You are on page 1of 27

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.

HCM

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ



TIỂU LUẬN CUỐI KỲ


MÔN HỌC: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

ĐỀ TÀI: : Quan điểm của Hồ Chí Minh về chiến lược trồng người. Vận
dụng tư tưởng ấy vào phát triển nguồng nhân lực ở nước ta hiện nay.

GVHD: ThS. Trương Thị Mỹ Châu

SVTH: Lý Tự Cơ 20116016

Phạm Đức Duy 20116169

Đặng Phú Gia 20116171

Nguyễn Vũ Đức Phát 20116216

Nguyễn Văn Tiến 20116034

Mã LH: LLCT120314_10CLC

Thành Phố Hồ Chí Minh, tháng 11 năm 2021


DANH SÁCH NHÓM THAM GIA VIẾT TIỂU LUẬN
HỌC KỲ 1 – NĂM HỌC 2021 – 2022
Nhóm 11 (Lớp thứ 5 tiết 5–6)
Đề tài: Quan điểm của Hồ Chí Minh về chiến lược trồng người. Vận dụng tư tưởng ấy
vào phát triển nguồng nhân lực ở nước ta hiện nay.

STT HỌ VÀ TÊN MSSV TỶ LỆ % HOÀN THÀNH

1 Lý Tự Cơ 20116016 100%

2 Phạm Đức Duy 20116169 100%

3 Đặng Phú Gia 20116171 100%

4 Nguyễn Vũ Đức Phát 20116216 100%

5 Nguyễn Văn Tiến 20116034 100%

Ghi chú:
+ Tỷ lệ % = 100%: Mức độ phần trăm của từng sinh viên tham gia.
+ Trưởng nhóm: Nguyễn Văn Tiến SĐT: 0967484304
LỜI CẢM ƠN

Tiểu luận có thể được xem là một công trình nghiên cứu khoa học nhỏ. Do vậy để
hoàn thành một đề tài tiểu luận là một việc không dễ dàng đối với sinh viên chúng em.
Chúng em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc đến Cô Nguyễn Thị Quyết, người
đã dùng những tri thức và tâm huyết của mình để có thể truyền đạt cho chúng em vốn kiến
thức quý báu, cảm ơn Cô đã giúp đỡ và hướng dẫn chúng em tận tình trong suốt thời gian
viết bài tiểu luận này, tạo cho chúng em những tiền đề, những kiến thức để tiếp cận, phân
tích giải quyết vấn đề.

Thành công luôn đi kèm với nỗ lực, trong vòng nhiều tuần, nghiên cứu đề tài “Quy
luật phủ định của phủ định và sự vận dụng quy luật này vào việc xây dựng và phát triển nền
văn hóa XHCN Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc” chúng em cũng đã gặp không
ít khó khăn, thử thách nhưng nhờ có sự giúp đỡ của Cô chúng em đã vượt qua. Chúng em
đã cố gắng vận dụng những kiến thức đã học được trong học kỳ qua để hoàn thành bài tiểu
luận này nhưng do chưa có nhiều kinh nghiệm làm đề tài cũng như những hạn chế về kiến
thức nên chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Chúng em rất mong nhận được sự
nhận xét, ý kiến đóng góp, phê bình từ phía Cô để bài tiểu luận được hoàn thiện hơn.

Chúng em cũng xin cảm ơn bạn bè, anh chị đã tận tình chỉ bảo chúng em trong quá
trình hoàn thành bài tiểu luận, tạo điều kiện cho chúng em hiểu thêm về những kiến thức
thực tế.

Một lần nữa, nhóm chúng em xin cảm ơn Cô vì đã giảng dạy và trang bị kiến thức cần
thiết để phục vụ cho môn học cũng như làm hành trang cho cuộc sống của chúng em sau
này. Chúng em xin chân thành cảm ơn!

Nhóm sinh viên thực hiện.


NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN

...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
Điểm: .....................................................................................................................................

Tp. Thủ Đức, ngày …… tháng …… năm 20……


Giáo viên chấm điểm

Trương Thị Mỹ Châu


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài........................................................................................................ 1

2. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài ................................................................................ 2

3. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................................... 3

PHẦN NỘI DUNG .................................................................................................. 4

CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI VÀ


CHIẾN LƯỢC TRỒNG NGƯỜI ........................................................................... 4
1.1. Cơ sở hình thành quan điểm của hồ chí minh về con người và chiến lược trồng
người .............................................................................................................................. 4

1.2. Nội dung quan điểm của hồ chí minh về con người và chiến lược trồng người .... 6

1.2.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người ................................ 6

1.2.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về chiến lược trồng người .............................. 7

1.3. Ý nghĩa và luận điểm .............................................................................................. 8

CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG ẤY CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CON


NGƯỜI VÀ CHIẾN LƯỢC TRỒNG NGƯỜI VÀO PHÁT TRIỂN NGUỒN
NHÂN LỰC NƯỚC TA HIỆN NAY .................................................................... 11

2.1. Thực trạng về nguồn nhân lực nước ta hiện nay................................................... 11

2.2. Chính sách của đảng và nhà nước về xây dựng, phát triển nguồn nhân lực nước ta
hiện nay ........................................................................................................................ 13

2.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả trong xây dựng và phát triển nguồn nhân lực
nước ta hiện nay ........................................................................................................... 16

PHẦN KẾT LUẬN ................................................................................................ 20

TÀI LIỆU THAM KHẢO


PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

“Hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí thịnh thì đất nước mạnh và càng lớn
lao, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà càng xuống thấp. Bởi vậy các bậc vua tài giỏi đời
xưa, chẳng có đời nào lại không chăm lo nuôi dưỡng và đào tạo nhân tài bồi đắp thêm
nguyên khí”.

