You are on page 1of 19

,

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HCM

CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO


ĐẶC BIỆT

TIỂU LUẬN MÔN:


CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

TÊN ĐỀ TÀI:

VẤN ĐỀ DÂN TỘC TRONG THỜI KÌ QUÁ ĐỘ LÊN

CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

GVHD: ThS Nguyễn Thanh Hải

DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 5

STT HỌ VÀ TÊN MSSV LỚP


1 Phạm Minh Châu 2153801015031 134-AUF46
2 Lương Ngọc Diễm 2153801015039 134-AUF46
3 Phan Tiến Dũng 2153801015045 134-AUF46
4 Trần Thúy Hằng 2153801015074 134-AUF46
5 Trần Trung Hiếu 2153801015088 134-AUF46
6 Tô Trần Hồng Hợp 2153801015095 134-AUF46
7 Lê Nguyễn Ngọc Linh 2153801015130 134-AUF46
8 Lương Bội Linh 2153801015132 134-AUF46
Thành phố Hồ Chí Minh, 2022
Mục lục

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài...................................................................................................1
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu.......................................................................1
2.1 Mục tiêu nghiên cứu.........................................................................................1
2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu........................................................................................1
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.......................................................................2
3.1 Đối tượng..........................................................................................................2
3.2 Phạm vi nghiên cứu..........................................................................................2
4. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài.....................................................................2
5. Kết cấu đề tài.......................................................................................................2
VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ TÔN GIÁO TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI
Chương 1: Khái niệm, đặc trưng cơ bản về tôn giáo và dân tộc
PHẦN 1: KHÁI NIỆM DÂN TỘC VÀ ĐẶC ĐIỂM DÂN TỘC Ở VIỆT NAM......3
PHẦN 2: KHÁI NIỆM TÔN GIÁO VÀ TÍNH CHẤT CỦA TÔN GIÁO Ở VIỆT
NAM.........................................................................................................................4
1. Khái niệm tôn giáo...............................................................................................4
2. Tính chất của tôn giáo.........................................................................................4
Chương 2: Mối mối quan hệ dân tộc và tôn giáo ở Việt Nam
2.1 Đặc điểm mang tính đặc thù cơ bản đầu tiên ..................................................6
2.2 Đặc điểm mang tính đặc thù cơ bản thứ hai ....................................................7
2.3. Đặc điểm mang tính đặc thù cơ bản thứ ba.....................................................8
Chương 3: Ảnh hưởng của mối quan hệ giữa tôn giáo và dân tộc đến sự ổn định
chính trị-xã hội
PHẦN KẾT BÀI....................................................................................................16
Các nguồn tham khảo:..........................................................................................16
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài

Từ lâu, vấn đề tôn giáo đã là một vấn đề nhạy cảm không chỉ ở Việt Nam, mà
còn ở nhiều nước trên thế giới. Hiện nay, sự can thiệp của tôn giáo vào đời sống
chính trị ngày càng gia tăng dưới nhiều hình thức khác nhau, Tuy nhiên, không thể
phủ nhận vai trò của tôn giáo đối với đời sống tinh thần của nhân loại, bằng chứng
là, những thăng trầm của lịch sử đều liên quan ít nhiều với tôn giáo. Vì vậy cần tìm
hiểu kỹ trước khi giải quyết vấn đề.

Việt Nam là quốc gia có nhiều tôn giáo và xu hướng phát triển đa dạng. Với 54
dân tộc anh em cùng chung sống đoàn kết trên mảnh đất hình chữ S, mỗi dân tộc có
một tín ngưỡng riêng, nhưng không có sự xung đột, phân biệt đối xử. Sự hội nhập
của các nền văn hóa và hoạt động tín ngưỡng, phong tục, ngôn ngữ được thể hiện rõ
nét trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và trong sự nghiệp đấu tranh kiên cường
vì độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Đối với Việt Nam, một quốc gia đa dân
tộc, đa tôn giáo, đây là đặc điểm đòi hỏi phải phát triển mối quan hệ tôn giáo, dân
tộc gắn bó chặt chẽ với Việt Nam để làm cơ sở tiếp thu các yếu tố ngoại sinh. Đề tài
này chủ yếu nghiên cứu đến yếu tố Dân tộc và Tôn giáo bởi hiện nay vấn đề của
mối quan hệ này là hai yếu tố ảnh hưởng đến sự ổn định chính trị - xã hội của Việt
Nam.

2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu


2.1 Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài này nghiên cứu về các khái niệm tôn giáo, dân tộc và các đặc trưng có
bản. Nắm được các mối quan hệ dân tộc và tôn giáo ở Việt Nam và định hướng giải
quyết cũng như một số giải pháp nhằm giải quyết tốt mối quan hệ giữa tôn giáo và
dân tộc ở Việt Nam. Đồng thời, nghiên cứu ảnh hưởng của mối quan hệ giữa tôn
giáo và dân tộc đến sự ổn định chính trị-xã hội.
2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Dựa trên cơ sở tổng quan những công trình nghiên cứu về Tôn giáo và Dân tộc,
Tiểu luận khái quát, tổng hợp các tư liệu có liên quan đến mối quan hệ này, định
hướng giải quyết và làm rõ ảnh hưởng của mối quan hệ này đến tình hình ổn định
chính trị - xã hội.

1
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng
Đề tài nghiên cứu về mối quan hệ dân tộc và tôn giáo ở Việt Nam và ảnh
hưởng của mối quan hệ này đến sự ổn định chính trị - xã hội của đất nước
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu tập trung chủ yếu vào:
- Mối quan hệ dân tộc và tôn giáo ở Việt Nam
- Sự ảnh hưởng của mối quan hệ đến sự ổn định chính trị- xã hội của đất nước.
4. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài
Đề tài được nghiên cứu với mong muốn tìm tòi, học hỏi, được hiểu rõ và nâng
cao nhận thức về mối quan hệ dân tộc và tôn giáo ở Việt Nam hiện nay và sự ảnh
hưởng của mối quan hệ này đến đất nước về sự ổn định của chính trị - xã hội. Vấn
đề dân tộc, tôn giáo luôn có vị trí quan trọng trong đời sống chính trị - xã hội của
mỗi quốc gia có một hay nhiều tộc người cả trong lịch sử và trong thế giới hiện đại.
Vì vậy, ta cần phải có cái nhìn đúng đắn những vấn đề lí luận và thực tiễn về vấn đề
tôn giáo cũng như dân tộc.
5. Kết cấu đề tài
Đề tài gồm 4 phần:
- Phần mở đầu
- Phần nội dung
- Phần kết bài
- Phần tài liệu tham khảo
Phần nội dung thì gồm 3 chương:
+ Chương 1: Khái niệm, đặc trưng cơ bản về tôn giáo và dân tộc
+ Chương 2: Mối mối quan hệ dân tộc và tôn giáo ở Việt Nam
+ Chương 3: Ảnh hưởng của mối quan hệ giữa tôn giáo và dân tộc đến sự ổn
định chính trị - xã hội

