You are on page 1of 42

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HCM


KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
BỘ MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

TIỂU LUẬN CUỐI KỲ


QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ
VẤN ĐỀ DÂN TỘC
VẬN DỤNG VÀO VIỆC BẢO VỆ CHỦ QUYỀN
BIỂN ĐẢO NƯỚC TA HIỆN NAY

MÃ MÔN HỌC: LLCT120314_10CLC

THỰC HIỆN: Nhóm 10. Thứ 5 tiết 5, 6

GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: GV. Trương Thị Mỹ Châu

Tp. Hồ Chí Minh, tháng 11 năm 2021


DANH SÁCH NHÓM THAM GIA VIẾT TIỂU LUẬN
HỌC KÌ I, NĂM HỌC 2021-2022
Nhóm số 10 (Lớp thứ 5, tiết 5, 6)

Tên đề tài: Quan điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc. Vận dụng vào việc
bảo vệ chủ quyền biển đảo nước ta hiện nay
TỈ LỆ SĐT
STT HỌ VÀ TÊN MÃ SINH VIÊN %
HOÀN
SINH VIÊN THÀNH
1 Thái Quang Huy 20151080 100% 0896434243
2 Nguyễn Hồng Xuân Mai 20116197 100% 0901481936
3 Lê Thị Thuý Nga 20116202 100% 0399553921
4 Nguyễn Đoàn Trung Phương 20116219 100% 0969179349
5 Võ Thị Hoài Thảo 20116230 100% 0396827994
6 Nguyễn Hoàng Thi 20116233 100% 0374027821
7 Bùi Diệp Anh Thư 20116337 100% 0389149779

Ghi chú:
Tỷ lệ % = 100%
− Trưởng nhóm: Võ Thị Hoài Thảo

Nhận xét của giáo viên:


.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
Ngày 24 tháng 11 năm 2021

Giáo viên chấm điểm


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1


1. Lý do chọn đề tài .............................................................................................. 1
2. Mục tiêu nghiên cứu ......................................................................................... 1
3. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................. 2
PHẦN NỘI DUNG......................................................................................................... 3
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC .......... 3
1.1. Khái niệm về độc lập dân tộc ............................................................................ 3
1.2. Cơ sở hình thành quan điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc................ 4
1.2.1. Cơ sở thực tiễn ................................................................................................ 4
1.2.2. Cơ sở lý luận ................................................................................................... 6
1.2.3. Nhân tố chủ quan Hồ Chí Minh ...................................................................... 8
1.3. Nội dung quan điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc.............................. 9
1.3.1. Độc lập dân tộc là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm .............................. 9
1.3.2. Độc lập dân tộc phải gắn liền với cơm no áo ấm và hạnh phúc của nhân dân
....................................................................................................................................... 10
1.3.3. Độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ ...................... 11
1.4. Ý nghĩa luận điểm ............................................................................................ 12
CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ
DÂN TỘC VÀO VIỆC BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO NƯỚC TA HIỆN
NAY............................................................................................................................... 14
2.1. Tổng quan về biển đảo nước ta hiện nay ....................................................... 14
2.1.1. Lịch sử hình thành và vị trí địa lý ................................................................. 14
2.1.2. Tiềm năng và tầm quan trọng của biển đảo nước ta ..................................... 16
2.1.3. Vài nét về Hoàng Sa – Trường Sa ................................................................ 17
2.2. Thực trạng ........................................................................................................ 18
2.3. Nguyên nhân ..................................................................................................... 20
2.4. Các giải pháp nâng cao hiệu quả bảo vệ chủ quyền biển đảo nước ta hiện
nay ................................................................................................................................. 22
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 34
PHỤ LỤC HÌNH ẢNH ................................................................................................ 35
PHỤ LỤC ..................................................................................................................... 38
KẾ HOẠCH PHÂN CÔNG VIẾT TIỂU LUẬN ...................................................... 38
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................... 39
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Tư tưởng Hồ Chí Minh theo quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam là một hệ
tư tưởng chính thống mà dựa theo chủ nghĩa Mác – Lênin. Đó là một hệ tư tưởng
mang tính khoa học vì có những lí luận chặt chẽ, sâu sắc bên cạnh đó còn có sự vận
dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta,
kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu những tinh
hoa văn hóa và đạo đức của con người. Và những gì tư tưởng Hồ Chí minh để lại
mang giá trị tinh thần vô cùng lớn và là niềm tự hào dân tộc lớn hơn bao giờ hết. Bởi
mục tiêu của Người này là giải phóng dân tộc, đấu tranh giai cấp và giải phóng giai
cấp.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc vận dụng từ lý luận Mác – Lênin.Vấn
đề này luôn là vấn đề nhạy cảm, là miếng mồi ngon để các thế lực thù địch nhắm vào
để chia rẽ và chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Mặc khác do
có sự phát triển cũng như những biến đổi tất yếu nên cũng đặt ra những nội dung mới
về lí luận và thực tiễn trong việc nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc trong bối cảnh
tình hình mới. Đây là những đòi hỏi có tính tất yếu cần được nghiên cứu để cung cấp
những luận cứ khoa học một cách khách quan nhất. Và việc tiếp tục hoàn thành song
song với việc nâng cao nhận thức về vấn đề dân tộc để vận dụng nó vào việc bảo vệ
chủ quyền biển đảo nước ta hiện nay thật sự rất cần thiết.

Để làm rõ thêm những điều trên, nhóm chúng em chọn đề tài: “Quan điểm của
Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc. Vận dụng nó vào việc bảo vệ chủ quyền biển đảo
nước ta hiện nay”.

2. Mục tiêu nghiên cứu

Tìm hiểu và phân tích làm sáng tỏ những luận điểm của nội dung tư tưởng Hồ
Chí Minh về vấn đề dân tộc.
Vận dụng những quan điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc vào việc bảo vệ
chủ quyền biển đảo nước ta hiện nay.

1
3. Phương pháp nghiên cứu

Tra cứu tài liệu và Internet, tổng hợp và chọn lọc lại thông tin, phân tích, nghiên
cứu và từ đó đưa ra nhận xét, đánh giá.
Đứng vững trên lập trường của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Vận dụng quan điểm toàn diện và hệ thống, kết hợp khái quát mô tả, phân tích và
tổng hợp, các phương pháp liên ngành khoa học xã hội và nhân văn.

2
PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC

1.1. Khái niệm về độc lập dân tộc

Độc lập là quyền bất khả xâm phạm của một đất nước, một quốc gia, một dân tộc
bởi chính người dân sinh sống ở đó, có nghĩa có chủ quyền tối cao. Độc lập còn có thể
hiểu là “sự không phụ thuộc” từ cá nhân, tập thể, xã hội, quốc gia hay dân tộc nào vào
cá nhân, tập thể, xã hội, quốc gia hay dân tộc khác.
Độc lập có thể là tình trạng ban đầu của một quốc mới xuất hiện, nhưng nó
thường là một sự giải phóng từ sự thống trị. Độc lập cũng có thể nói theo nghĩa phủ
định: là tình trang không bị điều khiển, cai trị bởi một thế lực khác thông qua chủ
nghĩa thực dân, sự bành trướng hay chủ nghĩa đế quốc. Độc lập có thể giành được nhờ
việc chống lại thực dân hóa, chống lại sự chia cắt.
Độc lập sẽ giúp cho nhân dân sống trong ấm no hạnh phúc, không sợ hãi về
những gì chiến tranh, sự xung đột, bạo loạn gây ra.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội: Là một người dân mất nước, nhiều
lần được chứng kiến tội ác dã man của chủ nghĩa thực dân đối với đồng bào mình và
người dân các dân tộc bị áp bức trên thế giới, Hồ Chí Minh thấy rõ một dân tộc không
có quyền bình đẳng chủ yếu là do dân tộc đó mất độc lập. Tiếp thu chủ nghĩa Mác -
Lê-nin, vận dụng một cách sáng tạo vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, Hồ
Chí Minh đã phát hiện ra quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam trong thời đại
mới: “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”. Theo Bác, độc lập dân tộc là
mục tiêu trực tiếp, trước hết, là cơ sở tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã
hội là con đường củng cố vững chắc độc lập dân tộc, giải phóng dân tộc một cách hoàn
toàn, triệt để. Người chỉ rõ: “Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự, độc lập hoàn
toàn, chứ không phải là thứ độc lập giả hiệu, độc lập nửa vời, độc lập hình thức, độc
lập phải gắn liền với thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước; độc lập
dân tộc bao giờ cũng phải gắn với tự do, dân chủ, ấm no, hạnh phúc của Nhân dân lao
động”. Còn chủ nghĩa xã hội là con đường củng cố vững chắc độc lập dân tộc, giải
phóng dân tộc một cách hoàn toàn triệt để. Xây dựng chủ nghĩa xã hội chính là xây
dựng tiềm lực phát triển của dân tộc trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội. Với các thiết chế đó và nền tảng tinh thần riêng có, chủ nghĩa xã hội có khả

3
năng vận động liên tục, tự bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng của Nhân dân. Chủ
nghĩa xã hội càng phát triển, càng đạt đến độ chín muồi thì các tiềm lực, nhất là tiềm
lực vật chất kỹ thuật của dân tộc càng mạnh, đất nước càng có điều kiện củng cố độc
lập dân tộc bằng chủ nghĩa xã hội. Từ đó, Người khẳng định, trong chủ nghĩa xã hội,
Nhân dân lao động là người chủ duy nhất - đó là sự khác biệt về chất giữa chủ nghĩa
xã hội với các chế độ xã hội trước đó. Chế độ dân chủ là chế độ do Nhân dân làm chủ
và dân chủ là vấn đề thuộc bản chất nhà nước ta. Theo Người, dân chủ xã hội chủ
nghĩa phải được phát huy trên tất cả các lĩnh vực, phải được thể chế hóa bằng pháp
luật, được hoàn thiện, nâng cao trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao
dân trí. Đây là điều kiện cơ bản quyết định vận mệnh của dân tộc, tạo ra sức đề kháng
trên phạm vi xã hội để loại trừ và có khả năng chống trả bất kỳ một hành động nào đe
dọa độc lập, tự do của dân tộc. Thực hiện được một xã hội như vậy thì độc lập dân tộc
mới thực sự vững chắc, sự nghiệp giải phóng dân tộc mới thắng lợi một cách hoàn
toàn và triệt để. Do đó, Hồ Chí Minh yêu cầu để độc lập dân tộc gắn bó chặt chẽ với
chủ nghĩa xã hội thì cần phải có điều kiện tiên quyết đảm bảo, đó là tăng cường vai trò
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng Cộng sản. Không có sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam thì cách mạng Việt Nam không thể vận động theo cách mạng vô sản
được và chắc chắn sự nghiệp độc lập dân tộc sẽ đi theo vết xe đổ của các phong trào
cứu nước trước đó.

