You are on page 1of 23

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI NGỮ - TIN HỌC TPHCM

KHOA NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA PHƯƠNG ĐÔNG

Tiểu Luận môn: VĂN HÓA NHẬT BẢN

ĐỀ TÀI:

SO SÁNH HỆ THỐNG GIÁO DỤC VIỆT NAM VÀ GIÁO


DỤC NHẬT BẢN

Giảng viên hướng dẫn : ThS. Nguyễn Hoàng Hiếu

Sinh viên thực hiện MSSV

1. Bùi Thị Liễu. – 21DH690630


2. Lê Thị Minh Tuệ – 21DH692295
3. Lê Ngọc Ánh – 21DH690121
4. Bùi Thị Thanh Tuyền – 20DH690636
5. Võ Ngọc Linh Giang – 21DH690331

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 2 năm 2024

i
BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ
STT Tên File word Power Point Thuyết Trình
1 Bùi Thị Liễu Chương 1 phần Chương 1 phần Chương 1 phần 1.1:
1.1: 1.1.1; 1.1.2; 1.1: 1.1.1; 1.1.2; 1.1.1; 1.1.2; 1.1.3
1.1.3 1.1.3. Power
Point
2 Lê Ngọc Ánh Chương 1 phần Chương 1 phần Chương 1 phần 1.2,
1.2, chương 2 1.2, chương 2 chương 2 phần 2.1:
phần 2.1: 2.1.1; phần 2.1: 2.1.1; 2.1.1; 2.1.2; 2.1.3
2.1.2; 2.1.3 2.1.2; 2.1.3
3 Lê Thị Minh Tuệ Chương 2 phần Chương 2 phần Chương 2 phần 2.1:
2.1: 2.1.4 , phần 2.1: 2.1.4 , phần 2.1.4 , phần 2.2:
2.2: 2.2.1; 2.2.2 2.2: 2.2.1; 2.2.2 2.2.1; 2.2.2
4 Võ Ngọc Linh Giang Chương 2 phần Chương 2 phần Chương 2 phần 2.2:
2.2: 2.2.3; 2.2.4; 2.2: 2.2.3; 2.2.4; 2.2.3; 2.2.4; 2.2.5
2.2.5 2.2.5
5 Bùi Thị Thanh Tuyền Chương 3, kết Chương 3, kết Chương 3
luận, tài liệu tham luận
khảo

NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN


STT Họ và tên Điểm tiểu Điểm thuyết Điểm trả lời Tổng điểm
Thành viên nhóm luận trình câu hỏi
(4 điểm) (3 điểm) (3 điểm)

TPHCM, Ngày …… tháng …… năm 2024


Giáo viên giảng dạy
( Ký, ghi rõ họ tên )

ii
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU.................................................................................................................4

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN.........................................................................7
1.1. Hệ thống giáo dục.....................................................................................7
1.1.1. Khái niệm hệ thống giáo dục...............................................................7
1.1.2. Hệ thống giáo dục của Việt Nam........................................................8
1.1.3. Hệ thống giáo dục của Nhật Bản.......................................................10
1.2. Các tiêu chí so sánh hệ thống giáo dục của các nước............................11
CHƯƠNG 2. SO SÁNH GIÁO DỤC CỦA VIỆT NAM VÀ GIÁO DỤC CỦA
NHẬT BẢN.......................................................................................................12
2.1.2. Về loại hình trường............................................................................12
2.1.3. Về tiêu chí phân chia các cấp bậc học, loại hình trường...................12
2.1.4. Về hệ thống văn bằng - chứng chỉ.....................................................12
2.2. Điểm khác biệt.........................................................................................13
2.2.3. Đội ngũ giáo viên - học sinh.............................................................14
2.2.4. Phương pháp giáo dục.......................................................................14
2.2.5. Đánh giá kết quả kiểm tra..................................................................15

KẾT LUẬN...........................................................................................................18

TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................19

iii
MỞ ĐẦU

Ngày nay trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, sự giao lưu trí tuệ
văn hoá và tư tưởng thì nhân tố tri thức đóng vai trò hết sức quan trọng. Nó thúc đẩy sự
phát triển năng động và nhanh chóng của nhiều quốc gia trong khu vực và trên thế giới.
Đồng thời góp phần vào việc chiếm lĩnh nhiều vị trí tiên tiến nhất trong phát triển khoa
học và giáo dục. Do đó chiến lược đầu tư vào phát triển giáo dục và đào tạo rất được
chú trọng, nhằm đáp ứng nhu cầu nhân lực, nâng cao dân trí và đào luyện nhân tài.
Chúng ta đã thấy rất rõ chiến lược phát triển giáo dục của các nước phát triển đã đem lại
những thành tựu hết sức to lớn. Nhật Bản đã coi giáo dục, khoa học và chính sách mở
cửa là 3 mũi nhọn chiến lược quyết định sự phát triển nhảy vọt của quốc gia này trong
mấy thập kỷ qua.

Việt nam là một nước có nền kinh tế phát triển còn thấp đang cần đổi mới giáo
dục phát triển. Trong đó, giáo dục đào tạo cũng được coi là một trong những quốc sách
hàng đầu. Vì vậy, việc nghiên cứu, học tập những kinh nghiệm của các nước trong khu
vực về vấn đề này là một nhiệm vụ bức thiết góp phần hoạch định những chính sách,
những bước đi, những cách làm giáo dục phù hợp với điều kiện, khả năng và nhu cầu
phát triển đất nước, nhằm nhanh chóng đưa nền giáo dục của ta phát triển hòa đồng với
xu thế của khu vực và thế giới.

Trong hai cuộc cải cách giáo dục lớn ở Nhật Bản có vai trò của các chuyên gia
giáo dục nước ngoài đã có một vai trò không thể phủ nhận.

