You are on page 1of 20

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY NGUYÊN

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN:

Môn học: Chủ nghĩa xã hội khoa học

TÊN ĐỀ TÀI: Đường lối của Đảng; chính sách, pháp luật của
Nhà nước đối với dân tộc

Tên sinh viên: Phan Yến Nhi

Mã số sinh viên: 20412110

Lớp: Kinh doanh thương mại K20

Ngành: Kinh tế

Đắk Lắk, ngày 05 tháng 06 năm 2022


MỤC LỤC

A. PHẦN MỞ ĐẦU......................................................................................1

1. Lý do nghiên cứu đề tài.........................................................................1

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu........................................................1

a. Mục đích............................................................................................1

b. Nhiệm vụ...........................................................................................1

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.....................................................2

a. Đối tượng...........................................................................................2

b. Phạm vi nghiên cứu...........................................................................2

4. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài.......................................................2

B. NỘI DUNG...............................................................................................3

Chương 1: Quan điểm, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và
Nhà nước về dân tộc....................................................................................3

1. Khái niệm về dân tộc và chính sách dân tộc.....................................3

2. Quan điểm của Đảng về dân tộc và chính sách dân tộc....................4

3. Chính sách và pháp luật của Nhà nước về dân tộc............................5

Chương 2: Thực hiện chính sách dân tộc trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam.............................................................................7

Chương 3: Giải pháp tăng tường việc thực hiện chính sách dân tộc
trong thời kỳ lên chủ nghĩa xã hội.............................................................9

KẾT LUẬN....................................................................................................15

TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................16

PHẦN ĐÁNH GIÁ........................................................................................17


A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do nghiên cứu đề tài
Trong tiến trình cách mạng Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn
nhấn mạnh ý nghĩa chiến lược của vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc, phát
huy sức mạnh của cộng đồng dân tộc, truyền thống yêu nước và lòng tự hào
dân tộc vì mục tiêu độc lập, thống nhất, tiến lên dân giàu nước mạnh, xã hội
công bằng văn minh. Bước sang thời kỳ mới của sự nghiệp xây dựng đất
nước, nhân dân ta càng có điều kiện để thực hiện tốt hơn việc tăng cường, mở
rộng khối đại đòan kết tòan dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, động
viên cao nhất sức mạnh dân tộc để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Tuy nhiên, vấn đề dân tộc, chính sách dân tộc là những vấn đề rất
lớn, phức tạp và nhạy cảm, nhiều nội dung của vấn đề này cần được nghiên
cứu, giải quyết cả về lý luận và thực tiễn. Những vấn đề thời sự liên quan đến
dân tộc, chính sách dân tộc đang làm cho việc tìm hiểu, nghiên cứu về những
nội dung trở nên rất quan trọng và bức thiết.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu


a. Mục đích
Nắm được quan điểm, chính sách, pháp luật cơ bản của Đảng và Nhà
nước về dân tộc. Thấy rõ được chính sách dân tộc trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; từ đó xác định trách nhiệm của bản thân góp
phần tuyên truyền và thực hiện chủ trương, chính sách, pháp luật, về dân tộc
của Đảng và Nhà nước.

b. Nhiệm vụ
Xác định quan điểm, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về
dân tộc: khái niệm dân tộc, chính sách dân tộc; quan điểm của Đảng về dân
tộc và chính sách dân tộc; chính sách của Nhà nước về dân tộc. Tìm hiểu việc
1
thực hiện chính sách dân tộc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam. Tìm hiểu giải pháp tăng cường việc thực hiện chính sách dân tộc trong
thời kỳ lên chủ nghĩa xã hội.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu


a. Đối tượng
Đề tài nghiên cứu về vấn đề quan điểm, chính sách, pháp luật của Đảng
và Nhà nước về dân tộc và chính sách dân tộc trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.

b. Phạm vi nghiên cứu


- Quan điểm,đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và nhà nước về
vấn đề dân tộc.
- Chính sách dân tộc trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam.

4. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài


Việt Nam là một quốc gia thống nhất gồm 54 dân tộc chung sống.
Cộng đồng các dân tộc Việt nam được hình thành và phát triển cùng với tiến
trình lịch sử hàng năm dựng nước và giữ nước tạo nên một dân tộc Việt Nam
thống nhất. Các dân tộc ở nước ta sinh sống gắn bó cùng nhau từ lâu đời, đã
rất sớm có ý thức đoàn kết, giúp nhau trong chinh phục thiên nhiên, chống
giặc ngoại xâm và xây dựng đất nước. Sự đòan kết gắn bó giữa các cộng đồng
dân tộc đã tạo nên một quốc gia đa dân tộc bền vững, tốt nhất. Ngày nay,
trước yêu cầu phát triển mới của đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, các
dân tộc tiếp tục phát huy truyền thống tốt đẹp, tăng cường đoàn kết, nỗ lực
phấn đấu xây dựng đất nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Sinh viên ký, ghi rõ họ tên

2
A. NỘI DUNG
Chương 1: Quan điểm, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà
nước về dân tộc
1. Khái niệm về dân tộc và chính sách dân tộc
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, dân tộc là quá trinh phát triển
lâu dài của xã hội loài người, trải qua các hình thức cộng đồng từ thấp đến
cao, bao gồm: thị tộc, bộ lạc, bộ tộc, dân tộc. Sự biến đổi của phương thức
sản xuất chinh là nguyên nhân quyết định sự biến đổi của cộng đồng dân tộc.
Dân tộc được hiểu theo hai nghĩa rộng và nghĩa hẹp:

Theo nghĩa rộng, dân tộc là khái niệm dùng để chỉ một cộng đồng người
ổn định làm thành nhân dân một nước, có lãnh thổ riêng, nền kinh tế thống
nhất, có ngôn ngữ chung và có ý thức về sự thống nhất của minh, gắn bó với
nhau bởi quyền lợi chính trị, kinh tế, truyền thống văn hóa và truyền thống
đấu tranh chung trong suốt quá trình lịch sử lâu dài dựng nước và giữ nước.
Với nghĩa này, khái niệm dân tộc dùng để chỉ một quốc gia, nghĩa là toàn bộ
nhân dân của một nước. Ví dụ, dân tộc Ấn Độ, dân tộc Trung Hoa, dân tộc
Việt Nam…

Theo nghĩa hẹp, dân tộc là khái niệm dùng để chỉ một cộng đồng người
được hình thanh trong lịch sử, có mối liên hệ chặt chẽ và bền vững, có chung
ý thức tự giác tộc người, ngôn ngữ và văn hóa. Cộng đồng này xuất hiện sau
bộ lạc, bộ tộc, kế thừa và phát triển cao hơn những nhân tố tộc người của các
cộng đồng đó. Với nghĩa này, dân tộc là một bộ phận hay thành phần của
quốc gia. Chẳng hạn, Việt Nam là quốc gia có 54 dân tộc, tức 54 cộng đồng
tộc người. Sự khác nhau giữa các cộng đồng tộc người ấy biểu hiện chủ yếu ở
đặc trưng văn hóa, lối sống, tâm lý, ý thức tộc người.

Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta là một hệ thống các chủ
trương, giải pháp, nhằm thực hiện quyền bình đẳng về chính trị, kinh tế, văn

3
hóa, xã hội giữa các dân tộc, trong đó có sự quan tâm đến các dân tộc thiểu số
có trình độ phát triển kinh tế - xã hội thấp.

2. Quan điểm của Đảng về dân tộc và chính sách dân tộc
Ngay từ khi mới ra đời và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng. Đảng
ta luôn xác định vấn đề dân tộc, công tác dân tộc và đoàn kết dân tộc có vị trí
chiến lược quan trọng trong cách mạng nước ta. Dựa trên những quan điểm
của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, Đảng ta
đã đề ra các chủ trương, chính sách dân tộc, với những nội dung cơ bản là:
“Bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp đỡ nhau cùng phát triển”.