2
VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ TÔN GIÁO TRONG THỜI KỲ
QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI1

NỘI DUNG CHÍNH:


 Khái niệm dân tộc và đặc điểm dân tộc ở Việt Nam
 Khái niệm tôn giáo và tính chất tôn giáo ở Việt Nam
 Quan hệ dân tộc và tôn giáo ở Việt Nam hiện nay, những biểu hiện
 Ảnh hưởng của mối quan hệ giữa tôn giáo và dân tộc đến sự ổn định chính trị-xã
hội
Chương 1: Khái niệm, đặc trưng cơ bản về tôn giáo và dân tộc
PHẦN 1: KHÁI NIỆM DÂN TỘC VÀ ĐẶC ĐIỂM DÂN TỘC Ở VIỆT NAM
 Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, dân tộc là quá trình phát triển lâu
dài của xã hội loài người, trải qua các hình thức cộng đồng từ thấp đến cao, bao
gồm: thị tộc, bộ lạc, bộ tộc, dân tộc. Sự biến đổi của phương thức sản xuất chính là
nguyên nhân quyết định sự biến đổi của cộng đồng dân tộc. Cho đến nay, dân tộc
được hiểu theo hai nghĩa:

Nghĩa rộng Nghĩa hẹp


- Dân tộc là khái niệm dùng để chỉ một - Dân tộc (ethnic) là khái niệm dùng để
cộng đồng người ổn định làm thành chỉ một cộng đồng tộc người được hình
nhân dân một nước, có lãnh thổ riêng, thành trong lịch sử, có mối liên hệ chặt
nền kinh tế thống nhất, có ngôn ngữ chẽ và bền vững, có chung ý thức tự
chung và có ý thức về sự thống nhất của giác tộc người, ngôn ngữ và văn hóa.
mình, gắn bó với nhau bởi quyền lợi Với nghĩa này, dân tộc là một bộ phận
chính trị, kinh tế, truyền thống văn hóa hay thành phần của quốc gia. Chẳng
và truyền thống đấu hạn, Việt Nam là quốc gia có 54 dân tộc
tranh chung trong suốt quá trình lịch sử tức 54 cộng đồng tộc người. Sự khác
lâu dài dựng nước và giữ nước. Với nhau giữa các cộng đồng tộc người ấy
nghĩa này, khái niệm dân tộc dùng để biểu hiện chủ yếu ờ đặc trưng văn hóa,
chỉ một quốc gia, nghĩa là toàn bộ nhân lối sống, tâm lý, ý thức tộc người.
dân của một nước. - Dân tộc-tộc người có một số đặc
- Ví dụ: dân tộc Ấn Độ, dân tộc trưng cơ bản sau:
Trung Hoa, dân tộc Việt Nam v.v.. + Cộng đồng về ngôn ngữ (bao gồm

3
- Một số đặc trưng cơ bản sau: ngôn ngữ nói, ngôn ngữ viết; hoặc chi
+ Thứ nhất: có chung một vùng lãnh riêng ngôn ngữ nói).
thổ ổn định. + Cộng đồng về văn hóa. Văn hóa
+ Thứ hai: có chung một phương bao gồm văn hóa vật thể và phi vật thể ở
thức sinh hoạt kinh tế. mỗi tộc người phản ánh truyền thống, lối
+ Thứ ba: có chung một ngôn ngữ sống, phong tục, tập quán, tín ngưỡng,
làm công cụ giao tiếp. tôn giáo của tộc người đó.
+ Thứ tư: có chung một nền văn hóa
+ Ý thức tự giác tộc người. Đây là tiêu
và tâm lý. chí quan trọng nhất để phân định một
+ Thứ năm: có chung một nhà nước (nhà tộc người và có vị trí quyết định đối với
nước dân tộc). sự tồn tại và phát triển của mỗi tộc
người.

PHẦN 2: KHÁI NIỆM TÔN GIÁO VÀ TÍNH CHẤT CỦA TÔN GIÁO Ở
VIỆT NAM
1. Khái niệm tôn giáo
Theo khoản 5 Điều 2 của Luật tín ngưỡng tôn giáo 2016 quy định: Tôn giáo là
niềm tin của con người tồn tại với hệ thống quan niệm và hoạt động bao gồm đối
tượng tôn thờ, giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức. 
2. Tính chất của tôn giáo
 Tính lịch sử của tôn giáo: Tôn giáo là một hiện tượng xã hội có sự hình thành,
tồn tại và phát triển và có khả năng biến đổi trong những giai đoạn lịch sử nhất định
để thích nghi với nhiều chế độ chính trị-xã hội. Khi các điều kiện kinh tế-xã hội,
lịch sử thay đổi thì tôn giáo cũng có sự thay đổi. Chính các điều kiện kinh tế-xã hội,
lịch sử cụ thể đã làm cho các tôn giáo bị phân liệt, chia tách thành nhiều tôn giáo, hệ
phái khác nhau. Theo Chủ nghĩa Mác-Lênin, đến một giai đoạn lịch sử nào đó, khi
khoa học và giáo dục giúp cho đại đa số nhân dân nhận thức được bản chất các hiện
tượng tự nhiên và xã hội thì tôn giáo sẽ dần dần mất đi vị trí của nó trong đời sống
xã hội và cả trong nhận thức, niềm tin của mỗi người.
 Tính quần chúng: Tôn giáo là một hiện tượng xã hội phổ biến ở tất cả các
dân tộc, quốc gia, châu lục. Không chỉ biểu hiện ở số lượng đông đảo (gần ¾ TG);
mà còn thể hiện ở chỗ các tôn giáo là nơi sinh hoạt văn hóa, tinh thần của một bộ

