You are on page 1of 27

Dân chủ

Ngày 22 Tháng 4 Năm 2021

Buổi học: sáng thứ 5 tiết 7 8


Tên nhóm: Hoa Tre
Nhóm trưởng: Nguyễn Viết Quang

Danh sách thành viên trong nhóm:

HỌ VÀ TÊN VIẾT TIỂU LUẬN


SST
Số ĐTDĐ Mục Điểm B
Nguyễn Viết Quang
1 Chương 2 Mục 2
201110549
Nguyễn Phước Tiến
2 Chương 2 Mục 1
20110575
Lý Tiến Thành Chương 1 Mục 2.2
3
20110566 (Thuyết trình)
Nguyễn Tiến Dũng Chương 1 Mục 1.1
4
20110090 (Vẽ sơ đồ)

Hà Nhật Vềnh
5 Chương 1 Mục 1.2
20110599
Nguyễn Anh Tỷ
6 Chương 1 Mục 2.1
20110084

1





Dân chủ

MỤC LỤC

Mục 1: Mục tiêu của tiểu luận……………………………………..3


Mục 2: Nội Dung…………………………………………………….4
Chương 1: Lý luận cơ bản…………………………………………..4
1.Dân chủ và sự ra đời, phát triển của dân chủ…………………….…4
1.1 Quan niệm về dân chủ…………………………………………4
1.2 Sự ra đời và phát triển của dân chủ……………………………9
2.Dân chủ xã hội chủ nghĩa……………………………………………11
2.1 Quá trình ra đời của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa…………..11
2.2 Bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ………………….13

Chương 2: Liên h v i quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam.…………………………………………………..17
2.1 Tính tất yếu của việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa….17
2.2 Một số kiến nghị góp phần phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa ở
nước ta..…………………………………………………………………19
Mục 3: Tài liệu tham khảo………………..……………………….27

ệ
ớ

Dân chủ

Mục tiêu của tiểu luận:

Dân chủ xã hội chủ nghĩa là Chế độ dân chủ đã được xác lập ở các nước đã
hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ và bắt đầu tiến hành cách mạng xã hội
chủ nghĩa. Đặc trưng của dân chủ xã hội chủ nghĩa là quyền dân chủ của công
dân không ngừng được mở rộng trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của nhà
nước, của xã hội mà cơ bản nhất là dân chủ về kinh tế. Trên lĩnh vực chính trị xã
hội, quyền tham gia quản lý nhà nước của nhân dân và các đoàn thể quần chúng
ngày càng được mở rộng về phạm vi, về độ sâu và phong phú đa dạng về các
hình thức. Mục tiêu của dân chủ xã hội chủ nghĩa là nhằm xóa bỏ tệ nạn người
bóc lột người và tạo ra ngày càng nhiều điều kiện để thực hiện triệt để công
bằng xã hội, công lí cho mọi người, bình đẳng thực sự giữa nam với nữ, giữa các
dân tộc, tạo cơ hội cho mọi công dân mưu sinh và mưu cầu hạnh phúc. Dân chủ
xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ của xã hội loài người tiến bộ trong tương lai.

Dân chủ

Chương 1: Lý luận cơ bản

1.Dân chủ và sự ra đời, phát triển của dân chủ


1.1 Quan niệm về dân chủ
a, Khái niệm:
Dân chủ (Democracy) là một sự tiến hoá trong cách thức tổ chức xã hội, thay
thế mô hình quân chủ truyền thống. Từ này có nguồn gốc từ Hy Lạp cổ đại,
trong đó “Demo” có nghĩa là người dân, và “Kratos” có nghĩa là sự cai trị. Như
vậy dân chủ có nghĩa là sự cai trị của người dân. Người dân ở đây là tất cả các
công dân sống trong một cộng đồng. Mọi người đều có quyền và nghĩa vụ như
nhau trong cộng đồng ấy. Trong một nền dân chủ không có một ông vua hay một
vị lãnh đạo nào có đặc quyền cao hơn những người khác. Sự cai trị là một từ
khác chỉ thẩm quyền, thẩm quyền nghĩa là quyền được sử dụng quyền lực cái
mà là khả năng buộc người khác làm theo làm theo ý muốn của mình. Một ví dụ
về quyền lực mà chúng ta tường thấy là hình ảnh cưỡng chế đất đai, phục vụ cho
các dự án xây dựng khắp cả nước. Trong một nền dân chủ, quyền lực cai trị
thuộc về người dân và bắt nguồn từ đó, người dân chính là người quyết định vận
mệnh của đất nước. Trong một nền dân chủ, các công dân sẽ quyết định xem họ
muốn sống trong một cộng đồng như thế nào. Tất cả mọi người đều tham gia
quyết định một cách trực tiếp hay gián tiếp những vấn đề có ảnh hưởng tới cộng
đồng của mình. Nền dân chủ cũng bao gồm việc mọi người cùng quyết định
xem cộng động của họ nên được cai trị như thế nào.

Dân chủ không chỉ là chế độ chính trị trong đó toàn bộ quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân, do dân thực hiện trực tiếp hoặc thông qua đại diện do dân
bầu ra, dân chủ còn là hình thức tổ chức thiết chế chính trị của xã hội dựa trên
việc thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của quyền lực, thừa nhận nguyên tắc bình
đẳng, tự do và quyền con người.