1.2. Cơ sở hình thành quan điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc

1.2.1. Cơ sở thực tiễn

a. Bối cảnh lịch sử xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX

Từ năm 1858, đế quốc Pháp bắt đầu tiến hành xâm lược Việt Nam. Triều đình
nhà Nguyễn lần lượt ký kết các hiệp ước đầu hàng, từng bước trở thành tay sai của
Pháp. Từ năm 1858 đến cuối thế kỷ XIX, các phong trào đấu tranh yêu nước chống
Pháp xâm lược liên tục nổ ra. Ở miền Nam, có các cuộc khởi nghĩa của Trương Định,
Nguyễn Trung Trực. Ở miền Trung, có các cuộc khởi nghĩa của Trần Tấn, Đặng Như
Mai, của Phan Đình Phùng. Ở miền Bắc, có các cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Thiện
Thuật, Phạm Bành và Đinh Công Tráng, Nguyễn Quang Bích, "Cần Vương" tức giúp
vua cứu nước, tuy đều rất anh dũng, nhưng cuối cùng đều thất bại. Điều đó chứng tỏ
nhân dân ta rất yêu nước, song giai cấp phong kiến và hệ tư tưởng của nó đã suy tàn,

4
bất lực trước nhiệm vụ bảo vệ độc lập dân tộc.
Sau khi đã hoàn thành căn bản việc bình định Việt Nam về mặt quân sự, thực dân
Pháp bắt tay vào khai thác thuộc địa Việt Nam một cách mạnh mẽ và từng bước biến
nước ta từ một nước phong kiến thành nước thuộc địa và phong kiến dẫn tới có sự
biến đổi về cơ cấu giai cấp, tầng lớp trong xã hội.
Cùng với những biến đổi trên, đến đầu thế kỷ XX, trước ảnh hưởng của các cuộc
vận động cải cách, của cách mạng dân chủ tư sản ở Trung Quốc và tấm gương Duy
Tân Nhật Bản, ở Việt Nam xuất hiện các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân
chủ tư sản với sự dẫn dắt của các sĩ phu yêu nước có tinh thần cải cách: Phong trào
Đông Du do Phan Bội Châu khởi xướng (1905-1909). Phong trào chống đi phu, chống
sưu thuế ở Trung Kỳ năm 1908.

b. Bối cảnh thế giới cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX

Vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản trên thế giới đã phát triển
từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Các nước đế quốc đẩy
mạnh chiến tranh xâm lược thuộc địa, biến các nước châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ
Latinh đã trở thành thuộc địa và phụ thuộc của các nước đế quốc. Mâu thuẫn giữa các
nước đế quốc với các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc ngày càng phát triển gay gắt đã
thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới phát triển. Cách mạng Tháng
Mười Nga thành công đã mở ra một thời đại mới trong lịch sử loài người – thời đại
quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, mở ra con
đường giải phóng cho các dân tộc bị áp bức trên thế giới.
Năm 1919, Quốc tế Cộng sản ra đời trở thành Bộ tham mưu, lãnh đạo phong trào
cách mạng thế giới. Dưới sự lãnh đạo của Lênin, Quốc tế Cộng sản đẩy mạnh việc
truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin và kinh nghiệm Cách mạng Tháng Mười Nga ra
khắp thế giới, thúc đẩy sự ra đời và hoạt động ngày càng mạnh mẽ của các Đảng cộng
sản ở nhiều nước.
Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi, sự ra đời của nhà nước Xô viết, Quốc tế
Cộng sản và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô cùng với sự phát triển
mạnh mẽ phong trào cộng sản, công nhân và phong trào giải phóng dân tộc trên thế
giới ảnh hưởng sâu sắc tới Hồ Chí Minh trên hành trình đi ra thế giới tìm mục tiêu và
con đường cứu nước.

5
1.2.2. Cơ sở lý luận

a. Giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam

Dân tộc Việt Nam có lịch sử mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước đã hình
thành những truyền thống tốt đẹp đó là tinh thần yêu nước, nhân nghĩa, đoàn kết, nhân
ái, khoan dung trong cộng đồng và hòa hiếu với các dân tộc lân bang, tinh thần cần cù,
dũng cảm, sáng tạo, lạc quan, vì nghĩa, thương người của dân tộc Việt Nam. Đó chính
là cơ sở đầu tiên, nguồn gốc sâu xa hình thành nên tư tưởng, phẩm chất của nhà văn
hóa kiệt xuất Hồ Chí Minh.
Chủ nghĩa yêu nước là giá trị xuyên suốt trong những truyền thống tốt đẹp của
dân tộc Việt Nam. Đó là động lực, sức mạnh giúp cho dân tộc Việt Nam tồn tại vượt
qua mọi khó khăn trong dựng nước và giữ nước mà phát triển. Chính chủ nghĩa yêu
nước là nền tảng tư tưởng, điểm xuất phát và động lực thúc đẩy Hồ Chí Minh ra đi tìm
đường cứu nước, và tìm thấy ở chủ nghĩa Mác – Lênin con đường cứu nước, cứu dân.
Hồ Chí Minh đã kế thừa, phát triển những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc
Việt Nam lên tầm cao mới. Tư tưởng của người là sự kết tinh, hội tụ và tỏa sáng tinh
hoa văn hóa Việt Nam. Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra Chủ
tịch Hồ Chí Minh – người anh hùng dân tộc vĩ đại và cũng chính người đã làm rạng rỡ
dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta.
Trong truyền thống dân tộc Việt Nam thường trực một niềm tự hào về lịch sử,
trân trọng nền văn hóa, ngôn ngữ, phong tục tập quán và những giá trị tốt đẹp khác
của dân tộc. Đó chính là một cơ sở hình thành nên tư tưởng, phẩm chất của nhà văn
hóa kiệt xuất Hồ Chí Minh với chủ trương văn hóa là mục tiêu, động lực của cách
mạng, cần giữ gìn cốt cách văn hóa dân tộc đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại, xây dựng nền văn hoá mới của Việt Nam. Chính Hồ Chí Minh là một biểu tượng
cao đẹp của sự tích hợp tinh hoa văn hóa phương Đông và phương Tây.

b. Tinh hoa văn hoá nhân loại

Văn hóa phương Đông

Tinh hoa văn hóa, tư tưởng phương Đông kết tinh trong ba học thuyết lớn Nho
giáo, Phật giáo, Lão giáo. Đó là những học thuyết có ảnh hưởng sâu rộng ở phương
Đông, và ở Việt Nam trước đây.

6
Về Nho giáo, Hồ Chí Minh chú ý kế thừa và đổi mới tư tưởng dùng nhân trị, đức
trị để quản lý xã hội. Kế thừa và phát triển quan niệm của Nho giáo về việc xây dựng
một xã hội lý tưởng trong đó công bằng, bác ái, nhân, nghĩa, trí, dũng, tín, liêm được
coi trọng để có thể đi đến một thế giới đại đồng với hòa bình, không có chiến tranh,
các dân tộc có quan hệ hữu nghị và hợp tác. Đặc biệt, Hồ Chí Minh chú ý kế thừa, đổi
mới, phát triển tinh thận trọng đạo đức của Nho giáo trong việc tu dưỡng, rèn luyện
đạo đức của con người, trong công tác xây dựng Đảng về đạo đức.
Về Phật giáo, Hồ Chí Minh chú ý kế thừa, phát triển tư tưởng từ bi, vị tha, yêu
thương con người, khuyến khích làm việc thiện, chống lại điều ác, đề cao quyền bình
đẳng của con người và chân lý, khuyên con người sống hòa đồng, gắn bó với đất nước
của Đạo Phật.
Về Lão giáo, Hồ Chí Minh chú ý kế thừa, phát triển tư tưởng của Lão Tử, khuyên
con người nên sống gắn bó với thiên nhiên, hòa đồng với thiên nhiên, hơn nữa phải
biết bảo vệ môi trường sống, tư tưởng thoát mọi ràng buộc của vòng danh lợi trong
Lão giáo.
Các học thuyết phương Đông khác, Hồ Chí Minh còn chú ý kế thừa, phát triển
nhiều ý tưởng của các trường phái khác nhau trong các nhà tư tưởng phương Đông cổ
đại khác như Mặc Tử, Hàn Phi Tử, Quản Tử, v,v… Người cũng chú ý tìm hiểu những
trào lưu tư tưởng tiến bộ thời cận hiện đại ở Ấn Độ, Trung Quốc như chủ nghĩa Tam
dân của Tôn Trung Sơn. Người đã phát triển sáng tạo các quan điểm về dân tộc, dân
quyền, dân sinh của Tôn Trung Sơn trong cách mạng dân chủ tư sản thành tư tưởng
đấu tranh cho Độc lập – Tự do – Hạnh phúc của con người và dân tộc Việt Nam theo
con đường cách mạng vô sản.
Như vậy, Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát triển những tinh hoa trong tư tưởng,
văn hóa phương Đông để giải quyết những vấn đề thực tiễn của cách mạng Việt Nam
thời hiện đại.

Văn hóa phương Tây

Ngay từ khi còn học ở Trường tiểu học Pháp bản xứ ở thành phố Vinh (1905),
Hồ Chí Minh đã quan tâm tới khẩu hiệu nổi tiếng của Đại Cách mạng Pháp năm 1789:
Tự do – Bình đẳng – Bác ái.
Đi sang phương Tây, Người tiếp cận những tác phẩm của các nhà tư tưởng thế kỷ

7
ánh sáng, quan tâm tìm hiểu những khẩu hiệu nổi tiếng đó trong các cuộc cách mạng
tư sản ở Anh, Pháp, Mỹ. Người đã kế thừa, phát triển những quan điểm nhân quyền,
dân quyền trong Bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của Mỹ, Bản Tuyên ngôn Nhân
quyền và Dân quyền năm 1791 của Pháp và đề xuất quan điểm về quyền mưu cầu độc
lập, tự do, hạnh phúc của các dân tộc trong thời đại ngày nay.
Như vậy, Hồ Chí Minh đã tiếp thu chọn lọc các tư tưởng, văn hóa tiến bộ của
phương Đông và phương Tây, dân tộc và thời đại, truyền thống và hiện đại, không
ngừng làm giàu trí tuệ của mình bằng tri thức, văn hóa phong phú của nhân loại.

c. Chủ nghĩa Mác – Lênin

Chủ nghĩa Mác – Lênin là cơ sở thế giới quan, phương pháp luận, là nguồn gốc
lý luận quyết định bước phát triển mới về chất trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Người khẳng định rằng: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ
nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Mác – Lênin” Hồ
Chí Minh đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, đã giải quyết yêu
cầu về đường lối cứu nước.
Trên cơ sở lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác – Lênin,
Hồ Chí Minh đã triệt để kế thừa, đổi mới, phát triển những giá trị truyền thống tốt đẹp
của dân tộc Việt Nam, tinh hoa văn hóa nhân loại kết hợp với thực tiễn cách mạng
trong nước và thế giới hình thành lên một hệ thống các quan điểm cơ bản, toàn diện về
cách mạng Việt Nam. Chủ nghĩa Mác – Lênin tiền đề lý luận quan trọng nhất, có vai
trò quyết định trong việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.

1.2.3. Nhân tố chủ quan Hồ Chí Minh

Về năng lực, trí tuệ, tư duy, Người có năng lực đặc biệt là tư chất thông minh hơn
người khả năng tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo với óc phê phán tinh tường sáng suốt.
Về phẩm chất đạo đức, ý chí, nghị lực, Người có tâm hồn của một nhà yêu nước
lớn, một chiến sỹ cộng sản nhiệt thành cách mạng, sẵn sàng chịu đựng hy sinh vì độc
lập của Tổ quốc, tự do cho đồng bào; có tác phong bình dị, chân thành, khiêm tốn, hoà
mình với quần chúng và có sức cảm hóa lớn đối với mọi người.
Hoạt động tổng kết thực tiễn phát triển lý luận, Hồ Chí Minh là người có vốn
sống và thực tiễn cách mạng phong phú, phi thường. Những phẩm chất và năng lực đó
được rèn luyện và phát huy trong suốt cuộc đời cách mạng của Người. Nhờ đó, giữa

8
bao thực tiễn sinh động, Người có thể phân tích một cách đúng đắn, xử lý và chuyển
hóa thành tư tưởng của mình, giải đáp yêu cầu thực tiễn của dân tộc và thời đại.