Tư tưởng của Thân Nhân Trung không chỉ khẳng định vai trò quan trọng của hiền tài
đối với quốc gia mà còn nêu cao sự cần thiết của việc quan tâm, đào tạo và tạo nhiều cơ
hội phát triển cho hiền tài. Đất nước nào, xã hội nào cũng có những người hiền tài, tuy
nhiên những người hiền tài đó có được phát huy hết những gì mà họ có hay không còn phụ
thuộc vào việc có trọng dụng hay không và trọng dụng của xã hội, đất nước đó. Một đất
nước, một xã hội muốn phát triển cần thiết phải chăm lo bồi dưỡng, trọng dụng hiền tài,
cần trân trọng, tôn vinh những cống hiến, những đóng góp của họ, cần bảo vệ, phát huy
những giá trị quý giá mà họ đã đem lại cho xã hội, cần tạo một môi trường trong sạch, lành
mạnh để người hiền tài được phát huy hết tiềm năng. Cần có sự quan tâm đãi ngộ kịp thời,
đúng đắn với người hiện tại. Vì thế, từ xưa đến nay, các bậc vĩ nhân, các nhà triết học, các
nhà cách mạng tư tưởng, … đều vì con người, hướng về con người bằng tất cả tấm lòng
yêu thương, trân trọng. Con người đã trở thành trung tâm của mọi hoạt động nghiên cứu.
Đặc biệt, với chủ nghĩa Marx – Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh thì vấn đề con người được
nhìn nhận và đánh giá một cách khách quan, đúng bản chất của nó hơn cả.

Tư tưởng của Hồ chủ tịch là một hệ thống những luận điểm khoa học vô cùng to lớn
và sâu sắc trên nhiều lĩnh vực. Đây chính là kho tàng tràn ngập những giá trị nhân văn cao
cả, mà cốt lõi của tư tưởng đó chính là về con người và chiến lược trồng người. Không
phải sự dựa trên những lý tưởng nhân đạo của chủ nghĩa trừu tượng về con người, mà còn
xem xét con người một cách thực tế, như họ băn khoăn, trăn trở về cuộc sống của con
người như thế nào và ở chỗ nào. Vấn đề con người là vấn đề lớn, được đặt lên hàng đầu và

1
là vấn đề trung tâm, xuyên xuốt trong toàn bộ nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh. Tin ở dân
và dựa vào dân, tổ chức và phát huy sức mạnh đoàn kết của toàn bộ nhân dân, bồi dưỡng
và phát huy những năng lực của dân.

Tư tưởng về con người, về việc giải phóng và phát triển con người, coi con người là
nhân tố quyết định thành công của cách mạng luôn quán xuyến trong tư duy, đường lối và
phương pháp lãnh đạo cách mạng của Hồ chí Minh. Người đã bộc bạch ham muốn tột độ
của Người là: “Đất nước được hoàn toàn độc lập, tự do. Đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo
mặc, ai cũng được học hành”. Vì sự ham muốn tột độ đó mà Hồ Chí Minh đã phải trải qua
30 năm bôn ba ở nước ngoài, phải sống xa gia đình, quê hương, đất nước, chịu đựng bao
khó khăn, gian khổ, phải vượt qua vô vàn những gian truân, thử thách để tìm ra chân lý
cách mạng, con đường cách mạng giành độc lập, tự do cho Tổ quốc và hạnh phúc cho nhân
dân.

Vì những lý do chính đáng kể trên, nhóm chúng em quyết định chọn đề tài: “Quan
điểm Hồ Chí Minh về con người và chiến lược trồng người. Vận dụng vào phát triển
nhân lực ở nước ta hiện nay”.

2. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài

Mục tiêu của bài tiểu luận này là tìm hiểu quan điểm của Hồ Chí Minh về con người
và chiến lược trồng người qua đó vận dụng vào sự phát triển của nguồn nhân lực ở nước
ta hiện nay.

Để đạt được mục tiêu này, bài tiểu luận tập trung vào các nhiệm vụ sau:

+ Tìm hiểu rõ về quan điểm của Hồ Chí Minh về con người và chiến lược trồng người

+ Hiểu và vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh về con người và vận dụng
vào thực hiện phát triển nhân lực ở nước ta hiện nay.

2
3. Phương pháp nghiên cứu

Tiểu luận được tiến hành dựa trên các cơ sở sử dụng phối hợp các phương pháp
nghiên cứu sau đây:

+ Nghiên cứu tài liệu, sách, các tạp chí, các thông tin khoa học về kết quả nghiên cứu
có liên quan đến đề tài đã được công bố trên các ấn phẩm và các báo cáo khoa học; các
văn bản chủ yếu về chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước về quan điểm
của Hồ Chí Minh về con người và chiến lược trồng người vận dụng vào thực hiện công
cuộc phát triển nhân lực ở nước ta hiện nay để tiếp thu có chọn lọc các thành quả nghiên
cứu trước đó về những vấn đề có liên quan đến đề tài.

