You are on page 1of 11

ĐẠI HỌC NGUYỄN TẤT THÀNH

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ




MÔN: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

BÀI THU HOẠCH

GV: ThS. NGUYỄN THỊ THƠM

Tp. HCM Tháng 03/2022


DANH SÁCH NHÓM

STT HỌ VÀ TÊN MSSV NHIỆN VỤ ĐƯỢC ĐÁNH GHI


GIAO GIÁ CHÚ
1 Võ Nhật Huy 2000004612 Chương 1: Trung với
nước , Hiếu với dân và 100%
Tổng hợp
2 Nguyễn Thị Hồng 2000004234 Chương 2: 2.1 và
100%
Tổng hợp
3 Nguyễn Minh Hoàng 2000000013 Chương 1: Cần, kiệm,
liêm, chính, chí công 100%
vô tư, 2.2, Tổng hợp
4 Nguyễn Thành Phúc Hậu 2000003927 Chương 2: 2.2 95%
5 Đàm Thị Thu Huyền 2000005696 Chương 2: 2.1 và 2.2 100%
6 Lê Thanh Hiệp 2000002754 Chương 1: Yêu
95%
thương con người
7 Mai Gia Hưng 2000004237 Chương 2: 2.2 95%
8 Vũ Trọng Hùng 2000004703 Chương 1: Tinh Thần
95%
Quốc Tế
9 Lê Thanh Hải 2000005284 Kết Luận 95%
10 Trần Phát Huy 2000001047 Kết Luận 95%