1.3. Nội dung quan điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc

1.3.1. Độc lập dân tộc là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm

Độc lập, tự do là những phạm trù nền tảng của việc hình thành một quốc gia mà
ở đó con người tìm kiếm được đời sống thông thường của mình, đời sống phát triển
của mình và hạnh phúc của mình. Độc lập là sự toàn vẹn của lãnh thổ và toàn vẹn về
các giá trị của dân tộc. Tự do tức là người ta có thể phát triển hết năng lực vốn có của
mình. Tự do là quyền phát triển, tự do không phải chỉ đơn thuần là quyền chính trị. Tự
do mà gắn liền với độc lập tức là tự do gắn liền với sự cư trú của người dân trên chính
lãnh thổ của họ.
Độc lập tự do là vấn đề thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc.
Con người khi sinh ra có quyền sống, quyền hưởng tự do, hạnh phúc. Họ lao động và
đấu tranh cũng nhằm hướng đến những quyền đó. Trải qua quá trình đấu tranh sinh
tồn, con người gắn bó với nhau trong một vùng địa lí nhất định, hình thành nên những
vùng lãnh thổ riêng với những phong cách lối sống riêng. Sự xâm lược của nước ngoài
với những chính sách thống trị, đàn áp khiến họ trở thành nô lệ, mất độc lập, tự do và
họ phải phụ thuộc vào nước ngoài. Lịch sử loài người đã chứng kiến biết bao cuộc đấu
tranh chống lại sự xâm lược của của các nước đế quốc của các dân tộc trên thế giới để
giành lại độc lập, tự do – quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm.
Đối với dân tộc ta thì khát vọng được độc lập, tự do cũng là một khát vọng mãnh
liệt nhất cháy trong mỗi con người Việt Nam ta lúc bấy giờ. Dân tộc ta từ khi dựng
nước đã chứng kiến biết bao cuộc xâm lược. Khi có kẻ thù đến thì nhân dân ta không
phân biệt là già trẻ hay gái trai đồng sức đồng lòng kiên quyết chống lại và đứng lên
giành cho bằng được độc lập dân tộc. Bà Trưng, Bà Triệu, Ngô Quyền, Lý Thường
Kiệt, Lê Lợi, Quang Trung…những cái tên gắn với những cuộc kháng chiến chống
nhà Hán, Nam Hán, nhà Tống, nhà Minh, nhà Thanh… đã trở thành bản anh hùng ca
trong trang sử vẻ vang của dân tộc ta. Rồi sau đó là cuộc kháng chiến chống Pháp,
chống Mĩ ác liệt, dù kẻ thù mạnh hơn ta nhiều lần nhưng toàn dân ta đã chiến đấu anh
dũng, không ngại hi sinh gian khổ để giành lại độc lập, tự do cho dân tộc. Hồ Chí
Minh cũng đã nói: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn đến tột bậc là làm sao cho

9
nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có
cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Như vậy có thể nói Hồ Chí Minh khẳng
định: “Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc
bị áp bức trên thế giới và là khát vọng lớn nhất của dân tộc Việt Nam” đó là tư tưởng
hết sức đúng đắn, không chỉ với đương thời mà cho đến nay tư tưởng đó vẫn là chân lí
của thời đại.

1.3.2. Độc lập dân tộc phải gắn liền với cơm no áo ấm và hạnh phúc của
nhân dân

Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải gắn với tự do, hạnh phúc của nhân dân.
Người đánh giá cao học thuyết Tam dân của Tôn Trung Sơn, dân tộc độc lập, dân
quyền tự do, dân sinh hạnh phúc.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước nhà được độc lập, Hồ Chí
Minh tiếp tục khẳng định độc lập phải gắn với tự do. Người nói: “Nước độc lập mà
dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì”. Dân chúng
chỉ cảm nhận được những giá trị thực sự của độc lập, tự do khi họ được ăn no, mặc
ấm, được học hành để phát triển, có hiểu biết để thực hành dân chủ, quyền và nghĩa vụ
của người công dân. Ngoài ra, theo Hồ Chí Minh, độc lập cũng phải gắn với cơm no,
áo ấm và hạnh phúc của nhân dân. Ngay sau khi cách mạng Tháng Tám năm 1945
trong hoàn cảnh nhân dân đói, rét, mù chữ,... Hồ Chí Minh yêu cầu Chính phủ phải:
“Làm cho dân có ăn.
Làm cho dân có mặc.
Làm cho dân có chỗ ở.
Làm cho dân có học hành”.
Tóm lại, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh luôn
coi độc lập gắn liền với tự do, cơm no, áo ấm cho nhân dân, như Người đã từng bộc
bạch đầy tâm huyết: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao nước
ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo
mặc, ai cũng được học hành”. Đó là một sự ham muốn đầy tính nhân văn và thấm
đượm tình thương yêu dân tộc và đó cũng là mục tiêu tối thượng trong suốt cuộc đời
hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh.
Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để

10
Trong quá trình đi xâm lược các nước, bọn thực dân đế quốc hay dùng chiêu “tự
do” giả hiệu cho nhân dân các nước thuộc địa nhưng thực chất là nhằm che đậy bản
chất “ăn cướp” và “giết người” của chúng.
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải là độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để
trên tất cả các lĩnh vực.
+ Người nhấn mạnh: độc lập mà người dân không có quyền tự quyết về ngoại
giao, không có quân đội riêng, không có nền tài chính riêng thì độc lập chẳng có ý
nghĩa gì. Trên tinh thần đó và trong hoàn cảnh đất nước ta sau Cách mạng Tháng Tám
còn gặp nhiều khó khăn, nhất là nạn thù trong giặc ngoài bao vây để bảo vệ nền độc
lập thực sự mới giành được, người đã giặc ngoài bao vây, để bảo vệ nền độc lập thực
sự mới giành được.
+ Người đã thay mặt Chính phủ ký với đại diện Chính phủ Pháp Hiệp định sơ bộ
ngày 6 – 3 – 1946, theo đó: “Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa là một quốc gia tự do có Chính phủ của mình, nghị viện của mình, quân đội
của mình, tài chính của mình. Đây là thắng lợi bước đầu của một sách lược ngoại giao
hết sức khôn khéo, mềm dẻo, linh hoạt nhưng có nguyên tắc, một phương pháp biết
thắng từng bước của Hồ Chí Minh và là một minh chứng cho tính đúng đắn của tư
tưởng Hồ Chí Minh.

1.3.3. Độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ

Trong lịch sử đấu tranh giành độc lập dân tộc, dân tộc ta luôn đứng trước âm
mưu chia cắt đất nước của kẻ thù
+ Thực dân Pháp khi xâm lược nước ta đã chia nước ta thành ba kỳ, mỗi kỳ có
chế độ cai trị riêng. Sau cách mạng Tháng Tám, miền Bắc nước ta thì bị quân Tưởng
Giới Thạch chiếm đóng, miền Nam bị thực dân Pháp xâm lược, một lần thực dân Pháp
lại bày ra cái gọi là “Nam kỳ tự trị” nhằm chia cắt nước ta một lần nữa.
+ Trong hoàn cảnh đó, trong bức Thư gửi đồng bào Nam Bộ (1946), Hồ Chí
Minh khẳng định: “Đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có
thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi”
+ Sau khi Hiệp định Giơnevơ năm 1954 được ký kết, đất nước Việt Nam tạm
thời bị chia cắt làm hai miền, Hồ Chí Minh tiếp tục kiên trì đấu tranh chống lại âm
mưu chia cắt đất nước để thống nhất Tổ quốc với một quyết tâm, ý chí sắt đá không gì

11
lay chuyển: “Kiên quyết bảo vệ nền độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ của nước Việt Nam. Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, không ai
được xâm phạm đến quyền thiêng liêng ấy của nhân dân ta”.
+ Đến cuối đời, trong Di chúc, người vẫn đặt niềm tin tuyệt đối vào sự thắng lợi
của cách mạng, sự thống nhất nước nhà: “Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta
nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc
ta nhất định sẽ thống nhất đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà.Thực hiện
tư tưởng của Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã tiến hành giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước năm 1975 và độc lập dân tộc từ đó gắn liền với toàn vẹn lãnh thổ
nhất đất nước năm 1975 và độc lập dân tộc từ đó gắn liền với toàn vẹn lãnh thổ”.

1.4. Ý nghĩa luận điểm

Vấn đề dân tộc, công tác dân tộc trong thời đại Hồ Chí Minh có thể nói trước hết
là vấn đề dân tộc thuộc địa với nội dung cơ bản là giải phóng dân tộc. Ngay từ năm
1923, Nguyễn Ái Quốc đã rút ra kết luận quan trọng mang tính định hướng cho tư
tưởng chỉ đạo của Người khi trực tiếp về nước lãnh đạo cách mạng Việt Nam: “Chỉ có
giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc, cả hai cuộc giải phóng này
chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, về công tác dân tộc đã khẳng
định: Việt Nam là một quốc gia thống nhất gồm nhiều dân tộc. Tư tưởng về một quốc
gia đa dân tộc với truyền thống đoàn kết trong một cộng đồng thống nhất tạo nên một
sức mạnh vô song để vượt qua các cơn phong ba, những lúc nguy nan của đất nước.
Tư tưởng đó của Người thể hiện nhận thức phù hợp với thực tiễn khách quan của lịch
sử dân tộc ta đã trải qua thử thách qua hàng ngàn năm. Đó là “tài sản vô giá” để phát
huy trong thời đại của cách mạng vô sản, Người viết: “Đồng bào các dân tộc không
phân biệt lớn nhỏ, phải thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, phải đoàn kết chặt chẽ như anh
em một nhà, để cùng nhau xây dựng Tổ quốc chung, xây dựng chủ nghĩa xã hội làm
cho tất cả các dân tộc được hạnh phúc, ấm no”. Người coi trọng tính đa dạng của bản
sắc văn hóa dân tộc. Các dân tộc nước ta có bản sắc văn hóa riêng, có nhiều truyền
thống tốt đẹp tạo lập nên tính đa dạng, phong phú trong tính thống nhất của nền văn
hiến Việt Nam.

12
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về công tác dân tộc được thể hiện qua chủ trương,
nguyên tắc hoạch định chính sách dân tộc là các dân tộc đoàn kết, bình đẳng, tương trợ
lẫn nhau trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân tộc trong thời kỳ hoà bình, xây dựng đất
nước với mục tiêu là làm cho đồng bào các dân tộc được no ấm, được học hành và
phát triển toàn diện về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.
Người đánh giá đúng vị trí, tầm quan trọng, tiềm năng to lớn của miền núi và các
dân tộc nước ta trong sự nghiệp cách mạng: “Miền núi nước ta chiếm một vị trí quan
trọng đối với quốc phòng, đối với kinh tế”.. Người đánh giá cao bản lĩnh, tính thật thà,
chất phác, trọng lẽ phải của đồng bào các dân tộc: “Đồng bào các dân tộc rất thật thà
và rất tốt. Nếu nói đúng thì đồng bào nghe, đồng bào làm và làm được”.
Xác định vai trò to lớn của Nhà nước, của các cơ quan đoàn thể và cán bộ đối với
sự phát triển của vùng dân tộc và miền núi: Người luôn nhắc nhở và giao nhiệm vụ
cho các cơ quan Trung ương phải có trách nhiệm đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
của vùng miền núi, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số. Người nói: “Các cơ quan
Trung ương phải có kế hoạch đẩy mạnh phong trào miền núi lên về kinh tế cũng như
về văn hóa, tất cả các mặt”.

13
CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ
DÂN TỘC VÀO VIỆC BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO NƯỚC TA HIỆN
NAY

2.1. Tổng quan về biển đảo nước ta hiện nay

2.1.1. Lịch sử hình thành và vị trí địa lý

Từ xa xưa cho đến thế kỉ XX, các nước ven biển chỉ có vùng biển hẹp thuộc chủ
quyền rộng 3 hải lý. Phía ngoài ranh giới lãnh hải 3 hải lý đều là biển công, ở đó mọi
cá nhân, tổ chức, tàu thuyền của mỗi nước đều được hưởng quyền tự do biển cả. Hầu
như không ai chia biển với ai cả, đường biên giới trong lãnh hải giữa các nước thường
được hình thành và tôn trọng theo tập quán.
Từ năm 1958 đến năm 1984, các nước ven biển có lãnh hải và vùng tiếp giáp
lãnh hải rộng không quá 12 hải lý, có vùng thềm lục địa trải dài từ dưới biển ra không
quá độ sâu 220m (theo các Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1958). Các
nước láng giềng hoặc kế cận hay đối diện nhau, căn cứ vào luật tự mình quy định
phạm vi hoặc ranh giới vùng biển quốc gia dẫn đến hậu quả có sự chồng lấn và tranh
chấp. Luật biển quốc tế lúc đó quy định có vùng chồng lấn phải cùng nhau giải quyết
vạch đường biên giới biển (bao gồm biên giới biển trong lãnh hải, ranh giới biển trong
vùng tiếp giáp và thềm lục địa) trong vùng chồng lấn. Nguyên tắc hoạch định biên giới
biển lúc đó là qua thương lượng trên cơ sở và phương áp dụng nguyên tắc đường trung
tuyến.
Việt Nam là quốc gia ven biển nằm bên bờ Tây của Biển Đông, có địa chính trị
và địa kinh tế rất quan trọng không phải bất kỳ quốc gia nào cũng có. Với bờ biển dài
trên 3.260 km trải dài từ Bắc xuống Nam, đứng thứ 27 trong số 157 quốc gia ven biển,
các quốc đảo và các lãnh thổ trên thế giới. Chỉ số chiều dài bờ biển trên diện tích đất
liền của nước ta là xấp xỉ 0,01 (nghĩa là cứ 100 km2 đất liền có 1km bờ biển). Trong
63 tỉnh, thành phố của cả nước thì 28 tỉnh, thành phố có biển và gần một nửa dân số
sinh sống tại các tỉnh, thành ven biển. Trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ
nước của dân tộc, biển đảo luôn gắn với quá trình xây dựng và phát triển của đất nước
và con người Việt Nam.
Việt Nam phê chuẩn công ước 1982 (Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển)
vào năm 1994. Theo công ước này, một nước ven biển có năm vùng biển: nội thủy,

14
lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, vùng thềm lục địa. Như vậy
theo công ước 1982, phạm vi vùng biển của nước ta được mở rộng ra một cách đáng
kể từ vài chục nghìn km đến gần một triệu km với năm vùng biển có phạm vi và chế
độ pháp lý khác nhau. Nước Việt Nam không còn thuần túy có hình dạng hình chữ S
nữa mà mở rộng ra đến biển, không chỉ có biên giới biển chung với Trung Quốc,
Campuchia mà cả với hầu hết các nước trong khu vực Đông Nam Á như Philippin,
Malayxia, Indonexia, Thái lan.
Nước ta giáp với biển Đông ở hai phía Đông và Nam. Vùng biển Việt Nam là
một phần biển Đông. Bờ biển dài 3.260km, từ Quảng Ninh đến Kiên Giang. Như vậy
cứ l00 km2 thì có l km bờ biển (trung bình của thế giới là 600km2 đất liền/1km bờ
biển). Biển có vùng nội thủy, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa với diện
tích trên 1 triệu km (gấp 3 diện tích đất liền: l triệu km2/330.000km2).

