You are on page 1of 27

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HCM


KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN CUỐI KỲ


VẤN ĐỀ DÂN TỘC TRONG THỜI KỲ
QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI.
LIÊN HỆ THỰC TIỄN.

MÃ MÔN HỌC & MÃ LỚP: LLCT120405E_03CLC

NHÓM THỰC HIỆN: Hoa Phượng. Thứ 5 - tiết: 7-8

GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: ThS. Trần Ngọc Chung

Tp. Hồ Chí Minh, tháng 05 năm 2021


DANH SÁCH NHÓM THAM GIA VIẾT TIỂU LUẬN

HỌC KÌ II NĂM HỌC 2020-2021


Nhóm Hoa Phượng. Thứ 5 tiết 07, 08
Tên đề tài:Vấn đề dân tộc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Liên hệ thực tiễn.
ST TỶ LỆ %
HỌ VÀ TÊN SINH VIÊN MÃ SỐ SINH HOÀN
T VIÊN THÀNH
1 Nguyễn Kim Hạnh 20110468 100%
Nguyễn Tường Phương
2 20110069 100%
Uyên
3 Đặng Minh Châu 20110445 100%
4 Vũ Quốc Huy 20142342 100%
5 Hồ Thành Đạt 20142306 100%
6 Trần Đức Nguyên 20144292 100%

Ghi chú:

− Tỷ lệ % = 100%

− Trưởng nhóm: Nguyễn Kim Hạnh

Nhận xét của giáo viên

......................................................................................................................................................

......................................................................................................................................................

......................................................................................................................................................

......................................................................................................................................................

Ngày …. tháng ….năm 2021

Giáo viên chấm điểm


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục tiêu đề tài
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CƠ BẢN
1.1.Chủ nghĩa Mác – Lênin về dân tộc

1.1.1. Khái niệm, đặc trưng về dân tộc

1.1.2. Hai xu hướng khách quan của sự phát triển quan hệ dân tộc

1.1.3 Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác -Lênin
1.2. Dân tộc và quan hệ dân tộc ở Việt Nam

1.2.1. Đặc điểm của dân tộc Việt Nam

1.2.2. Quan điểm, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam 10
CHƯƠNG 2: LIÊN HỆ VỚI CHÍNH SÁCH DÂN TỘC VIỆT NAM 12
2.1. Sơ lược về dân tộc Việt Nam 12
2.2. Cơ sở chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam 13
2.3. Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội 13

2.4. Những thành tựu từ công cuộc xây dựng và thực hiện chính sách dân tộc Việt
Nam 15

2.5. Nhân thức đúng đắn trong quá trình thực hiện chính sách dân tộc 16
KẾT LUẬN 22
PHỤ LỤC – BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ 23
TÀI LIỆU THAM KHẢO 24

0
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Hiện nay thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản trên phạm vi toàn thế giới nói chung vẫn
đang tiếp diễn và con đường “phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa” tại các nước chủ nghĩa xã hội nói riêng có cơ sở lịch sử, thực tiễn sâu
xa, vững chắc và hoàn toàn khả thi. Việt Nam trong xu thế chung của thế giới cũng
đang tiến hành quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đây là quá trình lâu dài và cũng có nhiều
khó khăn. Và một trong những khó khăn đó chính là vấn đề về dân tộc. Vậy nên hôm
nay bọn em chọn vấn đề này để nghiên cứu và chỉ ra rõ những khó khăn về vấn đề
dân tộc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Và vấn đề này sẽ được chúng em
tìm hiểu bằng phương pháp nghiên cứu tài liệu.

2. Mục tiêu nghiên cứu

Cung cấp cho sinh viên những quan điểm cơ bản chủ nghĩa Mác LêNin về vấn đề dân
tộc; mối quan hệ dân tộc, nội dung chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt
Nam hiện nay. Từ đó giúp sinh viên thấy rõ tính khoa học trong quan điểm và cách
giải quyết dân tộc của chủ nghĩa Mác -lênin, của Đảng cộng sản Việt Nam, đồng thời
xác định trách nhiệm của bản thân góp phần tuyên truyền và thực hiện chủ trương,
chính sách, pháp luật về dân tộc của Đảng và Nhà nước.

PHẦN NỘI DUNG


CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CƠ BẢN
1
1.1 Chủ nghĩa Mác – Lênin về dân tộc
1.1.1 Khái niệm, đặc trưng về dân tộc
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác –Lênin, dân tộc là quá trình phát triển lâu dài của
xã hội loài người, trải qua các hình thức cộng đồng từ thấp đến cao, bao gồm: thị tộc,
bộ lạc, bộ tộc, dân tộc.
Sự biến đổi của phương thức sản xuất chính là nguyên nhân quyết định sự biến đổi
của cộng đồng dân tộc. Ở phương Tây, dân tộc xuất hiện khi phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa được xác lập thay thế phương thức sản xuất phong kiến.Ở phương
Đông, dân tộc được hình thành trên cơ sở một nền văn hoá, một tâm lý dân tộc đã
phát triển tương đối chín muồi và một cộng đồng kinh tế tuy đã đạt tới một mức độ
nhất định song nhìn chung còn kém phát triển và ở trạng thái phân tán. Dân tộc có hai
nghĩa được dùng phổ biến nhất:
⮚ Theo nghĩa hẹp, dân tộc là các tộc người trong một quốc gia nhiều dân tộc
khác nhau và có những đặc điểm sau:

- Có chung ngôn ngữ (bao gồm ngôn ngữ nói, ngôn ngữ viết; hoặc chỉ riêng ngôn ngữ
nói). Đây là tiêu chí cơ bản để phân biệt các tộc người khác nhau và là vấn đề luôn
được các dân tộc coi trọng giữ gìn. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển tộc người vì
nhiều nguyên nhân khác nhau, có những tộc người không còn ngôn ngữ mẹ đẻ mà sử
dụng ngôn ngữ khác làm công cụ giao tiếp.
- Có chung nét văn hóa đặc sắc: Văn hóa bao gồm văn hóa vật thể và phi vật thể ở
mỗi tộc người phản ánh truyền thống, lối sống, phong tục, tập quán, tín ngưỡng, tôn
giáo của tộc người đó. Lịch sử phát triển của các tộc người gắn liền với truyền
thống văn hóa của họ. Ngày nay, cùng với xu thếgiao lưu văn hóa vẫn song song tồn
tại xu thếbảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa của mỗi tộc người.
- Có ý thức tự giác dân tộc: Đây là tiêu chí quan trọng nhất để phân định một tộc
người và có vị trí quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi tộc người. Đặc
trưng nổi bật là các tộc người luôn tự ý thức về nguồn gốc, tộc danh của dân tộc
mình; đó còn là ý thức tự khẳng định sự tồn tại và phát triển của mỗi tộc người dù
cho có những tác động làm thay đổi địa bàn cư trú, lãnh thổ, hay tác động ảnh hưởng
2
của giao lưu kinh tế, văn hóa... Sự hình thành và phát triển của ý thức tự giác tộc
người liên quan trực tiếp đến các yếu tố của ý thức, tình cảm, tâm lý tộc người. 
Ba tiêu chí này tạo nên sự ổn định trong mỗi tộc người trong quá trình phát triển.
Đồng thời căn cứ vào ba tiêu chí này để xem xét và phân định các tộc người ở Việt
Nam hiện nay.Trong một quốc gia có nhiều tộc người, căn cứ vào số lượng của mỗi
cộng đồng, người ta phân thành tộc người đa số và tộc người thiểu số. Cách gọi này
không căn cứ vào trình độ phát triển của mỗi cộng đồng. Như vậy, khái niệm dân tộc
cần phải được hiểu theo hai nghĩa khác nhau. Thực chất, hai vấn đề này tuy khác
nhau nhưng lại gắn bó rất mật thiết với nhau và không thể tách rời nhau.
⮚ Theo nghĩa rộng: Dân tộc (nation) hay quốc gia dân tộc là cộng đồng chính trị -
xã hội có những đặc trưng cơ bản sau đây:

