia đình. Nhờ đó, việc
xây dựng gia đình, việc bảo đảm hạnh phúc gia đình - tế bào của xã hội sẽ được cải thiện
hơn.

Sự hiểu biết của học sinh về những vấn đề liên quan đếntuổi dậy thì, đến sinh hoạt tình
dục và các bệnh lây lan qua đường tình dục sẽ định hướng cho họ vấn đề sinh đẻ được an
toàn, bảo đảm để con cái khỏe mạnh.

Những hiểu biết trên cũng có tác động định hướng cho học sinh trong việc hiểu biết, ủng
hộ và hành động theo tinh thần và nội dung của chính sách dân số và kế hoạch hóa gia
đình của Đảng và Nhà nước ta.

2.3 Ý nghĩa của giáo dục giới tính

Giáo dục giới tính mang lại cho trẻ kiến thức và kỹ năng cần thiết để có sức khỏe
tình dục tốt. Biết được những kiến thức này giúp trẻ phát triển các mối quan hệ lành
mạnh, đưa ra quyết định sáng suốt về tình dục, nhận thức được giá trị bản than và yêu
bản thân nhiều hơn.

Giáo dục giới tính giúp trẻ có thêm kiến thức, hiểu biết toàn diện về các vấn đề cơ thể
của mình, sự thay đổi tâm sinh lý, những kỹ năng như về cách giao tiếp tích cực, giải
quyết được những mâu thuẫn, tìm hiểu và ý thức được những mối quan hệ tình dục an
toàn,… Giáo dục giới tính giúp giới trẻ có khả năng nhận thức và đưa ra những quyết
định có cơ sở, khả năng giao tiếp, đàm phán hiệu quả và thể hiện sự quyết đoán của mình.
Trẻ có thể ý thức được quan hệ tình dục không an toàn, từ đó biết cách phòng tránh và
giải quyết các vấn đề, tránh xa mối quan hệ không lành mạnh.

Giáo dục giới tính cung cấp cho người học kiến thức về sức khỏe tình dục và cách bảo
vệ chính mình, giúp trẻ hiểu về các rủi ro liên quan đến sức khỏe giới tính, như việc
truyền bệnh lây nhiễm, thai ngoài ý muốn và các vấn đề liên quan đến giới tính khác.
Trẻ ngay từ khi còn nhỏ đã có kiến thức về giới tính, được tiếp cận với thông tin chuẩn
xác sẽ giúp trẻ hình thành hệ nhận thức chuẩn mực nhất. Từ đó không chỉ giúp bảo vệ
mình khỏi những nguy hiểm mà còn biết tránh xa những tệ nạn xã hội. Giáo dục giới tính
sớm sẽ giúp trẻ cảm thấy an toàn hơn khi trẻ ở trong xã hội. Trẻ sẽ biết được những tệ
nạn cần tránh và có được những thái độ dứt khoát với điều đó. Trẻ sẽ biết cách để bảo vệ
bản thân và tránh được nguy cơ bị xâm hại tình dục từ các đối tượng xấu, vì vậy giảm
được số lượng trẻ bị xâm hại tình dục.

Giáo dục giới tính đáp ứng và hòa nhập về mặt văn hóa giúp trẻ cải thiện các kỹ
năng xã hội và cảm xúc cần để trở thành những người lớn biết quan tâm và đồng cảm.
Trẻ càng biết sớm về giới tính thì sẽ càng có tư tưởng trưởng thành hơn, suy nghĩ chín
chắn hơn.

Giáo dục giới tính thúc đẩy nhận thức về các quyền con người nói chung, bao gồm
các quyền của trẻ em và thanh thiếu niên. Giáo dục giới tính nhấn mạnh các quyền của
tất cả mọi người trong vấn đề sức khỏe, giáo dục, bình đẳng về tiếp cận thông tin và
không phân biệt đối xử. Giáo dục giới tính khuyến khích trẻ nhận biết được các quyền
của bản thân mình, công nhận và tôn trọng quyền của người khác, và tham gia việc vận
động cho những người bị xâm hại về quyền lợi.

Giáo dục giới tính góp phần thúc đẩy bình đẳng giới. Giáo dục giới tính xem xét tác
động của các chuẩn mực giới đối với sự bất bình đẳng, và ảnh hưởng của bất bình đẳng
tới sức khỏe và lợi ích của trẻ em và thanh thiếu niên, cũng như tới các nỗ lực nhằm ngăn
chặn các vấn đề như HIV, mắc các bệnh STI, mang thai sớm hoặc mang thai ngoài ý
muốn và bạo lực trên cơ sở giới. Giáo dục giới tính góp phần hình thành bình đẳng giới
thông qua nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của giới và đa dạng giới trong cuộc
sống; xem xét các chuẩn mực giới được định hình bởi sự khác biệt và tương đồng về văn
hoá, xã hội và sinh học; cũng như khuyến khích việc hình thành các mối quan hệ bình
đẳng và tôn trọng lẫn nhau dựa trên sự cảm thông và thấu hiểu.
Giáo dục giới tính có tác dụng trong việc định hình về giới tính bởi nó giúp mở rộng kiến
thức và hiểu biết của trẻ về các vấn đề liên quan đến giới tính. Nó cũng giúp trẻ hiểu về
việc thừa nhận và tôn trọng sự khác biệt giới tính và giúp các em trở thành những người
đàn ông và phụ nữ biết tôn trọng và đại diện cho quyền lợi của mọi người, không phân
biệt giới tính.

Giáo dục giới tính tác động đến toàn bộ nền văn hóa và cộng đồng. Giáo dục giới
tính góp phần hình thành một xã hội công bằng và bác ái bằng cách trao quyền cho cá
nhân và cộng đồng, thúc đẩy các kỹ năng tư duy phản biện và củng cố quyền công dân
của giới trẻ. Giáo dục giới tính trao quyền cho những người trẻ để các em có trách nhiệm
về hành động và quyết định của bản thân, đồng thời hiểu hành động của họ ảnh hưởng tới
người khác như thế nào. Giáo dục giới tính giúp các em phát triển các kỹ năng và thái độ
để đối xử với mọi người bằng sự tôn trọng, bao dung và hòa hợp bất luận dân tộc, chủng
tộc, địa vị xã hội, kinh tế hoặc nhập cư, tôn giáo, khuyết tật, xu hướng tính dục, bản dạng
giới, biểu hiện giới hoặc các đặc điểm giới tính.

KẾT LUẬN

Trong suốt hai mươi năm không ngừng đổi mới và phát triển đất nước, Việt Nam chúng
ta đã đạt được không ít thành tựu văn hóa, kinh tế xã hội mà vẫn gìn giữ được bản sắc
dân tộc, góp phần xây dựng và hoàn thiện nhân cách con người Việt Nam chúng ta.

Thông qua đề tài nghiên cứu trên, chúng ta có thể nhận thấy gia đình là một yếu tố quan
trọng trên con đường phát triển theo xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đặc biệt là trong vấn đề
giáo dục giới tính, gia đình góp phần rất lớn trong công cuộc dạy dỗ, giáo dục con trẻ về
giới tính cũng như là bảo vệ bản thân. Từ các nhận thức trên, chúng ta cần phải học hỏi
nhiều hơn từ các bậc tiền bối, nghiên cứu các lý luận thực tiễn theo chủ nghĩa Mác –
Lênin, học tập theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Góp phần thắng lợi trên con đường công
nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, thúc đẩy phát triển nền kinh tế đất nước đồng thời rút
ngắn thời kì quá độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO

You might also like