Dân chủ

Ngoài ra, dân chủ còn được vận dụng vào các tổ chức chính trị của nhà nước
trong các hình thái ý thức xã hội, dân chủ còn tồn tại do phương thức sản xuất
vật chất của xã hội quyết định.
Tuy nhiên, dân chủ lại là thành quả giá trị nhân văn được sinh ra từ phương thức
tổ chức hợp tác sản xuất vật chất và cấu kết cộng đồng giữa người với người. Do
đó, dân chủ sẽ tồn tại và phát triển cùng với sự tồn tại và phát triển của con
người, là một hình thức tồn tại của con người ngay cả khi nhà nước không còn.
Có những quan điểm khác về nền dân chủ như John Stuart Mill cho rằng lập
pháp theo phương pháp dân chủ tốt hơn không dân chủ ở chỗ những người ra
quyết định phải tính đến lợi ích, quyền và quan điểm của hầu hết dân chúng.
Nền dân chủ trao quyền lực chính trị cho mỗi đại biểu và có nhiều người tham
gia vào quá trình lập pháp hơn dưới chế độ chuyên chế. Nền dân chủ cũng đáng
tin cậy hơn trong việc đưa ra những quyết định đúng đắn vì nó cho phép nhiều
người tham gia vào quá trình quyết định do đó nhận được nhiều nguồn thông tin
và đánh giá phê phán luật hay chính sách. Ra quyết định theo cách dân chủ cũng
hướng đến lợi ích của công dân nhằm nâng cao những lợi ích đó hơn là những
cách ra quyết định khác. Hơn nữa những cuộc thảo luận rộng rãi trong nền dân
chủ tạo điều kiện cho những đánh giá phê phán của những quan điểm đạo đức
khác nhau dẫn đường cho những người ra quyết định. Cuối cùng nền dân chủ
làm cho nhân dân đứng lên vì bản thân họ hơn những hình thức cai trị khác vì
việc ra quyết định tập thể phụ thuộc vào dân chúng hơn chế độ độc tài do đó
trong xã hội dân chủ cá nhân tự chủ hơn. Ngoài ra nền dân chủ làm cho con
người suy nghĩ duy lý và cẩn thận hơn bởi vì họ tham gia vào quyết định xã hội
sẽ đi theo hướng nào. Nền dân chủ cũng nâng cao phẩm chất đạo đức của công
dân vì khi tham gia ra quyết định họ phải lắng nghe người khác, phải thay đổi họ
cho phù hợp với người khác và phải suy nghĩ đến lợi ích của người khác. Điều
này làm cho con người phải suy nghĩ đến lợi ích chung và lẽ phải thông thường
do đó nền dân chủ nâng cao sự tự chủ, lý tính và đạo đức của mỗi công dân.

Dân chủ

b, Những đặc điểm của dân chủ


Dân chủ không chỉ đơn thuần là một loạt thể chế quản lý cụ thể. Dân chủ dựa
trên nhóm giá trị, quan điểm và thực tiễn đã được nhận thức rõ. Tất cả các giá
trị, quan điểm và thực tiễn đó được thể hiện dưới những hình thức khác nhau tùy
theo nền văn hóa và các xã hội trên thế giới. Các nền dân chủ phải dựa trên
những nguyên tắc cơ bản chứ không phải những thực tiễn thống nhất.

Những đặc điểm chung:


Dân chủ là hình thức chính phủ trong đó quyền lực và trách nhiệm công dân do
công dân trưởng thành trực tiếp thực hiện hoặc thông qua các đại diện của họ
được bầu lên một cách tự do.
Các xã hội dân chủ cam kết với các giá trị khoan dung, hợp tác và thỏa hiệp.
Dân chủ dựa trên các nguyên tắc đa số cai trị và các quyền cá nhân. Các nền dân
chủ chống lại các chính phủ trung ương tập quyền và phi tập trụn hóa chính
quyền ở cấp khu vực và địa phương, với nhận thức rằng tất cả các cấp độ chính
quyền đều phải được tiếp cận và phải đáp ứng người dân khi có thể.
Các nền dân chủ nhận thức rằng một trong những chức năng chính của họ là bảo
vệ các quyền con người cơ bản như tự do ngôn luận và tự do tôn giáo; quyền
được pháp luật bảo vệ bình đẳng và cơ hội được tổ chức và tham gia đầy đủ vào
đời sống kinh tế, chính trị và văn hóa xã hội
Các nền dân chủ thường xuyên tổ chức các cuộc bầu cử tự do và công bằng cho
công dân ở dộ tuổi bầu cử tham gia.
Công dân ở một nền dân chủ không chỉ có các quyền mà còn có trách nhiệm
tham gia hệ thống chính trị. Đổi lại, hệ thống chính trị đó bảo vệ các quyền lợi
và sự tự do của họ.
Các xã hội dân chủ cam kết với các giá trị khoan dung, hợp tác và thỏa hiệp.
Theo lời của Mahatma Gandhi: “Không khoan dung là biểu hiện của tình trạng
bạo lực và cản trở phát triển tinh thần dân chủ thực sự”

Dân chủ

Hai hình thức dân chủ:


Có hai loại hình dân chủ cơ bản, đó là dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện.
Trong nền dân chủ trực tiếp, công dân có thể tham gia quyết định công việc
chung mà không có sự can thiệp của các quan chức được bầu lên hoặc được bổ
nhiệm. Hình thức dân chủ trực tiếp thực tế nhất nếu áp dụng cho một nhóm ít
người như một tổ chức cộng đồng, hội đồng bộ lạc, hoặc đơn vị địa phương của
một liên đoàn lao động. Thành viên các nhóm này có thể gặp gỡ nhau để bàn
bạc các vấn đề và đi đến quyết định bằng sự đồng thuận hoặc biểu quyết đa số.
Bên cạnh đó, một số bang ở Mỹ cho phép đưa ra trên phiếu bầu “đề xuất” và
“trưng cầu dân ý” - yêu cầu thay đổi luật - hoặc yêu cầu bầu lại các quan chức
đã được bầu trong các cuộc bầu cử bang. Những hoạt động này là biểu hiện của
hình thức dân chủ trực tiếp, tức là bày tỏ ý chí của đại bộ phận dân chúng. Có
nhiều thực tiễn khác mang yếu tố của nền dân chủ trực tiếp. Ở Thụy Sĩ, nhiều
quyết định chính trị quan trọng về các vấn đề, trong đó có y tế, năng lượng và
việc làm, là những vấn đề lấy biểu quyết của dân chúng cả nước. Một số người
có thể cho rằng Internet đang tạo ra những hình tức dân chủ trực tiếp mới, vì nó
cho phép các nhóm chính trị gây quỹ cho sự nghiệp của họ bằng cách trực tiếp
lôi cuốn những người cùng chung chí hướng. Tuy nhiên, ngày nay cũng như
trong quá khứ, hình thức phổ biến nhất của dân chủ - dù là của một thành phố
với 50.000 dân hay một quốc gia 50 triệu dân - là hình thức dân chủ đại diện.
Công dân bầu lên các quan chức để đưa ra các quyết định chính trị, xây dựng
luật và điều hành các chương trình vì lợi ích chung.