4
phận quần chúng nhân dân. Dù tôn giáo hướng con người vào niềm tin hạnh phúc
hư ảo của thế giới bên kia, song nó luôn phản ánh khát vọng của những người lao
động về một xã hội tự do, bác ái. Mặt khác, nhiều tôn giáo có tính nhân văn, nhân
đạo và hướng thiện, vì vậy, được nhiều người ở tầng lớp khác nhau trong xã hội,
đặc biệt là quần chúng lao động tin theo. 
 Tính chính trị: Khi xã hội chưa có giai cấp, tôn giáo chỉ phản ánh nhận thức
hồn nhiên, ngây thơ của con người về bản thân và thế giới xung quanh mình, tôn
giáo chưa mang tính chính trị. Tính chính trị của tôn giáo chỉ xuất hiện khi xã hội đã
phân chia giai cấp, có sự khác biệt, sự đối kháng về lợi ích giai cấp. Trước hết, do
tôn giáo là sản phẩm của những điều kiện kinh tế-xã hội, phản ánh lợi ích, nguyện
vọng của các giai cấp khác nhau trong cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc,
nên tôn giáo mang tính chính trị. Song, khi các giai cấp bóc lột, thống trị sử dụng
tôn giáo để phục vụ cho lợi ích giai cấp mình, chống lại các giai cấp lao động và
tiến bộ xã hội, tôn giáo sẽ mang tính chính trị tiêu cực, phản tiến bộ.

Chương 2: Mối mối quan hệ dân tộc và tôn giáo ở Việt Nam
PHẦN 3: QUAN HỆ DÂN TỘC VÀ TÔN GIÁO, NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA
QUAN HỆ DÂN TỘC VÀ TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Quan hệ dân tộc và tôn giáo
Quan hệ giữa dân tộc và tôn giáo được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác
nhau, tùy thuộc vào góc độ tiếp nhận. Song, nhìn chung quan hệ giữa dân tộc và tôn
giáo là sự liên kết tác động qua lại, sự vận động, biến đổi các tôn giáo gắn liền với
sự vận động, biến đổi của các vấn đề dân tộc; trái lại, sự tồn tại của cộng đồng dân
tộc cũng thường gắn liền với một tôn giáo nhất định.  Cụ thể trong tư tưởng Hồ Chí
Minh, độc lập dân tộc là cơ sở thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, muốn thực hiện
quyền tự do tín ngưỡng cho nhân dân trước hết phải có độc lập cho dân tộc; tôn giáo
không thể nằm ngoài mối quan hệ với dân tộc, không thể tách rời vận mệnh dân tộc,
vận mệnh đất nước. Đất nước giành được độc lập, tạo cơ hội cho các tôn giáo có
điều kiện phát triển và quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân được tôn trọng. Thực
tế sự thành công của cách mạng Việt Nam đã cho thấy tầm quan trọng của việc giải
quyết mối quan hệ dân tộc và tôn giáo, mối quan hệ này ảnh hưởng đến sự ổn định
chính trị và phát triển bền vững của mỗi quốc gia.

2. Đặc điểm quan hệ dân tộc và tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.

5
2.1 Đặc điểm mang tính đặc thù cơ bản đầu tiên 
Việt Nam mang màu sắc là một đất nước nhiều dân tộc anh em giao thoa cùng đa
dạng văn hoá tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau; quan hệ dân tộc và tôn giáo được
thiết lập và củng cố trên cơ sở cộng đồng quốc gia, dân tộc thống nhất. Xuyên suốt
hàng nghìn năm văn hiến, dấu ấn tôn giáo đã in một phần không nhỏ vào trong
truyền thống dựng nước, giữ nước của dân tộc Việt. Cụ thể nhân dân ta đã trải qua
ba mươi năm ròng rã khó khăn, gian khổ, quyết chiến, hiến dâng mạng sống của
mình để đẩy lùi kế hoạch xâm lăng của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, và hiển nhiên
đã có không ít tín đồ đã phải nằm ở lại nơi chiến trường ấy. Sau mỗi sự kiện lịch sự
trải qua góp phần không nhỏ tạo nên truyền thống gắn bó chặt chẽ với dân tộc, đồng
hành cùng dân tộc, gắn đạo với đời của các tôn giáo ở Việt Nam. Mọi dân tộc không
phân biệt sinh sống trên đất nước Việt Nam hàng trăm năm hay hàng nghìn năm,
không phân biệt quy mô dân số, không phân biệt về tín ngưỡng và tôn giáo cùng
tham gia xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Đặc biệt trước những thiên tai nghiêm trọng,
địch họa ác liệt, thách thức sinh tồn càng làm cho các dân tộc mang theo sự phong
phú về mặt tôn giáo càng gắn bó chặt chẽ hơn, phải phụ thuộc lẫn nhau để cùng ứng
phó, tồn tại và phát triển. Nhìn chung, quá trình này như việc gieo đa dạng hạt
giống tôn giáo khác nhau trên mảnh đất hình chữ S màu mỡ về dân tộc anh em và
trái ngọt kết tinh là một quốc gia - dân tộc thống nhất. Điều này càng trở nên ý
nghĩa hơn bao giờ hết, đặc biệt trong tình hình thế giới không ổn định, xung đột gay
gắt về mặt chính trị - xã hội, thậm chí nội chiến nổ ra do không giải quyết ổn thoả,
chính xác trong mối quan hệ giữa dân tộc và tôn giáo. Trong thực trạng đó, Việt
Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam cùng với sự nghiệp đổi mới,
trước hết là đổi mới tư duy, từng bước đổi mới nhận thức về vấn đề tôn giáo và
công tác tôn giáo đã giải quyết khá tốt mối quan hệ giữa dân tộc và tôn giáo bằng
chứng là Việt Nam không hề có sự xuất hiện của xung đột tôn giáo. Tuy nhiên, quá
trình đưa vào thực tiễn, mối quan hệ này cũng nảy sinh những mâu thuẫn do nhận
thức hoặc do thực hiện chưa đúng các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng
và Nhà nước. Trên cơ sở vấn đề được đặt ra, đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải phát
hiện kịp thời, đánh giá một cách khách quan, trực diện giải quyết trên cơ sở khoa
học để rút được kinh nghiệm- bài học nhằm thắt chặt mối quan hệ giữa dân tộc và
tôn giáo phát triển những giá trị tốt đẹp vốn có và tạo ra được những giá trị mới
mang màu sắc của một cộng đồng một dân tộc một quốc gia thống nhất hơn hết là
tạo ra được một Việt Nam an toàn, ổn định về mặt chính trị - xã hội.
2.2 Đặc điểm mang tính đặc thù cơ bản thứ hai 