Cải cách giáo dục thời Minh Trị


Sau khi chính quyền Minh Trị được thiết lập năm 1868, trong vòng 10 năm đầu, quá
trình cân đại hóa theo hướng “khai hóa văn minh” được xúc tiến mạnh mẽ. Cải cách
giáo dục đã đi từ các thay đổi lẻ tẻ ở địa phương trở thành chính sách quốc gia. Phương
châm của chính phủ Minh Trị lúc đó là đẩy mạnh cải cách giáo dục để cận đại hóa đất

1
nước, du nhập nhanh và rộng các giá trị văn minh phương Tây. Để “nhập khẩu” văn
minh, chính phủ Minh Trị đã cử học sinh ra nước ngoài du học và tích cực sử dụng
người phương Tây trong vai trò là các chuyên gia, cố vấn. Chi phí dùng để trả lương cho
các chuyên gia nước ngoài khi đó cực lớn nhưng chính quyền Minh Trị không do dự cho
dù đang ở trong tình thế tài chính khó khăn. Theo ước tính của tiến sĩ Ozaki Mugen, vào
thời đó ngân sách dành trả lương cho người lao động nước ngoài chiếm đến 4-5% ngân
sách các tỉnh, bộ. Cá biệt như Bộ Công nghiệp, cơ quan đảm nhận nhiệm vụ hiện đại
hóa đất nước, ngân sách trả lương cho người nước ngoài lên đến 50% ngân sách của Bộ.

Đế thiết lập nền giáo dục cận đại, chính phủ Minh Trị coi trọng các trường sư phạm.
Chính phủ đã bỏ một khoản tiền lớn thuê chuyên gia người Mỹ tên là M.Scott đến dạy ở
trường sư phạm trung ương. Scott cũng là người tham gia chỉ đạo việc vận dụng khóa
trình giáo dục mới trên toàn quốc từ tháng 8 năm 1872. Chính phủ cũng tuyển dụng
nhiều người nước ngoài làm giáo viên, giảng viên tại các trường trung học và đại học từ
rất sớm. Các chuyên gia người Mỹ, Anh, Pháp và Đức này đã có đóng góp quan trọng
trong việc du nhập các lý luận giáo dục mới. Những chuyên gia người nước ngoài này
về sau dần được thay thế bằng các du học sinh Nhật Bản trở về từ Mỹ và châu Âu.

Cải cách giáo dục thời hậu chiến ( 1945 – 1950 )


Sau khi Thiên hoàng tuyên bố đầu hàng ( 15/8/1945), Nhật Bản bị quân đồng minh
chiếm đóng. Dưới sự giám sát và tư vấn của Bộ tư lệnh tối cao quân đồng minh, Nhật
bản đã tiến hành cải cách chính trị - xã hội – giáo dục toàn diện nhằm dân chủ hóa đất
nước.Công cuộc cải cách giáo dục thời hậu chiến ở Nhật Bản có sự đóng góp to lớn của
Sứ đoàn giáo dục Mỹ đến Nhật vào tháng 3 năm 1946 (Sứ đoàn lần 1) và tháng 8 năm
1950 (Sứ đoàn lần 2).Trong đó Sứ đoàn giáo dục lần 1 do J.D.Stoddard làm trưởng đoàn
có vai trò lớn hơn cả. Bản báo cáo do Sứ đoàn giáo dục này đề ra đã có ảnh hưởng lớn
tới phương châm, đường lối cũng như cách thức thực hiện cải cách giáo dục của Nhật
Bản, góp phần tạo nên nước Nhật “hòa bình, dân chủ và tôn trọng con người". Trong bối
cảnh phức tạp đương thời, sứ đoàn giáo dục đã tuyên bố rộng rãi sứ mệnh của mình

2
không phải là tiến hành cải cách ở Nhật Bản với tư cách là đại biểu của nước chiến
thắng mà chỉ đưa ra sự tư vấn cần thiết về cải cách giáo dục trong tư cách là các nhà
chuyên môn. Bản báo cáo được trình lên tướng Douglas MacArthur và công bố ngày 30
tháng 3 năm 1946 gồm hai nội dung chủ yếu:

Nội dung thứ nhất là chỉ ra và phân tích những điểm yếu của nền giáo dục Nhật
Bản trước và trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Nội dung thứ hai là vạch ra triết lý,
phương châm của nền giáo dục mới. Về nền giáo dục hiện hành, bản báo cáo chỉ ra 5
hạn chế lớn: hệ thống giáo dục bị trung ương tập quyền hóa một cách cao độ, hệ thống
trường học phức tạp, giáo dục nhồi nhét một chiều, hành chính quan liêu độc tài, quốc
ngữ-quốc tự không hiệu quả. Trên cơ sở chỉ ra và phân tích những điểm yếu nói trên,
bản báo cáo nêu ra các nguyên tắc giáo dục phù hợp với xã hội dân chủ. Ở đó, “Tôn
trọng giá trị cá nhân” và giáo dục người công dân dân chủ trở thành nền tảng triết lý cơ
bản.

Về hành chính giáo dục, bản báo cáo đề xướng chế độ trường học 6-3-3 (6 năm
tiểu học, 3 năm trung học cơ sở và 3 năm trung học phổ thông), trong đó giáo dục nghĩa
vụ kéo dài 9 năm. Chủ trương hạn chế quyền lực của bộ giáo dục, giới hạn nó trong vai
trò là cơ quan chỉ đạo, tư vấn chuyên môn; phân quyền hành chính giáo dục cho các địa
phương thông qua thành lập các Ủy ban giáo dục.

Đối với giáo dục bậc cao bản báo cáo gợi ý thực hiện mở rộng cánh cửa đại học
và thực thi nam nữ bình đẳng.Về khóa trình giáo dục, bản báo cáo phủ định môn Tu
thân, môn học được coi là trụ đỡ của chủ nghĩa quân phiệt trước đó và chủ trương lấy cá
nhân làm xuất phát điểm để biên soạn nội dung giáo dục nhằm phát triển những năng
lực tiềm tàng sẵn có trong từng cá nhân.

Trong hai cuộc cải cách giáo dục Nhật Bản có vai trò như là hai cuộc cách mạng
xã hội trong hoà bình nói trên các chuyên gia giáo dục nước ngoài đã có một vai trò

3
không thể phủ nhận. Thực tế lịch sử đó là rất có thể sẽ gợi ý hữu ích cho các nước đang
phát triển muốn tiến hành cải cách giáo dục trong thời đại toàn cầu hoá.