+ Phân tích, tổng hợp những dữ liệu thu thập được làm cơ sở lý luận cho nghiên cứu
đề tài tiểu luận, từ đó xây dựng cách tiếp cận toàn diện, khách quan những nội dung nghiên
cứu.

+ Khảo sát và phân tích tài liệu có được từ thực tiễn thu thập được nhằm vận dụng
nó vào thực hiện chính sách đại đoàn kết kết giáo ở nước ta hiện nay.

+ Kết hợp cùng các phương pháp như: phân tích – tổng hợp, lịch sử – logic, tổng hợp
– khái quát hóa, đối chiếu – so sánh, thống kê, …

3
PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI VÀ


CHIẾN LƯỢC TRỒNG NGƯỜI

1.1. Cơ sở hình thành quan điểm của hồ chí minh về con người và chiến lược
trồng người

Ở Hồ Chí Minh, có sự cảm nhận, thông cảm sâu sắc với thân phận những người cùng
khổ và nô lệ lầm than. Nhưng không phải là sự cảm thông kiểu tôn giáo; ngược lại, người
có niềm tin vững chắc và trí tuệ, bản lĩnh của con người, ở khả năng tự giải phóng của
chính bản thân con người. Người làm hết sức để xây dựng, rèn luyện con người và quyết
tâm đấu tranh để đem lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho con người. Người xác định con
người là mục tiêu trong điều kiện cụ thể của từng giai đoạn cách mạng. Khi đất nước còn
nô lệ, lầm than thì mục tiêu trước hết trên hết là giải phóng dân tộc. giành độc lập dân tộc.
Sau khi chính quyền đã về tay nhân dân, thì mục tiêu ăn, mặc, ở, đi lại, học hành, chữa
bệnh lại được ưu tiên hơn, bởi vì, "nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự
do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì". Vì vậy chúng ta phải thực hiện ngay: Làm cho
dân có ăn. Làm cho dân có mặc. Làm cho dân có chỗ ở. Làm cho dân có học hành. Đến di
chúc, Người viết: "Đầu tiên là công việc đối với con người".

Nếu như luận điểm về con người là một sợi chỉ đỏ xuyên suốt của tư tưởng Hồ Chí
Minh, thì vấn đề “trồng người” lại chiếm vị trí quan trọng trong luận điểm xuyên suốt ấy
và hành động của người trong suốt cuộc đời hành động cách mạng của mình. Ngay từ khi
còn tìm đường cứu nước, trong tác phẩm “bản án chế độ thực dân”, từ năm 1925, người đã
lên án thực dân Pháp “không những đầu độc nhân dân An Nam bằng rượu và thuốc phiện,
mà còn thi hành chính sách ngu dân để trị”. Khi chưa giành được chính quyền. Người đã
chủ trương “Khi cách mạng thành công, sẽ thực hiện nền giáo dục cách mạng”. Người cho
“hiền dữ đâu phải là tính sẵn phần nhiều do giáo dục mà nên”. Người khác khao biến khác
vọng “khai dân trí” của cha ông thành hiện thực và đưa sự nghiệp “trồng người” trở thành

4
sự nghiệp chiến lược. Sau cách mạnh tháng 8 – 1945 thành công, nào là thù trong, giặc
ngoài, nào là chết đói ,mà Người vẫn để “giặc dốt” ở trên “giặc ngoại xâm”. Ngày 3/9/1945,
trong phiền họp đầu tiên của chính phủ bàn sáu vấn đề cấp bách của nhà nước Việt Nam
non trẻ, Người để “nạn dốt” là vấn đề thứ hai, chỉ xếp sau nạn đói. Người nói “Một dân
tộc dốt là một dân tộc yếu” và Người đề nghị mở một “Chiến dịch chống nạn mù chữ”. Có
thể nói từ khi giành được chính quyền, Người đã thực hiện sự nghiệp “khai dân trí” rộng
lớn và đều khắp chưa từng có trong lịch sử nước ta. Sự nghiệp đó đã thu được thành công
hết sức to lớn, mặc dù sự nghiệp đó được tiến hành trong điều kiện chiến tranh ác liệt.
Trong thư gửi cho học sinh tháng 9 – 1945, Người viết “Non sông Việt Nam có trở nên
tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các
cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ mộ phần lớn ở công học tập của các
em”. Qua mấy dòng ngắn ngủi, chúng ta đủ thấy người đánh giá vai trò lớn lao của giáo
dục đào tạo ích cảu việc học tập như thế nào.