6
  Đại đa số người dân Việt Nam ta có truyền thống tín ngưỡng lâu đời, văn hoá
tâm linh vô cùng phong phú, đa dạng diễn ra ở nhiều khu vực, vùng miền từ nông
thôn đến đồng bằng, từ miền cao đến miền thấp. Tín ngưỡng truyền thống hiện diện
khắp nơi trên mảnh đất hình chữ S biểu hiện ở nhiều cấp bật mà phổ biến nhất là
phong tục thờ cúng tổ tiên, ông bà, cha mẹ, người thân trong mỗi gia đình.
- Ở cấp độ gia đình: thờ cúng tổ tiên là hoạt động quen thuộc thường thấy, hơn
hết là một phong tục đẹp, giàu bản sắc, có tính giáo dục truyền thống cho các thế hệ.
Có thể nói, trước khi có xuất hiện của các tôn giáo ngoại sinh du nhập vào Việt
Nam như Nho giáo, Phật giáo, Kitô giáo…thì dân tộc Việt đã có hệ thống tín
ngưỡng, tôn giáo riêng là đạo Tổ Tiên. Tổ tiên được coi như vị thần của gia đình,
dòng họ được con cháu tưởng niệm với ý nghĩa vừa kính vừa sợ (kính: sự mang ơn,
nuôi dưỡng, sinh thành; sợ: trừng phạt). Do đó con cháu có trách nhiệm lo lắng,
chăm sóc việc thờ cúng tươm tất. Đây không chỉ là sợi dây kết nối giữa người đã
khuất với người còn sống trên phương diện tôn giáo mà còn thực hiện mối quan hệ
huyết thống, là sợi dây liên kết giữa những người trong gia đình dòng họ, dòng tộc
dù họ không cư trú trên cùng một địa bàn, lãnh thổ.  Chính hệ thống tôn giáo này
hình thành tiềm thức gắn bó các thành viên mặt khác gắn bó với quê hương, đất
nước từ đó tạo nên mối quan hệ khăng khít của tôn giáo và dân tộc.
- Ở cấp độ làng xã: thờ cúng tổ tiên hay Đạo thờ cúng tổ tiên theo nghĩa rộng
không chỉ thờ những người thân trong gia đình đã khuất mà thờ cả Thành hoàng,
thần làng, ... thể hiện truyền thống “uống nước nhớ nguồn”. Tùy theo từng làng;
bản; xã mà những vị thần được lưu truyền bằng những câu chuyện khác nhau; có
khi những vị thần này là thần của tự nhiên (sông, núi, thổ thần, ...). Phần lớn là
những người có công dựng làng, sáng lập ra làng, hoặc tổ sư một nghề riêng của
làng đó. Một làng có thể có nhiều Thành hoàng khác nhau, có Thành hoàng là do
vua cử vì có công với nước, có Thành hoàng là do người dân tại đó tôn vinh. Người
dân thờ phụng Thành hoàng với chức năng bảo hộ và phù trợ mọi việc làng, hằng
năm người dân tổ chức ngày giỗ Thành hoàng- ngày đông vui nhất của làng, của
phố. Tại đây, người dân cùng nhau tụ họp tế lễ, rước kiệu, phá cỗ và rất nhiều nghi
lễ truyền thống khác. Tất cả điều đó tạo nên sợi dây liên kết giữa các cá nhân lại với
nhau, giữa gia đình với làng xã, giữa làng xã với triều đình trung ương - đại diện
cho cộng đồng quốc gia dân tộc. Điều này được thể hiện qua lễ bái vọng về ông
Vua - Thần để chứng tỏ lòng trung thành không chỉ thực hiện trong đời sống bình
thường, mà còn ngay cả trong tín ngưỡng, tôn giáo.

7
- Ở cấp độ quốc gia: truyền thống thờ Vua Hùng là một tín ngưỡng sâu sắc, tồn
tại lâu đời là nguồn dân tộc chung kết nối cả cộng đồng dân tộc người Việt. Cả dân
tộc đều thừa nhận các Vua Hùng là người có công dựng nước và lấy ngày 10-3 âm
lịch hàng năm là ngày Giỗ Tổ “Dù ai đi ngược về xuôi. Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười
tháng ba”. Với sự linh thiêng và uy nghi của tín ngưỡng thờ Vua Hùng, ý thức cộng
đồng dần được hình thành từ trong gia đình, củng cố làng xã và phát triển trong toàn
quốc theo quan hệ huyết thống: dòng máu lạc hồng, con cháu vua Hùng. Giỗ tổ
Hùng Vương là biểu tượng tinh thần để quy tụ lòng người, người Việt dù sinh sống
ở đâu trong hay ngoài nước, dù là thế hệ, tín ngưỡng, tôn giáo nào cũng cùng hướng
về một gốc. Đó là biểu tượng văn hoá nói chung, văn hoá chính trị nói riêng; nhằm
mục đích kết nối cộng đồng, giáo dục truyền thống lịch sử và ý thức đoàn kết dân
tộc thành một khối thống nhất vì sự tồn vong của đất nước. 
 Như vậy, từ tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, Thành hoàng đến tín ngưỡng thờ cúng
Hùng Vương là sự kết tinh và phát triển các giá trị đạo đức, văn hoá truyền thống
đặc sắc của dân tộc Việt thông qua trục chính là Nhà -Làng - Nước tạo nên một sự
bền chặt, thậm chí các tôn giáo ngoại tộc khi “du nhập vào Việt Nam phải biến đổi,
muốn bám rễ vào dân tộc, phải bị dân tộc hóa, bị tôn giáo dân tộc tiếp thu cho thích
hợp với tâm thức của tôn giáo dân tộc” (1) . Sự biến đổi của Nho giáo, Phật giáo,
Công giáo khi vào Việt Nam là những ví dụ điển hình.
2.3. Đặc điểm mang tính đặc thù cơ bản thứ ba
  - Đất nước ta từ khi thực hiện đường lối cải cách đổi mới của Đảng và nhà nước
đã bước vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, giao lưu, hội nhập quốc tế sâu
rộng. Kéo theo đó là những sự thay đổi, xuất hiện những thứ mới về mặt kinh tế, xã
hội, văn hoá và tất nhiên tín ngưỡng truyền thống cũng bị ảnh hưởng nhiều. Chúng
ta đang hòa nhập rất tốt nhưng xét về một vài khía cạnh điển hình như là tôn giáo
thì có phần hoà tan ít nhiều. Ở Việt Nam phát sinh nhiều hiện tượng tôn giáo mới đa
dạng về nguồn gốc như 
+ Loại gần với Phật giáo: Hội Long Hoa Di Lặc, Tam Tổ Thánh Hiền, Tiên
Thiên Phật Nhất Giáo
+ Loại có nguồn gốc và bản chất gắn với Công giáo hoặc Tin lành: Tin lành Đề
ga, Hà Mòn, Tin lành Vàng
  + Loại gắn với xu hướng cực đoan: Đoàn 18 Phú Thọ, …
 - Các hiện tượng tôn giáo mới không xấu nhưng là tấm màng che mà sau đó là
những tạp giáo, tà giáo, các tổ chức đội lốt tôn giáo lợi dụng nhằm lôi kéo những