4
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Hệ thống giáo dục
1.1.1. Khái niệm hệ thống giáo dục
Hệ thống giáo dục là toàn bộ tổ chức và cấu trúc các loại cơ quan giáo dục – dạy
học và văn hóa – giáo dục khác nhau, đảm nhiệm việc dạy học và giáo dục và công tác
giáo dục – văn hóa cho thế hệ trẻ và người lớn của một quốc gia. Hệ thống giáo dục bao
gồm nhiều tổ chức khác nhau và được cấu trúc theo những nguyên tắc xác định tạo
thành một chỉnh thể thống nhất trong việc thực hiện mục đích và chiến lược giáo dục
của quốc gia.

Ngày nay, khái niệm hệ thống giáo dục không chỉ hiểu là hệ thống nhà trường,
khái niệm này mở rộng bao gồm cả trong nhà trường và ngoài nhà trường, tức là bất cứ
cách học và cách dạy trong điều kiện nào nhằm mang lại một sự thay đổi về thái độ,
hành vi trên cơ sở người học tiếp nhận những tri thức, kỹ năng, nghề nghiệp và khả
năng mới, đó là hệ thống giáo dục với chức năng và nhiệm vụ xây dựng xã hội học tập
suốt đời.

Hệ thống giáo dục gồm hệ thống nhà trường, hệ thống các cơ quan văn hóa – giáo
dục ngoài nhà trường và hệ thống cơ quan quản lý giáo dục và các cơ quan nghiên cứu
khoa học về giáo dục và dạy học. Như vậy, cơ cấu hệ thống giáo dục hiểu theo nghĩa
rộng gồm các vấn đề về cơ cấu bậc học, cơ cấu loại hình giáo dục đào tạo, cơ cấu ngành
học, cơ cấu quản lý và phân bố địa lí của mạng lưới, các cơ sở dạy học – giáo dục, văn
hóa – giáo dục.Trong các bộ phận nêu trên, hệ thống nhà trường giữ vai trò chủ đạo
trong hệ thống giáo dục. Vì lẽ đó, khi nói đến hệ thống giáo dục người ta nói đến hệ
thống nhà trường. Nhà trường là hạt nhân của hệ thống giáo dục, do đó nó cũng là đơn
vị cấu trúc cơ bản của hệ thống giáo dục. Nhà trường là một thiết chế nhà nước – xã hội
có chức năng chuyên trách trong việc chuyển giao kinh nghiệm xã hội cho thế hệ trẻ của
một nước.
5
Như vậy, hệ thống giáo dục là tập hợp các loại hình giáo dục (hoặc loại hình nhà
trường) được sắp xếp theo một trình tự nhất định theo các bậc học từ thấp (mầm non)
đến cao (đại học và sau đại học).Hệ thống giáo dục là một chỉnh thể hữu cơ bao gồm
nhiều tầng bậc, nhiều nhân tố, hình thái và chức năng. Hệ thống giáo dục là một hệ
thống con trong hệ thống lớn xã hội, có mối liên hệ chặt chẽ với các hệ thống khác như
kinh tế, chính trị, khoa học văn hoá… Ngoài ra hệ thống giáo dục lại là một chỉnh thể
độc lập tương đối. Tính độc lập của nó biểu hiện chủ yếu ở sự khác biệt về cơ cấu so với
các hệ thống con khác.Thông thường hệ thống giáo dục được hiểu theo hệ thống nhà
trường (faculty system) trong đó phản ánh các loại hình nhà trường, xác định vị trí, chức
năng và các mối quan hệ giữa chúng trong các bậc học và trong toàn hệ thống.

Hệ thống giáo dục các nước mặc dù có sự đa dạng về phân cấp, bậc đào tạo, hệ
thống văn bằng, chứng chỉ, phân chia lứa tuổi các bậc học… nhưng đều có những đặc
điểm phản ánh các đặc trưng chung của hệ thống giáo dục quốc tế. Tổ chức UNESCO
đã tổng kết hệ thống giáo dục các nước đều có các bậc học cơ bản sau:

Bậc 0: Trước tuổi học (Pre-primary training)


Bậc 1: Tiểu học (Major training)
Bậc 2: Trung học cơ sở (Decrease secondary training)
Bậc 3: Trung học phổ thông (Higher secondary training)
Bậc 4: Sau trung học (Put up-secondary training)
Bậc 5: Giai đoạn đầu của giáo dục đại học (First stage of tertiary training), chủ yếu
theo hướng giáo dục thực hành, kỹ thuật công nghệ.
Bậc 6: Giai đoạn hai của giáo dục đại học (Second stage of tertiary training), chủ
yếu đào tạo chuyên gia có trình độ cao theo hướng nghiên cứu.

1.1.2. Hệ thống giáo dục của Việt Nam


Các cấp học và trình độ đào tạo của hệ thống giáo dục quốc dân bao gồm:

6
Giáo dục mầm non gồm giáo dục nhà trẻ và giáo dục mẫu giáo;
Giáo dục phổ thông gồm giáo dục tiểu học, giáo dục trung học cơ sở và giáo
dục trung học phổ thông;
Giáo dục nghề nghiệp đào tạo các trình độ sơ cấp, trung cấp và cao đẳng;
Giáo dục đại học đào tạo các trình độ đại học, thạc sĩ và tiến sĩ.

Khung cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân là cơ sở để thực hiện đổi mới căn bản
toàn diện giáo dục và đào tạo.Quyết định nêu rõ tiêu chuẩn đầu vào, thời gian học tập và
cơ hội học tập tiếp theo của các cấp học và trình độ đào tạo.

Giáo dục mầm non: Gồm giáo dục nhà trẻ và giáo dục mẫu giáo. Giáo dục nhà trẻ
được thực hiện đối với trẻ từ 3 tháng tuổi đến 3 tuổi; giáo dục mẫu giáo được thực hiện
đối với trẻ em từ 3 tuổi đến 6 tuổi.

Giáo dục phổ thông: Gồm giáo dục tiểu học, giáo dục trung học cơ sở (giai đoạn
giáo dục cơ bản) và giáo dục trung học phổ thông (giai đoạn giáo dục định hướng nghề
nghiệp).

Giáo dục tiểu học được thực hiện trong 5 năm học, từ lớp 1 đến hết lớp 5. Học sinh
sau khi hoàn thành chương trình giáo dục tiểu học sẽ học tiếp lên trung học cơ sở. Giáo
dục trung học cơ sở tiếp nhận học sinh đã hoàn thành chương trình giáo dục tiểu học.