Đề 2: Tư tưởng Hồ Chí Minh và những những chuẩn mực đạo đức cách mạng
trong việc xây dựng đạo đức cho thế hệ trẻ ngày nay gai đoạn hiện nay.
Chương 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về những chuẩn mực đạo đức cách mạnh.
Có tinh thần quốc tế trong sáng:
- Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn quan tâm vấn đề đạo đức và giáo dục
đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Trong những tác phẩm, bài nói, bài viết,
Người đã nhiều lần nói đến các phẩm chất đạo đức. Ngay trong quá trình tìm đường
cứu nước, CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH - bấy giờ là Nguyễn Ái Quốc, đã khẳng
định: "Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc
lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thôi: tình
hữu ái vô sản". Có thể thấy từ thực tế xã hội và con người Việt Nam, Người khái quát
thành những chuẩn mực chung nhất của đạo đức cách mạng: Trung với nước, hiếu với
dân; Yêu thương con người; Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư; Tinh thần quốc tế
trong sáng. Trong những chuẩn mực trên, trong xu hướng hội nhập, toàn cầu hóa hiện
nay, "Tinh thần quốc tế trong sáng" có vai trò rất to lớn.
- Tinh thần quốc tế trong sáng là phẩm chất, là yêu cầu đạo đức của người Việt
Nam nói chung, cán bộ nói riêng trong mối quan hệ rộng lớn, vượt qua phạm vi quốc
gia, dân tộc. Tinh thần quốc tế trong sáng trong tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện ở các
điểm sau:
Thứ nhất, đoàn kết với nhân dân các nước vì mục tiêu giải phóng con người khỏi
áp bức, bóc lột: Trong quá trình tìm đường cứu nước, Bác đã đến nhiều nước trên thế
giới, các nước tư bản cũng như thuộc địa. Người đã chứng kiến cảnh cùng cực của giai
cấp công nhân và Nhân Dân lao động, đồng thời cũng thấy rõ cảnh sống xa hoa của
giai cấp tư sản. Thực tế sinh động đã giúp Người đồng cảm và nhận thức rõ: Nơi đâu
cũng có người nghèo như ở xứ mình, dù ở các nước thuộc địa hay chính quốc, họ đều
bị áp bức, bóc lột tàn nhẫn bởi chủ nghĩa thực dân tàn ác. Người đi tới kết luận: Dù
màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai loại người: người áp bức và người bị áp
bức. Cũng chỉ có một mối tính hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản. Kết luận này
cho thấy nhận thức của Người về ý thức dân tộc và ý thức giai cấp đã vươn từ tầm nhìn
quốc gia lên tầm nhìn quốc tế. Kết luận trên cũng là sự khởi đầu của tư tưởng đoàn kết
quốc tế của Hồ Chí Minh - đoàn kết với những người cần lao trên thế giới, luôn gắn
liền lợi ích dân tộc với lợi ích giai cấp, lợi ích quốc gia với lợi ích quốc tế.
Thứ hai, đoàn kết với nhân loại tiến bộ, vì hòa bình, công lý và tiến bộ xã hội: Từ
những năm 20 của thế kỷ XX, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin, từ thành quả
của Cách mạng tháng Mười Nga, Nguyễn Ái Quốc đã nhận ra giữa các quốc gia, giữa
các dân tộc ở các châu lục cần có sự hợp tác giúp đỡ và học hỏi lẫn nhau. Sức mạnh
của mỗi nước có một phần quan trọng tuỳ thuộc vào các mối liên kết và hiểu biết lẫn
nhau. Từ đó Người luôn khẳng định những cuộc cách mạng của các dân tộc bất kỳ gần
hay xa, to hay nhỏ đều có quan hệ với nhau. Từ năm 1924, Người đã trở thành một
trong những cán bộ châu Á đầu tiên thực thi nhiệm vụ liên kết giữa các dân tộc châu Á
với phong trào cách mạng vô sản thế giới. Trong những năm tháng Nhân Dân Việt
Nam đấu tranh giành độc lập và bảo vệ nền độc lập của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh
hết sức quan tâm chăm lo phát triển tình hữu nghị giữa Việt Nam với các nước ở châu
Á, châu Phi, châu Mỹ Latinh để mở rộng quan hệ quốc tế của Việt Nam và khẳng định
sự ủng hộ của Nhân Dân Việt Nam đối với cuộc đấu tranh của Nhân Dân các nước vì
độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Đồng thời, Người còn luôn nhắc nhở Nhân Dân Việt
Nam về những nhiệm vụ đối với cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của Nhân Dân
các nước này. Hồ Chí Minh tha thiết với độc lập tự do của dân tộc mình, cho nên cũng
rất trân trọng độc lập tự do của các dân tộc khác. Bởi thế, Người hết sức căm giận trước
bất cứ một hành động xâm lược nào và cho rằng: giúp đỡ một dân tộc khác bảo vệ độc
lập tự do của họ cũng chính là bảo vệ lợi ích của đất nước mình, “giúp bạn là tự giúp
mình”. Đây chính là một bước phát triển mới trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết
quốc tế.
Thứ ba, kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế, chống mọi biểu hiện
của kỳ thị dân tộc: Hồ Chí Minh lên án và đấu tranh chống chia rẽ, thù hằn, bất bình
đẳng, phân biệt chủng tộc, đoàn kết với các lực lượng cách mạng và tiến bộ khắp thế
giới. Người gắn mục tiêu đấu tranh của Nhân Dân Việt Nam với mục tiêu chung của
nhân loại vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Trong bối cảnh thế
giới phức tạp và khó lường hiện nay, nguồn lực quan trọng để xây dựng, bảo vệ và phát
triển đất nước chính là mở rộng tình đoàn kết quốc tế, quan hệ hợp tác cùng có lợi, chủ
động, tích cực hội nhập, đúng như Đảng ta đã khẳng định trong văn kiện Đại hội XII:
“ Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của
luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi. Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại
độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan
hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành
viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế….”( ). Đặc biệt, đối với ngành ngoại giao
, ngành có vai trò như sợi chỉ đỏ gắn kết quan hệ Việt Nam với các nước trên thế giới,
tại Hội nghị ngoại giao lần thứ 29 của ngành ngoại giao Việt Nam (tháng 8 – 2016),
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã dùng hình ảnh ngoại giao mang đậm
bản sắc là cây tre Việt Nam, mềm mại mà cứng cỏi, biết nhu biết cương, biết thời biết
thế, để nhấn mạnh trong thế giới đầy biến động, hoạt động ngoại giao phải là một
phương thuốc hữu hiệu để thu hẹp bất đồng, mở đường cho các giải pháp, kiên trì về
nguyên tắc, mềm dẻo về sách lược, tuân thủ những tư tưởng lớn của Bác Hồ về dĩ bất
biến ứng vạn biến, thêm bạn bớt thù, làm bạn với tất cả các nước dân chủ và không gây
thù oán với ai…
Hiện nay, khi những điều kiện quốc tế có sự thay đổi khá nhiều so với trước, việc
nghiên cứu về vấn đề đoàn kết quốc tế sẽ mở ra khả năng rộng lớn để vận dụng, thực
hiện thắng lợi những nhiệm vụ đối ngoại mà Đại hội XIII của Đảng đề ra: thực hiện
nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển, đa phương
hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ
sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình
đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Trong đó, mục tiêu bao trùm là giữ vững môi trường hoà
bình, ổn định, thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện các nhiệm
vụ chiến lược về phát triển kinh tế - xã hội; đồng thời kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững
chắc độc lập, chủ quyền và các lợi ích chính đáng của ta theo luật pháp quốc tế. Trong
việc bảo đảm môi trường hoà bình thì một trong những yêu cầu then chốt là phải luôn
kiên trì, bình tĩnh, sáng suốt xử lý đúng đắn mọi vấn đề phức tạp trong đối ngoại, trong
đó có vấn đề chủ quyền, lãnh thổ. Để tranh thủ và tận dụng tối đa cơ hội, kiểm soát và
hoá giải các thách thức, ứng phó tốt với những chuyển biến bên ngoài, phải luôn đề cao
xây dựng sự đoàn kết và đồng thuận quốc tế. Cố gắng tìm kiếm và tranh thủ điểm đồng
thuận về lợi ích để thúc đẩy hợp tác và phát triển trên cơ sở bảo vệ lợi ích quốc gia - dân
tộc và tôn trọng luật pháp quốc tế, đồng thời thông qua đây để tiến hành bảo vệ đất nước
từ sớm, từ xa.
Trung, hiếu là phẩm chất đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam và phương
Đông, được Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển trong điều kiện mới. Trong tư
tưởng Hồ Chí Minh, trung với nước, hiếu với dân là điều chủ chốt của đạo đức cách
mạng. Trung với nước là trung thành vô hạn với sự nghiệp dựng nước và giữ nước, đấu
tranh giành độc lập dân tộc và làm cho đất nước "sánh vai với các cường quốc năm
châu". Nước là của dân, dân là chủ đất nước, cho nên "trung với nước" là trung với
dân, trung thành với lợi ích của nhân dân, "bao nhiêu quyền hạn đều của dân"; "bao
nhiêu lợi ích đều vì dân"... Hiếu với dân là Đảng, Chính phủ, cán bộ nhà nước phải là
"đầy tớ trung thành của dân"; phải "tận trung với nước, tận hiếu với dân". Theo tư
tưởng Hồ Chí Minh, trung với nước, hiếu với dân phải gắn bó với dân, gần dân, dựa
vào dân, lấy dân làm gốc. Phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, quan tâm cải thiện
dân sinh, nâng cao dân trí, làm cho dân hiểu rõ trách nhiệm và quyền lợi của người làm
chủ đất nước.
Yêu thương con người, sống có tình nghĩa
Hồ Chí Minh coi đây là một trong những phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Xuất phát
từ truyền thống nhân nghĩa của dân tộc kết hợp với chủ nghĩa nhân đạo cộng sản. Nói
về tình yêu thương con người, sống có tình nghĩa theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cần phân
tích ở những luận điểm:
Tình yêu thương là một tình cảm rộng lớn, trước hết là dành cho những người cùng
khổ. Tình yêu thương đó đã được thể hiện bằng một ham muốn tột bậc là làm cho
nước được độc lập, dân được tự do.
Xuất phát điểm từ tình yêu thương con người ở Hồ Chí Minh vừa sâu xa, vừa rất cụ
thể và gần gũi. Tình yêu ấy còn được thể hiện trong các mối quan hệ bạn bè, đồng chí
với mọi người bình thường trong quan hệ hàng ngày.
Tình yêu thương con người theo Hồ Chí Minh còn thể hiện đối với những người có
sai lầm khuyết điểm nhưng đã nhận rõ và cố gắng sửa chữa.
Nhưng điểm nổi bật nhất trong tình thương yêu con người của Hồ Chí Minh đó là
thương yêu nhân dân. Người quan tâm tới mọi đối tượng từ các cụ già, bộ đội, phụ
nữ, đến các cháu thiếu niên nhi đồng,..
Yêu thương con người là giúp cho mỗi người ngày càng tiến bộ, sống cao đẹp hơn.
Tuy nhiên, tình yêu thương đó phải được dựa trên nguyên tắc tự phê bình và phê bình
một cách chân thành và nghiêm túc. Hoàn toàn khác với thái độ dĩ hòa vi quý, bao
che sao lầm, càng xa lạ với thái độ “yêu nên tốt, ghét nên xấu”, bè cánh của bộ phận