8
người dân nhẹ dạ cả tin, gặp nhiều bức xúc, khó khăn trong cuộc sống để lừa bịp và
kiếm lợi bất chính. Một số người do mù chữ, trình độ học vấn thấp, nhận thức kém
nên đã bị mê hoặc dẫn đến những hành động cực đoan gây chết người hay tự sát tập
thể. Hậu quả nặng nề hơn bao giờ hết là gây mất ổn định về an ninh chính trị, quản
lý xã hội, tâm lý và ý thức dân tộc, bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa của
các dân tộc,...thông qua việc truyền bá những giáo lý “mê tín dị đoan”, phản khoa
học phi nhân tính, thậm chí một số hiện tượng tôn giáo mới còn tìm cách chống phá
Nhà nước bằng cách tuyên truyền những nội dung phê phán xã hội thực tại, xuyên
tạc đường lối của Đảng và nhà nước gây ảnh hưởng xấu tới an ninh chính trị trên
địa bàn và đất nước. Có thể nói các hiện tượng tôn giáo mới đã phần nào làm đảo
lộn truyền thống tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam, gieo rắc nỗi bất hạnh, đau thương
về vật chất, tinh thần, tính mạng và hạnh phúc gia đình của nhiều người gây bất ổn
về trật tự xã hội, gây khó khăn cho công tác quản lí nhà nước về tôn giáo, tín
ngưỡng; làm phương hại đến tính cố kết cộng đồng và khối đoàn kết dân tộc; ... Do
vậy, việc quản lý của nhà nước đối với các hiện tượng tôn giáo mới đang phát triển
tại Việt Nam là vô cùng quan trọng mang tính cấp thiết nhằm giải quyết, dung hòa
giữa mối quan hệ giữa tôn giáo và dân tộc, bình ổn chính trị - xã hội tạo nên một
khối đại đoàn kết toàn dân hoàn hảo.
(1):
2tr.312 trích nguồn: Phan Ngọc. Một nhận thức về văn hoá Việt Nam.

3. Các yếu tố tác động đến việc giải quyết mối quan hệ dân tộc và tôn giáo ở
Việt Nam hiện nay
 Yếu tố trong nước:
- Điều kiện địa lý, trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của các tộc người
thiểu số và tín đồ.
- Chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về dân tộc, tôn giáo.
- Đường hướng hành đạo và chủ trương phát triển nhanh tôn giáo trong vùng dân
tộc thiểu số của các tổ chức tôn giáo.
 Yếu tố quốc tế:

- Toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và những diễn biến phức tạp trong quan hệ dân
tộc và tôn giáo từ bên ngoài.
- Âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, nhân
quyền… vào mục đích chính trị, tác động xấu đến mối quan hệ dân tộc và tôn giáo
ở Việt Nam

9
4. Định hướng giải quyết tốt mối quan hệ dân tộc và tôn giáo của ĐCSVN
4.1 Một số giải pháp cơ bản nhằm giải quyết tốt mối quan hệ dân tộc và tôn
giáo ở Việt Nam
a) Tăng cường mối quan hệ tốt đẹp giữa dân tộc và tôn giáo, củng cố khối đại
đoàn kết toàn dân tộc và đoàn kết tôn giáo là vấn đề chiếc lược, cơ bản, lâu dài và
cấp bách của Cách mạng Việt Nam. 
- Để tăng cường mối quan hệ tốt đẹp, chúng ta cần phải phát huy nguồn lực của
tôn giáo, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống và đồng thời thống nhất, độc
lập, dân chủ, tự do và giàu mạnh.
- Để phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, Hồ Chí Minh cho rằng, trước hết
cần tuyên truyền, vận động nhân dân: Coi đoàn kết là lẽ sống, đạo lý của Đảng, của
dân tộc ta trong dựng nước và giữ nước, mỗi cán bộ, đảng viên phải xem đoàn kết là
một đức tính cơ bản của người Cách mạng.
- Nguyên tắc của đại đoàn kết dân tộc là tin vào dân. Vì lợi ích của dân để đoàn
kết toàn dân, phát động phong trào thi đua, yêu nước, học tập, sản xuất và chiến
đấu. Đoàn kết lâu dài, chặt chẽ, rộng rãi, tự giác, có tổ chức và có lãnh đạo. Đoàn
kết trên cơ sở hiệp thương, dân chủ, chân thành, thẳng thắn, thân ái.
- Cách tiếp cận này cũng đặt ra yêu cầu: trong từng thời kỳ lịch sử, việc giải
quyết các mối quan hệ dân tộc - tôn giáo cần phải căn cứ vào bối cảnh, đồng thời
phải nhận diện đầy đủ và ưu tiên giải quyết hiệu quả những bất cập trong mối quan
hệ dân tộc và tôn giáo.
b) Giải quyết mối quan hệ dân tộc và tôn giáo phải đặt trong mối quan hệ với
cộng đồng quốc gia - dân tộc thống nhất, theo định hướng xã hội chủ nghĩa
- Tôn giáo và dân tộc là hai vấn đề rất nhạy cảm. Nếu vấn đề dân tộc, tôn giáo
không được giải quyết thấu đáo có thể dẫn đến mất ổn định chính trị xã hội, tạo cớ
cho các thế lực chính quyền bên ngoài can thiệp vào công việc nội bộ của đất nước.