Hồ Chí Minh có niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh vĩ đại và năng lực sáng tạo của
quần chúng. Niềm tin vào sức mạnh của dân còn được nhận thức từ mối quan hệ giữa nhân
dân với Đảng và Chính phủ. Hồ Chí Minh chỉ rõ: Nếu không có nhân dân thì Chính phủ
không đủ lực lượng: nếu không có Chính phủ thì nhân dân không có ai dẫn đường. Đảng
lãnh đạo nhưng nhân dân là chủ. Dân như nước, bộ đội như cá. Lực lượng bao nhiêu là
nhờ ở dân hết. Tin dân, học dân, tôn trọng dân, dựa vào dân theo đúng đường lối quần
chúng sẽ tạo nên sức mạnh vô địch. Bởi vì, sự nghiệp cách mạng giành độc lập dân tộc và
xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ có thể thực hiện được với sự giác ngộ đầy đủ và lao động
sáng tạo của hàng chục triệu quần chúng nhân dân.

Hồ Chí Minh tin ở dân còn xuất phát từ niềm tin vào tình người. Đã là người cộng
sản thì phải tin nhân dân và niềm tin quần chúng sẽ tạo nên sức mạnh cho người cộng sản.
Người nói: dân tộc ta là một dân tộc anh hùng.

5
1.2. Nội dung quan điểm của hồ chí minh về con người và chiến lược trồng
người

Tuy không có một tác phẩm nào bàn riêng về con người, nhưng quan niệm về con
người lại được hiểu thật đa dạng, phong phú, trở thành một vấn đề xuyên suốt, trong toàn
bộ hệ thống tư tưởng của Người. Trong quan niệm của Hồ Chí Minh: Chữ người, nghĩa
hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là
cả loài người.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh con người là một thực thể thống nhất giữa cái “riêng”
và cái “chung” con người tồn tại trong mối quan hệ biện chứng giữa cá nhân với cộng
đồng, dân tộc, giai cấp, nhân loại; yêu thương con người, tin tưởng tuyệt đối ở con người,
coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp giải phóng xã hội và giải
phóng chính bản thân con người.

1.2.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người

“Con người” là vốn quý nhất, nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp cách
mạng:

+ Theo Hồ Chí Minh, “trong bầu trời không quý bằng nhân dân. trong thế giới không
gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Vì vậy, “vô luận việc gì, đều do người
làm ra, và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa, đều thế cả”. Người cho rằng “việc dễ mấy không
có nhân dân cũng chịu, việc khó mẩy có dân liệu cũng xong”. Nhân dân là người sáng tạo
ra mọi giá trị vật chất và tinh thần. Hồ Chí Minh tổng kết ngắn gọn: dân ta tổt lắm. Người
phân tích phẩm chất tốt đẹp của dân từ lòng trung thành và tin tưởng vào cách mạng, vào
Đảng, không sợ gian khố, tù đày, hy sinh đến việc dân nhường cơm sẻ áo, chở che, đùm
bọc, bảo vệ, nuôi nấng bộ đội và cán bộ cách mạng.

+ Trong sự nghiệp xây dựng đất nước, Hồ Chí Minh đã nhận rõ: “Muốn xây dựng
chủ nghĩa xã hội, trước hết phải có con người xã hội chủ nghĩa”, “có dân thì có tất cả”.

6
+ Dân ta là tài năng, trí tuệ và sáng tạo, họ biết “giải quyết nhiều vấn đề một cách
giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi
không ra”. Đặc biệt là lòng sốt sắng, hăng hái của dân để thực hiện con đường cách mạng.
Hồ Chí Minh có niềm tin vững chắc rằng với tinh thần quật cường và lực lượng vô tận của
dân tộc ta, với lòng yêu nước và chí kiên quyết của nhân dân và quân đội ta, chẳng những
chúng ta có thể thắng lợi, mà chúng ta nhất định thắng lợi.

“Con người” vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng – phải coi trọng, chăm
sóc, phát huy nhân tố con người:

+ Con người là mục tiêu của cách mạng nên mọi chủ trương, đường lối, chính sách
của Đảng, Chính phủ đều vì lợi ích chính đáng của con người. Có thể là lợi ích lâu dài, lợi
ích trước mắt: lợi ích cả dân tộc và lợi ích của bộ phận, giai cấp, tầng lớp và cá nhân. Với
hoạt động thực tiễn thì việc gì lợi cho dân, dù nhỏ mấy, ta phải hết sức làm. Việc gì hại
cho dân, dù nhỏ mấy, ta phải hết sức tránh.

+ Niềm tin vào sức mạnh của dân được nhận thức từ mối quan hệ giữa nhân dân với
Đảng và Chính phủ. Hồ Chí Minh chỉ rõ: Nếu không có nhân dân thì Chính phủ không đủ
lực lượng: nếu không có Chính phủ thì nhân dân không có ai dẫn đường. Đảng lãnh đạo
nhưng nhân dân là chủ. Dân như nước, bộ đội như cá. Lực lượng bao nhiêu là nhờ ở dân
hết. Tin dân, học dân, tôn trọng dân, dựa vào dân theo đúng đường lối quần chúng sẽ tạo
nên sức mạnh vô địch. Bởi vì, sự nghiệp cách mạng giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ
nghĩa xã hội chỉ có thể thực hiện được với sự giác ngộ đầy đủ và lao động sáng tạo của
hàng chục triệu quần chúng nhân dân.