Nguyên tắc đa số và quyền thiểu số:


Tất cả các nền dân chủ đều là những hệ thống trong đó công dân tự do đưa ra
các quyết định chính trị theo nguyên tắc đa số. Theo lời của nhà văn Mỹ E.B.
White: “Dân chủ là một niềm tin rằng đa số mọi người đều đúng trong hầu hết
các trường hợp”. Bản thân nguyên tắc đa số không tự động mang tính dân chủ.
Ví dụ, không thể nói một hệ thống là công bằng nếu nó cho phép 51% dân số

Dân chủ

đàn áp 49% dân số còn lại nhân danh đa số. Trong một xã hội dân chủ, nguyên
tắc đa số phải gắn với việc đảm bảo các quyền của cá nhân con người. Đổi lại,
các quyền của người thiểu số và những người bất đồng sẽ được bảo vệ - dù đó là
những người thiểu số, tôn giáo hay đơn giản là những người thua trong các cuộc
tranh luận chính trị. Quyền của các nhóm thiểu số không phụ thuộc vào thiện chí
của đa số và cũng không bị tước bỏ bởi nguyên tắc đa số. Quyền của các nhóm
thiểu số được bảo vệ bởi vì luật pháp và các thể chế dân chủ bảo vệ quyền của
mọi công dân. Các nhóm thiểu số phải tin tưởng chính phủ bảo vệ các quyền và
sự an toàn của họ. Một khi điều này được thực hiện, các nhóm đó có thể tham
gia và đóng góp vào việc xây dựng các thể chế dân chủ của đất nước. Nguyên
tắc đa số và quyền thiểu số là đặc trưng của tất cả các nền dân chủ. Những khác
biệt về lịch sử, văn hóa, dân số và kinh tế không ảnh hưởng đến những đặc trưng
này.
Đa nguyên và xã hội dân chủ:
Trong một nền dân chủ, chính phủ chỉ là một đầu mối trong mạng lưới xã hội
gồm rất nhiều thể chế công và tư, các cơ quan luật pháp, các đảng phái chính trị,
các tổ chức và các hiệp hội. Sự đa dạng này gọi là đa nguyên. Điều này có nghĩa
là các nhóm và các thể thế trong một xã hội dân chủ không phải phụ thuộc vào
chính phủ mới được tồn tại, mới mang tính hợp pháp hoặc mới có quyền lực.
Hầu hết các xã hội dân chủ đều có hàng ngàn Công dân được giáo dục là sự đảm
bảo tốt nhất đối với một nền dân chủ đang phát triển (© John Berry/Syracuse
Newspapers/The Image Works) - 8 - các tổ chức tư nhân ở cấp địa phương và
cấp bang. Nhiều tổ chức trong số này có vai trò trung gian giữa các cá nhân và
các thể chế xã hội và chính phủ phức tạp của xã hội, thực hiện những vai trò
không phải của chính phủ và mang đến cho cá nhân cơ hội để trở thành một
phần trong xã hội mà không cần phải tham gia vào chính phủ. Trong một xã hội
độc tài, hầu hết những tổ chức như vậy sẽ bị kiểm soát, kiểm duyệt, theo dõi và
nếu không thì phải chịu trách nhiệm trước chính phủ. Ở một nền dân chủ, theo
luật pháp quy định, quyền lực của chính phủ được xác định rõ và rất hạn chế. Do

Dân chủ

vậy, các tổ chức tư nhân về cơ bản không chịu sự kiểm soát của chính phủ.
Trong khu vực tư nhân bận rộn này của xã hội dân chủ, công dân có thể tìm
kiếm khả năng tự hoàn thành ước nguyện của mình và thực hiện trách nhiệm đối
với một cộng đồng mà không chịu sự kiểm soát có thể rất mạnh từ phía nhà
nước hoặc phải tuân theo ý chí của những người có ảnh hưởng, quyền lực hoặc
tuân theo đa số.

1.2 Sự ra đời và phát triển của dân chủ


Nhu cầu về dân chủ xuất hiện từ rất sớm trong xã hội tự quản của cộng đồng
thị tộc, bộ lạc. Trong chế độ cộng sản Nguyên Thủy đã xuất hiện hình thức
mang nha của dân chủ mà Ph.Ăngghen gọi là "dân chủ nguyên thủy" hay còn
gọi là "dân chủ quân sự". Đặc trưng cơ bản của hình thức dân chủ này là nhân
dân bầu ra thủ lĩnh quân sự thông qua "Đại hội nhân dân". Trong đại hội nhân
dân mọi người đều có quyền phát biểu và tham gia quyết định bằng cách giơ tay
hoặc hoan hô, ở đó đại hội nhân dân và nhân dân có quyền lực thực sự (nghĩa là
dân chủ), mặc dù chỉ là sản xuất còn kém phát triển.
Khi trình độ của lực lượng sản xuất phát triển dẫn tới sự ra đời của chế độ tư
hữu và sau đó là giai cấp đã làm cho hình thức "dân chủ nguyên thủy" tan rã,
nền dân chủ chủ nô ra đời. Nền dân chủ chủ nô được tổ chức thành nhà nước với
đặc trưng là duyên tham gia bầu ra Nhà nước. Tuy nhiên, "Dân là ai?", Theo quy
định của giai cấp cầm quyền chỉ gồm giai cấp chủ nô và phần nào thuộc về các
công dân tự do (tăng lữ thương gia và một số trí thức). Đa số còn lại không phải
là "dân" mà là "nô lệ". Họ không được tham gia vào công việc nhà nước, như
vậy về thực chất dân chủ chủ nô cũng chỉ thực hiện dân chủ cho thiểu số, quyền
lực của dân đã bị bó hẹp nhằm duy trì, bảo vệ thực hiện lợi ích của "dân" mà
thôi.
Cùng với sự tan rã của chế độ chiếm hữu nô lệ, lịch sử xã hội là người bước vào
thời kỳ đen tối với sự thống trị của nhà nước chuyên chế phong kiến, chế độ dân
chủ chủ nô đã bị xóa bỏ và thay thế vào đó là chế độ độc tài "chuyên chế phong

Dân chủ

kiến". Sự thống trị của giai cấp trong thời kỳ này đã được khoác lên chiếc áo
thần bí của thế lực siêu nhiên. Họ xem việc tuân thủ theo ý chí của giai cấp
thống trị là bổn phận của mình trước sức mạnh của đấng tối cao. Do đó ý thức
về dân chủ và đấu tranh để thực hiện quyền làm chủ của người dân đã không có
bước tiến đáng kể nào.
Cuối thế kỷ XIV - đầu XV, giai cấp tư sản với nhiễm tư tưởng tiến bộ và tự
do, công bằng, dân chủ đã mở đường cho sự ra đời của nền "dân chủ tư sản".
Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ: dân chủ tư sản ra đời là một bước tiến lớn của
nhân loại với những giá trị nổi bật về quyền tự do, bình đẳng, dân chủ. Tuy
nhiên do được xây dựng trên nền tảng kinh tế là chế độ tư hữu về tư liệu sản
xuất, nên trên thực tế, nền dân chủ tư sản vẫn là nền dân chủ của thiểu số những
người nắm giữ tư liệu sản xuất đối với đại đa số nhân dân lao động.
Khi kết bạn xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga thắng lợi (1917), một thời đại
mới mở ra - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, nhân dân
lao động ở nhiều quốc gia giành được quyền làm chủ nhà nước, làm chủ xã hội,
thiết lập Nhà nước công - nông (nhà nước xã hội chủ nghĩa), thiết lập nền dân
chủ vô sản (Dân chủ xã hội chủ nghĩa) để thực hiện quyền lực của đại đa số
nhân dân. Đặc trưng cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là thực hiện quyền
lực của nhân dân - tức là xây dựng nhà nước dân chủ thực sự, dân làm chủ nhà
nước và xã hội, bảo vệ quyền lợi đại đa số nhân dân.
Như vậy, với tư cách là một hình thái nhà nước, một chế độ chính trị thì
trong lịch sử nhân loại, cho đến nay có ba nền (chế độ) dân chủ. Nền dân chủ
chủ nô, gắn với chế độ chiếm hữu nô lệ. Nền dân chủ tư sản, gắn với chế độ tư
bản chủ nghĩa. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, gắn với chế độ xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên muốn biết một nhà nước dân chủ thực sự hay không phải xem trong
nhà nước ấy "dân" là ai và bản chất của chế độ xã hội ấy như thế nào?