10
- Cần tuân thủ 3 nguyên tắc để giải quyết mối quan hệ:

Tập hợp đồng bào theo tín ngưỡng tôn giáo và đồng bào không theo
tín ngưỡng tôn giáo
Giải quyết vấn đề tôn giáo trên cơ sở vấn đề dân tộc, tuyệt đối không
được lợi dụng vấn đề tôn giáo đòi ly khai dân tộc
Không chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc làm tổn hại đến lợi ích quốc
gia-dân tộc, mà phải giữ vững độc lập chủ quyền, thống nhất đất
nước

- Thực hiện các quan điểm có tính nguyên tắc này nhằm bảo đảm sự ổn định
chính trị trật tự an toàn xã hội ở mọi địa bàn nhất là ở vùng dân tộc thiểu số vùng có
đạo cũng như đảm bảo sự thống nhất toàn vẹn lãnh thổ trong một cộng đồng quốc
gia dân tộc thống nhất theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
c) Giải quyết mối quan hệ dân tộc và tôn giáo phải bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, quyền của các dân tộc thiểu số, đồng thời kiên
quyết đấu tranh chống lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo vào mục đích chính trị.
- Giải quyết mối quan hệ dân tộc và tôn giáo phải bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, quyền của các dân tộc thiểu số, đồng thời kiên
quyết đấu tranh chống lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo vào mục đích chính trị.
- Xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa các dân tộc, tôn giáo và quyền con người là
bảo vệ các quyền cơ bản của nhân dân về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và tín
ngưỡng, tôn giáo và các lĩnh vực khác.
- Do vậy, việc giải quyết tốt mối quan hệ này. Nhằm đảm bảo cho con người
những quyền cơ bản về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và tín ngưỡng, tôn giáo.
- Song quyền phải gắn liền với pháp luật, do vậy đảm bảo quyền của các dân tộc,
quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng. Cũng chính là đảm bảo thực hiện những nội
dung cốt yếu củ quyền con người trong khuôn khổ của pháp luật 
- Tuy nhiên, quyền phải gắn liền với pháp luật để bảo vệ quyền dân tộc, quyền tự
do tín ngưỡng, đồng thời bảo vệ việc thực hiện nội dung cơ bản của quyền con
người trong khuôn khổ pháp luật.
- Để đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quyền của các dân tộc thiểu
số, ta cần tăng cường củng cố an ninh quốc phòng, củng cố khu vực phòng thủ

11
Tỉnh, Huyện, vững chắc trên từng địa bàn, địa phương. Đặc biệt là vùng biên giới.
Tiếp theo, ta cần làm tốt công tác vận đồng quần chúng như tuyên truyền, thực hiện
chương trình phòng chống tội phạm, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Xây dựng quy chế phối hợp giữa lực lượng công an, quân đội với các đoàn thể trong
công tác dân tộc, tôn giáo vì vấn đề dân tộc, tôn giáo là một trong những lĩnh vực
trọng yếu mà các thế lực thù địch lợi dùng để chống phá Cách mạng. 
+ Qua nghiên cứu thực tiễn cho thấy, việc các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo
để chống phá cách mạng là do tôn giáo nói chung, ở Việt Nam nói riêng, có đặc
điểm mà chúng có thể khai thác như sự đối lập về thế giới quan của tôn giáo và thế
giới quan duy vật biện chứng trong nền tảng tư tưởng của Đảng, lợi dụng về đức tin
và sự gắn kết cộng đồng của tôn giáo nhằm lôi kéo, tập hợp lực lượng lôi kéo cách
mạng và tận dụng những bất cập sơ hở của các chính quyền trong quản lý, tổ chức
thực hiện chính sách tôn giáo để kích động quần chúng gây mất trật tự cộng đồng. 
+ Hơn nữa, dựa vào đặc điểm địa lý khó khăn về kinh tế, văn hóa, xã hội ở các
vùng dân tộc thiểu số để phát triển tôn giáo, chia rẽ khối đại đoàn kết. Vì thế, ta cần
xây dựng quy chế phối hợp giữa lực lượng công an, quân đội với các đoàn thể trong
công tác dân tộc, tôn giáo để nắm chắc tình hình quản lý chặt đối tượng, sẵn sàng
các phương án ngăn chặn, đấu tranh các hoạt động phá hoại của các thế lực thù
địch.

Chương 3: Ảnh hưởng của mối quan hệ giữa tôn giáo và dân tộc
đến sự ổn định chính trị-xã hội

1. Ảnh hưởng của mối quan hệ giữa tôn giáo và dân tộc đến sự ổn định
chính trị-xã hội
Mối quan hệ giữa tôn giáo và dân tộc là sự liên kết qua lại, sự vận động, biến
đổi các tôn giáo gắn liền với sự vận động, biến đổi của các vấn đề dân tộc, như vậy
có thể thấy:
- Sự đoàn kết giữa tôn giáo và dân tộc trở thành xu thế nổi trội trong quá
trình toàn cầu hóa của Việt Nam hiện nay:
+ Các tôn giáo tham gia tích cực vào khối đại đoàn kết dân tộc, tích cực tham gia
các hoạt động chính trị-xã hội, tham gia xây dựng chính quyền các cấp trên nền tảng
của sự đoàn kết, hưởng ứng chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước trong giai
đoạn hiện nay, đặc biệt là vận động cử tri theo tôn giáo tham gia bầu cử Đại biểu