- Có chung phương thức sinh hoạt kinh tế. Đây là đặc trưng quan trọng nhất của dân
tộc và là cơ sở liên kết các bộ phận, các thành viên của dân tộc, tạo nên nền tảng
vững chắc của dân tộc.
- Có lãnh thổ chung ổn định không bị chia cắt, là địa bàn sinh tồn và phát triển của
cộng đồng dân tộc. Khái niệm lãnh thổ bao gồm cả vùng đất, vùng biển, hải đảo,
vùng trời thuộc chủ quyền của quốc gia dân tộc và thường được thể chế hoá thành
luật pháp quốc gia và luật pháp quốc tế. Vận mệnh dân tộc một phần rất quan trọng
gắn với việc xác lập và bảo vệ lãnh thổ quốc gia dân tộc.
- Có sự quản lý của một nhà nước, nhà nước - dân tộc độc lập.
- Có ngôn ngữ chung của quốc gia làm công cụ giao tiếp trong xã hội và trong cộng
đồng(bao gồm cả ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết).
- Có nét tâm lý biểu hiện qua nền văn hóa dân tộc và tạo nên bản sắc riêng của nền
văn hóa dân tộc. Đối với các quốc gia có nhiều tộc người thì tính thống nhất trong đa
dạng văn hóa là đặc trưng của nền văn hoá dân tộc.
1.1.2 Hai xu hướng khách quan của sự phát triển quan hệ dân tộc
Nghiên cứu chủ nghĩa tư bản trong thời kì độc quyền, V.I. Lênin đã phát hiện ra hai
xu hướng khách quan của phong trào dân tộc:

- Xu hướng thứ nhất, phân lập tách ra để phát triển. Xu hướng này gắn liền với

3
giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản do sự thức tỉnh và trưởng thành của ý thức dân
tộc. Biểu hiện của xu hướng này là kích thích đời sống và phong trào dân tộc, thành
lập các quốc gia độc lập có chính phủ, hiến pháp, thị trường,... phục vụ cho sự phát
triển của chủ nghĩa tư bản.

- Xu hướng thứ hai, liên kết lại để phát triển. Khi dân tộc ra đời gắn liền với việc
mở rộng và tăng cường quan hệ kinh tế, xoá bỏ sự ngăn cách giữa các dân tộc, từ đó
hình thành nên một thị trường thế giới, Chủ nghĩa tư bản trở thành một hệ thống.
Chính sự phát triển của lực lượng sản xuất, của khoa học - công nghệ đã xuất hiện
nhu cầu xoá bỏ sự ngăn cách giữa các dân tộc, thúc đẩy các dân tộc xích lại gần nhau.
Xu hướng này nổi bật trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa.
Hai xu hướng này vận động trong điều kiện của chủ nghĩa đế quốc gặp nhiều
trở ngại. Bởi vì, nguyện vọng của các dân tộc được sống độc lập, tự do bị chính sách
xâm lược của chủ nghĩa đế quốc xoá bỏ. Chính sách xâm lược của chủ nghĩa đế quốc
đã biến hầu hết các dân tộc nhỏ bé hoặc còn ở trình độ lạc hậu thành thuộc địa và phụ
thuộc của nó. Xu hướng các dân tộc xích lại gần nhau trên cơ sở tự nguyện và bình
đẳng bị chủ nghĩa đế quốc phủ nhận. Thay vào đó họ áp đặt lập ra những khối liên
hiệp nhằm duy trì áp bức, bóc lột đối với các dân tộc khác, trên cơ sở cưỡng bức và
bất bình đẳng.
Vì vậy, chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng, chỉ trong điều kiện của CNXH, khi chế
độ người bóc lột người bị xoá bỏ thì tình trạng dân tộc này áp bức, đô hộ các dân tộc
khác mới bị xoá bỏ và chỉ khi đó hai xu hướng khách quan của sự phát triển dân tộc
mới có điều kiện để thể hiện đầy đủ. Quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội
là sự quá độ lên một xã hội thực sự tự do, bình đẳng, đoàn kết hữu nghị giữa người và
người trên toàn thế giới.
Biểu hiện của hai xu hướng đó trong thời đại ngày nay
Hai xu hướng khách quan của phong trào dân tộc do V.I. Lênin phát hiện đang phát
huy tác dụng trong thời đại ngày nay với những biểu hiện rất phong phú và đa dạng.
⮚ Xét trong phạm vi các quốc gia xã hội chủ nghĩa có nhiều dân tộc:
- Trong điều kiện chủ nghĩa xã hội, hai xu hướng phát huy tác động cùng chiều, bổ
sung, hỗ trợ cho nhau. Sự tự chủ, phồn vinh của mỗi dân tộc sẽ tạo điều kiện vật chất
4
- tinh thần để hợp tác với các dân tộc anh em. Tuy nhiên, sự hoà quyện giữa các dân
tộc đã không làm mất sắc thái của từng dân tộc. Ngược lại, nó được bảo lưu, giữ gìn
và phát huy tinh hoa, bản sắc của từng dân tộc.
⮚ Xét trên phạm vi thế giới, sự tác động của hai xu hướng khách quan thể hiện
những điểm sau đây:
- Thời đại hiện nay là thời đại mà các dân tộc thuộc địa, phụ thuộc đã đứng lên xoá
bỏ sự nô dịch, áp bức giành quyền tự chủ quyết định vận mệnh dân tộc mình như lựa
chọn nền chính trị, con đường phát triển của dân tộc, quyền bình đẳng với dân tộc
khác,... Đây là mục tiêu vì độc lập dân tộc, thực chất là chống chủ nghĩa đế quốc,
chống kì thị dân tộc, phân biệt chủng tộc.

- Các dân tộc ngày nay có xu hướng xích lại gần nhau để trở thành một quốc gia
thống nhất theo nguyên trạng của lịch sử.

- Các dân tộc có sự tương đồng về địa lí, môi trường, một số giá trị văn hoá,... muốn
tạo thành những liên minh dân tộc trên cơ sở những lợi ích chung, muốn dựa vào
nhau để khắc phục những khó khăn trước mắt nhằm phát triển kinh tế và giải quyết
một số vấn đề chung như chiến tranh, môi trường, dịch bệnh, nghèo đói,...

Tóm lại, các dân tộc ngoài việc hội nhập còn phải tìm các giải pháp hữu hiệu để giữ
gìn và phát huy bản sắc của dân tộc mình. Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng sản
Việt Nam là "Giữ vững độc lập, tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa
phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại".