+ Nội thủy: là vùng biển nằm ở phía trong đường cơ sở để tính chiều rộng
lãnh hải. Vùng nước thuộc nội thủy có chế độ pháp lý như lãnh thổ trên đất liền, đặt
dưới chủ quyền toàn vẹn đầy đủ và tuyệt đối của quốc gia Việt Nam.

+ Đường cơ sở: là đường ranh giới phía trong của lãnh hải và phía ngoài
của nội thủy, do quốc gia ven biển hay quốc gia quần đảo định ra phù hợp với Công
ước của Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982 để làm cơ sở xác định phạm vi của các
vùng biển thuộc chủ quyền và quyền tài phán quốc gia. Là đường dùng làm căn cứ để
tính chiều rộng lãnh hải và các vùng biển khác.

+ Lãnh hải: lãnh hải của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam rộng
12 hải lý (1 hải lý tương đương 1.852m) ở phía ngoài đường cơ sở nối liền các điểm
nhô ra nhất của bờ biển và các điểm ngoài cùng của các đảo ven bờ của nước ta tính từ
ngấn nước thủy triều thấp nhất trở ra, có chế độ pháp lý tương tự như lãnh thổ trên đất
liền. Ranh giới ngoài của lãnh hải là biên giới quốc gia trên biển. Trong lãnh hải tàu
thuyền của các quốc gia khác được hưởng quyền qua lại không gây hại và thường đi
theo tuyến phân luồng giao thông biển của nước ven biển.

+ Vùng tiếp giáp lãnh hải: là vùng biển rộng 12 hải lý tiếp giáp và tính từ
ranh giới ngoài của lãnh hải. Trong vùng biển tiếp giáp, nước ven biển có quyền quy
định biện pháp ngăn chặn và trừng trị các hành vi vi phạm đối với luật lệ về nhập cư,

15
thuế khóa, kinh tế xảy ra trong lãnh thổ hay lãnh hải của mình.

+ Vùng đặc quyền kinh tế: là vùng rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở (trừ
lãnh hải thì chiều rộng là 188 hải lý). Trong vùng biển này, nước ven biển có quyền
chủ quyền đối với mọi loại tài nguyên thiên nhiên và các hoạt động kinh tế nhằm khai
thác sử dụng các tài nguyên thiên nhiên đó, có quyền tài phán với các hoạt động
nghiên cứu khoa học, bảo vệ môi trường biển xây dựng và lắp đặt các công trình và
thiết bị nhân tạo. Các nước khác có quyền tự do bay, tự do hàng hải, đặt dây cáp và
ống dẫn ngầm.

+ Thềm lục địa: là vùng đáy và vùng đất đáy biển nằm bên ngoài lãnh hải
của nước ven biển trên phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền ra bên bờ ngoài của
lục địa ở khoảng cách gần hơn. Tuy nhiên bề rộng tối đa của thềm lục địa tính theo của
rìa lục địa dù thế nào cũng không được vượt quá 350 hải lý tính từ đường cơ sở lãnh
hải hoặc không vươt quá 100 hải lý bên ngoài đường đẳng sâu 2500m. Đối với thềm
lục địa, nước ven biển có quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia tương tự như
trong vùng đặc quyền kinh tế. Tuy nhiên, quyền chủ quyền của nước ven biển trên
thềm lục địa là đương nhiên, không phụ thuộc vào việc tuyên bố hay không.
Trong đó có 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và 2.577 đảo lớn, nhỏ, gần và xa
bờ, hợp thành phòng tuyến bảo vệ, kiểm soát và làm chủ vùng biển. Có vị trí chiến
lược quan trọng: nối liền Thái Bình Dương với Ấn Độ Dương, Châu Á với Châu Âu,
Châu Úc với Trung Đông. Giao lưu quốc tế thuận lợi, phát triển ngành biển. Có khí
hậu biển là vùng nhiệt đới tạo điều kiện cho sinh vật biển phát triển, tồn tại tốt. Có tài
nguyên sinh vật và khoáng sản phong phú, đa dạng, quý hiếm.
Vùng biển và hải đảo nước ta có vị trí chiến lược hết sức to lớn, có ảnh hưởng
trực tiếp đến sự nghiệp bảo vệ nền độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội, có
liên quan trực tiếp đến sự phồn vinh của đất nước, đến văn minh và hạnh phúc đất
nước của nhân dân.

2.1.2. Tiềm năng và tầm quan trọng của biển đảo nước ta

Hải sản: Ở vùng biển nước ta đến nay có khoảng 2.040 loài cá gồm nhiều bộ, họ
khác nhau, trong đó có giá trị kinh tế cao khoảng 110 loài. Trữ lượng cá ở vùng biển
nước ta khoảng 3 triệu tấn/năm.

16
Rong biển: Trên biển nước ta có trên 600 loài rong biển là nguồn thức ăn có dinh
dưỡng cao và là nguồn dược liệu phong phú.
Khoáng sản: Dưới đáy biển nước ta có nhiều khoáng sản quý như: thiếc, ti tan,
đi-ri-con, thạch anh, nhôm, sắt, mangan, đồng, kiềm và các loại đất hiếm. Muối ăn
chứa trong nước biển bình quân 3.500gr/m2.
Dầu mỏ: Vùng biển Việt Nam rộng hơn l triệu km2 trong đó có 500.000km2 nằm
trong vùng triển vọng có dầu khí. Trữ lượng dầu khí ngoài khơi miền Nam
Việt Nam có thể chiếm 25% trữ lượng dầu dưới đáy biển Đông. Có thể khai thác từ
30-40 ngàn thùng/ngày (mỗi thùng 159 lít) khoảng 20 triệu tấn/năm. Trữ lượng dầu
khí dự báo của toàn thềm lục địa Việt Nam khoảng 10 tỷ tấn dầu. Ngoài dầu
Việt Nam còn có khí đốt với trữ lượng khoảng ba nghìn tỷ m3/năm.
Giao thông: Bờ biển nước ta chạy dọc từ Bắc tới Nam theo chiều dài đất nước,
với 3.260km bờ biển có nhiều cảng, vịnh… rất thuận lợi cho giao thông, đánh bắt, hải
sản. Nằm liên trục giao thông đường biển quốc tế từ Thái Bình Dương sang Đại Tây
Dương, trong tương lai sẽ là tiềm năng cho ngành kinh tế dịch vụ trên biển (đóng tàu,
sửa chữa tàu, tìm kiếm cứu trợ, thông tin dẫn dắt...).
Du lịch: Bờ biển dài có nhiều bãi cát, vụng, vịnh, hang động tự nhiên đẹp, là
tiềm năng du lịch lớn của nước ta.

2.1.3. Vài nét về Hoàng Sa – Trường Sa

Quần đảo Hoàng Sa


Quần đảo Hoàng Sa là một quần đảo san hô nằm giữa Biển Đông. Từ lâu Hoàng
Sa cũng như Trường Sa đã thuộc lãnh thổ Việt Nam với tên Bãi Cát Vàng, Hoàng Sa.
Quần đảo Hoàng Sa nằm trong kinh độ 1110 đến 1130 Đông, vĩ độ 15045’; đến
17015’, ngang với vĩ độ Huế và Đà Nẵng. Hoàng Sa nằm ở phía Bắc Biển Đông, trên
đường biển quốc tế từ Châu Âu đến các nước phía Đông và Đông Bắc Á và giữa các
nước Châu Á với nhau.
Quần đảo Hoàng Sa gồm trên 30 đảo trong vùng biển rộng khoảng 15.000
km2 chia ra làm 2 nhóm: Nhóm phía Đông có tên là An Vĩnh, gồm khoảng 12 đảo nhỏ
và một số đảo san hô, Trong đó có 2 đảo lớn là Phú Lâm và Linh Côn, mỗi đảo rộng
1,5km2 ; nhóm phía Tây gồm nhiều đảo xếp vòng cung nên gọi là nhóm lưỡi liềm,
trong đó có các đảo Hoàng Sa (diện tích 1km2) Quang Ảnh, Hữu Nhật, Quang Hoà,

17
Duy Mộng, Chim Yến, Tri Tôn…Riêng đảo Hoàng Sa có trạm khí tượng của Việt
Nam hoạt động từ năm 1938 đến 1947, được tổ chức khí tượng quốc tế đặt số hiệu 48-
860 (số 48 chỉ khu vực Việt Nam)
Dưới triều Nguyễn, quần đảo Hoàng Sa thuộc phủ Quảng Ngãi, tỉnh
Quảng Nam. Năm 1938 thuộc tỉnh Thừa Thiên. Năm 1961 gọi là xã Định Hải, quận
Hoà Vang tỉnh Quảng Nam. Năm 1982 chính phủ ta quyết định thành lập huyện
Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng. Nay trở thành huyện Hoàng Sa thuộc
thành phố Đà Nẵng.
Năm 1956 Trung Quốc chiếm phần phía Đông của quần đảo Hoàng Sa. Tháng
1/1974, trong lúc quân và dân ta đang tập trung sức tiến hành cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước, Trung Quốc đã đem quân ra đánh chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa
của Việt Nam.
Quần đảo Trường Sa
Quần đảo Trường Sa cách quần đảo Hoàng Sa khoảng 200 hải lý về phía Nam.
Quần đảo Trường Sa bao gồm hơn 100 đảo nhỏ, bãi ngầm, bãi san hô nằm trải rộng
trong một vùng biển khoảng 180.000 km2 với chiều Đông Tây là 325 hải lý, chiều Bắc
Nam là 274 hải lý, từ vĩ độ 6030’ Bắc đến 120 Bắc và từ kinh độ 111030’ Đông đến
117020’ Đông, cách Cam Ranh 248 hải lý, cách đảo Hải Nam (Trung Quốc) 595 hải lý.
Quần đảo Trường Sa được chia làm 10 cụm: Song Tử, Thị Tứ, Loại Ta, Nam
Yết, Sinh Tồn, Trường Sa, Thám Hiểm, Bãi Vũng Mây, Bãi Hải Sâm, Bãi Lim, Song
Tử Tây là đảo cao nhất (cao 4 đến 6 mét lúc triều xuống); Ba Đình là đảo rộng nhất
(0,6km2) trong quần đảo.
Điều kiện tự nhiên và khí hậu vùng này rất khắc nghiệt: nắng gió, giông bão
thường xuyên, thiếu nước ngọt, nhiều đảo không có cây. Quần đảo Trường Sa không
chỉ là vị trí quân sự chiến lược án ngữ phía Đông Nam nước ta, bảo vệ vùng biển và
hải đảo ven bờ, có nhiều loại động thực vật và có thể có nhiều dầu.
Việt Nam đang có mặt và bảo vệ 21 đảo và bãi đá ngầm trên quần đảo Trường
Sa.