1.2.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về chiến lược trồng người

“Trồng người” là yêu cầu khách quan, vừa cấp bách, vừa lâu dài của cách mạng:

+ Trên cơ sở khẳng định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng.
Hồ Chí Minh rất quan tâm đến sự nghiệp giáo dục, đào tạo, rèn luyện con người. Người

7
nói đến “lợi ích trăm năm” và mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội là những quan điểm
mang tầm vóc chiến lược, cơ bản, lâu dài, nhưng cũng rất cấp bách. Nó liên quan đến
nhiệm vụ “trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa” và “trồng người”. Tất cả
những điều này phản ánh tư tưởng lớn về tầm quan trọng có tính quyết định của nhân tố
con người: tất cả vì con người, do con người.

Chiến lược “trồng người” là một trọng tâm, một bộ phận hợp thành của chiến lược
phát triển kinh tế:

+ Để thực hiện chiến lược “trồng người”, cần có nhiều biện pháp, nhưng giáo dục và
đào tạo là biện pháp quan trọng bậc nhất. Bởi vì giáo dục tốt sẽ tạo ra tính thiện, đem lại
tương lai tươi sáng cho thanh niên. Ngược lại, giáo dục tồi sẽ ảnh hưởng xấu đến thanh
niên.

+ Nội dung và phương pháp giáo dục phải toàn diện về cả đức, trí, thể, mỹ; phải đặt
đạo đức, lý tưởng và tình cảm cách mạng, lối sống xã hội chủ nghĩa lên hàng đầu. Hai mặt
đức, tài thống nhất với nhau, không tách rời nhau, trong đó đức là gốc, là nền tảng cho tài
năng phát triển. Phải kết hợp giữa nhận thức và hành động, lời nói với việc làm, … có như
vậy mới có thể “học để làm người”.

“Trồng người” là công việc “trăm năm”, không thể nóng vội “một sớm một chiều”,
không phải làm một lúc là xong cũng không phải tùy tiện, đến đâu hay đến đó. Nhận thức
và giải quyết vấn đề này có ý nghĩa thường trực, bền bỉ trong suốt cuộc đời mỗi con người,
trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh cho rằng: “Việc học không
bao giờ cùng, còn sống còn phải học”.

1.3. Ý nghĩa và luận điểm

Trong kháng chiến thì cần phải xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, “xúc tiến công
tác văn hóa để đào tạo con người mới và cán bộ mới cho công cuộc kháng chiến kiến

8
quốc”. Trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, Người khẳng định: “Muốn xây dựng chủ nghĩa
xã hội thì trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”.

Trong hành trình hơn 60 năm tìm đường cứu nước và lãnh đạo cách mạng nhờ tư
tưởng về con người của Hồ Chí Minh đã gieo cho thế hệ sau những “mầm giống”, những
suy nghĩ đúng đắn hơn con người nói chung và nguồn lao động nói riêng. Chính những tư
tưởng của Người đã mang lại một cái nhìn mới cho sự phát triển của nước Việt Nam trong
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Người đã sáng lập và rèn luyện Đảng ta, là đại diện của giai cấp công nhân, nhân dân
lao động và của cả dân tộc, là một cái tên được hình thành từ con người và vì con người,
nên trong cuộc đời cách mạng của mình, Hồ Chí Minh hết sức quan tâm đến Đảng và công
tác xây dựng Đảng và những con người ngày nay sẽ luôn nối tiếp tư tưởng để đảm đương
vai trò của Người chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam.

“Con người mới”, “Con người xã hội chủ nghĩa” trong chiến lược “Trồng người” của
Hồ Chí Minh là những con người phát triển toàn diện, vừa kế thừa những giá trị tốt đẹp
của con người truyền thống, vừa hình thành được những phẩm chất và năng lực mới. Họ
có thể xuất hiện trong công nhân, nông dân, lao động trí óc và các tầng lớp xã hội khác; họ
có thể là thiếu niên, nhi đồng, là thanh niên, là phụ nữ, trong lực lượng vũ trang và nhất là
đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng, … Tất cả đều có thể phấn đấu thành những con người
mới xã hội chủ nghĩa.

Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa:

+ Con người xã hội chủ nghĩa đương nhiên phải do chủ nghĩa xã hội tạo ra. Nhưng ở
đây trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội thì “trước hết cần có những con người xã hội
chủ nghĩa”. Điều này cần đươc hiểu là ngay từ đầu phải đặt ra nhiệm vụ xây dựng con
người có những phẩm chất cơ bản, tiêu biểu cho con người mới xã hội chủ nghĩa, làm
gương, lôi cuốn xã hội. Công việc này là một quá trình lâu dài, không ngừng hoàn thiện,
nâng cao và thuộc về trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, gia đình, cá nhân mỗi người.

9
+ Mỗi bước xây dựng những con người như vậy là một nấc thang xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Đây là mối quan hệ biện chứng giữa “xây dựng chủ nghĩa xã hội” và “con người
xã hội chủ nghĩa”.

+ Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người mới xã hội chủ nghĩa có hai mặt gắn bó
chặt chẽ với nhau. Một là kế thừa những giá trị tốt đẹp của con người truyền thống (Việt
Nam và phương Đông). Hai là, hình thành những phẩm chất mới như: có tư tưởng xã hội
chủ nghĩa: có đạo đức xã hội chủ nghĩa; có trí tuệ và bản lĩnh để làm chủ (bản thân, gia
đình, xã hội, thiên nhiên, …); có tác phong xã hội chủ nghĩa; có lòng nhân ái, vị tha, độ
lượng.