1.1.3 Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác – Lênin
Dựa trên quan điểm của C. Mác - Ph. Ăngghen về vấn đề dân tộc, tổng kết kinh
nghiệm đấu tranh của phong trào cách mạng thế giới và cách mạng Nga, đồng thời phân tích
sâu sắc hai xu hướng khách quan của phong trào dân tộc gắn liền với quá trình phát triển
của chủ nghĩa tư bản, nhất là giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, V.I. Lênin đã khái quát
thành Cương lĩnh dân tộc. Trong tác phẩm Về quyền dân tộc tự quyết, Người nêu rõ "Các
dân tộc hoàn toàn bình đẳng, các dân tộc được quyền tự quyết, liên hiệp công nhân tất cả
các dân tộc lại. Đó là Cương lĩnh dân tộc mà chủ nghĩa Mác, kinh nghiệm toàn thế giới,

5
kinh nghiệm của nước Nga dạy cho công nhân". Cương lĩnh dân tộc của Đảng Cộng sản bao
gồm ba nội dung cơ bản sau đây:
❖ Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng
- Bình đẳng là quyền thiêng liêng của các dân tộc, là mục tiêu phấn đấu của các dân tộc;
Các dân tộc dù lớn hay nhỏ; không phân biệt số đông, số ít,trình độ phát triển cao hay
thấp đều bình đẳng như nhau về quyền lợi và nghĩa vụ trên mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội.
- Không có dân tộc nào tự cho mình có đặc quyền đặc lợi đối với dân tộc khác. Trong
một quốc gia quyền bình đẳng giữa các tộc người phải được pháp luật bảo vệ và cụ thể
hoá trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy nhiên, trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội sự bình đẳng giữa các dân tộc chưa thể thực hiện ngay được mà phải thực
hiện dần dần trong quá trình phát triển của chủ nghĩa xã hội.
- Chống những biểu hiện trái với quyền bình đẳng dân tộc. Đó là: chủ nghĩa phân biệt
chủng tộc, chủ nghĩa dân tộc sôvanh, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi và chủ nghĩa phát xít
mới; gắn liền với cuộc đấu tranh xây dựng một trật tự kinh tế thế giới mới; chống sự áp
bức bóc lột của các nước tư bản phát triển đối với các nước chậm phát triển về kinh tế.
❖ Các dân tộc được quyền tự quyết
- Quyền tự quyết thực chất là một nội dung của quyền bình đẳng. Đó là quyền làm chủ
của mỗi dân tộc đối với vận mệnh của dân tộc mình.
- Quyền tự quyết có tính chất hai mặt. Một mặt, là quyền tự do phân lập về chính trị, có
nghĩa là sự phân lập của các dân tộc với tư cách là một quốc gia độc lập. Mặt khác,
quyền dân tộc tự quyết còn là quyền tự nguyện liên bang với các dân tộc khác trên cơ sở
bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ.

Thực tiễn Lê nin đã giải quyết rất khoa học vấn đề dân tộc trong cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở Nga:
- Trước cách mạng Tháng mười, Lênin ủng hộ xu hướng tách ra làm thất bại chính sách
sô vanh đại Nga và làm suy yếu chế độ Nga hoàng, tạo điều kiện thuận lợi cho CM
tháng 10 nổ ra và giàng thắng lợi.
- Sau cách mạng Tháng mười, Lênin ủng hộ liên hiệp tự nguyện thành lập liên bang
nhằm bảo đảm quyền bình đẳng, xóa bỏ thù hằn giữa các dân tộc; tăng sức mạnh cho
cách mạng đập tan sự bao vây của các nước đế quốc, xây dựng thành công xã hội chủ
nghĩa. (Ngày 31/12/1922 Lênin ra quyết định thành lập Liên bang các nước cộng hòa
6
Xô viết, gọi tắt là Liên Xô. Tuy nhiên đến tháng 12/1991 Liên Xô lại tách ra thành 15
nước cộng hòa; trong đó một số nước liên minh lỏng lẻo, thành lập cộng đồng các quốc
gia độc lập SNG)
❖ Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc
- Là cơ sở đảm bảo cho sự đoàn kết giai cấp công nhân trong giải quyết vấn đề dân tộc;
đồng thời nó còn là mục tiêu phấn đấu để giai cấp công nhân thế giới thực hiện sứ mệnh
lịch sử của mình: “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”
- Đây là nội dung xuyên suốt của cương lĩnh, phản ánh sự thống nhất về bản chất của
phong trào giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp; giải quyết vấn đề dân tộc trong
quan hệ với vấn đề giai cấp.
- Liên hiệp công nhân các dân tộc thực chất là đoàn kết, thống nhất các lực lượng tiến bộ
đấu tranh vì hoà bình, vì sự nghiệp giải phóng giai cấp và dân tộc. Khi chủ nghĩa tư bản
trở thành một hệ thống, giai cấp tư sản là một lực lượng quốc tế thì giai cấp vô sản phải
liên hiệp lại để chống kẻ thù chung của mình, giải phóng mình, đồng thời giải phóng
toàn nhân loại. Ph. Ăngghen đã viết: Không khôi phục lại độc lập và thống nhất cho
từng dân tộc về phương diện quốc tế, không thể thực hiện được sự đoàn kết của giai
cấp vô sản và sự hợp tác hoà bình và sự tự giác của các dân tộc để đạt mục đích chung.

Mối quan hệ giữa các nội dung của cương lĩnh: Tuy có tính độc lập tương đối song các
nội dung lại có quan hệ chặt chẽ, thống nhất với nhau; trong đó nội dung liên hiệp giai cấp
công nhân các dân tộc là tư tưởng quan trọng nhất.

Ý nghĩa:
- Nó vạch rõ bản chất, phương hướng giải quyết vấn đề dân tộc, là cơ sở lý luận, phương
pháp luận cho các Đảng cộng sản về việc giải quyết vấn đề dân tộc trong cách mạng XHCN.
- Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác - Lê nin được Hồ Chí Minh coi là cẩm nang thần
kỳ, là mặt trời soi sáng con đường đi tới thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Khi bắt gặp
cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác -Lê nin, Người đã từng nói: "Hỡi đồng bào bị đoạ
đầy đau khổ đây là cái cần thiết của chúng ta, đây là con đường giải phóng của chúng ta".

1.2 Dân tộc và quan hệ dân tộc ở Việt Nam


1.2.1 Đặc điểm của dân tộc Việt Nam
Đặc điểm nổi bật trong quan hệ giữa các dân tộc nước ta là sự liên kết cộng đồng đã
7
đạt đến mức độ bền vững, ý thức tự giác dân tộc người phát triển rất sớm. Đó là ý thức độc
lập, lòng tự hào, tự tôn dân tộc. Truyền thống yêu nước trở thành ngọn cờ đoàn kết các dân
tộc anh em trong quá trình dựng nước và giữ nước. Tình cảm dân tộc được bồi đắp, nâng
niu và trân trọng qua hàng nghìn năm lịch sử. Từ khi có Đảng lãnh đạo, tính cộng đồng dân
tộc được củng cố và nâng lên thành một chất lượng mới. Các dân tộc trong cộng đồng Việt
Nam đều có sự đồng thuận trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ quốc.

- Các dân tộc trên đất nước ta có truyền thống đoàn kết trong đấu tranh dựng nước,
giữ nước, xây dựng một cộng đồng thống nhất.
Do những yếu tố đặc thù của nền kinh tế lúa nước, một kết cấu công xã nông thôn bền chặt
xuất hiện rất sớm. Trải qua lịch sử chống ngoại xâm, dân tộc ta trở thành một quốc gia dân
tộc thống nhất ngay dưới chế độ phong kiến. Đoàn kết dân tộc là xu hướng khách quan vì
lợi ích, vận mệnh lịch sử, tương lai và tiền đồ của dân tộc.