2.2. Thực trạng

Năm 2014, các tàu kiểm ngư của Việt Nam phát hiện giàn khoan di động HD 981
của Trung Quốc cùng 3 tàu dịch vụ di chuyển từ Tây Bắc đảo Tri Tôn thuộc quần đảo

18
Hoàng Sa của Việt Nam xuống phía nam nhằm hạ đặt khoan thăm dò. Đây là sự xâm
phạm trắng trợn của Trung Quốc đối với quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt
Nam tại vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa Việt Nam, vi phạm nghiêm trọng luật
pháp quốc tế, đe dọa an ninh và an toàn hàng hải.
Lực lượng gồm 12 tàu kiểm ngư của Việt Nam kiên quyết ngăn cản hành vi vi
phạm chủ quyền của Trung Quốc nhưng phía Trung Quốc vẫn ngang nhiên vi phạm,
đồng thời tăng cường lực lượng tàu các loại để bảo vệ cho giàn khoan, nhằm đạt được
mục đích hạ đặt được nó trên vùng biển của Việt Nam để khoan thăm dò.
Giàn khoan HD 981 được thả trôi tại phía nam đảo Tri Tôn, sâu vào trong thềm
lục địa của Việt Nam 80 hải lý, cách đảo Lý Sơn 119 hải lý, cách bờ biển Việt Nam
130 hải lý. Để đối đầu với các tàu kiểm ngư và cảnh sát biển của Việt Nam, Trung
Quốc huy động 27 tàu các loại bảo vệ giàn khoan, trong số này có cả tàu quân sự.
Suốt 5 năm qua, Trung Quốc liên tục có nhiều hành vi gây quan ngại ở Biển
Đông. Giữa năm 2019, Trung Quốc điều động tàu khảo sát Hải Dương 08 cùng lực
lượng tàu yểm trợ xâm phạm vùng biển xung quanh quần đảo Trường Sa thuộc chủ
quyền Việt Nam.
Lực lượng hải cảnh Trung Quốc cũng thường xuyên quấy phá tàu cá của ngư dân
Việt Nam. Trong đó, một vụ việc nghiêm trọng đã diễn ra vào ngày 20/4/2020 khi tàu
hải cảnh Trung Quốc đã đâm chìm 1 tàu cá của ngư dân Quãng Ngãi đang hoạt động
hợp pháp ở vùng biển xung quanh quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền Việt Nam.
Được mệnh danh là “hung thần” trên Biển Đông, lực lượng hải cảnh Trung Quốc đầu
năm nay được Quốc hội nước này thông qua luật mới cho phép sử dụng vũ khí nhằm
vào tàu nước ngoài ở các vùng biển mà Bắc Kinh tuyên bố chủ quyền. Điều này gây
nên quan ngại nghiêm trọng vì Trung Quốc có thể lợi dụng để tấn công tàu nước
ngoài.
Cũng trong 5 năm qua, Bắc Kinh đã quân sự hoá, triển khai nhiều hệ thống dò
thám, tên lửa đối không như (HQ-9) lẫn đối hải (YJ-12, YJ-62,…) đến các thực thể ở 2
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam nhưng đang bị Bắc Kinh
chiếm đóng phi pháp. Trong số này, sau đảo Phú Lâm ở Hoàng Sa, các bãi đá Xu Bi,
Vành Khăn và Chữ Thập ở quần đảo Trường Sa cũng đã được Trung Quốc hoàn thiện
các hạ tầng đường băng, nhà chứa máy bay. Kèm theo đó, Trung Quốc cũng thường
xuyên điều các loại máy bay tiêm kích như J-10, J-11, oanh tạc cơ H-6 đến các đảo và

19
bãi đá.
Bắc Kinh cũng liên tục tổ chức nhiều cuộc tập trận ở Biển Đông trong những
năm gần đây.
Tình hiển Biển Đông diễn biển xấu hơn đối với các bên tranh chấp ở Đông Nam
Á. Từ sau năm 2016, Trung Quốc hoàn thành thêm nhiều cơ sở quân sự ở một số thực
thể tại Biển Đông để tăng cường lực lượng và triển khai hàng trăm tàu dân quân ở
quần đảo Trường Sa. Những điều đó đang khiến cuộc sống của ngư dân, các nhà khai
thác dầu khí và thường dân trên khắp khu vực này ngày càng khó khăn.
Hơn một năm qua, đại dịch Covid-19 đã khiến nhiều nước ở Đông Nam Á như
Việt Nam ta bị phân tâm. Trong bối cảnh như vậy, Trung Quốc lợi dụng tình hình
nhằm củng cố vị thế kiểm soát hơn về mặt thực địa ở Biển Đông. Trung Quốc tăng
cường lực lượng dân quân biển quấy rối Philipines, Việt Nam ta. Điển hình là vụ nhiều
tàu dân binh biển của Trung Quốc hoạt động suốt nhiều tháng tại bãi Ba Đầu. Bắc
Kinh đang bao vây, cưỡng ép các nước khác ra khỏi khu vực quần đảo Trường Sa.
Con đường phía trước của chúng ta là cần phải phối hợp với các thành viên
ASEAN để có thể phối hợp hoạt động nhiều hơn, nêu lên vấn đề tại Liên Hợp Quốc và
các diễn đàn để khiến Trung Quốc phải trả giá về hành vi xấu.

2.3. Nguyên nhân

Biển Đông đã tạo điều kiện để Việt Nam phát triển những ngành kinh tế mũi
nhọn như thủy sản, dầu khí, giao thông hàng hải, đóng tàu, du lịch ... Điều kiện tự
nhiên của bờ biển Việt Nam đã tạo ra tiềm năng vô cùng to lớn cho ngành giao thông
hàng hải Việt Nam. Dọc bờ biển Việt Nam có mười điểm có thể xây dựng cảng biển
nước sâu và nhiều điểm cảng trung bình với tổng sản lượng hàng hóa vận chuyển có
thể đạt 50 triệu tấn/năm.
Biển Đông cung cấp nguồn lợi hải sản rất quan trọng, theo các điều tra về nguồn
lợi hải sản, tính đa dạng sinh học trong vùng biển nước ta đã phát hiện được khoảng
11.000 loài sinh vật cư trú; trong đó, có 6.000 loài động vật đáy, 2.400 loài cá (trong
đó có 130 loài cá kinh tế), 653 loài rong biển, 657 loài động vật phù du, 537 loài thực
vật phù du, 225 loài tôm biển ... Trữ lượng cá biển ước tính khoảng 3,1 - 4,1 triệu tấn,
khả năng khai thác là 1,4 - 1,6 triệu tấn. Nguồn lợi hải sản phong phú đã góp phần đưa
ngành thủy sản thành một trong những ngành kinh tế chủ đạo với giá trị xuất khẩu

20
đứng thứ ba cả nước.
Dầu khí là tài nguyên lớn nhất ở thềm lục địa nước ta có tầm chiến lược quan
trọng. Đến nay, chúng ta đã xác định được nhiều bể trầm tích như các bể Cửu Long,
Nam Côn Sơn ... được đánh giá có triển vọng dầu khí lớn nhất và khai thác thuận lợi.
Tổng trữ lượng dự báo địa chất của toàn thềm lục địa Việt Nam xấp xỉ 10 tỷ tấn dầu
quy đổi, trữ lượng khai thác 4 - 5 tỷ tấn. Trữ lượng khí dự báo khoảng 1.000 tỷ m3.
Biển Đông có tầm quan trọng và vị thế địa chiến lược trọng yếu không chỉ đối
với các quốc gia và vùng lãnh thổ bao quanh, mà còn đối với khu vực Đông Á và thế
giới. Trước hết vì Biển Đông nằm trên tuyến hàng hải huyết mạch nối liền Thái Bình
Dương - Ấn Độ Dương, Châu Âu – Châu Á, Trung Đông – Châu Á. Là một phần của
tuyến đường biển nối trực tiếp Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, Biển Đông đóng vai
trò vô cùng quan trọng trong thương mại hàng hải toàn cầu.
Điểm trọng yếu thứ hai của Biển Đông là các đảo, quần đảo ngoài khơi, như
Hoàng Sa và Trường Sa đều nằm ở vị trí trung tâm – một trong những nơi có nhiều
tuyến đường hàng hải đi qua nhất trên thế giới. Các quần đảo này đóng vai trò cực kỳ
quan trọng với tư cách là các vị trí phòng thủ chiến lược trọng yếu đối với nhiều quốc
gia trong khu vực Biển Đông. Đồng thời là các cơ sở hậu cần phục vụ các hoạt động
biển xa, như kiểm soát các tuyến hàng hải đi qua lại trên Biển Đông, dùng cho mục
đích quân sự như đặt trạm ra-đa, các trạm thông tin, xây dựng các trạm dừng và tiếp
nhiên liệu cho tàu thuyền, v.v. Các chiến lược gia phương Tây cho rằng quốc gia nào
kiểm soát được quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa sẽ kiểm soát và khống chế được toàn
bộ Biển Đông.
Ngoài ra, khu vực Biển Đông còn có những eo biển quan trọng đối với nhiều
quốc gia và với 4 trong 16 con đường chiến lược của thế giới nằm trong khu vực Đông
Nam Á. Đó là các eo biển: Malacca, Luzon, Lombok, Sunda, Makascha và Ombai-
Wetar.
Đặc biệt, eo biển Malacca (nằm giữa đảo Sumatra của Indonesia, Malaysia và
Singapore) có vị trí vô cùng quan trọng vì tất cả hàng hóa của Đông Nam Á và Bắc Á
đều phải đi qua Biển Đông. Đây cũng là eo biển có lượng tàu thuyền đi qua nhộn nhịp
và lượng dầu vận tải hàng năm qua đây chiếm vị trí thứ 2 thế giới, sau eo biển Homuz
(Cộng hòa Iran).
Ba eo biển thuộc chủ quyền Indonesia là Sundan, Lombok và Makascha đóng vai

21
trò dự phòng trong tình huống eo biển Malacca ngừng hoạt động vì lý do nào đó. Tuy
nhiên, nếu phải vận chuyển qua các eo biển này thì hàng hóa giữa Ấn Độ Dương sang
ASEAN và Bắc Á sẽ chịu cước phí cao hơn vì quãng đường dài hơn.
Eo biển Luzon nằm giữa đảo Luzon của Philippines và vùng lãnh thổ Đài Loan,
là cửa liên thông của tuyến hàng hải quốc tế qua Biển Đông với khu vực Tây Bắc và
Bắc Thái Bình Dương.
Với những ưu điểm về kinh tế, những tuyến đường hàng hải quan trọng. Cho nên
Biển Đông luôn đứng trước sự nhìn ngó, xâm lược của các nước trên thế giới.