Giáo dục trung học cơ sở được thực hiện trong 4 năm học, từ lớp 6 đến hết lớp 9.
Học sinh sau khi hoàn thành chương trình giáo dục trung học cơ sở có thể học tiếp lên
trung học phổ thông hoặc theo học các chương trình đào tạo trình độ sơ cấp và trung
cấp.

Giáo dục trung học phổ thông tiếp nhận học sinh đã hoàn thành chương trình giáo
dục trung học cơ sở. Trong thời gian học trung học phổ thông, học sinh có thể chuyển

7
sang học chương trình đào tạo trình độ trung cấp nếu có nguyện vọng và đáp ứng được
yêu cầu của chương trình.Giáo dục trung học phổ thông được thực hiện trong 3 năm
học, từ lớp 10 đến hết lớp 12. Học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông có thể học lên
đại học hoặc theo học các chương trình giáo dục nghề nghiệp.

Giáo dục nghề nghiệp: Gồm các chương trình đào tạo trình độ trung cấp tiếp nhận
người tốt nghiệp tối thiểu trung học cơ sở; các chương trình đào tạo trình độ cao đẳng
tiếp nhận người tốt nghiệp trung học phổ thông hoặc tốt nghiệp trình độ trung cấp; cùng
với đào tạo trình độ trung cấp, trình độ cao đẳng, đào tạo trình độ sơ cấp nhằm giúp
người học có kỹ năng thực hiện được các công việc đơn giản của một nghề.

Giáo dục đại học: Giáo dục trình độ đại học và giáo dục trình độ thạc sĩ có 2 định
hướng: nghiên cứu và ứng dụng; giáo dục trình độ tiến sĩ theo định hướng nghiên cứu.

Các chương trình đào tạo định hướng nghiên cứu có mục tiêu và nội dung theo
hướng chuyên sâu về nguyên lý, lý thuyết cơ bản trong các lĩnh vực khoa học, phát triển
các công nghệ nguồn làm nền tảng để phát triển các lĩnh vực khoa học ứng dụng và
công nghệ.Các chương trình đào tạo định hướng ứng dụng có mục tiêu và nội dung theo
hướng phát triển kết quả nghiên cứu cơ bản, ứng dụng các công nghệ nguồn thành các
giải pháp công nghệ, quy trình quản lý, thiết kế các công cụ hoàn chỉnh phục vụ nhu cầu
đa dạng của con người.Các chương trình đào tạo phải đảm bảo khối lượng kiến thức tối
thiểu, yêu cầu về năng lực mà người học đạt được sau khi tốt nghiệp theo quy định của
Bộ Giáo dục và Đào tạo.Các chương trình đào tạo trình độ đại học tiếp nhận người đã
tốt nghiệp trung học phổ thông; người đã tốt nghiệp trình độ trung cấp và đã học và thi
đạt yêu cầu đủ khối lượng kiến thức văn hóa trung học phổ thông theo quy định của Bộ
Giáo dục và Đào tạo (chương trình đào tạo đại học có thời gian tương đương 3 đến 5
năm học tập trung); người đã tốt nghiệp trình độ cao đẳng.Các chương trình đào tạo
trình độ thạc sĩ tiếp nhận người tốt nghiệp trình độ đại học. Thời gian đào tạo trình độ
thạc sĩ tương đương 1 đến 2 năm học tập trung tùy theo yêu cầu của ngành đào tạo.

8
Người học sau khi hoàn thành chương trình đào tạo trình độ thạc sĩ có thể học tiếp
lên tiến sĩ trong hướng chuyên môn phù hợp hoặc được nhận vào học các hướng chuyên
môn khác nếu đáp ứng được điều kiện của chương trình đào tạo.Các chương trình đào
tạo trình độ tiến sĩ tiếp nhận người tốt nghiệp trình độ thạc sĩ hoặc người tốt nghiệp trình
độ đại học nếu đáp ứng được các yêu cầu của chương trình đào tạo.Thời gian đào tạo
trình độ tiến sĩ tương đương 3 đến 4 năm học tập trung tùy theo yêu cầu của ngành đào
tạo và trình độ đầu vào của người học.Hình thức giáo dục thường xuyên nhằm tạo điều
kiện cho mọi người, ở các lứa tuổi và trình độ khác nhau có thể học tập, nâng cao kiến
thức, phát triển năng lực chuyên môn, tự tạo việc làm hoặc chuyển đổi ngành, nghề phù
hợp với hoàn cảnh cụ thể của từng người, góp phần nâng cao dân trí, chất lượng nguồn
nhân lực, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế và xã hội, xây dựng xã hội học tập.Người
học có thể chuyển đổi từ giáo dục thường xuyên sang các phương thức khác nếu có nhu
cầu, có đủ năng lực và đáp ứng yêu cầu của chương trình.

1.1.3. Hệ thống giáo dục của Nhật Bản


Là đất nước nổi tiếng với nền kinh tế tri thức, Nhật Bản là một trong những quốc gia
phát triển với tỷ lệ mù chữ thực tế thấp nhất trên thế giới. Số học sinh theo học đại học,
cao đẳng của Nhật Bản cũng cao hơn hẳn so với các quốc gia châu Âu và châu Á khác.
Điều này đã đóng góp một phần không nhỏ tạo nên nền tảng vững chắc cho sự phát triển
của kinh tế và xã hội Nhật Bản trong thời kỳ kinh tế hội nhập. Hệ thống giáo dục Nhật
Bản được thiết lập sau Chiến tranh thế giới thứ hai, dựa trên nền tảng hệ thống giáo dục
Mỹ.