- Cư trú các dân tộc Việt Nam là xen kẽ nhau giữa các dân tộc.
+ Hình thái cư trú xen kẽ giữa các dân tộc ngày càng gia tăng, tuy trong từng khu vực
nhất định có những dân tộc sống tương đối tập trung nhưng không hình thành địa bàn
riêng biệt.
+ Các dân tộc ở nước ta không có lãnh thổ riêng, không có nền kinh tế riêng. Sự thống
nhất hữu cơ giữa dân tộc và quốc gia ngày càng được củng cố.
+ Tình trạng cư trú xen kẽ giữa các dân tộc ở nước ta là một điều kiện thuận lợi cơ bản để
tăng cường quan hệ dân tộc. Tuy nhiên, tình trạng này có tính hai mặt: "Một mặt là điều
kiện để tăng cường hiểu biết nhau, đoàn kết, xích lại gần nhau; mặt khác, cần đề phòng
trường hợp có thể chưa thật hiểu nhau, khác nhau về phong tục, tập quán,... làm xuất hiện
mâu thuẫn, tranh chấp về lợi ích, nhất là lợi ích kinh tế, dẫn tới khả năng va chạm những
người thuộc các dân tộc cùng sinh sống trên một địa bàn".

- Các dân tộc Việt Nam có trình độ phát triển kinh tế - xã hội không đều nhau.
Do điều kiện tự nhiên, xã hội và hậu quả của các chế độ áp bức, bóc lột, xâm lược trong
lịch sử nên trình độ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội giữa các dân tộc còn chênh lệch
đáng kể. Đây là một đặc trưng cần hết sức quan tâm nhằm từng bước khắc phục tình
trạng trên để tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc.

8
- Nền văn hoá Việt Nam là nền văn hóa thống nhất trong đa dạng, mỗi dân tộc anh em
có những giá trị và sắc thái văn hoá riêng.
Các dân tộc Việt Nam đều có đời sống văn hoá mang bản sắc phong phú, đa dạng, phản
ánh truyền thống lịch sử, đời sống tinh thần và niềm tự hào dân tộc. Đặc trưng của sắc
thái văn hoá dân tộc bao gồm tiếng nói, chữ viết "Về ngôn ngữ, các dân tộc nước ta đều
có tiếng nói riêng - tiếng "mẹ đẻ" và đến nay đã có 26 dân tộc có chữ viết ".

- Cư trú trên các địa bàn chiến lược:


Các dân tộc thiểu số tuy chỉ chiếm 13% dân số cả nước nhưng lại cư trú ở địa bàn có vị
trí chiến lược quan trọng, có quan hệ dòng tộc với các dân tộc ở các nước láng giềng và
khu vực.

Tóm lại, xuất phát từ quá trình hình thành, phát triển và đặc trưng cơ bản của dân tộc
ta, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn quan tâm đến vấn đề dân tộc, coi đó là vấn đề chính trị -
xã hội rộng lớn, toàn diện gắn với mục tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

1.2.2. Quan điểm, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam
❖ Quan điểm:
- Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, cơ bản và cấp bách của cách
mang Việt Nam hiện nay.
- Các dân tộc trong đại gia đình Việt nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau
cùng tiến bộ, cùng nhau thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Vùng dân tộc thiểu số và miền núi phải được phát triển toàn diện cả về chính trị, kinh tế,
văn hoá, xã hội và quốc phòng, an ninh…
- Hệ thống chính trị ở vùng dân tộc thiểu số, nhất là cấp huyện và cơ sở phải được xây dựng,
củng cố và phát triển từng bước vững chắc; quan tâm phát triển, bồi dưỡng nguồn nhân
lực, ưu tiên đào tạo, bồi dưỡng và phát triển đội ngũ cán bộ, trí thức là người dân tộc thiểu
số.
- Công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân,
của cả hệ thống chính trị.
❖ Những chính sách dân tộc cơ bản của Đảng và Nhà nước ta
Trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta đã nêu rõ: Vấn đề dân
9
tộc và đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng. Chính sách của
Đảng, Nhà nước ta đối với dân tộc là "giữ gìn, làm giàu, phát huy bản sắc văn hoá và truyền
thống tốt đẹp giữa các dân tộc; thực hiện công bằng xã hội giữa các dân tộc, giữa miền núi
và miền xuôi". Những chính sách cụ thể là:
- Chính sách phát triển kinh tế hàng hoá ở các vùng dân tộc thiểu số phù hợp với điều
kiện và đặc điểm của từng vùng, khai thác được thế mạnh của các vùng dân tộc. Đây là
chính sách quan trọng nhất để giảm dần sự chênh lệch về phát triển kinh tế. Tại Hội nghị
lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương khoá IX, Đảng ta đã đề ra mục tiêu cụ thể đến năm
2010 "Các vùng dân tộc và miền núi cơ bản không còn hộ đói, giảm hộ nghèo xuống
dưới 10%; trên 90% hộ dân có đủ điện, nước sinh hoạt; xoá tình trạng nhà tạm, nhà dột
nát; 100% số xã có đường ô tô đến trung tâm xã." Cụ thể là:
+ Phải thực hiện tốt chính sách giao đất, giao rừng, tạo điều kiện cho đồng bào chủ
động sản xuất, gắn bó với đất và rừng. Cần "Có chính sách thu hút dân cư đến sinh sống
ở vùng đất biên giới, hải đảo còn thưa dân".
+ Thực hiện chính sách định canh, định cư cho đồng bào các dân tộc thiểu số
(Hiện nay nước ta có khoảng 1 triệu người còn sống du canh, du cư).
+ Đẩy mạnh phân công lao động xã hội để hình thành cơ cấu dân cư mới ở các vùng
dân tộc thiểu số, tạo động lực thúc đẩy các dân tộc phát triển kinh tế.
+ Chăm lo xây dựng đời sống vật chất, tinh thần, xoá đói giảm nghèo và chú trọng
xây dựng các cơ sở hạ tầng ở miền núi.
- Tôn trọng lợi ích, truyền thống, văn hoá, ngôn ngữ, tập quán, tín ngưỡng của đồng
bào các dân tộc; Đây là vấn đề quan trọng và tế nhị, cần lắng nghe ý kiến của đồng bào
và có chính sách cụ thể nhằm xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Thực hiện và đảm bảo về mặt pháp lý quyền bình đẳng giữa các ngôn ngữ trên lãnh thổ
Việt Nam, tạo điều kiện để có được quyền bình đẳng thực tế của các ngôn ngữ trên tất cả
các lĩnh vực; đồng thời có chính sách tích cực để phổ biến nhanh chóng và sâu rộng ở
trình độ cao ngôn ngữ phổ thông - Tiếng Việt trong các dân tộc thiểu số ở nước ta. Tiếng
Việt là ngôn ngữ chung, để giao lưu văn hoá giữa các dân tộc ở Việt Nam với các dân tộc
khác trên thế giới.
- Ưu tiên phát triển giáo dục đào tạo ở miền núi, coi trọng đào tạo cán bộ và trí thức
thuộc con em dân tộc thiểu số. Cần hỗ trợ lẫn nhau giữa đội ngũ cán bộ thuộc mọi dân tộc
trong cả nước. Cần có chính sách đãi ngộ vật chất, tinh thần xứng đáng để cán bộ sau khi
được đào tạo trở về xây dựng và yên tâm đóng góp cho quê hương, rút dần khoảng cách về
10
sự phát triển, tạo điều kiện để miền núi tiến kịp miền xuôi.
- Chính sách ưu tiên với cán bộ công tác tại vùng dân tộc ít người.
- Tăng cường đầu tư phát triển giao thông, giáo dục, y tế cho đồng bào các dân tộc.

