Professional Documents
Culture Documents
Kinh Tế Thị Trường Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa Và Các Quan Hệ Lợi Ích Kinh Tế Ở Việt Nam
Kinh Tế Thị Trường Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa Và Các Quan Hệ Lợi Ích Kinh Tế Ở Việt Nam
Ph.Ăng viết: "Những quan hệ kinh tế của một xã hội nhất định nào đó biểu hiện
trước hết dưới hình thức lợi ích". Lê-nin cũng cho rằng: "Lợi ích của giai cấp này
2.1. Quan hệ giữa những người sử dụng lao động với nhau
Quan hệ giữa những người sử dụng lao động với nhau là quan hệ xã hội phát sinh
trong việc thuê mướn, sử dụng lao động, trả lương giữa người lao động và người sử
dụng lao động. Quan hệ lao động được xác lập trên cơ sở pháp luật lao động bao
gồm các tiêu chuẩn về lao động, cơ chế xác lập và vận hành quan hệ lao động, thiết
chế giải quyết tranh chấp lao động, vai trò của các bên trong quan hệ lao động.
2.2. Quan hệ giữa người sử dụng lao động và người lao động
Quan hệ giữa người sử dụng lao động và người lao động là mối quan hệ lao động,
trong đó người sử dụng lao động tuyển dụng và trả lương cho người lao động thực
hiện công việc trong doanh nghiệp hoặc tổ chức của họ.
Quan hệ này cần có sự tôn trọng và đối xử công bằng đối với nhau. Người sử dụng
lao động cần đảm bảo điều kiện làm việc an toàn, thu nhập phù hợp và các quyền lợi
khác cho người lao động. Người lao động cần thực hiện nhiệm vụ công việc của
mình với chất lượng tốt nhất có thể và thể hiện tinh thần trách nhiệm và tận tụy đối
với công việc của mình.
Ngoài ra, quan hệ giữa người sử dụng lao động và người lao động cũng phụ thuộc
vào các quy định pháp luật và các quyền và trách nhiệm được định rõ trong hợp đồng
lao động. Việc tuân thủ các quy định và cam kết trong hợp đồng lao động sẽ đảm
bảo quan hệ giữa người sử dụng lao động và người lao động diễn ra một cách trơn
tru và hài hòa.
Ví dụ: Khi một người lao động có kỹ năng cần thiết để hoàn thành một công việc
nhất định, nhưng không có thời gian hoặc tài nguyên để tiếp cận một khách hàng
muốn thuê nhân công. Một người lao động khác có thể có thời gian và tài nguyên
đó để tiếp cận khách hàng đó, nhưng thiếu kỹ năng công nghệ để hoàn thành công
việc. Bằng cách cộng tác với nhau, họ có thể tạo ra LIKT cho cả hai bên: người có
kỹ năng công nghệ có thể giúp tiếp cận khách hàng và hoàn thành công việc, trong
khi người có thời gian và tài nguyên có thể đóng vai trò trung gian và nhận được
phần thưởng từ việc này.
3.1. Trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc đảm bảo hài hòa LIKT với người lao
động
Một là, Tạo ra những chiều hướng lợi ích chung nhằm kết hợp các LIKT.
Các quyết định quản lý kinh tế phải quan tâm trước hết đến lợi ích người lao động
vì họ là lực lượng tạo ra sản phẩm hàng hóa dịch vụ trực tiếp cho xã hội và là nhân
tố có khả năng sáng tạo. Đó là những khoản tiền lương, tiền thưởng, phúc lợi tập thể
và phúc lợi xã hội mà họ được hưởng thụ.
Các quyết định của quản lý kinh tế phải huy động sự đóng góp về trí tuệ, sức lực và
cơ sở vật chất để xây dựng một tập thể, doanh nghiệp, cá nhân người lao động có cơ
hội để thỏa mãn lợi ích, đồng thời được hưởng thụ các khoản phúc lợi tập thể.
Hai là, Coi trọng lợi ích vật chất lẫn lợi ích tinh thần của tập thể và người
lao động.
Phải tác động vào ý thức con người nhằm tạo dựng môi trường tâm lý xã hội cần
thiết để khích lệ họ hành động vì mục tiêu nhất định. Ngoài khuyến khích bằng vật
chất đối với người lao động phải đặt lên vị trí ưu tiên thỏa đáng, khuyến khích lợi
ích tinh thần cũng rất quan trọng thông qua phương pháp động viên, giáo dục chính
trị tư tưởng, thưởng phạt, cất nhắc đề bạt vào các chức vụ quản lý.
Ví dụ, một cá nhân làm việc trong một doanh nghiệp thì doanh nghiệp đó ngoài
khuyến khích về vật chất là ưu tiên thỏa đáng như tài chính, hiện vật,… còn khuyến
khích về mặt tinh thần thông qua động viên, khen ngợi, tuyên dương hay cân nhắc
đề bạt thăng tiến trong công việc để khơi dậy lòng nhiệt tình, sự sáng tạo của họ và
giúp họ nhận biết được kết quả và ý nghĩa công việc mình làm.
Ba là, Coi trọng cả lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài.
Các nhà quản lý không chỉ quan tâm đến lợi ích trước mắt mà còn đặc biệt chú ý đến
lợi ích mang tính dài hạn. Không vì lợi ích trước mắt mà quên đi lợi ích lâu dài
nhưng đồng thời cũng không vì lợi ích lâu dài mà không giải quyết các lợi ích cấp
bách trước mắt. Điều này đặt ra yêu cầu đối với nhà quản lý phải quán triệt quan
điểm phát triển bền vững, không vì chạy theo những lợi ích trước mắt mà hành động
nóng vội, sử dụng thiếu hợp lý các yếu tố nguồn lực trong công tác quản lý.