2.4. Các giải pháp nâng cao hiệu quả bảo vệ chủ quyền biển đảo nước ta hiện
nay

❖ Chính sách của Đảng và Nhà nước về bảo vệ chủ quyền biển đảo nước ta hiện nay

Xây dựng một cơ sở pháp lý vững chắc phục vụ việc bảo vệ chủ quyền, hoàn
thiện chính sách, pháp luật về quản lý, thực thi và bảo vệ chủ quyền biển, đảo.
Trong tình hình hiện nay, Việt Nam cần sớm nâng cấp các tuyên bố của chính
phủ lên tầm luật quốc gia và cụ thể hóa công tác quản lý nhà nước về biển. Tiến hành
rà soát hệ thống hóa toàn bộ các văn bản pháp luật biển để sửa đổi bổ sung các văn bản
không phù hợp, phải xem xét lại một số văn bản pháp luật chưa phù hợp với nội dung
công ước về luật biển 1982. Nhằm từng bước xây dựng cho được một hệ thống đồng
bộ pháp luật về biển. Hơn nữa chúng ta cần sớm ban hành luật các vùng biển Việt
Nam làm khung pháp lý thống nhất cho pháp luật về biển, văn bản này phải mang tính
tổng thể xác định phạm vi, chế độ pháp lý của từng vùng biển thuộc chủ quyền của
Việt Nam; quy định các nội dung quản lý nhà nước về biển; bảo vệ chủ quyền, quyền
chủ quyền, và lợi ích quốc gia trên biển; vấn đề bảo vệ quốc phòng, an ninh, kinh tế –
xã hội, giữ gìn và bảo vệ môi trường biển.
Cùng với đó, Nhà nước ta ban hành hàng loạt văn bản quy phạm pháp luật nhằm
thể chế hóa các chủ trương lớn của Đảng về quản lý và bảo vệ chủ quyền biển, đảo,
như Tuyên bố của Chính phủ về các vùng biển và đường cơ sở năm 1977 và 1982;
Luật Dầu khí năm 1993, Bộ Luật Hàng hải năm 1991; Luật Hàng không dân dụng Việt
Nam năm 1991; Pháp lệnh Bộ đội Biên phòng năm 1997; Pháp lệnh lực lượng cảnh sát
biển Việt Nam năm 1998; Luật Biên giới quốc gia năm 2003; Luật Biển Việt Nam
năm 2012; Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo năm 2015. Nhà nước ta cũng

22
trở thành thành viên của hàng loạt điều ước quốc tế liên quan đến biển và đại dương,
trong đó có Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982).
Đánh giá đúng tình hình trên các vùng biển, đảo, làm cơ sở cho việc đấu tranh
bảo vệ chủ quyền biển, đảo.
Trước những diễn biến phức tạp hiện nay, hơn bao giờ hết, Đảng, Nhà nước,
Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, trực tiếp là các lực lượng hoạt động trên biển
cần đánh giá đúng tình hình, thấy rõ thuận lợi, thời cơ và khó khăn, nguy cơ, thách
thức, quán triệt sâu sắc đường lối, chính sách quốc phòng, an ninh, đối ngoại của
Đảng, Nhà nước. Mở rộng, đa phương hóa, đa dạng hóa, vừa hợp tác, vừa đấu tranh,
cố gắng gia tăng hợp tác, tránh xung đột, đối đầu, tránh bị lệ thuộc, cô lập, tập trung
xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân vững mạnh, tạo cơ sở, nền
tảng xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân trên biển ngày
càng vững chắc. Chủ động, tích cực chuẩn bị tốt mọi mặt, chú trọng tạo môi
trường trong ấm, ngoài êm, lấy giữ vững bên trong là chủ yếu, bảo đảm cho đất nước
thích nghi nhanh, hòa bình, ổn định và phát triển - điều kiện tiên quyết đập tan mọi âm
mưu, thủ đoạn, hành động chống phá của các thế lực thù địch và những tác động từ
bên ngoài.
Để có cơ sở đánh giá đúng tình hình trên các vùng biển, đảo, đòi hỏi toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân phải luôn vững vàng, kiên định đường lối, quan điểm quốc phòng,
an ninh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, sự lãnh đạo và đường lối đổi
mới của Đảng. Thực hiện nhất quán: kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân, chế độ xã hội
chủ nghĩa và lợi ích chính đáng của Việt Nam theo luật pháp quốc tế. Kiên quyết, kiên
trì đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù
địch; bảo vệ nền tảng tư tưởng và sự lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng Việt Nam.
Kiên quyết, kiên trì giữ vững hòa bình, ổn định, giải quyết tranh chấp bằng biện pháp
hòa bình. Giữ vững an ninh quốc gia, trật tự, kỷ cương, bảo đảm an ninh kinh tế, xã
hội, an ninh mạng, an ninh con người. Trên cơ sở đó, chủ động ngăn ngừa các nguy cơ
chiến tranh, xung đột, phát hiện sớm xử lý kịp thời những nhân tố bất lợi, nhất là
những nhân tố bên trong có thể gây đột biến. Tiếp tục thực hiện hiệu quả đường lối đối
ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa; chủ động và tích cực hội nhập
quốc tế toàn diện, sâu rộng, là thành viên và tham gia có trách nhiệm, góp phần tích

23
cực vào bảo vệ hòa bình, ổn định, an ninh của khu vực và thế giới; giữ vững môi
trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; không ngừng nâng cao uy tín, vị thế
quốc tế của Việt Nam
Tăng cường và củng cố quốc phòng, an ninh bảo vệ vững chắc chủ quyền biển,
đảo.
Trong bối cảnh tình hình tranh chấp ở Biển Đông ngày càng diễn biến phức tạp,
song với truyền thống bất khuất của dân tộc, ý chí quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân, chúng ta đã bảo vệ vững chắc chủ quyền. Cụ thể là, bảo vệ tốt danh nghĩa
chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa; quản lý và bảo vệ vững chắc 21 đảo, bãi với 33
điểm đóng quân ở quần đảo Trường Sa, bảo vệ tốt vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục
địa 200 hải lý.
Cùng với đó là việc ta đã giữ vững chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài
phán, quyền và lợi ích trên các vùng biển Việt Nam thông qua việc duy trì hệ thống và
hoạt động của 15 nhà giàn DK trên vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa Việt Nam.
Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tăng cường tiềm lực kinh tế, chú trọng phát
triển quốc phòng, đảm bảo an ninh trên biển.
Muốn bảo vệ vững chắc và bền vững độc lập chủ quyền biển thì đây được coi là
biện pháp mang tính chiến lược và lâu dài. Nhân dân ta có truyền thống nghề biển. Vì
vậy vẫn phải khơi gợi thuyền thống ý thức về chủ quyền biển và giáo dục cho mọi
người dân Việt Nam về vai trò, vị trí của biển Đông cũng như chủ quyền của Việt
Nam trên biển. Tuyên truyền phổ biến pháp luật về biển cho ngư dân, giáo dục tuyên
truyền tư tưởng đường lối trước sau như của Đảng và nhà nước về vấn đề chủ quyền
của biển Đông, tuyên truyền công tác bảo vệ chủ quyền phối hợp với nhà nước trong
việc bảo vệ chủ quyền trên biển.
Song song với nhiệm vụ này, chúng ta phải tăng cường tiềm lực kinh tế, phát huy
nội lực, khẳng định sức mạnh trên thực tế. Tiếp tục giữ vững tốc độ tăng trưởng, mở
rộng quy mô nền kinh tế. Từ đó mới có thể tăng cường lực lượng cũng như trang thiết
bị cho quốc phòng, an ninh trên biển. Kết hợp đảm bảo an ninh – quốc phòng kết hợp
với phát triển kinh tế biển. Hiện nay lực lượng Hải quân của ta đang được đầu tư, hiện
đại hóa và phát triển theo hướng hiện đại. Nhưng so với các nước trong khu vực và
Trung Quốc thì sức chiến đấu của ta còn hạn chế, chưa thể sánh ngang với một số
nước. Mặt khác đây là lực lượng chủ yếu trong việc giữ gìn và bảo vệ chủ quyền trên

24
biển. Do vậy, xây dựng một lực lượng hải quân hùng mạnh và sẵn sàng đối phó với
mọi tình huống là yêu cầu cấp thiết và thực tế đáp ứng việc bảo vệ chủ quyền biển.
Một vấn đề quan trọng trong công tác bảo vệ chủ quyền biển đó là giữ gìn an
ninh trật tự cũng như đảm bảo việc thi hành pháp luật cũng như công tác tuần tra kiểm
soát phải được tiến hành một cách thường xuyên, liên tục đảm bảo việc chấp hành
pháp luật cũng như đảm bảo được quyền tối cao của nhà nước đối với lãnh thổ biển.
Phát triển kinh tế biển, đảo, gắn phát triển kinh tế với an ninh, quốc phòng.
Thực hiện Chiến lược biển, trong thời gian qua, kinh tế biển, đảo đã có bước phát
triển mạnh mẽ:
Thứ nhất, chúng ta đã phát triển được hệ thống 15 khu kinh tế biển với trên 100
dự án đầu tư nước ngoài với số vốn đăng ký gần 39 tỷ USD và hàng nghìn tỷ đồng, tạo
việc làm cho hàng vạn lao động và là động lực để phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương, vùng và cả nước.
Thứ hai, kinh tế thủy sản tăng trưởng liên tục ở mức bình quân 5% - 7%/năm,
trong đó giá trị xuất khẩu của năm 2006 tăng 250 lần so với năm 1981. Xuất khẩu thủy
sản năm 2017 đạt 8,3 tỷ USD, tăng 18% so với năm 2016.
Thứ ba, trong nhiều năm qua, việc khai thác dầu khí ở các vùng biển Việt Nam
đóng góp từ 18% - 26%/năm cho GDP, góp phần tăng trưởng GDP toàn quốc.
Thứ tư, du lịch biển, đảo luôn thu hút một lượng lớn khách du lịch trong và ngoài
nước (trên 70% tổng lượng khách quốc tế và trên 50% tổng lượng khách nội địa). Chỉ
tính riêng năm 2015, ngành du lịch đóng góp 6,6% GDP quốc gia, trong đó du lịch
biển, đảo chiếm tỷ trọng lớn.
Tăng cường chiến lược ngoại giao và truyền thông. Kêu gọi các nước tranh chấp
đàm phán dựa trên nguyên tắc của luật biển quốc tế, tiến hành việc quốc tế hóa tranh
chấp biển Đông
Là nước nhỏ, trong chiến lược của chúng ta phải tận dụng biện pháp ngoại giao,
chúng ta không thể đòi lại những vùng biển đảo bị chiếm hay giải quyết tranh chấp
bằng vũ lực do vậy ngoại giao sẽ là biện pháp để chúng ta bảo vệ quyền lợi của
mình. Vì vậy thông qua con đường ngoại giao, chúng ta cần vận động sự qua tâm và
ủng hộ của dư luận quốc tế cho 1 giải pháp công bằng và hòa bình cho các tranh chấp
chủ quyền ở biển Đông. Quốc tế sẽ ủng hộ chúng ta khi thấy công lý và lẽ phải thuộc
về ta. Mặt khác đường lưỡi bò của Trung Quốc xâm phạm đến chủ quyền của các nước

25
khác trong ASEAN. Do vậy, trong khuôn khổ ASEAN, Việt Nam cần phải tận dụng
ưu thế thành viên của mình để vận động cho một tiếng nói chung.
Với việc là thành viên của công ước Liên hợp quốc về luật biển 1982, chúng ta
đã có trong tay công cụ pháp lý hữu hiệu để bảo vệ chủ quyền biển. Vì vậy, hiện nay
việc đàm phán dựa trên nguyên tắc của luật quốc tế với các nước tranh chấp là giải
pháp hữu hiệu nhất cho chúng ta giải quyết tranh chấp và lấy lại những vùng biển
thuộc chủ quyền của mình. Tuy nhiên cần phải xác định rằng đây là công việc không
hề đơn giản, phức tạp, khó khăn và kéo dài. Vì vậy Đảng và nhà nước ta phải giữ thái
độ cứng rắn, nhưng khôn khéo dung hòa lợi ích các bên. Cần xây dựng 1 chiến lược
lâu dài và cụ thể, chuẩn bị đầy đủ các điều kiện cũng như các chứng cứ và lý lẽ để có
thể bảo vệ quyền lợi của quốc gia.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước về bảo vệ chủ
quyền biển, đảo.
Đây là vấn đề có tính nguyên tắc, là điều kiện bảo đảm cho nhiệm vụ bảo vệ chủ
quyền biển, đảo thắng lợi. Do vậy, cần tập trung xây dựng cấp ủy, tổ chức đảng trong
các đơn vị trực tiếp tham gia bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong sạch, vững mạnh, có
năng lực lãnh đạo toàn diện và sức chiến đấu cao, thật sự là hạt nhân lãnh đạo trong cơ
quan, đơn vị; tăng cường đoàn kết, thống nhất trong lãnh đạo, chỉ huy, thực hiện
nghiêm cơ chế kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật Đảng. Chú trọng kiện toàn cơ quan,
đội ngũ cán bộ làm công tác thực thi pháp luật trên biển, bổ sung, hoàn thiện và phát
huy vai trò của các biện pháp công tác Cảnh sát biển trong bảo vệ chủ quyền, thực thi
pháp luật trên biển theo quy định của Luật Cảnh sát biển Việt Nam. Trên cơ sở các chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách,
pháp luật chặt chẽ, phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế để bảo vệ chủ quyền
biển, đảo, nhất là Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Luật Biển Việt
Nam, Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn
đến năm 2045, v.v. Các bộ, ngành, địa phương tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống
văn bản quy phạm pháp luật, tạo hành lang pháp lý đồng bộ, thống nhất trong quản lý,
thực thi và bảo vệ chủ quyền biển, đảo, góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn
định để phát triển đất nước.
Bảo vệ chủ quyền biển, đảo là bảo vệ Tổ quốc trên hướng biển, nhiệm vụ thường
xuyên, liên tục của toàn dân tộc, nên trong quá trình thực hiện cần nghiên cứu, bổ sung