Chủ trương đường lối của Đảng về công tác dân tộc từ thời kỳ đổi mới đất
nước đến nay được thể hiện thông qua văn kiện các kỳ đại hội và các chỉ thị,
nghị quyết chuyên đề của Đảng, được ban hanh cụ thể trong từng nhiệm kỳ,
từng giai đoạn, với nội dung cơ bản thống nhất, đó là: “Các dân tộc trong đại
gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển,
cùng nhau thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Kiên quyết
đấu tranh với mọi âm mưu chia rẻ dân tộc. Phát triển toàn diện chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội và an ninh – quốc phòng trên địa bàn vùng dân tộc và miền
núi; gắn tăng trưởng kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện tốt
chính sách dân tộc; quan tâm bồi dưỡng nguồn nhân lực; chăm lo xây dựng
đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số trong sự nghiệp phát triển chung của cộng
đồng dân tộc Việt Nam thống nhất”.

Với những nội dung trên, chủ trương, đường lối của Đảng về công tác dân
tộc đã mang tính toàn diện trên các lĩnh vực và phủ kín địa bàn vùng dân tộc
và miền núi và luôn được sửa đổi, bổ sung theo từng giai đoạn nhằm phù hợp
với sự phát triển kinh tế - xã hội ở vùng dân tộc và miền núi cùng với sự phát
triển chung của đất nước. Theo đó, chủ trương, đường lối của Đảng về công
tác dân tộc trong thời kỳ đổi mới đã được thể chế hóa trong nhiều bộ luật,

4
luật, pháp lệnh, nghị định, nghị quyết, chỉ thị, thông tư… của các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền.

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã tiếp tục bổ
sung, phát triển chủ trương đường lối về dân tộc và chính sách dân tộc: “Đoàn
kết các dân tộc có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của nước ta.
Tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách, bảo đảm các dân tộc bình đẳng,
tôn trọng, đoàn kết, giải quyết hài hòa quan hệ giữa các dân tộc, giúp nhau
cùng phát triển, tọa chuyển biến rõ rệt trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội
vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là các vùng Tây Bắc, Tây
Nguyên, Tây Nam Bộ và Tây duyên hải miền Trung. Nâng cao chất lượng
giáo dục – đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực và chăm lo xây dựng đội ngũ
các bộ người dân tộc thiểu số, người tiêu biểu có uy tín trong cộng đồng các
dân tộc. Tăng cường kiểm tra, giám sát, đanh giá kết quả thực hiện các chủ
trương, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ở các cấp. Chống kỳ thị
dân tộc; nghiêm trị những âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đòan
kết dân tộc”.

3. Chính sách và pháp luật của Nhà nước về dân tộc


Bình đẳng giữa các dân tộc là một nguyên tắc cơ bản có ý nghĩa quan
trọng hàng đầu của chính sách dân tộc về quyền của các dân tộc thiểu số. Các
dân tộc không phân biệt đa số hay thiểu số, trình độ phát triển cao hay thấp
đều ngang nhau về quyền lợi và nghĩa vụ trong mọi lĩnh vực hoạt động của
đời sống xã hội và được đảm bảo bằng Hiến pháp và pháp luật. quyền binh
đảng giữa các dân tộc, trước hết là quyền binh đẳng về chính trị, chống mọi
biểu hiện chia rẽ kỳ thị dân tộc, dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực đoan, tự ti dân
tộc,… Quyền bình đẳng về kinh tế, đảm bảo sự bình đẳng trong quan hệ lợi
ích giữa các dân tộc. Nhà nước có trách nhiệm giúp các dân tộc có kinh tế
chậm phát triển để cùng đạt được trinh độ phát triển chung với các dân tộc
khác trong cả nước. Bình đẳng về văn hoá, xã hội bảo đảm cho việc giữ gìn
và phát huy bản sắc văn hóa của các dân tộc, làm phong phú và đa dạng nền
5
văn hóa Việt Nam thống nhất. Do phần lớn các dân tộc thiểu số ở nước ta
hiện nay có trình độ phát triển thấp vì vậy bên cạnh việc bảo đảm quyền bình
đẳng tòan diện về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội cần phải tạo mọi điều
kiện thuận lợi để đồng bào các dân tộc thiểu số có cơ hội phát triển bình đẳng
với các dân tộc khác. Sự quan tâm tương trợ, giúp đỡ nhau cùng phát triển, đó
chính là biểu hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc đặc trưng nhất ở Việt
Nam.