thoái hóa, biến chất có thể đưa đến những tổn thất cho Đảng và cho cách mạng.
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
Đây là phẩm chất đạo đức gắn liền với hoạt động hằng ngày của mỗi người, là đại
cương đạo đức Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, bọn phong kiến ngày xưa nêu
ra cần, kiệm, liêm, chính, nhưng không bao giờ thực hiện mà lại bắt nhân dân tuân theo
để phụng sự quyền lợi cho chúng. Ngày nay, ta đề ra cần, kiệm, liêm, chính cho cán bộ
thực hiện làm gương cho nhân dân theo là để đem lại hạnh phúc cho dân. Với ý nghĩa
như vậy, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư cũng là một biểu hiện cụ thể, một nội
dung của phẩm chất "trung với nước, hiếu với dân".
Cũng như khái niệm "trung, hiếu", "cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư" cũng là
những khái niệm cũ trong đạo đức truyền thống dân tộc, được Hồ Chí Minh lọc bỏ
những nội dung không phù hợp và đưa vào những nội dung mới đáp ứng yêu cầu của
cách mạng.
Cần là siêng năng, chăm chỉ; lao động có kế hoạch, có hiệu quả, có năng suất cao với
tinh thần tự lực cánh sinh.
Kiệm là tiết kiệm (tiết kiệm thời gian, tiết kiệm công sức, tiết kiệm của cải...) của nước,
của dân; "không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi", không phô trương hình thức,
không liên hoan, chè chén lu bù.
Liêm là luôn tôn trọng của công và của dân. Phải "trong sạch, không tham lam" tiền
của, địa vị, danh tiếng.
Chính là thẳng thắn, đứng đắn. Người đưa ra một số yêu cầu: Đối với mình - không
được tự cao, tự đại, tự phụ, phải khiêm tốn học hỏi, phát triển cái hay, sửa chữa cái dở
của mình. Đối với người - không nịnh người trên, không khinh người dưới, thật thà,
không dối trá. Đối với việc - phải để việc công lên trên, lên trước, việc thiện nhỏ mấy
cũng làm, việc ác nhỏ mấy cũng tránh.
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, các đức tính cần, kiệm, liêm, chính, có quan hệ chặt chẽ với
nhau, ai cũng phải thực hiện, song cán bộ, đảng viên phải là người thực hành trước để
làm kiểu mẫu cho dân. Người cho rằng, những người trong các công sở đều có nhiều
hoặc ít quyền hạn. Nếu không giữ đúng cần, kiệm, liêm, chính thì dễ trở nên hủ bại,
biến thành sâu mọt của dân.
Đối với một quốc gia, cần, kiệm, liêm, chính là thước đo sự giàu có về vật chất, vững
mạnh về tinh thần, thể hiện sự văn minh, tiến bộ. cần, kiệm, liêm, chính còn là nền tảng
của đời sống mới, của các phong trào thi đua yêu nước.
Chí công vô tư là công bằng, công tâm, không thiên tư, thiên vị; làm việc gì cũng không
nghĩ đến mình trước, chỉ biết vì Đảng, vì dân tộc, "lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ"
(tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc). Chí công vô tư là nêu cao chủ
nghĩa tập thể, trừ bở chủ nghĩa cá nhân.
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa cá nhân là vết tích của xã hội cũ, đó là lối sống ích kỷ,
chỉ biết có riêng mình, thu vén cho riêng mình, chỉ thấy công lao của mình mà quên
mất công lao của người khác. Chủ nghĩa cá nhân là đồng minh của đế quốc; là một thứ
vi trùng rất độc. Chủ nghĩa cá nhân đẻ ra hàng trăm thứ bệnh nguy hiểm, như: quan
liêu, mệnh lệnh, bè phái, chủ quan, tham ô, lãng phí, tham danh, trục lợi, thích địa vị,
quyền hành, coi thường tập thể, tự cao tự đại, độc đoán chuyên quyền... Đó "là một thứ
rất gian giảo, xảo quyệt; nó khéo dỗ dành người ta đi xuống dốc". Hồ Chí Minh cho
rằng, chủ nghĩa xã hội không thể thắng lợi nếu không loại trừ chủ nghĩa cá nhân.
Chương 2: Sự vận dụng của tư tưởng Hồ Chí Minh về những chuẩn mực đạo đức
cách mạng trong việc xây dựng đạo đức cho thế hệ trẻ ngày nay.
- Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức cách mạng cho thế hệ trẻ trong
giai đoạn hiện nay có ý nghĩa rất quan trọng, giúp cho các thế hệ thanh niên tự giác học
tập, rèn luyện theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, trở thành lực lượng
kế tục sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, giáo
dục, bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho tthế hệ trẻ giai đoạn hiện nay cần được tiến
hành toàn diện sâu sắc, nhưng phải có trọng tâm, trọng điểm, trong đó đặc biệt nhấn
mạnh đến học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, vì đây là cội nguồn đạo đức cách mạng. Đảng
cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người
thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng”, vừa “chuyên”. Bồi dưỡng thế hệ cách
mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết. Người nhấn mạnh: “Trong
việc giáo dục và học tập phải chú trọng đủ các mặt: đạo đức cách mạng, giác ngộ cách
mạng xã hội chủ nghĩa, văn hóa, kinh tế, lao động và sản xuất”. Học tập, nghiên cứu
chủ nghĩa Mác - Lênin giúp cho thanh niên sống có tình, có nghĩa hơn, biết hy sinh
phấn đấu cho lý tưởng, mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; có lòng
yêu nước, tinh thần đoàn kết, đức tính cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, không
ham địa vị công danh và phú quý, chớ kiêu ngạo và tự mãn… Đạo đức cách mạng có