10

Dân chủ

2.Dân chủ xã hội chủ nghĩa


2.1 Quá trình ra đời của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn quá trình hình thành và phát triển các nền
dân chủ trong lịch sử và trực tiếp nhất là nền dân chủ tư sản, các nhà sáng lập
chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng, đấu tranh cho dân chủ là một quá trình lâu
dài , phức tạp và giá trị của nền dân chủ tư sản chưa phải là hoàn thiện nhất, do
đó, tất yếu xuất hiện một nền dân chủ mới, cao hơn nền dân chủ tư sản và đó
chính là nền dân chủ vô sản hay còn gọi là nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.

Dân chủ xã hội chủ nghĩa đã được phôi thai từ thực tiễn đấu tranh giai cấp
ở Pháp và Công xã Pari năm 1871, tuy nhiên, chỉ đến khi Cách Mạng Tháng
Mười Nga thành công với sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên
thế giới (1917), nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mới chính thức được xác lập. Sự
xác lập của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đánh dấu sự phát triển mới về chất của
dân chủ. Quá trình phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa bắt đầu từ thấp đến
cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện. Trong đó, có sự kế thừa những giá trị
của nền dân chủ trước đó, đồng thời bổ sung và làm sâu sắc thêm những giá trị
của nền dân chủ mới.

Theo chủ nghĩa Mác – Lênin : Giai cấp vô sản không thể hoàn thành
cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, nếu họ không được chuẩn bị để tiến tới cuộc
cách mạng đó thông qua cuộc đấu tranh cho dân chủ. Rằng, chủ nghĩa xã hội
không thể duy trì và thắng lợi, nếu không được thực hiện đầy đủ dân chủ.

Quá trình phát triển của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là từ thấp tới cao,
chưa hoàn thiện đến hoàn thiện, có sự kế thừa một cách chọn lọc giá trị của các
nền dân chủ trước đó, trước hết là nền dân chủ tư sản. Nguyên tắc cơ bản của
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là không ngừng mở rộng dân chủ, nâng cao mức
độ giải phóng cho những người lao động, thu hút họ tham gia tự giác vào công

11




Dân chủ

việc quản lý nhà nước , quản lý xã hội. Càng hoàn thiện bao nhiêu, nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa lại càng tự tiêu vong bấy nhiêu. Thực chất của sự tiêu vong này
theo V.I.Lênin, đó là tính chính trị của dân chủ sẽ mất đi trên cơ sở không ngừng
mở rộng dân chủ đối với nhân dân , xác lập địa vị chủ thể quyền lực của nhân
dân, tạo điều kiện để họ tham gia ngày càng đông đảo và ngày càng có ý nghĩa
quyết định vào sự quản lý nhà nước, quản lý xã hội ( xã hội tự quản ). Quá trình
đó làm cho dân chủ trở thành một thói quen, một tập quán trong sinh hoạt xã
hội… để đến lúc nó không còn tồn tại như một thể chế nhà nước, một chế độ,
tức là mất đi tính chính trị của nó.

Tuy nhiên, chủ nghĩa Mác – Lênin cũng lưu ý đây là quá trình lâu dài ,
khi xã hội đã đạt trình độ phát triển rất cao, xã hội không còn sự phân chia giai
cấp, đó là xã hội cộng sản chủ nghĩa đạt tới mức đọ hoàn thiện, khi đó dân chủ
xã hội chủ nghĩa với tư cách là một chế độ nhà nước cũng tiêu vong, không còn
nữa.

Từ những phân tích trên đây, có thể hiểu dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền
dân chủ cao hơn về chất so với nền dân chủ tư sản, là nền dân chủ mà ở đó, mọi
quyền lực thuộc về nhân dân, dân là chủ và dân làm chủ; dân chủ và pháp luật
nằm trong sự thống nhất biện chứng; được thực hiện bằng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.

Cũng cần lưu ý rằng, cho đến nay, sự ra đời của nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa mới chỉ trong một thời gian ngắn, ở một số nước có xuất phát điểm về
kinh tế, xã hội rất thấp, lại thường xuyên bị kẻ thù tấn công, gây chiến tranh, do
vậy, mức độ dân chủ đạt được ở những nước này hiện nay còn nhiều hạn chế ở
hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội. Ngược lại, sự ra đời, phát triển của nền
dân chủ tư sản có thời gian cả mấy trăm năm, lại ở hầu hết các nước phát triển
( do điều kiện khách quan, chủ quan ). Hơn nữa, trong thời gian qua, để tồn tại

12



Dân chủ

và thích nghi, chủ nghĩa tư bản đã có nhiều lần điều chỉnh về xã hội, trong đó
quyền con người đã được quan tâm ở một mức độ nhất định ( tuy nhiên, bản
chất của chủ nghĩa tư bản không thay đổi ). Nền dân chủ tư sản có nhiều tiến bộ,
song nó vẫn bị hạn chế bởi bản chất của chủ nghĩa tư bản.

Để chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa thực sự quyền lực thuộc về nhân dân,
ngoài yếu tố giai cấp công nhân lãnh đạo thông qua Đảng Cộng sản ( mặc dù là
yếu tố quan trọng nhất ), đòi hỏi cần nhiều yếu tố như trình độ dân trí, xã hội
công dân, việc tạo dựng cơ chế pháp luật đảm bảo quyền tự do cá nhân, quyền
làm chủ nhà nước và quyền tham gia vào các quyết sách của nhà nước, điều kiện
vật chất để thực thi dân chủ.