Ở Nhật Bản, hệ thống giáo dục có nhiều đặc điểm khác với Việt Nam. Nếu ở Việt
Nam chúng ta có 5 năm học cấp 1, 4 năm học cấp 2, 3 năm học cấp 3, và 4 năm đại học
thì ở Nhật Bản học sinh lại phải trải qua 6 năm cấp 1, 3 năm cấp 2, 3 năm cấp 3 và 4
năm đại học. Nhật Bản cũng có nhiều loại trường học như ở Việt Nam, gồm:

9
Mẫu giáo : 1 – 3 năm
Tiểu học : 6 năm, từ 6 – 12 tuổi
Trung học cơ sở : 3 năm, từ 13 – 15 tuổi
Trung học phổ thông : 3 năm
Cao đẳng : 2 năm, học Khoa học 3 năm
Cao đẳng Kỹ thuật : Từ 5 – 5.5 năm
Đại học ngắn hạn : 2 năm
Đại học chính quy : 4 năm
Trường dạy nghề : 1 năm trở lên
Trường trung cấp : 1 năm trở lên

Trong hệ thống này, giáo dục bậc tiểu học và trung học cơ sở là bắt buộc, từ bậc
trung học phổ thông không bắt buộc. Tỷ lệ học cấp 3 hiện nay của Nhật là gần 100%.
Nhật Bản hiện đang có chủ trương phổ cập giáo dục bậc phổ thông trung học. Tỷ lệ học
đại học của Nhật hiện chỉ đứng sau Mỹ (khoảng 50%).

Một năm học ở Nhật kéo dài khoảng 240 ngày. Tuy nhiên, số ngày đi học thông
thường ít hơn vì học sinh thường phải nghỉ hơn 20 ngày cho các lễ hội, kỳ nghỉ và các
hoạt động khác.Học sinh lớp một thường tan học sớm hơn vào buổi chiều, trong khi
những học sinh lớn hơn ở lại trường muộn hơn. Học sinh chuẩn bị thi đại học thì sẽ phải
tiếp tục học thêm tại các lớp học thêm.Hàng năm, các học viện Nhật ngữ sẽ có 4 đợt
nhập học vào tháng 1, 4, 7 và 10. Tất cả các kỳ nhập học sẽ kết thúc vào tháng 3 hàng
năm. Trong tháng 4, du học sinh sẽ đăng ký học tiếp lên cao đẳng, đại học hoặc trường
dạy nghề sau khi có kết quả từ học viện Nhật ngữ. Rất nhiều trường của Nhật áp dụng
chế độ semester (2 học kỳ), học kỳ đầu từ tháng 4 đến tháng 9, học kỳ sau từ tháng 10
đến tháng 3, cũng có trường áp dụng chế độ 3 học kỳ và chế độ quarter (4 học kỳ). Du
học sinh cần nộp hồ sơ trước mỗi đợt nhập học, tối thiểu trước 5 tháng trước khi xuất
cảnh.

10
Chính sách đầu tư và khuyến khích giáo dục của Nhật Bản hiện nay thu hút sinh
viên nước ngoài đến học tập. Rất nhiều trường dự bị tiếng được mở ra nhằm đáp ứng
nhu cầu học tập cho sinh viên nước ngoài. Tiêu biểu như trường Kurume, Koiwa, Ngoại
ngữ Osaka…Ngoài ra Chính phủ Nhật còn hỗ trợ cho lưu học sinh thông qua các
chương trình học bổng như học bổng toàn phần, miễn học phí, hỗ trợ tiền thuê nhà, ăn
ở…Bên cạnh đó, Chính phủ Nhật Bản đang tiếp tục đầu tư cho giáo dục nhằm đưa Nhật
Bản trở thành nước có hệ thống giáo dục phát triển nhất thế giới. Và tạo ra môi trường
học tập lý tưởng nhất cho sinh viên Nhật và sinh viên nước ngoài.

1.2. Các tiêu chí so sánh hệ thống giáo dục của các nước
Tổng quát về hiện trạng nền giáo dục Việt Nam trong mối tương quan, so sánh với
hiện trạng giáo dục một số nước trên thế giới.
So sánh số bậc học, cấp học, số năm học
So sánh về mục tiêu giáo dục
So sánh về nội dung giáo dục
So sánh về phương pháp giáo dục
So sánh giáo viên và học sinh
So sánh đánh giá kết quả học tập

CHƯƠNG 2. SO SÁNH GIÁO DỤC CỦA VIỆT NAM VÀ GIÁO DỤC CỦA
NHẬT BẢN
2.1 Điểm tương đồng
2.1.1. Về cấu trúc
Cả Việt Nam và Nhật Bản đều chú trọng “tiên học lễ, hậu học văn” , dạy trò ý thức
trước rồi mới dạy kiến thức.

2.1.2. Về loại hình trường


Việt Nam và Nhật Bản đều có trường công lập và trường tư lập.

11
2.1.3. Về tiêu chí phân chia các cấp bậc học, loại hình trường
Về tiêu chí phân chia cấp bậc học trong giáo dục Việt Nam và Nhật Bản thì cấp bậc
tiểu học và trung học cơ sở là hai cấp học bắt buộc những người mang quốc tịch hai
nước này đều phải học.

Việt Nam và Nhật Bản đều có các cấp học là mẫu giáo, tiểu học, trung học, đại học
và sau đại học (thạc sĩ và tiến sĩ). Cả Việt Nam và Nhật Bản gồm cao đẳng, trung cấp
nghề, trung cấp chuyên nghiệp đào tạo từ 2 đến 3 năm. Học xong trung học cơ sở không
thi lên trung học phổ thông có thể học luôn lên giáo dục chuyên biệt.

2.1.4. Về hệ thống văn bằng - chứng chỉ

Văn bằng của hệ thống giáo dục quốc dân được cấp cho người học sau khi tốt
nghiệp cấp học hoặc sau khi hoàn thành chương trình giáo dục, đạt chuẩn đầu ra của
trình độ tương ứng theo quy định của Luật này.Văn bằng của hệ thống giáo dục quốc
dân gồm bằng tốt nghiệp trung học cơ sở, bằng tốt nghiệp trung học phổ thông, bằng tốt
nghiệp trung cấp, bằng tốt nghiệp cao đẳng, bằng cử nhân, bằng thạc sĩ, bằng tiến sĩ và
văn bằng trình độ tương đương.

Chứng chỉ của hệ thống giáo dục quốc dân được cấp cho người học để xác nhận kết
quả học tập sau khi được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ học vấn, nghề nghiệp
hoặc cấp cho người học dự thi lấy chứng chỉ theo quy định.Văn bằng, chứng chỉ do cơ
sở giáo dục thuộc các loại hình và hình thức đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc dân
cấp có giá trị pháp lý như nhau.

Chính phủ ban hành hệ thống văn bằng giáo dục đại học và quy định văn bằng trình
độ tương đương của một số ngành đào tạo chuyên sâu đặc thù.