thể tóm tắt trong mấy điểm: trung thành , dũng cảm , khiêm tốn.
- Về hình thức, biện pháp có chỉ rõ việc tự giác, không ngừng tu dưỡng phấn đấu rèn
luyện là con đường ngắn nhất, hiệu quả nhất để thanh niên sửa đổi những khuyết điểm,
sai lầm trong cuộc sống, trong công việc. Cũng như phê phán mạnh mẽ những thanh
niên không chịu học tập, rèn luyện đạo đức cách mạng, chỉ lo cho bản thân, ham chơi,
ham vui, không quan tâm, lo lắng đến đồng bào, đất nước, tham lam vật chất, ham sung
sướng, xa xỉ, kiêu ngạo, lười lao động… Vì vậy, đã đặt ra yêu cầu nhiệm vụ cho thanh
niên giải quyết tốt mối quan hệ biện chứng thống nhất không tách rời nhau giữa nghĩa
vụ và quyền lợi, trong đó nghĩa vụ là yếu tố đặt lên hàng đầu, thanh niên phải xác định
tốt nhiệm vụ với Tổ quốc, với Đảng và với Nhân dân
2.1. Thực trạng việc xây dựng đạo đức cách mạng cho thế hệ trẻ ngày nay
Tích cực và tiêu cực
Ngày nay, tình hình trong nước và trên thế giới có nhiều biến động, đòi hỏi con người
Việt Nam, đặc biệt là thế hệ thanh niên cần nhận thức rõ vai trò, vị trí, trách nhiệm của
mình trong sự nghiệp đổi mới đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình
mới. Tại Hội nghị Trung ương lần 4 khóa VII, Đảng ta khẳng định, sự nghiệp đổi mới
có thành công hay không, đất nước ta bước vào thế kỷ XXI có vị trí xứng đáng trong
cộng đồng thế giới hay không, cách mạng Việt Nam có vững bước theo con đường xã
hội chủ nghĩa hay không là tùy thuộc vào lực lượng thanh niên.
Có thể thấy, thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh rằng, thế hệ trẻ Việt Nam
luôn xứng đáng với sự tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân, thực sự là lực lượng
xung kích trong sự nghiệp cách mạng. Theo suốt chiều dài lịch sử, nhiều tấm gương,
điển hình tiên tiến trong chiến đấu, lao động, học tập và công tác đã thuộc về tuổi trẻ
Việt Nam. Trong giai đoạn hội nhập quốc tế và phát triển đất nước hiện nay, thanh niên
vẫn khẳng định là lực lượng hăng hái xung kích, đi đầu trong thực hiện các chương
trình, mục tiêu của sự nghiệp đổi mới, nổi bật là hai phong trào lớn “Thanh niên lập
nghiệp”, “Tuổi trẻ giữ nước”, được tiến hành cụ thể ở bốn chương trình hành động
“Lập thân, lập nghiệp, xây dựng đất nước phồn vinh”, “Bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn trật
tự, an ninh”, “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng tài năng trẻ, phát triển văn hóa, thể thao”,
“Công tác xã hội, bảo vệ môi trường”... đã thu hút hàng triệu thanh niên tham gia, chủ
động sáng tạo, cống hiến cho Tổ quốc.
- Tích cực : Trải qua hơn 20 năm đổi mới, những thành tựu đạt được trong mọi lĩnh
vực đã tác động tích cực đến thanh niên, tạo điều kiện cho họ tiến bộ về chính trị, tư
tưởng, đạo đức, lối sống, trình độ học vấn, khoa học công nghệ. Thanh niên đã kế tục
xứng đáng sự nghiệp cách mạng của Đảng. Trên các lĩnh vực của đời sống xã hội đã
và đang xuất hiện những nhà quản lý, nhà doanh nghiệp, nhà khoa học, nhà hoạt động
nghệ thuật có đức, có tài trong độ tuổi thanh niên. Nét nổi bật của thanh niên nước ta
là ý chí vươn lên, tinh thần cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất, ham mê nghiên
cứu và ứng dụng khoa học công nghệ để thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, làm giàu cho
bản thân, gia đình và xã hội. Tuyệt đại bộ phận thanh niên cơ bản giữ vững đạo đức
cách mạng, sống trong sạch, giản dị, lành mạnh, biết vươn tới các giá trị chân, thiện,
mỹ. Thanh niên sống có hoài bão, có lý tưởng, có niềm tin ở tương lai tươi sáng của
dân tộc. Họ dám đấu tranh để bảo vệ cái đúng, bảo vệ lẽ phải, bảo vệ sự công bằng, lên
án cái xấu, cái ác như tham nhũng, lãng phí… Những tấm gương cao đẹp hy sinh thân
mình vì hạnh phúc của nhân dân luôn được tuổi trẻ ngưỡng mộ, học tập và làm theo.
Điều đó cho thấy, thanh niên nước ta ngày nay vẫn ý thức rõ trách nhiệm trước Tổ quốc
và nhân dân, mong muốn được đóng góp vào công việc xây dựng đất nước ta đàng
hoàng hơn, to đẹp hơn như Bác Hồ kính yêu hằng mong ước.
- Tiêu cực : Tuy nhiên, mặt trái của kinh tế thị trường, những thách thức của hội nhập
kinh tế thế giới, đặc biệt những âm mưu thủ đoạn nham hiểm của các thế lực thù địch
đang tác động mạnh mẽ đến thanh niên, khiến cho không ít người chạy theo lối sống
thực dụng, sa ngã, hư hỏng, xa rời các giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc , có thái độ
thờ ơ, bàng quan trước các sự kiện kinh tế, chính trị của đất nước. Một số thanh niên
mơ hồ về bản chất, âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù. Điều nguy hiểm hiện nay là đã xuất
hiện một bộ phận thanh niên tôn thờ chủ nghĩa cá nhân, sống ích kỷ, chạy theo lợi ích
vật chất, coi đồng tiền là trên hết. Cá biệt có một số thanh niên phạm vào các tệ nạn xã
hội, vi phạm pháp luật. Nhiều vụ án được khám phá trong thời gian gần đây cho thấy
tỷ lệ phạm tội trong thanh niên có chiều hướng gia tăng.
2.2 . Sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về những chuẩn mực đạo đức cách mạng
trong việc xây dựng đạo đức cho thế hiện trẻ giai đoạn hiện nay.