26
các giải pháp cho phù hợp với tình hình thực tiễn, nhằm mục tiêu cuối cùng là bảo vệ
vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán, lợi ích quốc gia - dân tộc trên
biển, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước.
Tuyên truyền, nâng cao nhận thức về vai trò của biển, đảo trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho cán bộ, nhân dân về vai trò, tầm
quan trọng của biển, đảo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc được chú trọng
và thể hiện dưới nhiều hình thức đa dạng, phong phú, phù hợp với thực tiễn, trình độ,
nhận thức của đối tượng tuyên truyền. Đồng thời, cung cấp các thông tin khách quan,
có định hướng về những vấn đề đang diễn ra, nhất là những vấn đề liên quan đến tranh
chấp chủ quyền ở Biển Đông để mọi tầng lớp nhân dân hiểu đúng, hiểu đủ về bản chất
vấn đề; giải đáp một cách kịp thời các thắc mắc, băn khoăn của người dân, cán bộ về
những diễn biến tình hình; qua đó tạo niềm tin, nâng cao đồng thuận chung trong xã
hội đối với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong vấn đề chủ quyền
biển, đảo, bẻ gãy những âm mưu, ý đồ muốn lợi dụng vấn đề chủ quyền biển, đảo để
gây chia rẽ nội bộ, chống phá Đảng, Nhà nước ta. Công tác thông tin, tuyên truyền đã
khơi dậy lòng tự hào dân tộc, ý chí kiên cường, bất khuất của nhân dân trong công
cuộc bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo, làm cho mỗi công dân Việt Nam thấy rõ
trách nhiệm, nghĩa vụ của mình đối với chủ quyền biển, đảo quốc gia, từ đó góp phần
phát huy sức mạnh đoàn kết của toàn dân tộc, chung sức, đồng lòng quyết tâm làm
chủ, bảo vệ biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc.
Kiên trì, kiên quyết đấu tranh đối với các vi phạm chủ quyền biển, đảo của Việt
Nam.
Nhà nước Việt Nam trước sau như một khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối
với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Lập trường này được thể hiện nhất quán
trong các văn bản pháp luật về biển đã được ban hành, như Nghị quyết của Quốc hội
năm 1994 phê chuẩn Công ước Luật Biển cũng như trong các phát biểu, tuyên bố
chính thức khác của Việt Nam.
Đồng thời, ta đấu tranh kiên quyết, phù hợp trên thuộc địa và trên mặt trận ngoại
giao, dư luận đối với mọi vi phạm của các nước đối với chủ quyền biển, đảo Việt
Nam. Bên cạnh việc kịp thời triển khai các biện pháp đấu tranh kiên quyết với các bên
liên quan trước các vụ việc phức tạp nảy sinh ở Biển Đông, ta cũng có nhiều biện pháp

27
chủ động, ngăn ngừa các vi phạm chủ quyền, quyền và lợi ích hợp pháp của ta trên
biển.
Ta đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo, quyền và lợi ích hợp pháp của ta trên
biển, cả trên bình diện song phương, khu vực và các diễn đàn đa phương toàn cầu, trên
cả kênh chính thức và học giả dưới nhiều hình thức đa dạng, linh hoạt. Việc đấu tranh
đối với các vi phạm chủ quyền biển, đảo ở khu vực Biển Đông thời gian qua đã đạt
nhiều kết quả tích cực, tranh thủ được sự ủng hộ của dư luận quốc tế về sự nghiệp
chính nghĩa của ta, lên án các hành động vi phạm chủ quyền của Việt Nam.
Các lực lượng thực thi pháp luật trên biển, như cảnh sát biển, biên phòng, kiểm
ngư tích cực, chủ động tiến hành hoạt động tuần tra, kiểm tra, kiểm soát, phát hiện và
xử lý kịp thời các vi phạm pháp luật Việt Nam trên vùng biển Việt Nam, qua đó góp
phần tích cực vào việc duy trì an ninh trật tự, an toàn trên biển, thể hiện rõ vai trò quản
lý và bảo vệ vùng biển của Việt Nam.

❖ Giải pháp bảo vệ chủ quyền Biển Đảo nước ta

Biển, đảo Việt Nam có vị trí chiến lược, trọng yếu về địa chính trị, kinh tế, quốc
phòng, an ninh và đối ngoại của đất nước. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi
biển, đảo là phần máu thịt không thể tách rời của lãnh thổ Việt Nam và động viên toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân quyết tâm bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. Tư
tưởng của Người có giá trị to lớn và là kim chỉ nam để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân
ta tiếp tục thực hiện nhiệm vụ bảo vệ vững chắc, toàn vẹn chủ quyền biển, đảo thiêng
liêng của Tổ quốc hiện nay. Ngày nay, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
biển, đảo Việt Nam có vai trò đặc biệt quan trọng, làm tăng chiều sâu phòng thủ của
đất nước ở hướng Đông. Do đó, xây dựng tiềm lực, thế trận phòng thủ biển, đảo, tạo
thành thế trận liên hoàn bờ - biển - đảo có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với nhiệm vụ
củng cố quốc phòng - an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Biển, đảo không chỉ là bộ phận cấu
thành chủ quyền, quyền chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc, mà còn là không gian
sinh tồn và phát triển của các thế hệ người Việt Nam, đồng thời là nơi lưu giữ và phát
triển các giá trị văn hóa biển Việt Nam.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo hiện
nay:

28
Hiện nay, tình hình an ninh, chính trị thế giới, khu vực diễn biến nhanh chóng,
phức tạp, khó dự báo. Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo diễn ra
căng thẳng, phức tạp, quyết liệt. Hòa bình, ổn định, tự do, an ninh, an toàn hàng hải,
hàng không trên Biển Đông đứng trước thách thức to lớn, tiềm ẩn nguy cơ xung đột.
Các nước trong khu vực tiếp tục gia tăng các hoạt động, yêu sách chủ quyền, nhất là ở
những vùng biển giáp ranh, nhạy cảm, chưa phân định. Vì vậy, vấn đề bảo vệ chủ
quyền biển, đảo càng trở nên quan trọng, đòi hỏi chúng ta phải thấm nhuần sâu sắc và
vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo.
Một là, nâng cao nhận thức về chủ quyền biển, đảo và trách nhiệm bảo vệ chủ
quyền biển, đảo cho cả hệ thống chính trị và toàn xã hội.
Đây là giải pháp quan trọng hàng đầu, nó định hướng nhận thức, tư tưởng, trau
dồi tình cảm của cán bộ, đảng viên, nhân dân và toàn bộ hệ thống chính trị về vị trí,
vai trò, sức mạnh của biển, ý thức trách nhiệm của các tổ chức, các lực lượng trong
đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. Bởi vì, chỉ trên cơ sở nhận thức
đúng thì mới tạo được sự đồng thuận xã hội, khơi dậy tinh thần đoàn kết, lòng yêu
nước trong mỗi người dân Việt Nam đối với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo
thiêng liêng của Tổ quốc, như Bác Hồ đã căn dặn: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu
nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm
lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn,
nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả bè lũ bán nước và bè lũ
cướp nước”. Cần đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả giáo dục, tuyên truyền nâng cao
nhận thức, tạo sự đồng thuận trong mọi tầng lớp nhân dân, sớm đưa các nội dung về
chủ quyền biên giới, lãnh thổ, biển, đảo vào chương trình giáo dục phổ thông và đại
học về nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo.
Nội dung tuyên truyền cần tập trung vào:
Vị trí, vai trò, tầm quan trọng của biển, đảo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.
Truyền thống, ý thức bảo vệ chủ quyền biển, đảo của dân tộc ta. Đường lối, quan
điểm, chính sách, pháp luật, phương châm, tư tưởng chỉ đạo, đối sách giải quyết các
vấn đề biển, đảo của Đảng và Nhà nước ta. Các tập quán, điều ước quốc tế về biển và
Việt Nam là thành viên. Bản chất âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng
vấn đề biển, đảo để chống phá nước ta.

29
Tính chất khó khăn, phức tạp, nhạy cảm của nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển,
đảo hiện nay.
Hai là, vận dụng đúng đắn, sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là tư tưởng
“Dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo.
Quán triệt và vận dụng phương châm “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Người, cần
thấm nhuần quan điểm có tính nguyên tắc: Chủ quyền biển, đảo là chủ quyền quốc gia
trên biển, là lợi ích quốc gia thiêng liêng, bất khả xâm phạm, là cái “bất biến”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng thay mặt đất nước và nhân dân Việt Nam, tuyên bố
với thế giới rằng, nhân dân chúng tôi thành thực mong muốn hòa bình. Nhưng nhân
dân chúng tôi cũng kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những quyền thiêng liêng
nhất: toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc và độc lập cho đất nước; toàn thể nhân dân Việt Nam
“quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải” để giữ vững chủ quyền
quốc gia.
Cái “vạn biến” là cách ứng xử của ta phải linh hoạt, khôn khéo trong đấu tranh
bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ theo đúng tinh thần: “Nguyên tắc của ta thì phải
vững chắc, nhưng sách lược của ta thì linh hoạt”. Vận dụng tư tưởng này của Người
trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo đòi hỏi phải tuân thủ các nguyên tắc để đạt
mục đích tối thượng là bảo vệ toàn vẹn từng tấc đất, sải biển, song phương pháp, cách
thức đấu tranh phải linh hoạt, mềm dẻo bằng mọi hình thức, biện pháp, trong đó lấy
đối thoại, đàm phán hòa bình để giải quyết bất đồng; kiên quyết, kiên trì không mắc
âm mưu khiêu khích, tạo cớ.
Kiên định đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo bằng giải pháp “hòa bình”, bằng
sức mạnh tổng hợp: đấu tranh chính trị, ngoại giao, chứng cứ pháp lý, lịch sử. Chúng
ta kiên trì, tránh xung đột nhưng khi chủ quyền bị xâm phạm, chúng ta sẵn sàng đáp
trả bằng quyền tự vệ chính đáng. Xử lý thật tốt mối quan hệ toàn vẹn độc lập, chủ
quyền và duy trì hòa bình, ổn định. Đồng thời, cần cảnh giác trước những mưu toan hạ
thấp giá trị chủ quyền biển, đảo hoặc làm suy giảm lòng tự tôn dân tộc, tinh thần yêu
nước.
Ba là, xây dựng “thế trận lòng dân” trên biển, xây dựng lực lượng vũ trang nhân
dân vững mạnh, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong tình
hình mới. Xây dựng “thế trận lòng dân” trên biển là quá trình xây dựng nhân tố chính
trị tinh thần, ý chí, tâm lý và niềm tin của nhân dân trên vùng biển, đảo của Tổ quốc,