Bằng tốt nghiệp trung học cơ sở

12
Bằng tốt nghiệp trung học phổ thông

Bằng tốt nghiệp trung cấp

Bằng tốt nghiệp cao đẳng

Bằng cử nhân

2.2. Điểm khác biệt


2.2.1. Về cấp bậc học, số năm học của từng cấp bậc
Ở Việt Nam:
Mẫu giáo (3 năm, từ 3 – 6 tuổi)
Tiểu học (5 năm, từ 6 – 11 tuổi)
Trung học cơ sở (6 năm, từ 11 – 15 tuổi)
Trung học phổ thông (3 năm, từ 15 – 18 tuổi)
Đại học (4 năm, từ 18 – 22 tuổi)
Thạc sĩ (2 năm, từ 22 – 23 tuổi)
Tiến sĩ (3 năm, từ 23 – 26 tuổi)

Ở Nhật Bản:
Mẫu giáo (1 – 3 năm)
Tiểu học (6 năm, từ 6 – 12 tuổi)
Trung học cơ sở (3 năm, từ 13 – 15 tuổi)
Trung học phổ thông (3 năm)
Cao đẳng (2 năm, học Khoa học 3 năm)
Cao đẳng Kỹ thuật (từ 5 – 5.5 năm)
Đại học ngắn hạn (2 năm)
Đại học chính quy (4 năm)
Trường dạy nghề (1 năm trở lên)

13
Trường trung cấp (1 năm trở lên)

2.2.2. Mục tiêu giáo dục


Mục tiêu giáo dục của Việt Nam: Xây dựng cho được một đội ngũ cán bộ khoa học,
kỹ thuật và quản lí kinh tế đông đảo vững mạnh, ngày càng hoàn chỉnh về trình độ và
ngành nghề, vừa có phẩm chất chính trị tốt, tuyệt đối trung thành với Đảng, với giai cấp
công nhân, với dân tộc. Liên hệ chặt chẽ với công nông, vừa có trình độ khoa học kỹ
thuật và nghiệp vụ giỏi, nắm vững những quy luật của tự nhiên và quy luật xã hội, có
năng lực tổ chức và động viên quần chúng, đủ sức giải quyết các vấn đề khoa học, kỹ
thuật và quản lí kinh tế do thực tế nước ta đề ra và có khả năng tiến kịp trình độ khoa
học, kỹ thuật tiên tiến trên thế giới.
Mục tiêu giáo dục của Nhật Bản: Mục tiêu giáo dục của Nhật Bản khác chúng ta ở
chỗ Nhật Bản theo tư bản chủ nghĩa nên giáo dục của họ cũng trung thành với giai cấp
tư sản, giáo dục sẽ cung cấp nhân lực, nhân tài cho các lĩnh vực kinh tế- xã hội nhằm
phát triển đất nước.

2.2.3. Đội ngũ giáo viên - học sinh


Ở Việt Nam : Tỉ lệ giáo viên trẻ và giàu kinh nghiệm có thể không cân đối, với
nhiều trường hợp các trường học ở khu vực nông thôn hoặc xa xôi thường gặp khó khăn
trong việc thu hút và duy trì đội ngũ giáo viên chất lượng.Số lượng học sinh mỗi lớp có
thể khá lớn, đặc biệt là ở các khu vực đô thị đông đúc, điều này có thể gây khó khăn
trong việc quản lý và tương tác cá nhân hóa với học sinh.Giáo viên ở Việt Nam ngày
càng được đào tạo kỹ lưỡng để phù hợp với những thay đổi liên quan đến vai trò đa
dạng và phức tạp của mình, và họ nhiệt tình tham gia vào công cuộc đổi mới trong lĩnh
vực giáo dục. Họ không chỉ cần có kiến thức chuyên môn sâu rộng và trình độ sư phạm,
mà còn cần biết cách tương tác một cách tinh tế, sử dụng công nghệ trong quá trình dạy
học và định hướng phát triển của học sinh theo mục tiêu giáo dục, đồng thời đảm bảo sự
tự do trong hoạt động nhận thức của học sinh.

14
Ở Nhật Bản: Hệ thống giáo dục ở Nhật Bản có đội ngũ giáo viên chất lượng cao,
được đào tạo kỹ lưỡng và đánh giá theo tiêu chuẩn nghiêm ngặt.Số lượng học sinh mỗi
lớp thường được kiểm soát để tối ưu hóa việc tương tác giữa giáo viên và học sinh, tạo
điều kiện thuận lợi cho quá trình học tập cá nhân hóa.Việc đào tạo giáo viên ở Nhật Bản
cũng đề cao không chỉ kiến thức mà còn đạo đức nghề nghiệp. Giáo viên thường phải
thăm nhà học sinh, đặc biệt là những học sinh gặp khó khăn hoặc đặc biệt, để tương tác
với phụ huynh và hỗ trợ học sinh tại nhà mà không yêu cầu thêm phí. Họ cũng thường
tư vấn cho học sinh về lựa chọn nghề nghiệp ngay từ khi còn học trên ghế nhà trường,
gặp gỡ riêng từng em để định hướng cho tương lai của họ."

2.2.4. Phương pháp giáo dục


Ở Việt Nam: Phương pháp giáo dục ở Việt Nam thường tập trung vào việc truyền
đạt kiến thức, với phần lớn thời lượng học được dành cho việc học thuộc lòng và làm
bài tập. Có sự nhấn mạnh vào việc chuẩn bị cho các kỳ thi quan trọng như kỳ thi tốt
nghiệp THPT.

Ở Nhật Bản: Giáo dục ở Nhật Bản thường khuyến khích sự tương tác, thảo luận và
học hỏi từ trải nghiệm thực tế, với sự tập trung vào việc phát triển kỹ năng sáng tạo và
tự học. Có sự đánh giá cao vào việc phát triển kỹ năng xã hội và tư duy logic.

2.2.5. Đánh giá kết quả kiểm tra


Ở Việt Nam: Hệ thống đánh giá kết quả kiểm tra thường tập trung vào kỳ thi quan
trọng như kỳ thi tốt nghiệp THPT, và kỳ thi vào đại học. Có thể có áp lực lớn đối với
học sinh và giáo viên để đạt được kết quả cao trong các kỳ thi này.