12
Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp. Tại Quốc hội khóa XIV, các Đại biểu Quốc
hội là chức sắc, chức việc tôn giáo đã tích cực tham gia góp ý vào nội dung của dự
thảo Luật tín ngưỡng, tôn giáo để Luật phù hợp với thực tiễn, góp phần vào thành
công của Luật tín ngưỡng, tôn giáo được thông qua với tỷ lệ cao tại Quốc hội và đáp
ứng kịp thời nhu cầu sinh hoạt tôn giáo chính đáng của người dân. Tại đợt bầu cử
Đại biểu Quốc hội khóa XV có tới 7 người là chức sắc, chức việc thuộc 3 tôn giáo:
Phật giáo, Công giáo và Cao Đài, từ đó cho thấy Các Đại biểu Quốc hội là chức sắc,
chức việc, nhà tu hành tôn giáo là những cánh tay nối dài, giúp đem tiếng nói của
đông đảo nhân dân và tín đồ các tôn giáo góp ý vào các nghị quyết và văn bản luật
pháp quan trọng của Quốc hội.
+ Tinh thần đoàn kết giữa mối quan hệ tôn giáo và dân tộc cũng được chứng
minh rõ rệt qua cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, tinh thần đó đã trở thành sức
mạnh quật khởi để dân tộc Việt Nam chiến thắng kẻ thù.
+ Về góc độ văn hoá, các tôn giáo tích cực hưởng ứng, tham gia xây dựng đời
sống văn hoá cơ sở, xây dựng làng văn hoá, xã văn hoá, gia đình văn hoá. Có thể
thấy tôn giáo không ngừng bồi dưỡng đạo đức, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của
một bộ phận nhân dân, đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với xây dựng con
người mới, xã hội mới, các cấp uỷ Đảng và chính quyền cùng với Mặt trận Tổ quốc
các cấp và các đoàn thể tạo thuận lợi cho đồng bào theo các tôn giáo sinh hoạt tín
ngưỡng tôn giáo của mình.
- Sự gắn liền giữa tôn giáo và dân tộc tạo bản sắc văn hóa trước xu thế toàn
cầu hóa:
Nho giáo, học thuyết chính trị-xã hội, song khi được du nhập vào Việt Nam đã
mang màu sắc tôn giáo rõ nét. Bên cạnh Nho giáo, Phật giáo cũng được du nhập
vào nước ta, bị “dân tộc hóa”, 2 tôn giáo này cũng như một số tôn giáo khác dần đi
vào tâm thức của nhân dân ta, tạo ra những nét, những đặc điểm riêng cộng với văn
hóa bản địa riêng ở nơi đây đã tạo nên bản sắc văn hóa riêng chỉ nước ta mới có –
đây là yếu tố quan trọng tạo nên sức mạnh của dân tộc chống lại mưu đồ đồng hóa
dân tộc hàng ngàn năm của phương Bắc, giành lại độc lập dân tộc đồng thời cũng
chống. Trước xu thế toàn cầu hoá sự gắn kết giữa tôn giáo và dân tộc tạo nên bản
sắc văn hoá vẫn là xu hướng cơ bản, song có điều trong quá trình đó các tôn giáo
cũng tự phải biến đổi mình để thích nghi, để tồn tại, thậm chí phát triển theo yêu
cầu xã hội tiến nhanh trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

13
- Các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo, tộc người nhằm phá vỡ khối đại
đoàn kết dân tộc
Trong giai đoạn hiện nay dưới tác động của xu thế toàn cầu hoá, sự lợi dụng vấn
đề tôn giáo của các thế lực thù địch mang nội dung mới và tính chất phức tạp hơn
nhiều. Ở nước ta, từ sau năm 2001 các thế lực thù địch công khai ủng hộ, dựng lên
cái gọi là "Nhà nước Đềga", "Tin Lành Đềga" nhằm chia rẽ mối quan hệ giữa người
Kinh và người Thượng, chia rẽ và phá vỡ khối đại đoàn kết dân tộc, và muốn tách
Tây Nguyên ra khỏi Tổ quốc Việt Nam. Mưu đồ này được dựng bởi những kịch bản
tương tự như “Tổ quốc của người Mông” với Tin Lành - Vàng Chứ ở các tỉnh miền
núi phía Bắc, “Nhà nước Khmer Crôm” gắn với Phật giáo Nam Tông ở khu vực Tây
Nam Bộ. Tất cả nhằm chia rẽ, gây mất đoàn kết dân tộc, tôn giáo trong một quốc
gia đa dân tộc, đa tôn giáo như nước ta dẫn đến suy giảm và lụi tàn văn hóa ảnh
hưởng không nhỏ tới đời sống chính trị-xã hội, cũng như ảnh hưởng đến thực hiện
chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước.
2. Một số ví dụ về việc vấn đề dân tộc và tôn giáo được sử dụng vào mục
đích chính trị
2.1. Cái cớ Putin đã dùng để đưa quân tấn công vào Ukraine?
Trước 24/2/2022, theo số liệu của Worldpopulationreview(diễn đàn dân số thế
giới) thì trong số 40 triệu người mang quốc tịch Ukraine thì có 17% là người Nga.
Nhưng Ukraine thời kỳ hậu Xô Viết với mong muốn có độc lập hoàn toàn so với
Nga đã thi hành chính sách bài Nga triệt để nhằm xây dựng lại bản sắc dân tộc
Ukraine. Mặc dù nỗ lực này rất đáng khen ngợi nhưng cách làm lại có phần cực
đoan. Nhẹ thì là hạn chế tiếng Nga xuất hiện trên phim ảnh, văn học, báo chí…
nặng thì là lợi dụng nhóm cực hữu Azov để thanh lọc giết hại 14.000 người Nga
trong 8 năm qua. Mặc dù việc Nga tiến hành chiến dịch quân sự như vậy là sai với
luật pháp quốc tế nhưng có vẻ Ukraine đã cho Nga cái cớ để làm vậy.
2.2. Hitler đã làm gì để giành được quyền lực ở Đức?
Có thể Hitler được lịch sử xây dựng là một người độc tài, nhưng thực tế là ông
đã được nhân dân Đức bầu lên và ủng hộ một cách dân chủ. Đó là vì trong lòng xã
hội Đức thời bấy giờ có một mâu thuẫn gay gắt là mâu thuẫn giữa người Đức và
người Do Thái, đơn giản là do lúc bấy giờ người Do Thái giàu có còn người Đức lại
nghèo đói do hậu thế chiến. Hitler đã lợi dụng kích động thêm vào mâu thuẫn này
để giành quyền lực bằng chủ nghĩa bài do thái của mình. Và cũng nhờ vậy mà ông