2.2 Bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Như mọi loại hình dân chủ khác, dân chủ vô sản, theo Lênin, không phải
là chế độ dân chủ cho tất cả mọi người, nó chỉ là dân chủ đối với quần chúng lao
động và bị bóc lột, dân chủ vô sản là chế độ dân chủ vì lợi ích của đa số. Dân
chủ vô sản loại bỏ quyền dân chủ của tất cả các giai cấp là đối tượng của nhà
nước vô sản, nó đưa quảng đại quần chúng nhân dân lên địa vị của người chủ
chân chính của xã hội.

Với tư cách là đỉnh cao trong toàn bộ lịch sử tiến hóa của dân chủ, dân
chủ xã hội chủ nghĩa có bản chất cơ bản sau:

Bản chất chính trị: Dưới sự lãnh đạo duy nhất của một Đảng của giai cấp
công nhân (đảng Mác – Lênin) mà trên mọi lĩnh vực xã hội đều thực hiện quyền
lực của nhân dân, thể hiện qua các quyền dân chủ, làm chủ, quyền con người,
thỏa mãn ngày càng cao hơn các nhu cầu và các lợi ích của nhân dân.
Chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ rõ: Bản chất chính trị của nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa là sự lãnh đạo chính trị của giai cấp công nhân thông qua đảng của nó đối

13




Dân chủ

với toàn xã hội, nhưng không phải chỉ để thực hiện quyền lực và lợi ích riêng
cho giai cấp công nhân, mà chủ yếu là để thực hiện quyền lực và lợi ích của toàn
thể nhân dân, trong đó có giai cấp công nhân. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa do
đảng Cộng sản lãnh đạo – yếu tố quan trọng để đảm bảo quyền lực thực sự thuộc
về nhân dân, bởi vì, đảng Cộng sản đại biểu cho trí tuệ, lợi ích của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc. Với nghĩa này, dân chủ xã hội chủ
nghĩa mang tính nhất nguyên về chính trị. Sự lãnh đạo của giai cấp công nhân
thông qua đảng Cộng sản đối với toàn xã hội về mọi mặt Lênin gọi là sự thống
trị chính trị.

Xét về bản chất chính trị, dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa có bản chất giai
cấp công nhân, vừa có tính nhân dân rộng rãi, tính dân tộc sâu sắc. Do vậy, nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa khác về chất so với nền dân chủ tư sản ở bản chất giai
cấp (giai cấp công nhân và giai cấp tư sản); ở cơ chế nhất nguyên và cơ chế đa
nguyên; một đảng hay nhiều đảng; ở bản chất nhà nước (nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền tư sản).

Bản chất kinh tế: Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ sở hữu xã
hội về những tư liệu sản xuất chủ yếu của toàn xã hội đáp ứng sự phát triển ngày
càng ao của lực lượng sản xuất dựa trên cơ sở khoa học – công nghệ hiện đại
nhằm thỏa mãn ngày càng cao những nhu cầu vật chất và tinh thần của toàn thể
nhân dân lao động.

Bản chất kinh tế đó chỉ được bộc lộ đầy đủ qua một quá trình ổn định
chính trị, phát triển sản xuất và nâng cao đời sống của toàn xã hội, dưới sự lãnh
đạo của đảng Mác – Lênin và quản lý, hướng dẫn, giúp đỡ của nhà nước xã hội
chủ nghĩa. Trước hết đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân về các tư liệu
sảnxuất chủ yếu; quyền làm chủ trong quá trình sản xuất kinh doanh, quản lý và

14



Dân chủ

phân phối, phải coi lợi ích kinh tế của người lao động là động lực cơ bản nhất có
sức thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.

Bản chất kinh tế của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa dù khác về bản chất
kinh tế của các chế độ tư hữu, áp bức, bóc lột, nhưng cũng như toàn bộ nền kinh
tế xã hổi chủ nghĩa, nó không hình thành từ “hư vô” theo mong muốn của bất kỳ
ai. Kinh tế xã hội chủ nghĩa cũng là sự kế thừa và phát triển mọi thành tựu nhân
loại đã tạo ra trong lịch sử, đồng thời lọc bỏ những nhân tố lạc hậu, tiêu cực,
kìm hãm… của các chế độ kinh tế trước đó, nhất là bản chất tư hữu, áp bức, bóc
lột, bất công… đối với đa số nhân dân.

Khác với nền dân chủ tư sản, bản chất kinh tế của nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa là thực hiện chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu và thực hiện chế
độ phân phối lợi ích theo kết quả lao động là chủ yếu.

Bản chất tư tưởng – văn hóa – xã hội: Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa lấy
hệ tư tưởng Mác – Lênin – hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, làm chủ đạo đối
với mọi hình thái ý thức xã hội khác trong xã hội mới. Đồng thời nó kế thừa,
phát huy những tinh hoa văn hóa truyền thống dân tộc; tiếp thu những giá trị tư
tưởng – văn hóa, văn minh, tiến bộ xã hội… mà nhân loại đã tạo ra ở tất cả các
quốc gia, dân tộc… Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhân dân được làm chủ
những giá trị văn hóa tinh thần; được nâng cao trình độ văn hóa, có điều kiện để
phát triển cá nhân. Dưới góc độ này dân chủ là một thành tựu văn hóa, một quá
trình sáng tạo văn hóa, thể hiện khát vọng tự do được sáng tạo và phát triển của
con người.

Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa có sự kết hợp hài hòa về lợi ích giữa
cá nhân, tập thể và lợi ích của toàn xã hội. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ra sức

15




Dân chủ

động viên, thu hút mọi tiềm năng sáng tạo, tính tích cực xã hội của nhân dân
trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới.

Với những bản chất nêu trên, dân chủ xã hội chủ nghĩa trước hết và chủ
yếu được thực hiện bằng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, là kết quả hoạt
động tự giác của quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân,
dân chủ xã hội chủ nghĩa chỉ có được với điều kiện tiên quyết là bảo đảm vai trò
lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản. Bởi lẽ, nhờ nắm vững hệ tư tưởng cách
mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin và đưa nó vào quần chúng, Đảng
mang lại cho phong tròa quần chúng tính tự giác cao trong quá trình xây dựng
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; thông qua công tác tuyên truyền, giáo dục của
mình, Đảng nâng cao trình độ giác ngộ chính trị, trình độ văn hóa dân chủ của
nhân dân để họ có khả năng thực hiện hữu hiệu những yêu cầu dân chủ phản ánh
đúng quy luật phát triển xã hội. Chỉ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, nhân
dân mới đấu tranh có hiệu quả chống lại mọi mưu đồ lợi dụng dân chủ vì những
động cơ đi ngược lại lợi ích của nhân dân.

Với những ý nghĩa như vậy, dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhất nguyền về
chính trị, bảo đảm vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản không loại trừ
nhau mà ngược lại, chính sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện cho dân chủ xã hội
chủ nghĩa ra đời, tồn tại và phát triển.