Ở Nhật Bản: Hệ thống đánh giá thường tập trung vào việc đánh giá toàn diện về
năng lực và kỹ năng của học sinh, bao gồm cả khả năng sáng tạo, tư duy logic và kỹ
năng xã hội. Có sự coi trọng vào việc phát triển đồng đều các khía cạnh của cá nhân học
sinh, chứ không chỉ là việc đạt được điểm số cao trong các kỳ thi kiểm tra.

15
CHƯƠNG 3. BÀI HỌC RÚT RA TỪ VIỆC SO SÁNH GIÁO DỤC VIỆT
NAM VÀ GIÁO DỤC NHẬT BẢN

Cả Việt Nam và Nhật Bản đều chú trọng “tiên học lễ, hậu học văn”, dạy trò ý thức
trước rồi mới dạy kiến thức nhưng do văn hóa 2 nước khác nhau mà cách dạy “tiên học
lễ, hậu học văn” của 2 nước có sự khác nhau.

Về Nhật Bản, thứ nhất do hệ thống chữ viết của Nhật gồm 4 bảng: Chữ mềm
(Hiragana), chữ cứng (Katakana), Hán tự (Kanji), chữ viết phiên âm Latin (Romaji).
Trong cuộc sống hằng ngày việc giao tiếp hằng ngày không bị ảnh hưởng bởi 4 bảng
chữ cái này, nhưng để đọc được sách, báo, các thông báo thì bắt buộc phải có Hán tự
(Kanji). Thế nhưng, Hán tự (Kanji) thường rất khó học đối với trẻ nhỏ nên Nhật ưu tiên
không dạy chữ viết cho trẻ từ mẫu giáo cho đến lớp 3 mà chỉ dạy về ý thức, thực hành
các kỹ năng mềm như cách tự mặc quần áo, đeo cặp, biết cảm ơn, xin lỗi, cách chào hỏi,
lễ phép với người lớn, cách hòa đồng với bạn bè và yêu thương động vật,... Thứ hai, vào
giờ học các em được chơi và sáng tạo là chính, giáo viên không can thiệp mà chỉ đứng
từ xa quan sát và hỗ trợ khi cần thiết, kích thích sự tò mò, sáng tạo và ham học. Học
sinh Nhật Bản phải học hết lớp 12 mới đọc được hết 1 tờ báo vì chữ của Nhật rất khó và
nhiều loại, Nhật dạy cho học sinh loại chữ mềm (Hiragana) và chữ cứng (Katakana)
trước, nó rất dễ học để học sinh có thể tiếp cận sách giáo khoa, truyện tranh,…Đến tận
lớp 3, học sinh Nhật mới bắt đầu có bài kiểm tra, ưu tiên dạy thực hành nhiều hơn lý
thuyết. Chẳng hạn, dạy học sinh về làm nông thì nhà trường cho học sinh được ra đồng
và hướng dẫn trồng lúa, các loại rau củ để học sinh tiếp thu kiến thức thực tế đồng thời
biết quý trọng lương thực và công sức lao động của các bác nông dân,...Đến bậc đại học
và sau đại học, sinh viên luôn được tiếp thu cái mới, các công nghệ khoa học mới nhất,
có ích và được thực hành ngay tại trường và thực tập nhiều nơi….Tóm lại , nội dung
giáo dục Nhật Bản thiết thực, cơ bản, hiện đại và toàn diện. Và ở Nhật, giáo dục bắt
buộc chỉ là đến lớp 9, sau đó các em học sinh có thể tự do học tiếp tục cấp 3 hoặc sẽ học
nghề. Các bằng nghề ở Nhật Bản được đánh giá cao và không quá khác biệt so với bằng
Đại học. Giúp tiết kiệm thời gian và gia tăng lực lượng lao động nội địa.
16
Đến với giáo dục Việt Nam, do chữ viết của ta chỉ có 1 bảng chữ cái, đồng thời nó
cũng tương đồng với Tiếng Anh – ngôn ngữ chung của Thế Giới. Vì vậy học sinh nước
ta lớp 2 đã có thể hoàn toàn biết đọc biết viết, đọc sách xem báo, dù nhận thức vẫn chưa
hiểu được hết 100% ý nghĩa. Trẻ mẫu giáo đã được dạy bảng chữ cái, các cháu vừa chơi
vừa học nhằm phát triển đầy đủ cả thể lực, trí tuệ, nhân cách. Bước lên cấp tiểu học, vào
lớp 1 học sinh có 2 kì kiểm tra lớn là giữa kì và cuối năm, các bài kiểm tra nhỏ như
kiểm tra miệng, kiểm tra 15 phút, kiểm tra 1 tiết. Học sinh được kiểm tra liên tục để xét
kiến thức và trí nhớ. Nội dung giáo dục luôn xen kẽ dạy kiến thức và ý thức. Chẳng hạn
tiểu học, ta vừa dạy học sinh các kiến thức về Thế Giới tự nhiên xen kẽ bồi dưỡng thái
độ, tình cảm cho học sinh để có hành vi phù hợp đối với cuộc sống và thế giới tự nhiên.
Nội dung giáo dục nước ta rất đề cao các truyền thống tốt đẹp và bản sắc văn hóa dân
tộc, giáo dục phù hợp với các lứa tuổi từ tâm lý đến sinh lý cho học sinh. Tuy nhiên do
cơ sở vật chất của Việt Nam ta còn kém, chưa có thể hỗ trợ học sinh nhiều về thực hành
nên nhiều môn học mới chỉ dạy học sinh về lý thuyết. Những môn học cần thiết thực
hành như Lý, Hóa, Sinh thường không được đáp ứng đủ nhu cầu học thực hành, thay
vào đó là những tiết lý thuyết khô khan. Nội dung giáo dục nước ta rất cơ bản, hiện đại
nhưng chưa thực sự được hoàn thiện và thiết thực, Nhà nước và Bộ giáo dục đào tạo
đang cố gắng cải cách tiến bộ và có các biện pháp để giải quyết các hạn chế và ngày một
hoàn thiện và nâng cao. Giáo dục bắt buộc ở Việt Nam cũng thường là lớp 9, thế nhưng
giá trị văn bằng nghề không được đánh giá cao bằng bằng Đại học và hiện nay nhiều
công việc đòi hỏi phải có bằng THPT nên cũng là một lý do cho mức giáo dục bắt buộc
ngày càng tăng.