14
có thể, giống với Putin, dùng lý do đó để tiến hành các chiến dịch quân sự trên khắp
Châu Âu, gia tăng quyền lực của mình.
2.3. Các cuộc thập tự chinh đã bắt đầu như thế nào?
Trong khoảng thế kỷ thứ VIII đến thế kỉ X thì việc người theo Kitô giáo hành
hương đến Jerusalem ở Palestine khá phổ biến do đây được cho là nơi Chúa yên
nghỉ nhưng những vùng đất này là những vùng đất do các nước Hồi giáo nắm giữ.
Mặc dù lý do được đưa ra khác với hai ví dụ trên nhưng về bản chất là giống nhau.
Giáo hội và các quý tộc Châu Âu lấy lý do là “bảo vệ” những người đi hành hương
mà xua quân đi đánh từ Châu Âu đến tận Thổ Nhĩ Kỳ. Mặc dù nhiều sách sử ghi
chép cho rằng người Hồi Giáo đã tôn trọng và không hề tấn công đến những người
hành hương.
2.4. Pháp lại dùng cớ đó để xâm lược Việt Nam
Pháp bắt đầu xâm lược Việt Nam vào năm 1858 trong khi cách mạng dân chủ
của họ kết thúc năm 1789. Trong cuộc cách mạng đó, khẩu hiệu chính được truyền
tụng xuyên suốt quá trình cách mạng là “tự do, bình đẳng, bác ái” thì sẽ không có lý
do gì mà một dân tộc như vậy lại đi áp bức dân tộc khác. Nếu cứ thế mà nghiễm
nhiên xâm lược và thuộc địa hóa nước khác thì sẽ vấp phải sự phản kháng của công
dân Pháp và mâu thuẫn trong chính hệ tư tưởng của mình. Thế nên thực dân Pháp
đã âm thầm cho giáo sĩ Kitô giáo vào Việt Nam truyền đạo để có thể lấy lý do chính
đáng là bảo vệ những người đồng đạo đang bị áp bức mà tiến hành các chiến dịch
quân sự một cách “chính đáng” ở Việt Nam.
Sau 4 ví dụ trên thì ta thấy rõ các mối quan hệ dân tộc và tôn giáo trông có vẻ
đơn giản nhưng lại có thể là điểm yếu chí mạng đối với sự bền vững chính trị của
Việt Nam ta. Sẽ không sai nếu ta ví các mối quan hệ dân tộc và tôn giáo như con
dao 2 lưỡi đối với nền chính trị Việt Nam. Sau đây sẽ là ví dụ thứ 5 về sự vận dụng
đúng đắn mối quan hệ dân tộc ở Việt Nam.
2.5. Danh tướng Việt uống rượu bằng mũi
Năm 1280, chúa đạo Đà Giang (là vùng Mộc Châu tỉnh Sơn La và Đà Bắc tỉnh
Hòa Bình ngày nay) Trịnh Giác Mật nổi lên cự lại triều đình. Cùng lúc đó, nhà
Nguyên đang sửa soạn đại binh đánh Đại Việt. Với nhu cầu cấp bách phải dẹp ngay
mối bất hòa trong nước, vua Trần Nhân Tông phái Trần Nhật Duật trông coi đạo Đà
Giang, chiêu dụ Trịnh Giác Mật đầu hàng. Sau khi chứng kiến Trần Nhật Duật có
thể uống rượu bằng mũi, một tập tục của bộ tộc, mà mối bất hòa nội bộ dân tộc đã

15
được hóa giải. Trịnh Giác Mật đã quy hàng triều đình và giúp vua Trần chống quân
Mông Nguyên. Như vậy thì từ vùng Đà Giang, có thể là điểm yếu chí tử của nước ta
trước quân Nguyên nay lại thành chỗ thủ kiên cố. 

PHẦN KẾT BÀI


Sau quá trình nghiên cứu và tìm hiểu mối quan hệ của tôn giáo và dân tộc, chúng
ta phải nhận thấy rằng đây là mối quan hệ mang ý nghĩa kết nối cộng đồng, đoàn kết
dân tộc thành một khối thống nhất ảnh hưởng đến sự ổn định chính trị và tồn vong
của đất nước. Thế nhưng kéo theo sự phát triển chiều hướng tích cực, vẫn có những
mặt hạn chế thách thức đối với nước ta. Đó là tình hình toàn cầu hoá kéo theo âm
mưu của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc, ... vào mục đích
xuyên tác, chống phá đường lối, chính sách quản lý của Đảng và nhà nước dẫn đến
tác động xấu vào mối quan hệ bền vững giữa tôn giáo và dân tộc. Đứng trước những
vấn đề đó, Đảng và nhà nước đã đề tra những chủ trương phát triển phù hợp với thời
đại, với từng vùng riêng biệt toàn diện về mọi mặt, từng bước khắc phục những luận
điệu sai trái của thế lực thù địch bên ngoài. Chính những tư tưởng đúng đắn này đã
kịp thời bảo vệ mối quan hệ giữa tôn giáo và dân tộc ở Việt Nam, đảm bảo chính trị
- xã hội ổn định, củng cố thắt chặt sợi dây liên kết toàn dân.

* Các nguồn tham khảo:


- Bài viết ‘Về mối quan hệ giữa dân tộc và tôn giáo trong tư tưởng Hồ Chí Minh’
của Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Viện Triết Học, nghiên cứu triết học
Mac-Lenin .
- Bài viết ‘Quan hệ dân tộc và tôn giáo ở nước ta trong bối cảnh toàn cầu hoá’ của
Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam(VUSTA).
- Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, chương 6,III,tr.228-237.
- Bài viết ‘Một số suy nghĩ về mối quan hệ tôn giáo với dân tộc ở nước ta hiện
nay’, Tuyên giáo Tạp chí của ban tuyên giáo trung ương.
- Bài viết ‘Đòan kết dân tộc trên cơ sở đảm bảo hài hòa lợi ích giữa các dân tộc’
của TS. Nguyễn Hữu Dũng, Phó chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam đăng tải trên Tạp chỉ quốc phòng toàn dân.

16

You might also like