2.2.1. Thường xuyên bồi dưỡng các phẩm chất đạo đức Hồ Chí Minh
Về những phẩm chất đạo đức của người Việt Nam, quan điểm đạo đức của Hồ Chí
Minh đã bao quát những mối quan hệ cơ bản của con người trong xã hội gồm:
Một là, với đất nước, dân tộc phải: “Trung với nước, hiếu với dân”.
Hai là, với mọi người phải: “Yêu thương con người, sống có nghĩa, có tình”.
Ba là, với mình phải thực sự: “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”.
Bốn là, mở rộng quan hệ yêu thương con người đối với toàn nhân loại, người cách
mạng phải có “Tinh thần quốc tế trong sáng”.
Đó là bốn phẩm chất chung cơ bản nhất của con người Việt Nam trong thời đại mới.

Trung với nước là trung thành với sự nghiệp giữ nước và dựng nước. Nước ở đây là
nước của dân, còn dân lại là chủ nhân đất nước. Khi Hồ Chí Minh đặt vấn đề “bao
nhiêu quyền hạn đều của dân”, “bao nhiêu lợi ích đều vì dân”, “bao nhiêu quyền hành
và lực lượng đều ở nơi dân”, Đảng và Chính phủ là “đày tớ nhân dân” chứ không phải
“quan nhân dân để đè đầu cưỡi cổ nhân dân”; thì quan niệm về nước và dân đã hoàn
toàn đảo lộn so với trước.
Hiếu với dân, có nghĩa là không chỉ hiếu thảo với cha mẹ mình, mà còn phải hiếu thảo
với cha mẹ của người khác, hiếu thảo với nhân dân, gắn bó với nhân dân; bao nhiêu
quyền hạn đều là của dân, bao nhiêu lợi ich đều là vì dân, bao nhiêu lực lượng đều là
ở dân….Người khẳng định : nước lấy dân làm gốc, gốc có vững cây mới bền, xây lầu
thắng lợi trên nền nhân dân.