Đối với mỗi người chúng ta, hễ là con dân Đất Việt, dù ở đâu, làm công việc gì,
không phân biệt trẻ già, trai gái, dân tộc, tôn giáo, địa vị, … đều thấm nhuần tư tưởng đạo
đức Hồ Chí Minh, trong đó “chiến lược trồng người” là một nội dung cốt lõi để chúng ta
học tập và vận dụng vào thực tiễn nhằm không ngừng hoàn thiện mình cả về nhân cách, trí
tuệ, đạo đức và lối sống để phấn đấu trở thành con người “vừa hồng vừa chuyên”. Bằng
tất cả tấm lòng của mình, chúng con xin kính dâng lên Người sự thành kính và biết ơn –
nhân kỉ niệm 45 năm toàn Đảng, toàn Dân và toàn Quân ta thực hiện di chúc của Bác.

10
CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG ẤY CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CON
NGƯỜI VÀ CHIẾN LƯỢC TRỒNG NGƯỜI VÀO PHÁT TRIỂN NGUỒN
NHÂN LỰC NƯỚC TA HIỆN NAY

2.1. Thực trạng về nguồn nhân lực nước ta hiện nay

Nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay có các đặc điểm sau:

+ Nguồn nhân lực khá dồi dào, nhưng chưa được sự quan tâm đúng mức; chưa được
quy hoạch, khai thác; chưa được nâng cấp; chưa được đào tạo đến nơi đến chốn.

+ Chất lượng nguồn nhân lực chưa cao, dẫn đến tình trạng mâu thuẫn giữa lượng và
chất.

+ Sự kết hợp, bổ sung, đan xen giữa nguồn nhân lực từ nông dân, công nhân, trí thức,
… chưa tốt, còn chia cắt, thiếu sự cộng lực để cùng phối hợp thực hiện sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Việt Nam hiện nay đang nằm trong giai đoạn có tỷ lệ dân số vàng đáng ngưỡng mộ.
Tại các quốc gia không có được tỷ lệ dân số vàng như chúng ta, điển hình là các nước Bắc
Âu, hay dựa vào các nghiên cứu đánh giá, phân tích các chính sách tận dụng cơ hội dân số
“vàng” của các nước Đông Ávà Đông Nam Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan,
Singapore, … thì nguồn nhân lực là một trong những nội dung chính phải quan tâm. Thực
tế, để đạt những kỳ tích về phát triển kinh tế – văn hoá – xã hội, hầu hết các quốc gia kể
trên đã chia sẻ về việc triệt để tận dụng nguồn nhân lực chất lượng cao của quốc gia mình,
thậm chí là đầu tư để vận dụng nguồn nhân lực của nước khác để phục vụ cho nước mình,
qua đó mỗi cá nhân đã trở thành động lực thúc đẩy cho sự phát triển, và phồn vinh của đất
nước họ.

Việt Nam hiện có một đội ngũ nhân lực khá dồi dào so với nhiều nước trong khu vực
và trên thế giới. Hiện nay, nước ta có trên 49,2 triệu người trong độ tuổi lao động trên tổng
số 85,79 triệu người (chiếm 57,3%), đứng thứ 3 ở Đông Nam Á (sau Indonesia và

11
Phillippines) và đứng thứ 13 trên thế giới về quy mô dân số. Số người trong độ tuổi từ 20
đến 39 khoảng 30 triệu người, chiếm 35% tổng dân số và chiếm 61% lực lượng lao động,
đây là lực lượng có thể tham gia xuất khẩu lao động. Sức trẻ là đặc điểm nổi trội, là tiềm
năng nguồn nhân lực Việt Nam, là yếu tố rất thuận cho việc tuyển chọn lao đông đi làm
việc ở nước ngoài.

Cơ cấu lực lượng lao động phân theo 2 khu vực thành thị và nông thôn cũng có sự
chênh lệch lớn. Nhìn chung, lực lượng lao động ở nước ta chủ yếu tập trung ở khu vực
nông thôn, chiếm khoảng gần 70%. Con số này có xu hướng giảm qua các năm nhưng vẫn
ở mức cao. Cả nước hiện có khoảng 17 triệu thanh niên nông thôn có độ tuổi từ 15 – 30,
chiếm 70% số thanh niên và 60% lao động nông thôn. Tuy nhiên, 80% trong số này chưa
qua đào tạo chuyên môn. Đặc điểm này là trở ngại lớn cho lao động nông thôn trong tìm
kiếm việc làm. Tính đến năm 2017, dân số trong độ tuổi lao động của Việt Nam là hơn
72,04 triệu người (chiếm khoảng 75% tổng dân số cả nước), trong đó, tỷ lệ tham gia lực
lượng lao động đạt 75,5%, với 54,4 triệu người. So với năm 2010 (tỷ lệ tham gia lực lượng
lao động là 75%), lực lượng lao động tính đến năm 2017 tăng cả về tỷ lệ và số lượng tuyệt
đối.Chính vì như thế đã đặt ra không ít các vẫn đề nan giải ví dụ như: lao động phân bổ
không đều giữa các vùng, chất lượng lao động thấp, chủ yếu là lao động nông nghiệp, nông
thôn, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển, còn nhiều rào cản, hạn chế trong dịch chuyển
lao động vì nguồn lao động ở các vùng khó có thể tiếp cận.