Trên cơ sở chủ trương, đường lối của Đảng về các dân tộc, chính sách
dân tộc, Quốc hội đã ban hành Hiến pháp năm 2013; Chính phủ đã xây dựng
và trình Quốc hội xem xét, thông qua hệ thống pháp luật, từ đó góp phần hoàn
thiện thể chế chính sách pháp luật liên quan đến công tác dân tộc, chính sách
dân tộc. Hiến pháp 2013 chỉ rõ: Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam là
quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam.
Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển
nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Ngôn ngữ quốc gia là tiếng
Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiềng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc,
phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của minh. Nhà
nước thực hiện chính sách phát triển tòan diện và tạo điền kiện để các dân tộc
thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước.

6
Chương 2: Thực hiện chính sách dân tộc trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam
Do có chủ trương, đường lối đúng đắn, phù hợp và sự vào cuộc của cả
hệ thống chính trị nên trong những năm qua, công tác dân tộc đã đạt được
nhiều thành tựu quan trọng. Tính riêng trong giai đoạn 2016 – 2020, vùng
đồng bằng dân tộc miền núi có những chuyển biến quan trọng trong phát triển
kinh tế - xã hội. Trong phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo, xây dựng nông
thôn mới đạt kết quả bước đầu đang ghi nhận. Tốc độ tăng trưởng kinh tế
hàng năm đạt 7%/năm; tỷ lệ hộ nghèo vùng dân tộc miền núi giảm 4%/năm;
các huyện nghèo giảm 4 – 5%/năm, có nơi giảm trên 5%; tỷ lệ hộ cận nghèo
tòan vùng giảm 1,2%; đã có 22 huyện, 125 xã,1.298 thôn ra khỏi tình trạng
đặc biệt khó khăn; có 1.052 xã (chiếm 22,3%) đạt chuẩn nông thôn mới có 27
huyện (chiếm 6%) đạt chuẩn nông thôn mới.

Kết cấu hạ tầng cơ sở được đầu tư đồng bộ, hệ thống giao thông từ tỉnh
đến trung tâm các huyện đã được rải nhựa bê tông hóa 100%; các xã có
đường ô – tô đến trung tâm đạt 96,7%; 100% xã có trường tiểu học, trung học
cơ sở, 99,7% xã có trường mầm non, mẫu giao; 99,5% xã có trạm y tế; 76,7%
thôn có nhà văn hóa, nhà sinh hoạt cộng đồng; tỷ lệ thôn có đường giao thông
được kiên cố tăng 16,7% so với năm 2015.

Trong lĩnh vực giao dục, đào tạo và dạy nghề ngày càng phát triển, tỷ lệ
người đủ 15 tuổi trở lên biết đọc, biết viết tiếng phổ thông tăng 1,7%; tỷ lệ đi
học đúng độ tuổi cấp tiểu học tăng 8%, trung học cơ sở tăng 9%, trung học
phổ thông tăng 14,7%. Đến hết năm 2020 cả nước đã xây dựng được 316
trường phổ thông dân tộc nội trú, 1.097 trường phổ thông dân tộc bán trú, 4
trường và 3 khoa dự bị đại học dân tộc. Bên cạnh đó, công tác đào tạo nghề,
giải quyết việc làm cho người lao động dân tộc thiểu số đạt được một số kết
quả quan trọng.