11
CHƯƠNG 2: LIÊN HỆ VỚI CHÍNH SÁCH DÂN TỘC VIỆT NAM

2.1 Sơ lược về dân tộc Việt Nam


Việt Nam có 54 thành phần dân tộc. Trải qua bao thế kỷ, cộng đồng các dân tộc Việt
Nam đã gắn bó, đoàn kết đấu tranh chống kẻ thù xâm lược, bảo vệ bờ cõi, giành độc lập tự
do và xây dựng đất nước. Mỗi dân tộc đều có bản sắc văn hóa riêng, tạo nên sự thống nhất
và đa dạng của văn hóa Việt Nam.
Bản sắc văn hóa của các dân tộc được thể hiện rõ trong các hoạt động kinh tế, văn hóa
vật thể và phi vật thể của cộng đồng tộc người. Một trong những đặc trưng chung tạo nên
phẩm chất con người và văn hóa Việt Nam là lòng yêu nước, đức tính cần cù, chịu thương,
chịu khó, sáng tạo trong lao động sản xuất, gắn bó, hòa đồng với thiên nhiên, cộng đồng
làng xóm và đức tính nhân hậu, vị tha của mỗi con người.
54 dân tộc Việt Nam được xếp theo 3 ngữ hệ và 8 nhóm ngôn ngữ: Việt – Mường, Tày -
Thái, Mông - Dao, Ka Đai, Tạng Miến, Nam Đảo, Hán.
Nhóm Việt - Mường có 4 dân tộc: Kinh, Mường, Thổ, Chứt. Đồng bào sống chủ yếu bằng
nghề trồng lúa nước và đánh cá. Trong đời sống tâm linh có tục thờ cùng ông bà tổ tiên và
các nghề thủ công truyền thống phát triển ở trình độ cao.
Nhóm ngôn ngữ Tày - Thái có 8 dân tộc: Tày, Thái, Nùng, Giáy, Lào, Lự, Sán Chay,
Bố Y. Đồng bào cư trú tập trung ở các tỉnh vùng Đông Bắc và Tây Bắc Việt Nam như: Lạng
Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Sơn La, Lai Châu, Yên Bái.... Các
tộc người nhóm ngôn ngữ Tày Thái nói ngôn ngữ Nam Á, ở nhà sàn, cấy lúa nước kết hợp
với làm nương rẫy, biết lợi dụng địa hình thung lũng, sáng tạo ra chiếc cối giã gạo, con quay
cùng hệ thống mương, phai, lái, lín đưa nước về ruộng. Các nghề thủ công khá phát triển
như: Rèn, dệt với các sản phẩm đẹp và tinh tế. Họ có quan niệm chung về vũ trụ, con người
và những vị thần. Bên cạnh đó, mỗi tộc người lại có những bản sắc riêng, được biểu hiện
thông qua trang phục, nhà cửa, tập quán ăn uống, phong tục, lối sống và nếp sống tộc người.
Nhóm ngôn ngữ Mông - Dao có 3 dân tộc: Mông, Dao, Pà Thẻn; nhóm ngôn ngữ Ka
Đai có 4 dân tộc: La Chí, La Ha, Cờ Lao, Pu Péo; nhóm ngôn ngữ Tạng Miến có 6 dân tộc:
Lô Lô, Phù Lá, Hà Nhì, La Hủ, Cống, Si La. Các tộc người thuộc 3 nhóm này cư trú tập
trung đông ở các tỉnh: Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Hà Giang, Tuyên Quang, Sơn
La, Lào Cai, Lai Châu. Làng bản của họ được xây dựng trên các triền núi cao hay lưng
chừng núi. Một số các tộc người như La Chí, Cống, Si La và một vài nhóm Dao dựng làng
ven các con sông, con suối. Tuỳ theo thế đất, đồng bào dựng nhà sàn, nhà đất, nhà nửa sàn

12
nửa đất.
Đồng bào giỏi canh tác ngô, lúa nếp, lúa tẻ và các loại rau, đậu trên nương rẫy và
ruộng bậc thang, đồng thời phát triển các nghề thủ công như rèn, dệt vải, đan lát. Đặc biệt
phụ nữ vùng cao rất giỏi dệt vải, thêu thùa, làm ra những bộ trang phục độc đáo cho bản
thân, gia đình và cộng đồng. Chợ phiên là nơi thể hiện rõ bản sắc văn hóa vùng cao, phô
diễn toàn bộ đời sống kinh tế từ văn hoá ẩm thực, văn hoá mặc, nghệ thuật thêu thùa, in hoa,
biểu diễn âm nhạc, múa khèn... mang đậm dấu ấn văn hóa tộc người.
Nhóm ngôn ngữ Môn Khơ Me có 21 dân tộc: Ba Na, Brâu, Bru - Vân Kiều, Chơ Ro,
Co, Cơ Ho, Cơ Tu, Giẻ Triêng, H’rê, Kháng, Khơ Me, Khơ Mú, Mảng, Xinh Mun, M'nông,
Ơ Đê, Ma, Rơ Măm, Tà ôi, Xơ Đăng, Xtiêng. Đồng bào cư trú rải rác ở khu vực Tây Bắc,
miền Trung - Tây Nguyên và Nam Bộ. Đời sống kinh tế chủ yếu canh tác nương rẫy theo
phương pháp chọc lỗ tra hạt. Kiến trúc nhà rông, nhà dài Tây Nguyên, chùa của dân tộc Khơ
Me; nghề thủ công đan lát và lễ hội văn hoá cộng đồng là những nét văn hoá độc đáo của cư
dân Môn - Khơ Me.
Nhóm ngôn ngữ Nam Đảo có 5 dân tộc: Chăm, Gia Rai, Ê Đê, Raglai, Chu Ru. Đồng
bào cư trú tập trung trên các cao nguyên đất đỏ Tây Nguyên và dải đất ven biển miền Trung;
Văn hoá Nam Đảo mang đậm nét mẫu hệ.
Nhóm ngôn ngữ Hán có 3 dân tộc: Hoa, Ngái, Sán Dìu. Đồng bào cư trú trên cả ba
miền Bắc, Trung, Nam, văn hoá Hán mang đậm nét phụ hệ.
Có thể nói văn hóa Việt Nam là sự tổng hòa các giá trị văn hóa của 54 dân tộc anh em,
trong đó có những tộc người bản địa sống trên lãnh thổ Việt Nam, có những dân tộc di cư từ
nơi khác đến; có những dân tộc chỉ có số lượng vài trăm người, có những dân tộc có hàng
triệu người, nhưng các dân tộc luôn coi nhau như anh em một nhà, thương yêu đùm bọc lẫn
nhau chung sức xây dựng bảo vệ Tổ quốc
2.2 Cơ sở chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam
Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta là một hệ thống các chủ trương, giải
pháp nhằm thực hiện quyền bình đẳng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội giữa các dân tộc.
Hệ thống này được Đảng và Nhà nước xây dựng dựa trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ chí Minh, đặc điểm các dân tộc ở Việt Nam, yêu cầu chung của
cách mạng Việt Nam và nhiệm vụ chủ yếu trong mỗi thời kỳ.
Thứ nhất, chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng lý luận để
Đảng và Nhà nước ta xây dựng nên chính sách dân tộc.
Chủ nghĩa Mác – Lênin đã đề cập một cách toàn diện vấn đề dân tộc cũng và cũng đề ra
13
những giải pháp triệt để để giải quyết vấn đề dân tộc. Chủ nghĩa Mác-Lênin cũng đã nêu lên
quan điểm về vấn đề dân tộc là chỉ có giai cấp vô sản mới có thể giải quyết triệt để vấn đề
dân tộc. Cùng với đó là thực hiện Cương lĩnh dân tộc của V.I.Lênin là một nguyên tắc nhất
quán, lâu dài trong chính sách dân tộc của các Đảng cộng sản. Cương lĩnh dân tộc của Mác-
Lênin bao gồm ba điểm cơ bản nhất, có quan hệ mất thiết nhau là: thực hiện quyền bình
đẳng giữa các dân tộc, quyền dân tộc tự quyết và liên hiệp công nhân lại với nhau.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc là biểu hiện tập trung của sự vận dụng sáng
tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc thế kỷ XX.
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc là quán triệt quan điểm giải phóng dân
tộc và đoàn kết, bình đẳng giữa các dân tộc. Muốn đoàn kết phải thực hiện bình đẳng, giúp
nhau và các dân tộc cùng nhau làm chủ đất nước. Chỉ có đại đoàn kết dân tộc mới giành và
giữ vững nền độc lập của Tổ quốc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, chính sách dân tộc nước ta cần phải quán triệt và vận dụng một cách đúng
đắn, phù hợp với đặc điểm dân tộc ta cũng như yêu cầu chung của Cách mạng Việt Nam và
nhiệm vụ trong mỗi thời kỳ.
Nước ta là một quốc gia đa dân tộc và có nhiều đặc điểm quan trọng, nổi bậc. Các dân tộc
cư trú, sinh sống xen kẽ nhau và có sự chênh lệch khá lớn về trình độ phát triển kinh tế-xã
hội. Đồng thời, dân cư cũng phân bố không đều, ở các vùng núi, biên giới chủ yếu là các
dân tộc thiểu số. Và đặc điểm nổi bậc nhất là các dân tộc Việt Nam có truyền thống đoàn
kết, tương thân tương ái, gắn bó lâu đời trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước.
Ở trong từng giai đoạn Cách mạng Đảng ta luôn xác định và điều chỉnh chính sách dân tộc
cho phù với yêu cầu chung và nhiệm vụ Cách mạng. Trong giai đoạn hiện nay, thực hiện
chính sách dân tộc “bình đẳng, tôn trọng, đoàn kết, giải quyết hài hòa quan hệ giữa các dân
tộc, giúp nhau cùng phát triển” là nhiệm vụ quan trọng nhất. Để thực hiện được, Đảng ta
cần chú ý phát huy được sức mạnh đại đoàn đại kết của toàn dân tộc, toàn dân cùng với đảm
bảo lợi ích của các dân tộc, giải quyết thỏa đáng mối quan hệ giữa các dân tộc, phát huy sức
mạnh của từng dân tộc để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Như vậy, việc vận dụng các cơ sở trên, Đảng và Nhà nước ta đã xây dựng và đang
hoàn thiện chính sách dân tộc Việt Nam để cho phù hợp và mang lại hiệu quả tốt nhất trong
việc giải quyết các vấn đề dân tộc đang tồn tại và góp phần giúp phát triển kinh tế - xã hội
đưa đất nước đi lên.
2.3 Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội
14
Nêu lên những chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước đã đề ra

Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ
tài nguyên, môi trường; phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng
nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân
dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc
gia, trật tự, an toàn xã hội; thực hiện đường lối đối ngoại, độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác
và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng. Mặt trận thống nhất; xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng
Đảng trong sạch, vững mạnh (7). Những phương hướng này vừa là kết quả tổng kết thực
tiễn vừa là kết quả nghiên cứu lý luận, học hỏi kinh nghiệm quốc tế của Đảng ta.

Mục tiêu của những chính sách đó

Xây dựng xong về cơ bản những cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội, với kiến trúc thượng
tầng về chính trị và tư tưởng, văn hoá phù hợp, làm cho nước ta trở thành một nước xã hội
chủ nghĩa phồn vinh.

2.4 Những thành tựu từ công cuộc xây dựng và thực hiện chính sách dân tộc Việt
Nam
Nói về những thành tựu trong thực hiện chính sách dân tộc, có thể khẳng định, ở
nước ta hiện nay, tất cả mọi công dân không phân biệt dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, giới
tính,…đều bình đẳng về chính trị, pháp luật và mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội. Khối đại
đoàn kết dân tộc được giữ vững, sự gắn kết giữa 54 dân tộc ngày càng được củng cố, tăng
cường trên cơ sở tôn trọng, đoàn kết, giúp đỡ nhau cùng phát triển, chung tay xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Công tác dân tộc thời gian qua đã góp phần tích
cực trong việc thay đổi diện mạo vùng nông thôn, miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu
số, quyền bình đẳng giữa các dân tộc ngày càng được thể chế hóa, đời sống vật chất và tinh
thần của đồng bào ngày càng được nâng lên rõ rệt.
Không những công tác xóa đói, giảm nghèo đạt được kết quả khả quan mà đối với
công tác giáo dục dân trí của đồng bào các dân tộc cũng được cải thiện. Hiện nay, vùng
đồng bào dân tộc và miền núi đã phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở theo độ tuổi
và cơ bản xóa mù chữ. Đời sống văn hóa của các dân tộc được giữ gìn và phát huy, mạng

15
lưới thông tin, truyền thông rộng khắp và giúp cho đồng bào dân tộc tiếp cận được chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Các giá trị văn hóa truyền
thống được bảo tồn và phát huy, nhiều di sản văn hóa của đồng bào dân tộc đã được
UNESCO công nhận.
Bên cạnh đó, những lĩnh vực đời sống xã hội khác cũng được cải thiện và từng bước
được nâng lên như: công tác y tế ngày càng được cải thiện và đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức
khỏe cho đồng bào dân tộc; hệ thống chính trị vùng dân tộc được củng cố; đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức người dân tộc thiểu số trong hệ thống chính trị từng bước nâng lên cả
về số lượng lẫn chất lượng. Đó là nhờ vào chính sách “khuyến học, khuyến tài” và chính
sách ưu đãi trong lĩnh vực giáo dục đối với con, em đồng bào dân tộc thiểu số trong thời
gian qua đã đem lại nhiều hiệu quả thiết thực. Về an ninh chính trị và trật tự xã hội tại các
vùng dân tộc, vùng sâu, vùng xa, cơ bản ổn định. Bà con đồng bào dân tộc ngày càng tin
tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước.
2.5 Nhận thức đúng đắn trong quá trình thực hiện chính sách dân tộc
Việt nam là một quốc gia đa dân tộc, gồm 54 dân tộc anh em, nên vấn đề dân tộc
và chính sách dân tộc càng có ý nghĩa chiến lược xuyên suốt sự nghiệp cách mạng.
Nhận thức rõ vai trò quan trọng đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn quan tâm,
hoạch định và thực hiện một cách nhất quán chính sách dân tộc trong mọi thời kỳ của
cách mạng Việt Nam.

Có thể hiểu một số nội dung cơ bản của chính sách dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí
Minh và của Đảng ta như sau:

- Thứ nhất thực hiện nhất quán và xuyên suốt nguyên tắc cơ bản là bình đẳng, đoàn
kết, tương trợ và giúp đỡ nhau cùng phát triển.