Báo chí nước ngoài thường bình luận người Việt Nam thông minh, rất nhanh nhạy
trong việc nắm bắt và tiếp thu cái mới. Tiếc rằng nguồn nhân lực này lại chưa được khai
thác đầy đủ, đào tạo chưa bài bản, điều đó ảnh hưởng đến chất lượng nhân lực và ảnh
hưởng đến sự phát triển kinh tế – xã hội Việt Nam.

Theo các chuyên gia, để phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam trước mắt và lâu dài
cần phải tính đến yếu tố chất lượng sinh đẻ và yếu tố bồi dưỡng sức dân. Không thể nói
đến phát triển nguồn nhân lực khi sinh ra những đứa trẻ còi cọc, ốm yếu. Không thể nói
đến phát triển nguồn nhân lực khi sức dân không được bồi dưỡng. Vấn đề này liên quan

12
đến hàng loạt các yếu tố khác như chính sách xã hội, chính sách y tế, chính sách tiền lương,
chính sách xây dựng cơ sở hạ tầng, … Các vấn đề này hiện vẫn chưa được giải quyết một
cách cơ bản. Không thể nói đến nhân lực chất lượng cao khi chất lượng giáo dục đại học
còn thấp; kết cấu hạ tầng còn rất thấp kém; tỷ lệ lao động mới qua đào tạo mới chỉ có từ
30 đến 40%; trình độ ngoại ngữ, khả năng sử dụng máy tính, công nghệ thông tin kém, …

2.2. Chính sách của đảng và nhà nước về xây dựng, phát triển nguồn nhân lực
nước ta hiện nay

Nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao đóng vai trò quyết định
đối với sự phát triển kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng
công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, Đảng và Nhà nước ta càng đặc biệt coi trọng
việc xây dựng, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế hiện nay. Trong tiến
trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, nhất là trong thời kỳ đổi mới, quan điểm chỉ đạo cơ
bản của Đảng ta là đặt con người vào vị trí trung tâm của quá trình phát triển, coi con người
vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Chính nhờ những sự lãnh đạo
và chủ trương như vậy, nước ta đã sỡ hữu cho mình ko ít những thành tựu to lớn trong khu
vực cũng như toàn thế giới, giúp nâng tầm đất nước mình lên trong công cuộc xây dựng
phát triển đất nước, sánh vai cường quốc năm châu mà Bác Hồ đã từng mong muốn.

Để đạt những thành tựu đó, Đảng và nhà nước ta đã có nhiều chính sách nhằm phát
huy nguồn lực con người. Thông qua các đại hội Đảng thường kì, Đảng và nhà nước đã
nhấn mạnh vai trò, sức mạnh của nguồn nhân lực chất lượng cao trong công cuộc đổi mới
đất nước. Đảng và nhà nước ta thông qua các đại hội trên đã đưa ra rất nhiều giải pháp như
thành lập các hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về phát triển nhân lực. Đây được coi như
là cầu nối gần nhất để nguồn nhân lực có thể tiếp cận với các sự hỗ trợ,chủ trương của nhà
nước, giúp họ vượt qua khó khăn để nâng cao tay nghề bản thân. Trong đại hội XII có đánh
giá: “Phát triển nguồn nhân lực và ứng dụng khoa học, công nghệ còn chậm. Chất lượng
giáo dục, đào tạo, nhất là giáo dục đại học và đào tạo nghề cải thiện còn chậm, thiếu lao

13
động chất lượng cao. Hệ thống giáo dục còn thiếu tính liên thông, chưa hợp lý và thiếu
đồng bộ”; “Khoa học, công nghệ chưa thực sự trở thành động lực để nâng cao năng suất
lao động, năng lực cạnh tranh, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội”, … Đây chính là động
lực thúc đẩy nhà nước tăng cường việc giáo dục nhân lực. Bằng cách áp dụng những
phương pháp hướng dẫn mới, nguồn nhân lực dần nắm rõ được các thông tin mới, các
trang thiết bị hiện đại, … giúp nguồn nhân lực dần trở nên phát triển, không còn lạc hậu
và bị bỏ lại phía sau, từ đó tiến gần với những mục tiêu đã được Đảng và nhà ta đặt ra ban
đầu.