7
Trong việc bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa cũng đạt được kết quả
đang ghi nhận, trong đó, tiếng tục công nhận di tích quốc gia đặc biệt, 8 di
tích lịch sử văn hóa quốc gia; phong tặng, truy tặng 559 nghệ nhân dân gian là
người dân tộc thiểu số; hàng năm đã tổ chức tốt ngày hội văn hóa của các dân
tộc thiểu số… Có 95% số xã được phủ sóng phát thanh truyền hình; phát sóng
được 22 thứ tiếng dân tộc, phù hợp với từng vùng, miền. Ngoài ra, đến hết
năm 2020 đã xây dựng được hơn 16.000 điểm bưu điện văn hóa xã; có hàng
triệu tờ báo được cấp không thu tiền.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được vẫn còn những hạn chế,
yếu kém, đó là: “Kết quả thực hiện một số nhiệm vụ chủ yếu, cấp bách đối
với vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ,
Tây duyên hải miền Trung chưa đạt được như mong muốn. So với mặt bằng
chung của cả nước, đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số vẫn còn thuộc
diện khó khăn nhất. Tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo, tái nghèo còn cao; khoảng
cách so với vùng phát triển có xu hướng gia tăng; khả năng tiếp cận dịch vụ
xã hội còn thấp; tình trạng di cư tự phát chưa được giải quyết hiệu quả; cán
bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số nhiều nơi chưa đạt tỷ lệ theo
đúng quy định; hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan ở một số nơi chưa được khắc
phục, vẫn còn tiềm ẩn yếu tố phức tạp về an ninh, trật tự”.

Những hạn chế, yếu kém trên được xác định có nhiều nguyên nhân,
trong đó có cả khách quan và chủ quan, đó là: Điểm xuất phát của vùng đồng
bào dân tộc và miền núi còn thấp; địa hình hiểm trở, chia cắt, giao thông khó
khăn, khí hậu khắc nghiệt; thiên tai, bão lũ xãy ra thường xuyên; chất lượng
nguồn nhân lực còn thấp. Bên cạnh đó, một số cấp ủy chinh quyền, nhận thức
chưa đầy đủ về công tác dân tộc; công tác lãnh đạo, chỉ đạo chưa thực sự
quyết liệt; sự phối hợp giữa các cấp, các ngành chưa chặt chẽ, đồng bộ; một
số chinh sách còn chồng chéo, nguồn lực đầu tư còn nhiều hạn chế. Ngoài ra,
một số bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số còn có tư tưởng bằng lòng với hiện
tại, thiếu ý chí phấn đấu vươn lên.
8
9
Chương 3: Giải pháp tăng tường việc thực hiện chính sách dân tộc trong
thời kỳ lên chủ nghĩa xã hội
Đường lối, chính sách về dân tộc, công tác dân tộc là một bộ phận hữu
cơ của đường lối, chính sách chung của Đảng, Nhà nước ta, được thể hiện rõ
trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội” (bổ sung, phát triển năm 2011), bao gồm những nội dung mang tính tổng
hợp, tòan diện, đồng bộ trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội,
quốc phòng, an ninh,… Để thực hiện tốt đường lối, chinh sách của Đảng, Nhà
nước về vấn đề dân tộc trong thời kỳ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trước
hết cần tập trung giải quyết một số vấn đề:

Thứ nhất, nắm vững quan điểm, mục tiêu của Đảng, Nhà nước về vấn
đề dân tộc, công tác dân tộc trong thời kỳ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Về quan điểm, cần nắm vững một số nội dung sau:

Tiếp tục quán triệt sâu sắc chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ
giữa các dân tộc; phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là phát triển kinh tế để
nâng mức sống của các dân tộc và để các dân tộc có sự phát triển ngang nhau
là vấn đề có ý nghĩa quyết định cho việc thực hiện thắng lợi chính sách dân
tộc của Đảng, Nhà nước, bảo đảm cho đất nước ổn định và phát triển trong
thời kỳ đi lên chủ nghĩa xã hội.

Phát triển kinh tế - xã hội miền núi luôn gắn với vấn đề dân tộc, coi đây
là một bộ phận hữu cơ trong chiến lược phát triển nền kinh tế quốc dân.

Phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào các dân tộc thiểu số và miền
núi là trách nhiệm chung của cả nước, trước hết và trực tiếp là trách nhiệm
của Đảng, chính quyền, đồng bào các dân tộc thiểu số; đồng thời, đồng bào
các dân tộc thiểu số phải vươn lên tự lực, tự cường, chống tư tưởng tự ti, ỷ lại.

10
Phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh - quốc
phòng; gắn tăng trưởng kinh tế với việc giải quyết những nhu cầu bức xúc về
mặt xã hội ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số và miền núi.