30
mà cốt lõi là lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, ý chí chiến đấu của nhân dân. Xây
dựng “thế trận lòng dân” trên biển phải song hành với việc giữ gìn giá trị, phát huy
truyền thống lịch sử, bản sắc văn hoá biển; bảo đảm quyền tham gia, hưởng lợi và
trách nhiệm của người dân đối với phát triển bền vững kinh tế biển trên cơ sở công
bằng, bình đẳng, tuân thủ pháp luật. Xây dựng “thế trận lòng dân” trên biển vững
mạnh là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, trong đó lực lượng vũ trang nhân dân là
nòng cốt.
Tập trung xây dựng và phát huy sức mạnh tổng hợp của lực lượng hải quân, cảnh
sát biển, biên phòng biển, kiểm ngư và dân quân tự vệ biển, có số lượng hợp lý, chất
lượng tổng hợp cao; chú trọng xây dựng trình độ kỹ thuật, chiến thuật, trình độ hợp
đồng tác chiến quân binh chủng đi liền với trang thiết bị kỹ thuật ngày càng hiện đại;
kết hợp tốt phát triển kinh tế gắn với quốc phòng, an ninh trên biển của các lực lượng
chuyên trách.
Đồng thời, cần phát huy tốt vai trò tham mưu của lực lượng vũ trang làm nhiệm
vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo cho cấp ủy, chính quyền địa phương về công tác quốc
phòng, quân sự địa phương; về xây dựng khu vực phòng thủ biển, đảo vững chắc;
tuyên truyền, bồi dưỡng nâng cao kiến thức quốc phòng, an ninh cho ngư dân; bảo
đảm hậu cần - kỹ thuật nghề cá; chú trọng công tác tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn và bảo
vệ môi trường biển.
Bốn là, phát triển kinh tế biển, tăng cường đấu tranh ngoại giao gắn với bảo vệ
chủ quyền biển, đảo.
Xác lập và thực thi chiến lược phát triển đất nước thành một quốc gia mạnh về
biển, làm giàu từ biển; kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm
quốc phòng - an ninh; phát huy các nguồn lực bên trong, thu hút mạnh các nguồn lực
bên ngoài để phát triển các khu vực ven biển.
Phát triển kinh tế biển là cơ sở quan trọng để củng cố quốc phòng - an ninh trên
biển, đồng thời củng cố quốc phòng - an ninh trên biển là điều kiện, tiền đề để phát
triển kinh tế biển một cách bền vững. Bảo đảm mỗi bước phát triển kinh tế biển phải
tạo cơ sở cho việc bảo vệ chủ quyền biển, đảo và ngược lại. Sự gắn kết và mối quan hệ
biện chứng này phải được xác định rõ từ quan điểm, chủ trương, chính sách, kế hoạch
về phát triển kinh tế và củng cố quốc phòng, an ninh trên biển; gắn chặt và thống nhất
chung trong chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

31
Tăng cường đấu tranh ngoại giao là giải pháp giữ vị trí, vai trò chủ yếu, là một
mặt trận quan trọng góp phần tạo ra môi trường quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp bảo vệ
chủ quyền biển đảo. Đây cũng là giải pháp kết hợp sức mạnh bên trong với sức mạnh
bên ngoài để bảo vệ Tổ quốc. Thực tiễn lịch sử cha ông ta đều đã sử dụng giải pháp
này như một công cụ để giữ vững môi trường hòa bình, liên kết bang giao hữu hảo bảo
vệ chủ quyền quốc gia. Đảng ta cũng luôn quan tâm kế thừa, phát huy truyền thống,
thực hiện tốt chủ trương vừa hợp tác, vừa đấu tranh, nhằm phát huy nội và ngoại lực
bảo vệ chủ quyền biển, đảo.
Năm là, kiên quyết, kiên trì giải quyết tranh chấp trên biển, đảo bằng biện pháp
hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế.
Là thành viên của Liên hợp quốc, của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển
UNCLOS cũng như tuyên bố của các bên về cách ứng xử trên biển Đông DOC, Việt
Nam luôn tuân thủ các quy định của luật pháp quốc tế; kiên trì con đường giải quyết
các vấn đề nảy sinh bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở bình đẳng và tôn trọng lẫn
nhau; thông qua đàm phán, thương lượng, nhằm tìm kiếm giải pháp cơ bản, lâu dài,
đáp ứng lợi ích chính đáng của tất cả các bên liên quan vì độc lập, chủ quyền, toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc, vì hòa bình, ổn định khu vực và quốc tế. Theo tinh thần đó,
những vấn đề còn đang bất đồng, tranh chấp song phương thì giải quyết song phương;
những vấn đề tranh chấp liên quan đến nhiều bên thì giải quyết đa phương và phải hết
sức công khai, minh bạch giữa các bên có liên quan.
Trong khi nỗ lực xử lý các vấn đề nảy sinh ở Biển Đông bằng biện pháp hòa
bình, cần kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ những lợi ích chính đáng của ta trên
biển với quyết tâm “Việt Nam quyết không để một tấc đất, tấc biển nào bị xâm phạm”;
kiên trì tìm kiếm một giải pháp lâu dài và yêu cầu các bên liên quan kiềm chế, không
có hoạt động làm phức tạp thêm tình hình, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng
vũ lực, tuân thủ cam kết giải quyết bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở các nguyên tắc
của luật pháp quốc tế, UNCLOS và 5 nguyên tắc chung sống hòa bình, tăng cường nỗ
lực xây dựng lòng tin, hợp tác đa phương về an ninh biển, nghiên cứu khoa học, chống
tội phạm; cùng nhau thực hiện nghiêm chỉnh DOC, hướng tới xây dựng Bộ quy tắc
ứng xử COC để Biển Đông thực sự là vùng biển hòa bình, ổn định, hữu nghị, hợp tác
và phát triển. Tại các vùng biển không phải là tranh chấp, hoàn toàn thuộc chủ quyền
và quyền tài phán của quốc gia ven biển, Việt Nam có quyền áp dụng các biện pháp

32
cần thiết, phù hợp với quy định của UNCLOS để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng.

33
KẾT LUẬN

Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc mang tính khoa học và cách mạng sâu
sắc, những nội dung nhấn mạnh về vấn đề dân tộc, sự kếp hợp vấn đề dân tộc và vấn
đề giai cấp, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa quốc
tế, đấu tranh cho độc lập dân tộc. Đồng thời tôn trọng độc lập của các dân tộc khác.
Nội dung cốt lõi của vấn đề dân tộc thuộc địa là đọc lập dân tộc, Cách mạng tháng
Tám thành công, Người thay mặt chính phủ lâm thời độc bản Tuyên ngôn Độc lập, và
long trọng khẳng định trước toàn thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và
độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết
đem tất cả tinh thân và lực lượng, tính mạng của cải quyết giữ vững tự do độc lập ấy”.
Người hết sức trân trọng quyền con người, nhưng luôn đề cao quyền dân tộc. Từ
quan điểm đó chúng ta thấy rằng cần việc bảo vệ độc lập Tổ quốc là đều hết sức quan
trọng và cả chủ quyền biển đảo nước ta.
Chúng ta phải đoàn kết tương trợ lẫn nhau càng phải cố gắng phát triển toàn diện
nhất. Hiện nay vùng biển và hải đảo nước ta có vị trí chiến lược vô cùng quan trọng,
có những tiền năng về kinh tế và đặc biệt là hai quần đảo quan trọng nhất của ta đó là
Hoàng Sa và Trường Sa. Chính vì khá là thuận lợi nên đồng thời cũng có nhiều mối đe
dọa nên nhà nước ta đã đưa ra những chính sách thiết thực trong việc này. Chúng ta
phải nâng cao nhận thức về bảo vệ chủ quyền biển đảo kiên quyết kiên trì giải quyết
tranh chấp đến cùng vì quyền lợi của chúng ta. Vận dụng đúng đắn tư tưởng Hồ Chí
Minh và kết hợp sức mạnh dân tộc với thời đại, hội nhập kinh tế quốc tế để có thể phát
triển kinh tế và bảo vệ biển đảo ta.
Tập trung xây dựng và củng cố nền quốc phòng an ninh ra sức bảo vệ chủ quyền
biển đảo nước ta trước mọi âm mưu xâm chiếm của kẻ thù. Cùng với đó là lực lượng
thanh niên, học sinh ra sức học tập rèn luyện để góp phần xây dựng, nâng cao công tác
tuyên truyền phổ biến, giáo dục đoàn thanh niên về chủ quyền biển, đảo và trách
nhiệm nghĩa vụ bảo vệ. Thực hiện các chương trình, phong trào gắn với biển, đảo.

34
PHỤ LỤC HÌNH ẢNH

Hình 1: Bản đồ vùng biển Việt Nam

Hình 2: Tổng diện tích biển Việt Nam

35
Hình 3: Hình ảnh dân tộc Việt Nam

Hình 4: Hình ảnh Quần đảo Hoàng Sa

36
Hình 6: Hình ảnh Quần đảo Trường Sa

37
PHỤ LỤC

KẾ HOẠCH PHÂN CÔNG VIẾT TIỂU LUẬN

Sinh viên Mức


Nội dung hoàn thành độ
hoàn thành
hoàn
thành
PHẦN 1 – PHẦN MỞ ĐẦU
Nội dung 1: Lý do chọn đề tài, mục tiêu
và phương pháp nghiên cứu Nguyễn Đoàn Trung Phương Tốt

PHẦN 2 – KIẾN THỨC CƠ BẢN


Nội dung 2: Quan điểm của Hồ Chí Minh
về vấn đề dân tộc - Bùi Diệp Anh Thư Tốt
- Lê Thị Thuý Nga

Nội dung 3: Ý nghĩa luận điểm


- Bùi Diệp Anh Thư Tốt
- Lê Thị Thuý Nga

Nội dung 4: Chỉnh sửa, góp ý. Tất cả các thành viên Tốt
PHẦN 3 – KIẾN THỨC VẬN DỤNG
Nội dung 5: Vận dụng quan điểm của Hồ
- Nguyễn Hồng Xuân Mai
Chí Minh về vấn đề dân tộc vào việc bảo
- Nguyễn Hoàng Thi Tốt
vệ chủ quyền biển đảo nước ta hiện nay - Thái Quang Huy

Nội dung 9: Phụ lục hình ảnh Võ Thị Hoài Thảo Tốt

PHẦN 4 – KẾT LUẬN


Nội dung 8: Biên tập lời kết luận - Võ Thị Hoài Thảo Tốt
- Nguyễn Đoàn Trung Phương
Tổng hợp nội dung bài tiểu luận Tất cả các thành viên Tốt
TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]. Bộ giáo dục và đào tạo (2012), Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia – sự thuật, trang 105-112.
[2]. PGS.TS. Đoàn Đức Hiếu (2015), Vấn đề giảng dạy, học tập các môn khoa học lý
luận chính trị ở trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh -
Thực trạng và giải pháp, Đề tài cấp trường trọng điểm 2015, trường ĐHSPKT
Tp. HCM.
[4]. Đại tá Đào Bá Việt, Phó Tham mưu trưởng Cảnh sát biển Việt Nam, Tạp chí
Quốc phòng toàn dân, http://tapchiqptd.vn/vi/nghien-cuu-trao-doi/mot-so-giai-
phap-bao-ve-chu-quyen-bien-dao-trong-tinh-hinh-moi/16859.html
[5]. Tạp chí Cộng Sản, https://baocantho.com.vn/cong-tac-bao-ve-chu-quyen-
bien-dao-viet-nam-trong-tinh-hinh-moi-a103598.html
[6]. TS. Bế Trường Thành (2009), Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân tộc
[7]. Hồ Chí Minh toàn tập. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1995. T1,
trang 280 – 350- 416.
[8]. Đại tá Lê Văn Hưởng - Viện Chiến lược Quốc phòng, một số giải pháp chính trị
góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc trong tình hình
mới, 08/06/2017.
[9]. Nguyễn Hữu Cần - Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng, Vận dụng tư tưởng
Hồ Chí Minh về bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam trong tình hình mới,
29/04/2021.

[10]. Nguyễn Thị Thanh Tùng - Lê Thị Lan Hương - Lê Thị Hường - Trường Đại học
Sư phạm Hà Nội (2018), Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng tự học
môn tư tưởng Hồ Chí Minh cho sinh viên trường Đại Học Sư Phạm Hà Nội, Tạp
chí Giáo dục, Số 438 (Kì 2 - 9/2018), tr 60-64.
[11]. Đại tá, PGS, TS. Nguyễn Thanh Long - Học viện Quốc phòng, Tạp chí Quốc
phòng toàn dân, Một số giải pháp bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong tình hình
mới, 12/11/2021.
[12]. Sỹ Tuấn - Diệu Thúy, Biển Đông có vị trí trọng yếu ra sao,
https://vietnamnet.vn/vn/chu-quyen-hoang-sa-truong-sa/bien-dong-co-vi-
tri-trong-yeu-ra-sao-420498.html

[13]. Tầm quan trọng của Biển Đông đối với nước ta, 02/10/2015
https://www.camau.gov.vn/wps/portal/?1dmy&page=trangchitiet&urile=w
cm%3Apath%3A/camaulibrary/camauofsite/gioithieu/chuyende/biendaoqu
ehuong/tulieuvanban/kre

You might also like