Sau khi so sánh với nền giáo dục Nhật Bản, ta thấy rõ nhất vấn đề của nền giáo dục
Việt Nam chính là chưa thực sự “Học hành”, giáo dục Việt Nam chỉ đang dừng ở
“Học”, chỉ tập trung vào các câu chữ nguyên lý, chỉ chăm chăm học thuộc, chỉ học để
chạy đua thành tích mà không “Hành”. Các em học sinh phải học các lý thuyết khô
khan, do điều kiện về tài chính nên việc “Hành” chưa được đầu tư nhiều; các phòng Lab
học tập và nghiên cứu chưa được xây dựng rộng rãi ở các trường học dẫn đến tình trạng

17
học vẹt, chỉ nhớ khi kiểm tra chứ không thực sự nạp kiến thức về các môn tự nhiên. Đến
các môn xã hội, chỉ tập trung vào lý thuyết và sách giáo khoa; so với Nhật Bản thì mức
độ các chương trình học tập ngoại khóa của Việt Nam đang rất ít. Về việc học ngoại ngữ
- công cụ để giao tiếp với Thế Giới, thời gian để các em học sinh học ngoại ngữ đang
tăng lên; thế nhưng, kéo theo đó là việc học ngoại ngữ nhưng chỉ có thể nghe và hiểu mà
không thể giao tiếp. Chạy đua học ngoại ngữ ở các trung tâm để giành lấy những tấm
bằng nhưng việc giao tiếp lại rất “bập bẹ”. Hiện nay, Bộ Giáo Dục vẫn đang tiếp tục cố
gắng để tăng giờ thực hành trong các tiết học, đang dần dần thay đổi những điểm yếu
trong Giáo Dục để nền giáo dục Việt Nam ngày càng thiết thực và học hành hiệu quả.
Việc tăng giờ thực hành trong giáo dục, kèm theo đó là những bài học về triết lý nhân
sinh, cuộc sống sẽ giúp các học sinh ngày càng hoàn thiện về kiến thức cần thiết và tâm
sinh lý, giúp bản thân các em nói riêng và Việt Nam nói chung ngày càng phát triển.
Giúp con người Việt Nam có đầy đủ kiến thức và nhân lực cạnh tranh trên đấu trường
Quốc Tế.

18
KẾT LUẬN
Việc giáo dục là một trong những nhân tố cần thiết và quan trọng nhất trong công
cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước phát triển. Để có thể “Quốc thái dân an” việc giáo
dục là điều vô cùng cần thiết. Giáo dục mà ta chúng ta cần hướng đến không chỉ là giáo
dục trên sách vở, trên ghế nhà trường mà còn phải là giáo dục bằng phương pháp trải
nghiệm, thực hành. Từ những ưu và khuyết điểm của nền giáo dục Nhật Bản và Việt
Nam, ta thấy nếu chỉ đơn thuần giáo dục bằng phương pháp học qua sách vở thì không
thể nào có thể có được kiến thức thực tế, mà kiến thức ta nạp vào chỉ đơn thuần là
những kiến thức khô khan, những bài tập lập đi lập lại. Từ đó, dẫn đến việc sức sáng tạo
bị giảm, không thể áp dụng những kiến thức đã học vào thực tế. Thế nên, việc giáo dục
là việc kết hợp giữa lý thuyết và thực hành, việc học phải đi đôi với hành. Nếu thiếu một
trong hai yếu tố trên thì việc giáo dục sẽ không còn hiệu quả và thiết thực. Hy vọng
trong tương lai, nền giáo dục của 2 nước Việt Nam và Nhật Bản sẽ ngày càng phát triển.
Tiếp thu những điều tích cực và loại bỏ những tiêu cực trong giáo dục để nền giáo dục,
đất nước ngày càng phát triển, trẻ em và con người nói chung sẽ được sống và học tập
tại những nơi tích cực và tiện ích, để tích lũy kiến thức phục vụ cho bản thân và đất
nước.

19
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.So sánh mô hình giáo dục ở Nhật Bản và giáo dục ở Việt Nam. Trích xuất từ :
https://sti.vista.gov.vn/tw/Lists/TaiLieuKHCN/Attachments/323354/CVv489S42202105
8.pdf\
2. Nền giáo dục Việt Nam. Trích xuất từ: https://redsvn.net/nen-giao-duc-viet-nam-qua-
cai-nhin-cua-mot-nguoi-nhat-ban2/
3. Hợp tác giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực giữa Việt Nam và Nhật Bản. Trích xuất
từ: http://www.inas.gov.vn/449-hop-tac-giao-duc-va-dao-tao-nguon-nhan-luc-giua-viet-
nam-va-nhat-ban.html
4. Thúc đẩy quan hệ Việt Nam - Nhật Bản trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo. Trích xuất
từ : http://www.vietnamembassy-norway.org/vnemb.vn/tin_hddn/ns080327092133
5. Tăng cường hợp tác giáo dục đại học giữa Việt Nam và Nhật Bản. Trích xuất từ :
http://www.vaas.org.vn/tang-cuong-hop-tac-giao-duc-dai-hoc-giua-viet-nam-va-nhat-
ban-a14943.html
6. Bộ Giáo dục và Đào tạo, (2018), Chương trình Giáo dục phổ thông tổng thể
7. Phạm Minh Hạc, (30/9/2003), Nghiên cứu và học tập kinh nghiệm phát triển GD
Nhật Bản, Báo cáo tại Hội thảo Giáo dục Việt Nhật do ISEI - UP - Ban Khoa giáo
Trung ương tổ chức tại Hà Nội.
8. T. Nakauchi, H. Tajima, T. Saito, E. Ameda, (2002), Hiện đại hóa giáo dục Nhật Bản,
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
9. Đinh Quang Báo (2016), Chương trình đào tạo giáo viên đáp ứng yêu cầu đổi mới
giáo dục phổ thông, Đại học Sư phạm, Hà Nội.
10. Trần Kiểm (2015), Những vấn đề cơ bản của khoa học quản lý giáo dục, Đại học Sư
phạm, Hà Nội.

20

You might also like