Về mục tiêu, cần nắm vững một số nội dung cơ bản và cụ thể:

Đẩy mạnh phat triển sản xuất và cải thiện đời sống nhân dân các dân
tộc. Xóa hộ nghèo; giảm khoảng cách chênh lệch giàu nghèo giữa các vùng
và các dân tộc. Thu hẹp khoảng cách về thu nhập bình quân giữa các dân tộc
và các vùng và chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế, văn hóa.

Bảo vệ sức khỏe của nhân dân các dân tộc, thực hiện được 100% số xã
có trạm y tế, có đủ cán bộ và đủ thuốc chữa bệnh. Khống chế bệnh sốt rét,
không để xảy ra dịch. Có đủ nước sạch cho nhân dân các dân tộc.

Nâng cao trình độ văn hóa và đời sống tinh thần của nhân dân các dân
tộc; bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa tốt đẹp của các dân tộc; thanh
tóan nạn mù chữ, đưa thông tin bằng sóng phát thanh và truyền hình đều đến
hầu hết các vùng của đất nước, góp phần nâng cao dân trí của nhân dân các
dân tộc.

Hoàn thành công tác định canh, định cư ở vùng đồng bào các dân tộc
thiểu số và miền núi.

Xây dựng cơ sở chinh trị, đội ngũ cán bộ và đảng viên ở vùng đồng vào
các dân tộc thiểu số và miền núi trong sạch và vững mạnh, trước hết là đối với
cấp cơ sở và cấp huyện.

Thứ hai, thực hiện tốt bình đẳng giữa các dân tộc trong cộng đồng các
dân tộc Việt Nam. Bình đẳng, đoàn kết, tương trợ nhau giữa các dân tộc để
cùng phát triển vừa là nguyên tắc, vừa là mục tiêu của chính sách dân tộc của
Đảng, Nhà nước ta, được thực hiên nhất quán trong suốt quá trình cách mạng,
kể từ khi có Đảng. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam,
Đảng và Nhà nước phải luôn coi trong vấn đề này, coi đó là một chiến lược

11
đại đoàn kết dân tộc. “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội” khẳng định : “Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết,
tôn trọng và giúp đỡ nhau giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc
cùng phát triển”. Điều 5 Hiến pháp năm 2013 nêu rõ: “Nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống
trên đất nước Việt Nam. Các dân tộc bình đẳng, đòan kết, tôn trọng và giúp
nhau cùng phát triển, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Ngôn
ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ
gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa tốt
đẹp của mình. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển tòan diện và tạo điều
kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước”.

Bình đẳng giữa các dân tộc là nguyên tắn cơ bản, có ý nghĩa quan trọng
hàng đầu của chính sách dân tộc. Các dân tộc, không phân biệt đa số hay
thiểu số trình độ phát triển cao hay thấp, đều ngang nhau về quyền lợi và
nghĩa vụ trong mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội và được đảm bảo
bằng Hiến pháp và pháp luật. Thực hiên quyền binh đẳng giữa các dân tộc,
trước hết là thực hiện quyền bình đẳng về chính trị, bởi vậy, cần chống mọi
biểu hiện chia rẽ, kỳ thị dân tộc, dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực đoan, tự ti dân
tộc,… Thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc về kinh tế là bảo đảm sự
bình đẳng trong quan hệ lợi ích giữa các dân tộc. Nhà nước có trách nhiệm
giúp các dân tộc có kinh tế chậm phát triển để cùng đạt được trình độ phát
triển chung của các dân tộc khác trong cả nước. Thực hiện quyền bình đẳng
giữa các dân tộc về văn hóa – Xã hội là bảo đảm cho việc giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hóa Việt Nam.