Với tất cả những đặc trưng đó, dân chủ xả hội chủ nghĩa là nền dân chủ
cao hơn về chất so với nền dân chủ tư sản, là nền dân chủ mà ở đó, mọi quyền
lực thucộ về nhân dân, dân là chủ và dân làm chủ; dân chủ và pháp luật nằm
trong sự thống nhất biện chứng; được thực hiện bằng nhà nước pháp quyềnxã
hội chủ nghĩa, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.

16



Dân chủ

Chương 2: Liên h v i quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam.

2.1 Tính tất yếu của việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là quá trình tất yếu của sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. C.Mác, Ph.Ăngghen và
V.I.Lênin đã có những luận điểm khái quát về chủ nghĩa xã hội, về dân chủ xã
hội chủ nghĩa và tính tất yếu của việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.

Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, động lực của quá trình
phát triển xã hội, của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội là dân chủ. Dân chủ
phải được mở rộng để phát huy cao độ tính tích cực, sáng tạo của nhân dân, để
nhân dân tham gia vào công việc quản lý nhà nước, quản lý và phát triển xã hội.
"Với việc phát triển chế độ dân chủ một cách đầy đủ. nghĩa là với việc làm cho
toàn thể quần chúng nhân dân tham gia thực sự bình đẳng và thực sự rộng rãi
vào mọi công việc quản lý nhà nước”.

Như vậy, thực hiện dân chủ đầy đủ, rộng rãi trở thành một yêu cầu khách
quan, một động lực của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội Chủ nghĩa xã hội
chỉ có thể có được bằng phương pháp thực hành dân chủ một cách rộng rãi trong
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. "Chủ nghĩa xã hội không phải là kết quả của
những sắc lệnh từ trên ban xuống... chủ nghĩa xã hội sinh động, sáng tạo là sự
nghiệp của bản thân quần chúng nhân dân". Thực hành dân chủ rộng rãi trên mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội cũng chính là quá trình xây dựng nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa, một nền dân chủ mới bảo đảm cho sự thành công của chủ nghĩa
xã hội. Bởi vì, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa bắt nguồn từ bản chất của chế độ xã
hội chủ nghĩa. Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là quy luật của sự hình
thành và tự hoàn thiện của hệ thống chuyên chính vô sản, hệ thống chính trị xã

17

ệ

ớ

Dân chủ

hội chủ nghĩa. Dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội.

Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa cũng là quá trình vận động và
thực hành dân chủ; là quá trình vận động biến dân chủ từ khả năng thành hiện
thực trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; là quá trình đưa các giá trị, chuẩn
mực, nguyên tắc của dân chủ vào thực tiễn xây dựng cuộc sống mới. Xây dựng
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa thực sự trở thành một cuộc cách mạng của đông
đảo quần chúng nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản. Xây
dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng thực hiện chuyển giao
quyền lực thực sự về cho nhân dân với mục đích lôi cuốn nhân dân vào quá trình
sáng tạo xã hội mới.

Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là quá trình tất yếu diễn ra nhằm xây
dựng, phát triển và hoàn thiện dân chủ, đáp ứng nhu cầu của nhân dân. Trước
hết, nó trở thành điều kiện, tiền đề thực hiện quyền lực, quyền làm chủ của nhân
dân; là điều kiện cần thiết, tất yếu để mỗi công dân được sống trong bầu không
khí thực sự dân chủ.

Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa cũng chính là quá trình thực hiện dân
chủ hóa đời sống xã hội dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua
chính đảng của nó, đảng cộng sản. Đây cũng là nhân tố quan trọng chống lại
những biểu hiện của dân chủ cực đoan, vô chính phủ, ngăn ngừa mọi hành vi coi
thường kỷ cương, pháp luật.

Tóm lại, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là một quá trình tất yếu của
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, của quá trình vận động biến dân chủ từ
khả năng trở thành hiện thực, để nền dân chủ "ngày càng hướng tới cơ sở hiện

18

Dân chủ

thực của nó, tới con người hiện thực, nhân dân hiện thực, và được xác định là sự
nghiệp của bản thân nhân dân".

2.2 Một số kiến nghị góp phần phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước
ta.
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định: “Chế độ ta là chế độ
dân chủ, nghĩa là nhân dân làm chủ”. Đánh giá cao vị trí, vai trò làm chủ xã hội
của nhân dân, Người nhấn mạnh: “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu
quyền hạn đều của dân. Quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”, nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa (XHCN) mà Đảng, Nhà nước ta xây dựng là nền dân chủ đối
với quảng đại quần chúng nhân dân. “Đảng ta là Đảng lãnh đạo, nghĩa là tất cả
các cán bộ từ Trung ương đến khu, đến huyện, đến xã, bất kỳ ở cấp nào và
ngành nào đều phải là người đầy tớ trung thành của nhân dân”, “Việc gì có lợi
cho dân thì phải làm cho bằng được”, “Việc gì có hại cho dân phải hết sức
tránh”.

Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội mà toàn Đảng, toàn dân đã, đang và
sẽ tiếp tục xây dựng. Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định tầm quan trọng của
nền dân chủ XHCN với tư cách vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát
triển đất nước.

Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã xác định, dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh và do nhân dân làm chủ là đặc trưng của XHCN mà
nhân dân ta xây dựng; xây dựng nền dân chủ XHCN là một trong những phương
hướng cơ bản cho việc thực hiện mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội.

19



Dân chủ

Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta khẳng định thực
hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Tiếp đó, Đại
hội XI của Đảng khẳng định: xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã
hội: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm
chủ”. Trong đó, cụm từ “dân chủ” được đưa lên trước cụm từ “công bằng, văn
minh”. Điều này cho thấy Đảng ta đã xác định rõ vị trí của dân chủ và thực hành
dân chủ trong quá trình phát triển xã hội. Dân chủ và thực hành dân chủ trong
quá trình phát triển xã hội là điều kiện tiên quyết, là cơ sở thiết yếu để xây dựng
một xã hội công bằng, văn minh.

Để nhấn mạnh vai trò, ý nghĩa của việc phát huy dân chủ XHCN, trong
Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã bổ sung thêm cụm từ “dân chủ xã hội chủ
nghĩa” vào tiêu đề Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khóa XI) tại Đại hội XII của Đảng, đồng thời tiếp tục nhấn mạnh, yêu cầu cần
phải tạo sự chuyển biến tích cực, nâng cao hiệu quả thực hiện dân chủ, tuân thủ
nguyên tắc pháp quyền trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước.