Yêu thương con người rất cụ thể và gần gũi. Tình yêu ấy còn được thể hiện trong các
mối quan hệ bạn bè, đồng chí với mọi người bình thường trong quan hệ hàng ngày. Nó
đòi hỏi mọi nguời phải luôn chặt chẽ nghiêm khắc với mình, rộng rãi, độ lượng với
người khác. Nó đòi hỏi thái độ tôn trọng con người, phải biết nâng người khác lên, chứ
không phải hạ thấp, càng không phải vùi dập con người.

Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư sẽ làm con người ta vững vàng trước mọi thử
thách “giàu sang không thể quyến rũ; nghèo khó không thể chuyển lay; uy vũ không
thể khuất phục”. Nhưng đây lại la vấn đề phức tạp, nói dễ làm khó. Bởi vì nó đụng
chạm đến nhiều mặt lợi ích cá nhân, tập trung nhất vào chức, quyền, danh, lợi mà nếu
không vượt qua được chủ nghĩa cá nhân thì bất cứ ai cũng có thể sa vào những hành vi
vô đạo đức.

Tinh thần quốc tế trong sáng là một phẩm chất đạo đức, là yêu cầu đạo đức nhằm
vào mối quan hệ rộng lớn, vượt qua khuôn khổ của quốc gia dân tộc. Không phải bất
cứ ai, bất cứ lúc nào cũng nhận thấy tinh thần đó, nhưng việc giáo dục của Đảng và
việc rèn luyện của cá nhân mỗi người về tinh thần quốc tế lại không thể coi nhẹ. Nếu
coi nhẹ tinh thần quốc tế sẽ dẫn đến đổ vỡ quốc gia dân tộc, liên bang, phá vỡ tình đoàn
kết quốc tế, thậm chí đưa đến tình trạng đối địch, đối đầu.

2.2.2. Xác định đúng vai trò đạo đức cá nhân


Vai trò:
Giáo dục đạo đức, lối sống giúp cho mỗi cá nhân nâng cao trình độ nhận thức về các
giá trị đạo đức, lối sống từ đó tự điều chỉnh hành vi sao cho phù hợp với những chuẩn
mực đạo đức, lối sống của xã hội.
Giáo dục đạo đức, lối sống góp phần gìn giữ, phát huy những giá trị đạo đức mà các
thế hệ trước đã tạo dựng; đồng thời góp phần tích cực trong việc giáo dục hình thành
những giá trị đạo đức, lối sống mới, khắc phục những quan điểm lạc hậu, sự lệch
chuẩn các giá trị đạo đức truyền thống, những thói hư tật xấu hay những hiện tượng
phi đạo đức.
Giáo dục đạo đức, lối sống không chỉ làm cho con người nhận thức đúng các chuẩn
mực đạo đức, các giá trị đạo đức, lối sống mà còn thông qua đó để hình thành niềm
tin và tình cảm đạo đức. Trên cơ sở đó giúp con nguời nhận ra giá trị của các giá trị
đạo đức.
Nhiệm vụ:
+ Hoàn thiện nhân cách cho học sinh, sinh viên thực hiện tốt những bổn phận đạo đức
của bản thân đối với việc học tập, rèn luyện, có trách nhiệm với gia đình và xã hội.
+ Nâng cao nhận thức chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên.
+ Bồi dưỡng cho học sinh, sinh viên tình cảm cách mạng trong sáng.
+ Bồi dưỡng ý chí, hành động đúng, hình thành những thói quen đạo đức, lối sống
đặc biệt là ý thức trách nhiệm công dân.
+ Đấu tranh khắc phục, ngăn chặn những biểu hiện thiếu đạo đức trong tư tưởng, tình
cảm, hành động của học sinh, sinh viên. Xây dựng nếp sống văn minh, thanh lịch,
tích cực tham gia phòng chống tệ nạn xã hội.
+ Nhằm ngăn chặn tình trạng bạo lực trong học sinh, sinh viên; đảm bảo an ninh, trật
tự trong trường học, kiềm chế, đẩy lùi tình trạng vi phạm pháp luật trong học sinh,
sinh viên.
Kết Luận:
Giáo dục đạo đức, lối sống có vai trò rất lớn trong việc hình thành ý thức, tình cảm
cũng như các hành vi đạo đức của con người nói chung, của học sinh, sinh viên nói
riêng. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, trước nhiều biến động phức tạp của đạo đức
xã hội; trước những biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận thanh
thiếu niên thì công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên càng trở nên
quan trọng.
2.2.3. Sinh viên, cán bộ, học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Sinh viên:
Tích cực lao động, học tập với tinh thần sáng tạo, chất lượng, có hiệu quả cao; quý
trọng công sức lao động, giữ gìn bảo vệ tài sản của cá nhân và tập thể; chống chủ nghĩa
cá nhân, lối sống thực dụng. Phải thẳng thắn, trung thực, bảo vệ đường lối, quan điểm
của Đảng và Nhà nước, không tin vào những điều phản Cách mạng trên MXH hay
những thế lực thù địch, luôn tuân theo Pháp luật của Đảng và Nhà nước, luôn tôn trọng
nguyên tắc, pháp luật, kỷ cương, đặc biệt là luôn biết giúp đỡ những người xung quanh,
phấn đấu để giúp Tổ quốc phát triển, sánh vai cùng các cường quốc,, không tự cao, tự
đại. Kiên quyết chống bệnh lười biếng, lối sống hưởng thụ vị kỷ, nói nhiều làm
ít.Không vùi dập hạ thấp nhau vì lợi ích cá nhân, tha thứ cho những người biết sai biết
sửa và luôn “ giúp người như tự giúp mình” và luôn nhớ “ Bốn phương vô sản đều là
anh em”.
Cán bộ, Đảng viên:

Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng khẳng định: “Đa số cán bộ, đảng viên
phát huy vai trò tiên phong, năng động, sáng tạo, giữ gìn phẩm chất đạo đức”. Chính
yếu tố con người sẽ tạo ra sự khác biệt và quyết định sự phát triển lâu dài của doanh
nghiệp. Khi vốn, công nghệ giữa các cơ quan, đơn vị tương đồng, thì khách hàng sẽ
đến với cơ quan, đơn vị nào có nhân viên cơ quan, đơn vị phục vụ tốt hơn, phong cách
ứng xử văn minh hơn. Điều đó thể hiện đạo đức nghề nghiệp của cán bộ Ngân hàng và
càng khẳng định được vị thế, thương hiệu của cơ quan, đơn vị. Ngoài ra, việc tiếp tục
hoàn thiện phong cách văn minh, tiên tiến đáp ứng yêu cầu mới là một vấn đề trong
chiến lược phát triển kinh tế xã hội nói chung và của cơ quan, tổ chức mà các Đảng
viên trẻ đang phục vụ. Cán bộ, đảng viên nói chung, và cán bộ, đảng viên trẻ nói riêng
cần thực hiện tốt một số chuẩn mực đạo đức cơ bản của cán bộ, đảng viên theo tư tưởng
Hồ Chí Minh như sau:

- Chấp hành chủ trương đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước. Nâng cao ý thức
chấp hành pháp luật, tuân thủ quy trình nghiệp vụ.

- Đoàn kết, tôn trọng và tin cậy lẫn nhau; khiêm tốn trong mọi quan hệ;

- Dân chủ, hợp tác hướng tới sự phát triển bền vững.

- Giữ uy tín, danh dự cho ngành nghề, cơ quan đơn vị, lãnh đạo và đồng nghiệp.

- Làm việc năng động - chuyên nghiệp - hiệu quả

Kết luận:
Bản thân Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng về đạo đức, Người để lại cho
dân tộc những di sản vô giá, trên hết là về tư tưởng của Người, tư tưởng về đạo đức.Tư
tưởng của Người như một con đường dẫn đến ánh sáng cho cả dân tộc. Ngay trong
những tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thì có rất nhiều tác phẩm mà Người đề
cao về phẩm chất đạo đức. Có thể thấy Bác rất coi trọng giáo dục và rèn luyện đạo đức
cho người dân.
Trong mọi giai đoạn, vai trò của thế hệ trẻ là rất quạn trọng, đặc biệt là trong thời đại
mới. Mỗi người phải tự khắt khe với bản thân, nghiêm túc học tập, rèn luyện phẩm chất
đạo đức để có được kiến thức và hoàn thành nhiệm vụ được giao. Đặc biệt là hiểu về
vai trò và trách nhiệm của bản thân. Các cấp phải nâng cao rèn luyện, thường xuyên
quan tâm và quản lí tốt đảng viên. Bên cạnh đó cũng phải loại trừ các thành phần biến
chất gây chia rẽ, bè phái, tham nhũng, ức hiếp quần chúng và có tư tưởng sai lệch về
lối sống, đạo đức. Với thế hệ trẻ thì việc tích lũy kiến thức, kinh nghiệm là vô cùng
quan trọng, nếu điểm xuất phát tốt thì sẽ đạt được những bước đi dài, ổn định vững
chắc; ngước lại, thì sẽ gặp nhiều khó khăn trắc trở.
Vấn đề xây dựng đạo đức cho thế hệ trẻ trong giai đoạn hiện nay thực sự là vấn đề có
ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng, làm cho Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh, xứng đáng với sự tin cậy
của nhân dân, hoàn thành những trọng trách của mình trước nhân dân và dân tộc. Xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức là ý chí của Đảng, là
tình cảm và nguyện vọng của Nhân dân Việt Nam. Vì vậy, mỗi tổ chức đảng, mỗi cán
bộ, đảng viên cần nêu cao tinh thần trách nhiệm xây dựng "Đảng ta là đạo đức, là văn
minh" như Bác Hồ kính yêu từng căn dặn, hiện thực hóa Nghị quyết Đại hội XIII của
Đảng vào cuộc sống.
Sống, làm việc và học tập theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh mãi mãi là khẩu hiệu
và hành động của dân tộc ta.
Sau những điều trên chúng ta càng thấm thía lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong
Di chúc Người để lại cho toàn Đảng, toàn dân: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền, mỗi
đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm
chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn “Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người
lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân” .Tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh vẫn còn giữ nguyên tính thời sự, soi sáng cho Đảng và nhân dân ta hoàn thành
sự nghiệp vẻ vang, xây dựng nền đạo đức Việt Nam ngang tầm với những yêu cầu của
giai đoạn cách mạng mới.

You might also like