Phần lớn các dân tộc thiểu số hiện nay có trình độ phát triển thấp, vì
vậy, bên cạnh việc bảo đảm quyền bình đẳng toàn diện về chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội, Nhà nước cần tạo mọi điều kiện thuận lợi để các dân tộc
thiểu số có cơ hội phát triển bình đẳng với các dân tộc khác. Sự quan tâm,
tương trợ, giúp đỡ nhau cùng phát triển là biểu hiện đặc trưng nhất về quyền
12
bình đẳng giữa các dân tộc ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. Các dân tộc Việt Nam đã cùng chung sống lâu đời bên nhau, gắn bó máu
thịt với nhau, no đói có nhau, vinh nhục cùng nhau, đồng cam cộng khổ, một
lòng sát cánh cùng nhau dựng nước và giữ nước. Truyền thống đòan kết đó
được gìn giữ và phát triển trong suốt hàng nghìn năm lịch sử. Kế thừa truyền
thống đoàn kết quý báu đó của dân tộc là một nguyên tắc cơ bản của chính
sách dân tộc, công tác dân tộc trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
mà Đảng và nhân dân ta đang thực hiện, đó là: “Dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh”. Trong thời kỳ quá độ, nguyên tắc đó phải được cụ
thể hóa trong chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, trong các
chương trình, dự án đầu tư phát triển cho vùng đồng bào các dân tộc thiểu số
và miền núi trong các chính sách các quy định cụ thể ở tất cả các lĩnh vực
kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại,…

Thứ ba, xây dựng chiến lược về công tác cán bộ đối với vùng đồng bào
các dân tộc thiểu số và miền núi. Vấn đề cán bộ là khâu then chốt để tổ chức
thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ của Đảng đề ra trong “Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”. Vì vậy, cần xác
định một chiến lược công tác cán bộ đối với vùng đồng bào các dân tộc thiểu
số và miền núi, trong đó cần chú trong một số nội dung chủ yếu:

Có quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ là người dân tộc
thiểu số từ cơ sở đến Trung ương, nghĩa là đề ra được nhu cầu đào tạo, bồi
dưỡng, sử dụng từng loại cán bộ trong từng thời kỳ theo mục tiêu, chiến lược
cán bộ chung của cả nước. Theo đó, số cán bộ của từng dân tộc thiểu số được
đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng tương ứng với tỷ lệ dân số của mỗi dân tộc đó.
Trên cơ sở quy hoạch đó, củng cố, phát triển hệ thống trường dân tộc nội trú,
bán trú từ xã đến Trung ương, làm nhiệm vụ giáo dục, đào tạo con em người
dân tộc thiểu số có đủ trình độ kiến thức để thi vào đại học. Hệ thống trường
này phải được tiếp tục củng cố, hoàn thiện về cơ sở vật chất và có chính sách
tuyển sinh chặt chẽ, theo nhu cầu của từng dân tộc và địa bàn cụ thể, tránh
13
tình trạng có dân tộc đã nhiền cán bộ nhưng học sinh, sinh viên vẫn chiếm đa
số trong trường. Chủ trương cử tuyển vào đại học và cao đẳng chỉ là giải pháp
tình thế, vì vậy, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp để tiến tới bỏ hệ cử tuyển
như hiện nay. Theo đó, học sinh học lên các cấp đều phải thi, có đạt trình độ
thì mới cho học tiếp, bởi có như vậy mới đào tạo được nhân tài. Có chính
sách thu hút, chế độ đãi ngộ xứng đáng đối với cán bộ công tác ở vùng đồng
bào các dân tộc thiểu số và miền núi. Theo đó, ra sức bồi dưỡng, đào tạo cán
bộ là người xuất hiện ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số và miền núi, đồng
thời có chính sách khuyến khích cán bộ từ nơi khác đến phục vụ lâu dài tại
vùng này.

Ngoài ra, từng bước có sự điển chuyển cán bộ giữa các vùng và các dân
tộc. Chẳng hạn, cán bộ là người miền núi, người dân tộc thiểu số có thể xuống
công tác ở vùng đồng bằng và ven biển. Trong kháng chiến thực dân Pháp và
đế quốc Mỹ, chúng ta đã làm như vậy. Nếu như thực hiên từng bước, rồi thì
tiến tới xóa bỏ được sự ngăn cách về cơ cấu cán bộ giữa các dân tộc thì ngay
trong thời kỳ quá độ, chúng ta đã thực hiện được cơ bản sự bình đẳng, đoàn
kết dân tộc một cách thực sự, theo đúng nghĩa của nó về công tác cán bộ.