Thực tiễn của quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền trong thời gian
qua đã chứng tỏ từng bước lý luận về nhà nước pháp quyền XHCN của Đảng ta
là hết sức đúng đắn, hợp với lòng dân. Việc phát huy dân chủ ở nước ta đã đạt
được nhiều thành tựu quan trọng. Cụ thể:

Một là, công tác bảo đảm quyền con người (QCN) có sự chuyển biến sâu
sắc, với nhiều kết quả đáng khích lệ.

Trên lĩnh vực kinh tế, xã hội và văn hóa: các chính sách, chế độ đối với
người có công, các đối tượng chính sách, bảo trợ xã hội được quan tâm thực
hiện; đến cuối năm 2018, tỷ lệ hộ nghèo bình quân cả nước giảm còn khoảng
5,35%. Trong năm 2019, sẽ tiếp tục phấn đấu giảm tỷ lệ hộ nghèo cả nước bình

20





Dân chủ

quân 1 – 1,5%/năm. Riêng các huyện nghèo, xã nghèo giảm 4%/năm. Tỷ lệ hộ


nghèo dân tộc thiểu số giảm 3 – 4% theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều giai
đoạn 2016 – 2020. Chăm sóc sức khỏe cộng đồng luôn là ưu tiên hàng đầu trong
các chiến lược, chương trình mục tiêu quốc gia.

Trên lĩnh vực dân sự, chính trị, quyền bầu cử, ứng cử, tham gia quản lý
nhà nước tiếp tục được phát huy. Kết quả cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa
XII, XIII, XIV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2007 – 2011,
2011 – 2016, 2016 – 2021 là một minh chứng. Theo thống kê của các cơ quan
chức năng, tỷ lệ cử tri đi bầu cử rất cao: năm 2007 đạt hơn 99,64%, năm 2011 là
99,51% và năm 2016 là 98,77%.

Điều này cho thấy, người dân luôn có ý thức cao về việc thực hiện quyền
và nghĩa vụ của mình. Ngày bầu cử thực sự trở thành ngày hội lớn, là cuộc sinh
hoạt chính trị trong mọi tầng lớp nhân dân. Đối với các quyền tự do ngôn luận,
tiếp cận thông tin, tự do báo chí được bảo đảm ngày càng tốt hơn nhờ sự phát
triển nhanh chóng, đa dạng về loại hình, phong phú về nội dung của các phương
tiện thông tin đại chúng.

Hai là, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật không ngừng được hoàn
thiện.

Những năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng đến xây dựng, ban
hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý góp
phần phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Đầu tiên phải kể đến là sự thành
công của Hiến pháp năm 2013 khi dành một chương (Chương 2) để quy định về
QCN, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, với số lượng lớn tới 36 điều/120
điều. Ở đây điều đáng nói là không chỉ quy định trong 36 điều mà tư tưởng tôn

21




Dân chủ

trọng, bảo vệ và bảo đảm QCN, quyền công dân còn được đề cập trong hầu hết
các điều khoản còn lại của Hiến pháp.

Chỉ trong vòng bốn năm sau đó, hơn 90 văn bản quy phạm pháp luật liên
quan đến QCN đã được thông qua, tiêu biểu, như: Luật Trưng cầu ý dân năm
2015, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015,
Luật Tiếp cận thông tin năm 2016, Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung
năm 2017), Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm
2016, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018, Luật Đặc xá năm 2018, Luật
Tố cáo năm 2018… Đây là những nỗ lực, cố gắng không nhỏ của các cơ quan
công quyền trong suốt thời gian qua nhằm nâng cao chất lượng thụ hưởng QCN,
tạo mọi điều kiện cho công dân thực hiện quyền.

Ba là, dân chủ trong Đảng, trong hệ thống chính trị và toàn xã hội không
ngừng được mở rộng.

Tổ chức, phương thức hoạt động của Đảng và của hệ thống chính trị
không ngừng được đổi mới, chỉnh đốn, nhờ đó dân chủ trong Đảng ngày càng
được nâng cao. Sự tham gia của các tổ chức cơ sở đảng và đảng viên vào việc
hoạch định, triển khai thực hiện chủ trương của Đảng ngày càng rộng rãi, có
hiệu quả.

Bốn là, việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân được đẩy mạnh và không ngừng được hoàn thiện.
Nhà nước ta bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Thời gian
gần đây, tổ chức bộ máy nhà nước đã có sự điều chỉnh, sắp xếp lại bảo đảm tinh
gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả hơn. Về tình hình thực hiện tinh giản biên chế,
tính từ năm 2015 đến ngày 15/10/2018, tổng số biên chế cả nước đã được tinh
giản là 40.500 người.

22




Dân chủ

Bên cạnh đó, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội
từng bước được đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, phát huy vai trò giám
sát và phản biện xã hội, đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng
của nhân dân. Hoạt động của Quốc hội ngày càng dân chủ, công khai; hoạt động
chất vấn và trả lời chất vấn tại các phiên họp của Quốc hội ngày càng chất
lượng, thiết thực, bám sát với thực tiễn của đất nước.

Năm là, tình hình đấu tranh phòng, chống tham nhũng được triển khai
quyết liệt, không có vùng cấm.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quyết tâm, quyết liệt của cả hệ thống
chính trị, thời gian qua, tình hình tham nhũng của nước ta đang từng bước được
kiềm chế, đẩy lùi. Nhiều vụ việc, vụ án tham nhũng lớn, kinh tế nghiêm trọng,
phức tạp, làm thất thoát lớn tài sản của Nhà nước gây bức xúc trong xã hội đã
được đưa ra xét xử nghiêm minh, thể hiện quan điểm nhất quán “nói đi đôi với
làm”, “không có vùng cấm, không có ngoại lệ”, bất cứ ai vi phạm đều bị xử lý
nghiêm minh theo pháp luật.

Theo kết quả thống kê của tòa án nhân dân các cấp, chỉ tính riêng năm
2018, Tòa án nhân dân các cấp đã thụ lý theo thủ tục sơ thẩm 340 vụ với 827 bị
cáo (giảm 1,5% số vụ, tăng 9,1% số đối tượng); đã xét xử sơ thẩm 200 vụ, 472
bị cáo về các tội danh tham nhũng, trong đó tỷ lệ tội phạm nghiêm trọng, rất
nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng chiếm 41,5% (giảm 8,2% so với cùng kỳ
năm 2017).

Ngoài ra, quy chế dân chủ ở cơ sở và Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn đã tạo điều kiện cho các tầng lớp nhân dân được tham gia vào
tiến trình xây dựng, hoạch định và giám sát việc thực hiện chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước.