Nội dung của nguyên tắc này là sự vận dụng và phát triển sáng tạo cương lĩnh dân
tộc của Lênin về quyền bình đẳng, quyền tự quyết của các dân tộc vào điều kiện cụ
thể của dân tộc Việt Nam. Đối với Việt Nam, tầm quan trọng của vấn đề dân tộc và
chính sách dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức từ rất sớm. Trên cơ sở vận
dụng tư tưởng của Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch rõ nội dung cốt lõi của vấn
đề dân tộc ở Việt Nam là quyền độc lập tự do, quyền bình đẳng và tự quyết cho toàn
thể dân tộc. Người đã từng khẳng định, nhân dân các dân tộc được hưởng độc lập tự

16
do là lẽ tự nhiên như “muôn vật được hưởng ánh sáng mặt trời”(1). Tự do, bình đẳng
của dân tộc còn phải được gắn liền với quyền tự do và hạnh phúc của nhân dân. Điều
này cũng đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh, nước được độc lập mà dân
không được tự do, dân vẫn nghèo khổ thì cũng chẳng có nghĩa lý gì. Bởi thế Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã hết sức chăm lo phát triển kinh tế, văn hoá của các dân tộc, làm cho
các dân tộc thiểu số khắc phục dần sự chênh lệch, tiến kịp trình độ chung, thực hiện
bình đẳng dân tộc.
Trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn khẳng định nội dung giá trị của
nguyên tắc trên và cụ thể hoá bằng những chủ trương, chính sách cụ thể phù hợp
trong từng giai đoạn cụ thể của cách mạng. Trong bầu không khí dân chủ và đổi mới,
Đại hội đảng toàn quốc lần thứ VII (năm 1991) đã xác định nội dung chính sách dân
tộc là các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Đó
cũng là một trong các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nghị quyết Đại hội
IX đã xác định, vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc luôn luôn có vị thế chiến lược và
phải thực hiện nhất quán theo nguyên tắc cơ bản là “bình đẳng, đoàn kết, tương trợ,
giúp nhau cùng phát triển”(2).
Trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chính sách dân tộc tạo
điều kiện để các dân tộc cùng phát triển là phù hợp với tính quy luật của quá trình
phân công lao động, sử dụng tài nguyên; thực hiện các chính sách của Đảng, thực
hiện các quyền phát triển của mỗi dân tộc đã được ghi trong Hiến chương Liên hợp
quốc. Bởi thế, trong chính sách dân tộc của Đảng ta, nội dung bình đẳng, đoàn kết,
tương trợ giúp nhau cùng phát triển gắn bó với nhau, trở thành một nguyên tắc chung
thống nhất có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn. Nguyên tắc này là cơ sở để Đại hội
IX xác định chủ trương “thực hiện đại đoàn kết các dân tộc, tôn giáo, giai cấp, tầng
lớp, thành phần kinh tế, mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi vùng của đất nước, “mọi thành
viên trong đại gia đình Việt Nam dù sông strong nước hay ở nước ngoài. Phát huy
sức mạnh của cả cộng đồng dân tộc, truyền thống yêu nước, ý chí tự lực tự cường và
lòng tự hào dân tộc, lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất, vì dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng; tôn trọng những ý
kiến khách nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc, xóa bỏ định kiến, mặc cảm,

17
phân biệt đối xử về quá khứ, giai cấp, thành phần, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy
lẫn nhau, hướng tới tương lai”(3).
- Thứ hai, quan tâm đến sự phát triển toàn diện của các dân tộc, tạo điều kiện cho
các dân tộc cùng phát triển, thực hiện công bằng xã hội giữa các dân tộc, giữa miền
núi và miền xuôi.

Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh thường quan tâm tới xây dựng và thực hiện chính
sách dân tộc với những nội dung vừa toàn diện, vừa thiết thực. Người chỉ rõ: “Đồng
bào miền núi phải đoàn kết giúp đỡ đồng bào miền xuôi. Và đồng bào miền xuôi phải
đoàn kết giúp đỡ đồng bào miền núi. Đó là hai phía, đó là chính sách của dân tộc của
Đảng”(4).
Trong bài nói chuyện tại một hội nghị cán bộ miền núi, Người nhấn mạnh “Chính
sách của Đảng và Chính phủ ta đối với miền núi là rất đúng đắn. Trong chính sách đó
hai điều quan trọng nhất là: Đoàn kết dân tộc và nâng cao đời sống của đồng bào” (5).
Người còn nhắc nhở việc thực hiện chính sách với miền núi phải quan tâm bằng thái
độ “săn sóc, giúp đỡ nhiều hơn nữa đối với đồng bào rẻo cao về mọi mặt”(6).
Để tạo điều kiện nâng cao đời sống cho đồng bào các dân tộc, từng bước rút ngắn
khoảng cách chênh lệch giữa các dân tộc, giữa miền núi với miền xuôi, đưa miền núi
tiến kịp miền xuôi, Người còn chỉ rõ: “Phải đoàn kết các dân tộc, phải đoàn kết
thương yêu giúp đỡ nhau về mọi mặt” và “Vấn đề quan trọng nhất ở miền núi hiện
nay là xây dựng hợp tác xã cho tốt, cũng cố cho tốt, quản lý cho tốt, phát triển giao
thông giữa huyện này và huyện khác, giữa tỉnh này và tỉnh khác cho tốt”(7).
Quán triệt quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngay từ Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ III (năm 1960), Đảng ta đã xác định chính sách dân tộc phải “làm cho miền
núi tiến kịp miền xuôi, các dân tộc thiểu số tiến kịp dân tộc đa số, “đoàn kết chặt chẽ
giữa các dân tộc để cùng nhau tiến lên chủ nghĩa xã hội”(8).
Phát triển tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tình hình mới, Nghị quyết Đại
hội IX của Đảng đã đề ra nhiệm vụ: “xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, phát
triển sản xuất hàng hoá, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, xoá đói, giảm nghèo,
mở mang dân trí, gìn giữ, làm giàu và phát huy bản sắc văn hoá và truyền thống tốt

18
đẹp của các dân tộc”(9). Với nội dung này, chính sách dân tộc của Đảng đã tạo điều
kiện cho các dân tộc cùng phát triển toàn diện và bình đẳng.
Vấn đề bình đẳng giữa các dân tộc đặt ra yêu cầu thực hiện công bằng xã hội giữa
các dân tộc, giữa miền núi và miền xuôi. Mục tiêu thực hiện chính sách dân tộc là
làm cho các dân tộc đạt tới sự bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, phát triển hài hoà
lợi ích của từng dân tộc với lợi ích của cả cộng đồng dân tộc nước ta. Không vì cái
chung mà vi phạm lợi ích của một dân tộc nào, ngược lại, không tuyệt đối hoá lợi ích
của dân tộc mình mà đối lập, biệt lập với lợi ích chung của cộng đồng các dân tộc.

Tuy nhiên, thực hiện công bằng không có nghĩa là không chú ý đến đặc điểm và
điều kiện phát triển của mỗi vùng, miền. Với những điều kiện khó khăn, vùng núi,
vùng đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ địa cách mạng và kháng
chiến cũ, cần quan tâm đặc biệt để giúp đỡ khắc phục những khó khăn. Quan điểm
thực hiện công bằng của Đảng ta thể hiện ở cả khâu phân phối hợp lý tư liệu sản xuất
và phân phối kết quả sản xuất, tạo điều kiện cho mọi người có cơ hội phát triển và sử
dụng tốt năng lực của mình. Mặt khác, công bằng không có nghĩa là cào bằng, dàn
đều, bình quân chủ nghĩa, mà chấp nhận có người, có vùng giàu trước để giúp đỡ,
thúc đẩy người đi sau, vùng đi sâu phát triển, thu hẹp dần khoảng cách giàu nghèo.

Để đạt những mục tiêu trên, Đảng và Nhà nước có chính sách ưu đãi trong đầu tư
cả về kinh tế, văn hoá và giáo dục, giải quyết tốt các vấn đề xã hội, phát huy bản sắc
văn hoá của từng dân tộc.

- Thứ ba, thực hiện chính sách ưu tiên trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu
số.

Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm
đến công tác cán bộ. Người chỉ rõ, cán bộ là gốc của công việc và mọi thắng lợi.
Người đã từng chỉ dẫn: “mọi công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay
kém”. Đánh giá đúng vai trò cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu công tác cán bộ
phải “khéo” cả trong đánh giá đúng cán bộ và sử dụng đúng cán bộ. Người thường
xuyên quan tâm đến cán bộ miền núi và nhắc nhở: “Phải chú trọng đào tạo, bồi
dưỡng, cân nhắc cán bộ miền núi. Cố nhiên cán bộ người Kinh phải giúp đỡ anh em

19
cán bộ địa phương, nhưng phải làm sao cho cán bộ địa phương tiến bộ, để anh em tự
quản lý lấy công việc ở địa phương, chứ không phải là bao biện làm thay”(10).
Quán triệt tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng đã coi nhiệm vụ đào tạo cán
bộ cho vùng đồng bào dân tộc, cán bộ là người dân tộc thiểu số có ý nghĩa cực kỳ
quan trọng trong chính sách dân tộc của Đảng. Đảng và Nhà nước đã quan tâm nhiều
đến việc đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp cán bộ dân tộc theo chính sách ưu tiên cho cán
bộ người dân tộc thiểu số. Nghị quyết Đại hội IX của Đảng đã xác định: “Tích cực
thực hiện chính sách ưu tiên trong việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu
số”(11), nhằm đáp ứng yêu cầu công tác cán bộ của Đảng trong thời kỳ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước.
Thứ tư, chống kỳ thị,chia rẽ dân tộc, chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi,
dân tộc cực đoan, khắc phục tư tưởng tự ti, mặc cảm dân tộc.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch rõ âm mưu chia để trị của thực dân phong kiến và
chỉ rõ tính ưư việt của chế độ ta trong thực hiện chính sách bình đẳng giữa các dân
tộc. Người viết: “trước kia bọn thực dân và phong kiến dùng mọi cách để chia rẽ các
dân tộc. Chúng làm cho dân tộc này khinh rẽ và oán ghét dân tộc khác, để chúng dễ
dàng áp bức bóc lột tất cả các dân tộc ta. Ngày nay, chế độ ta là chế độ dân chủ, Đảng
và Chính phủ ta chỉ lo phục vụ lợi ích của nhân dân. Đồng bào tất cả các dân tộc,
không phân biệt lớn nhỏ, phải thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, phải đoàn kết chặt chẽ
như anh em một nhà, để cùng nhau xây dựng Tổ quốc chung, xây dựng chủ nghĩa xã
hội làm cho tất cả các dân tộc được hạnh phúc, ấm no” (12). Người còn nhắc nhở phải
thường xuyên đấu tranh “khắc phục những tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, tự ti
dân tộc. Người dân tộc lớn dễ mắc bệnh kiêu ngạo. Cán bộ địa phương, nhân dân địa
phương lại dễ cho mình là dân tộc bé nhỏ, tự ti, cái gì cũng cho là mình không làm
được, rồi không cố gắng. Đó là những điểm phải tránh”(13).
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành nền tảng tư tưởng cho chính
sách dân tộc của Đảng ta trước đây cũng như hiện nay. Nhờ đó, truyền thống đoàn
kết bền vững trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam được xây dựng; làm thất bại âm
mưu, thủ đoạn chia rẽ của kẻ thù. Những biểu hiện tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp
hòi, dân tộc cực đoan, tự ti, mặc cảm dân tộc chỉ là cục bộ, cá biệt ở nơi này, nơi
20
khác. Bởi vậy, thực hiện chính sách dân tộc phải theo phương châm “kiên trì, thận
trọng, chắc chắn” nhưng cũng cần phải kiên quyết, đồng thời phải động viên, phát
huy vai trò của những cá nhân tiêu biểu, có uy tín trong cộng đồng để xây dựng cộng
đồng địa phương, cộng đồng dân tộc.

Phù hợp với bản chất dân chủ của chủ nghĩa xã hội, chính sách dân tộc của Đảng
xuất phát từ quyền tồn tại với tư cách là người làm chủ thật sự và tôn trọng lợi ích
của mỗi dân tộc, không kể đó là dân tộc thiểu số hay đa số, trình độ phát triển cao hay
thấp. Với quan niệm đó, chính sách dân tộc của Đảng ta sẽ khắc phục được tư tưởng
cục bộ, bản vị, dân tộc hẹp hòi và dân tộc lớn, ban ơn hoặc chiếu cố giản đơn đối với
các dân tộc thiểu số.

Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX
đã xác định một chính sách dân tộc trong giai đoạn mới, vừa mang tính cách mạng
vừa mang tính tổng hợp, toàn diện, quán xuyến các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đây
là nền tảng để tăng cường đoàn kết và thực hiện bình đẳng dân tộc trên thực tế, là cơ
sở để từng bước khắc phục sự chênh lệch về kinh tế, xã hội giữa các dân tộc và đưa
các dân tộc miền núi tiến kịp các dân tộc miền xuôi.

21
KẾT LUẬN
Sau khi tìm hiểu vấn đề dân tộc trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội.Nhận
thấy rõ được vấn đề dân tộc là 1 vấn đề quan trọng mà đảng và nhà nước ta cần phải
quan tâm hàng đầu.Vì dân tộc là nguồn lực là sức mạnh để tạo nên một đất nước
hùng mạnh. Dân giàu nước mạnh. Đất nước của dân do dân và vì dân. Đất nước đã
tiến hành thực hiện nhiều biện pháp để thúc đẩy sự phát triển của các dân tộc. Các
dân tộc đều bình đẳng với nhau, nâng cao ý thức của các dân tộc thiểu số và còn
nhiều biện pháp khác nữa.
Không chỉ ở Việt Nam mà vấn đề dân tộc còn là vấn đề của Thế giới là vấn đề
đáng được quan tâm hàng đầu vì nếu vấn đề dân tộc không được giải quyết ổn thoả sẽ
kéo theo nhiều vấn đề khác xảy ra như: xung đột giữa người với người, xung đột tôn
giáo,bình đẳng, và một số vấn đề khác.
Đây là một đề tài rất hay và đáng được quan tâm nhiều hơn nữa vì dân tộc của
mỗi nước,mỗi quốc gia sẽ ngày càng tăng lên vì thế vấn đề này sẽ chưa và không có
biện pháp giải quyết triệt để.Hiểu được vấn đề này mỗi cá nhân chúng ta cần nên giúp
sức cho Đảng và nhà nước trong việc nâng cao trình độ sống,giáo dục,.... Cho các dân
tộc thiểu số,...

22
PHỤ LỤC – BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ
TRONG NHÓM

Nội dung thực hiện Sinh viên thực hiện Nhóm tự đánh giá mức độ
hoàn thành
(Tốt / Khá / Kém)
PHẦN MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài và mục tiêu
Vũ Quốc Huy Tốt
nghiên cứu
PHẦN KIẾN THỨC CƠ BẢN
Nội dung 1.1.1 và 1.1.2 Nguyễn Tường Phương Uyên Tốt
Nội dung 1.1.3 và 1.2 Nguyễn Kim Hạnh Tốt
Nội dung 2.1 và 2.3 Trần Đức Nguyên Tốt
Nội dung 2.2 và 2.4 Đặng Minh Châu Tốt
Nội dung 2.5 Hồ Thành Đạt Tốt
PHẦN KẾT LUẬN
Viết kết luận Hồ Thành Đạt Tốt

TÀI LIỆU THAM KHẢO


Giáo trình môn Khoa học chủ nghĩa
23
1. Hồ Chí Minh Toàn tập, CTQG, H, 1995, T.4, tr. 45.

2, 3, 9, 11. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, CTQG, H, 2001, tr.127,
123 – 124, 127, 128.

4, 6, 7, 13. Hồ Chí Minh Toàn tập, CTQG, H, 1996, T.11, tr. 135, 132, 135, 136.

5, 10, 12. Sđd, T. 10, tr. 608, 418, 282.

8. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III, BCHTƯ Đảng lao động Việt Nam
xuất bản, tháng 9, 1960, T.1, tr. 193.

24

You might also like