Thứ tư, xây dựng Luật Dân tộc, làm cơ sở cho việc đổi mới công tác
dân tộc. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cần thể chế hóa những từ
tưởng, quan điểm, chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước, làm cơ sở pháp lý
cho việc giải quyết những vấn đề phát sinh trong quan hệ giữa các dân tộc,
cũng như cho việc tiếp tục đổi mới công tác dân tộc. Bởi vậy, việc sớm xây
dựng, ban hành Luật Dân tộc là rất cần thiết. Nội dung của Luật Dân tộc cần
quy định những vấn đề có tính nguyên tắc về chính sách dân tộc của Đảng và
Nhà nước, quyền và nghĩa vụ của các dân tộc (quyền và nghĩa vụ tham gia
quản lý nhà nước, phát triển kinh tế - xã hội, giữ gìn bản sắc văn hóa,…) và
quản lý nhà nước về dân tôc.

Luật Dân tộc cần phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan
đảm trách công tác chuẩn bị, trong đó, trước hết là Ủy ban Dân tộc (thuộc
14
Chính phủ), là cơ quan giúp Chính phủ quản lý nhà nước về dân tộc và trực
tiếp quản lý một số chương trình, dự án ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số
và miền núi. Theo đó, Ủy ban Dân tộc tập trung vào việc xây dựng chính sách
dân tộc và giúp Chính phủ kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách dân
tộc. Trong Luật Dân tộc, cần quy định rõ, các ngành ở Trung ương, căn cứ
vào chức năng, nhiệm vụ của mình, có chủ trương, biện pháp chỉ đạo toàn
nghành về việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước. Đồng thời,
có những quy định cụ thể về tổ chức bộ máy và chức năng, nhiệm vụ của các
cơ quan làm công tác dân tộc ở các địa phương.

Bên cạnh đó, cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các luật, bộ luật
có nội dung liên quan đến vấn đề dân tộc, công tác dân tộc nhằm ngày căng
thể chế hóa sát thực và tốt nhất đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về
vấn đề dân tộc, công tác dân tộc trong thời kỳ lên chủ nghĩa xã hội.

15
KẾT LUẬN
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đảng và Nhà
nước ta đã chú trọng giải quyết tốt vấn đề dân tộc và đã đạt được những kết
quả đáng khích lệ trên tất cả các phương diện kinh tế, chinh trị, văn hóa, xã
hội, quốc phòng – an ninh. Thông qua việc tiếp thu và phát huy nhữnh quan
điểm, tư tưởng trước đó về dân tộc, Đảng và Nhà nước ta đã khái quát được
tình hình dân tộc của đất nước Việt nam hiện nay kể từ đó thể hiện quan điểm
về vấn đề dân tộc và đề ra những chính sách, chủ trương, pháp luật để phát
triển phù hợp với thời đại và với từng vùng riêng biệt tòan diện về mọi mặt,
từng bước khắc phục tình trạng chênh lệch phay triển giữa các dân tộc. Dù là
một quốc gia đa dạng về tộc người nhưng tuyệt nhiên không có bất kì dân tộc
nào bị bỏ lại. Chính tư tưởng tiến bộ và nhân văn này đã nâng cao tinh thần
đoàn kết giữa các dân tộc sống chung một lãnh thổ, phát huy nội lực của mỗi
dân tộc, ngăn chặn từ đầu bất cứ tư tưởng kỳ thị, bất kỳ âm mưa chia rẽ dân
tộc nào.

16
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng, Vấn đề dân tộc và chính sách dân
tộc, Nxv, Chính trị quốc gia, Hà Nội.2018
2. Ban tư tưởng – văn hóa Trung ương, Tài liệu nghiên cứu các Nghị
quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hanh Trung ương Đảng khóa IX.
3. Bộ Giá dục và Đào tạo, Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.2018
4. Kết luận số 65-KL/TW ngày 30/20/2019 của Bộ Chính trị về Tiếp tục
thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương
khoa IX về Công tác dân tộc trong tình hình mới.

17
PHẦN ĐÁNH GIÁ
TT Tiêu chí Điểm Điểm chấm
1 Nội dung 8
2 Hình thức trình 2
bày
Tổng điểm 10
Bằng chữ:
Ngày … tháng … năm … ….
Giảng viên chấm
(Ký, ghi rõ họ tên)

18

You might also like