23





Dân chủ

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, việc phát huy dân chủ còn
bộc lộ nhiều hạn chế, thậm chí có vấn đề bức xúc, đòi hỏi cần có những biện
pháp hữu hiệu, kiên quyết trong giải quyết. Điều này được phản ánh rất rõ trong
Đại hội XI, XII của Đảng.

Tình trạng lãng phí còn nghiêm trọng, tình trạng nhũng nhiễu của cá nhân
có thẩm quyền ở một số nơi, số chỗ vẫn gây ra không ít bức xúc cho người dân.
Để góp phần phát huy dân chủ XHCN trong xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thời gian tới, nên tập trung vào
một số vấn đề mang tính giải pháp sau:

Thứ nhất, tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và
xã hội. Đây là nguyên tắc vô cùng quan trọng, bất di bất dịch của cách mạng
Việt Nam, phù hợp với yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là tất
yếu khách quan, là nhân tố quan trọng hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của
cách mạng Việt Nam, là điều kiện cần thiết để bảo đảm cho Nhà nước ta thực sự
là nhà nước của nhân dân, vì nhân dân.

Cải cách, đổi mới Nhà nước phải nhằm tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo
của Đảng đối với Nhà nước; đồng thời tăng cường sự lãnh đạo của Đảng mới
bảo đảm cho quá trình đổi mới Nhà nước được thực hiện đúng hướng và có hiệu
quả. Đảng bố trí cán bộ, lựa chọn những đảng viên ưu tú, vừa có đức, có tài, vừa
được nhân dân tín nhiệm để ứng cử vào Quốc hội và các cơ quan nhà nước.
Đảng lãnh đạo chứ không bao biện, làm thay Nhà nước.

Thứ hai, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật. Việc xây dựng
và hoàn thiện hệ thống pháp luật có vai trò vô cùng quan trọng trong việc bảo
vệ, bảo đảm QCN, quyền công dân.

24





Dân chủ

Đối với Quốc hội, cần nâng cao hơn nữa hiệu quả thực hiện chức năng lập
pháp, bảo đảm các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành cụ thể hóa đúng,
kịp thời các quy định của Hiến pháp về QCN, quyền công dân. Đặc biệt chú ý
đến việc nâng cao chất lượng, số lượng đại biểu Quốc hội chuyên trách, phát
huy hơn nữa hiệu quả giám sát tối cao của Quốc hội trong thời gian tới.
Đối với Chính phủ, nâng cao hơn nữa chất lượng lập quy nhằm tránh tình trạng
luật, pháp lệnh đã ra đời nhưng phải chờ nghị định, thông tư hướng dẫn.

Đối với Tòa án nhân dân tối cao, cần làm tốt nhiệm vụ tổng kết kinh
nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng pháp luật, phát triển án lệ. Bên cạnh đó,
trong xây dựng luật, cần thiết phải có những quy định làm rõ trách nhiệm của
Nhà nước đối với công dân và nghĩa vụ của công dân đối với Nhà nước. Nhà
nước tạo mọi điều kiện để nhân dân được tham gia quản lý nhà nước, có cơ hội
phản biện một cách tích cực, công khai, nhằm hướng tới ổn định và phát triển xã
hội – con người. Phản biện là biểu thị cho tính dân chủ, sự văn minh của xã hội.

Vì vậy, cần thiết nỗ lực, cố gắng hơn, nghiên cứu ban hành Luật về Hội…
nhằm tạo ra cơ sở pháp lý giúp người dân thực hiện các quyền của mình, mặt
khác, giúp các cơ quan chức năng làm nhiệm vụ bảo vệ giữ gìn trật tự xã hội
được tốt hơn, không cho các thế lực thù địch, cơ hội chính trị lợi dụng quyền
biểu tình gây mất ổn định chính trị – xã hội. Trong quá trình hoàn thiện luật, cần
lưu ý sao cho các quy định vừa bảo đảm phù hợp với pháp luật quốc tế, vừa bảo
đảm phù hợp yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN và giữ vững ổn
định chính trị của đất nước.

Ngoài ra, việc rà soát, sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật
khác cần được đẩy mạnh tiến tới đáp ứng tốt hơn quá trình xây dựng nhà nước
pháp quyền XHCN.

25




Dân chủ

Thứ ba, nâng cao nhận thức về dân chủ của người dân. Công tác tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, giáo dục đạo đức, lòng yêu nước cần mang
tính thực chất và hiệu quả hơn, từ đó, từng bước nâng cao nhận thức về dân chủ
của người dân. Điều này đòi hỏi nên cần có sự điều chỉnh về nội dung, phương
pháp cũng như hình thức tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, tạo ra sự
phong phú, đa dạng, hấp dẫn về nội dung, hình thức nhằm thu hút người xem,
người nghe tránh tình trạng làm cho có hoặc đối phó.

Thứ tư, tiếp tục ngăn chặn tiến tới đẩy lùi quan liêu, tham nhũng. Nếu để
nạn quan liêu, tham nhũng kéo dài, diễn biến phức tạp khó kiểm soát thì đây
chính là một nguy cơ lớn đe dọa đến sự xây dựng thành công của nhà nước pháp
quyền. Cho nên, bên cạnh việc kiên trì, quyết liệt xử lý tham nhũng cần học hỏi,
tham khảo thêm kinh nghiệm phòng, chống tham nhũng của một số nước trên
thế giới, như: Xinh-ga-po, Thái Lan, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc… Phải
làm thật nghiêm để cán bộ, công chức, viên chứ khi thực hiện công vụ, luôn
quán triệt: “không thể tham nhũng”, “không dám tham nhũng”.
Thứ năm, chủ động đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi các biểu hiện suy thoái về
chính trị, tư tưởng trong cán bộ, đảng viên.

Các cấp ủy cần làm tốt công tác nắm bắt diễn biến tư tưởng của cán bộ,
đảng viên trong đơn vị để có giải pháp phù hợp, kịp thời. Cần thường xuyên tổ
chức diễn đàn trao đổi, đối thoại những vấn đề còn có nhận thức, quan điểm
khác nhau liên quan đến đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước. Có biện pháp xử lý nghiêm minh với những hành vi lợi dụng dân
chủ, nhân quyền gây rối trật tự công cộng, chống phá đất nước.

26



Dân chủ

Tài liệu tham khảo:


• Giáo trình
• Wikipedia
• Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học. Trang 72,73, 74, 75, 76.
• https://loigiaihay.com/xay-dung-nen-dan-chu-xa-hoi-chu-nghia-
c126a20319.html
• https://www.quanlynhanuoc.vn/2019/08/24/phat-huy-dan-chu-xa-hoi-chu-
nghia-trong-xay-dung-nha-nuoc-phap-quyen/

27

You might also like