Bên cạnh đó, Đảng và nhà nước ta đã ưu tiên phát triển nguồn nhân lực cho các lĩnh
vực then chốt; tạo bước chuyển biến cơ bản về chất lượng giáo dục, đào tạo; đẩy mạnh
chuyển giao, ứng dụng và phát triển khoa học – công nghệ; đổi mới sáng tạo, khơi dậy
khát vọng phát triển, phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam. Đây cũng là
bước đột phá chiến lược trong điều kiện trình độ phát triển kinh tế – xã hội còn thấp khi
bước vào nền kinh tế tri thức, cách mạng công nghiệp 4.0, hội nhập quốc tế, … Do đó, yêu
cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là trí lực có ý nghĩa quyết định tới sự thành
công của sự nghiệp đổi mới và phát triển bền vững. Nguồn lực con người, vốn, tài nguyên
thiên nhiên, cơ sở vật chất – kỹ thuật, khoa học – công nghệ, … có mối quan hệ nhân –
quả với nhau, trong đó nguồn nhân lực được xem là nguồn lực quan trọng nhất, chi phối
các nguồn lực khác và quá trình phát triển kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia. So với các
nguồn lực khác, nguồn nhân lực với yếu tố hàng đầu là trí tuệ, chất xám có ưu thế nổi bật
là không bị cạn kiệt nếu biết bồi dưỡng, khai thác và sử dụng hợp lý.

Ngoài ra, Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn như khoảng cách giữa giáo dục nghề
nghiệp và nhu cầu thị trường vẫn còn rất lớn. Hằng năm, có hàng ngàn sinh viên tốt nghiệp
ra trường nhưng các doanh nghiệp vẫn trong tình trạng khan hiếm lao động ở nhiều vị trí.
Bên cạnh đó, trình độ ngoại ngữ của nguồn nhân lực Việt Nam còn khá thấp so với mặt
bằng chung trên thế giới. Vì thế, Việt Nam gặp nhiều khó khăn trong quá trình hội nhập.
Vì thế Đảng và nhà nước ta đã cố gắng hết sức tạo thật nhiều cơ hội để hỗ trợ phát triển
nhân lực như cung cấp công cụ thực hành, tài trợ cho những tay nghề cao có cơ hội tiếp
14
cận các ngành công nghiệp thế giới, nhờ người nước ngoài có kiến thức cao giảng dạy để
nguồn lao động. Từ đó, họ có thể trau dồi, bồi dưỡng thêm cho tay nghề kĩ thuật của mình,
từ đó tránh việc bị thay thế hay phụ thuộc vào các lao động nước ngoài có tay nghề cao.
Tuy nhiên việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cần phải hiểu đúng để có các chính
sách tập trung phát triển hiệu quả, tránh việc hiểu sai lệch và đầu tư một cách vô nghĩa gây
ra lãng phí.

Để phát huy vai trò của nguồn nhân lực cao, Nhà nước cần tiến hành điều tra, khảo
sát thường xuyên về nhân lực và chất lượng nhân lực ở tất cả các ngành, các cấp, địa
phương và cả nước; bảo đảm cân đối cung – cầu nhân lực để phát triển kinh tế – xã hội
trong phạm vi cả nước và từng ngành, từng cấp. Đây là giải pháp giúp chúng ta xác định
được số lượng, chất lượng và cơ cấu nguồn nhân lực. Đảng và nhà nước cần bảo đảm chất
lượng và hiệu quả của công tác quy hoạch, bổ nhiệm, thi tuyển và đãi ngộ. Làm tốt công
tác này sẽ tạo ra những chuyển biến tích cực, bền vững về mặt số lượng và chất lượng cũng
như sự phân bổ hợp lý nguồn nhân lực. Để thu hút, trọng dụng nhân tài và nguồn nhân lực
chất lượng cao, việc đãi ngộ là một nội dung cần được chú trọng bởi việc sắp xếp cán bộ
đúng chuyên môn, phát huy được khả năng, có chế độ lương, thưởng thỏa đáng sẽ giúp họ
có thể yên tâm, có điều kiện toàn tâm, toàn ý cho công việc.

Vì công cuộc đổi mới, nâng cao nhân lực là một cuộc chiến lâu dài, do đó để phát
triển được nguồn nhân lực chất lượng cao, Đảng và nhà nước cần có chiến lược và giải
pháp mang tính lâu dài, nhất là phải tạo đột phá về chất lượng giáo dục và đào tạo, không
tham lam cái lợi tức thời mà trở nên vội vàng trong quyết định. Nếu không, chủ trương
phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao sẽ khó thực hiện được. Bên cạnh đó, Đảng và
nhà nước cần có cho mình những nước đi đúng đắn nhất cho cả quốc gia, “hòa nhập nhưng
không hòa tan”, tránh bị các thế lực thù địch lợi dụng, phá họa gây tổn thất đến nỗ lực ban
đầu mà toàn dân đã làm được.

Với những đột phá được xác định trong báo cáo chính trị Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XIII khẳng định một lần nữa sự ưu tiên phát triển nguồn nhân lực của Đảng ta. Do

15
đó, việc nghiên cứu đưa Nghị quyết của Đảng vào cuộc sống là việc cần thiết để các cấp,
các ngành triển khai vào quá trình xây dựng, hoạch định chính sách về phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.

2.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả trong xây dựng và phát triển nguồn nhân
lực nước ta hiện nay

Về vấn đề đào tạo, cần đổi mới chất lượng giáo dục, đào tạo theo hướng quản lý chất
lượng giáo dục, đào tạo, đồng thời tăng quyền tự chủ của các cơ sở đào tạo. Giao cho một
số cơ quan nhà nước cùng với các tổ chức xã hội nghề nghiệp nhanh chóng xây dựng các
cơ sở đánh giá và kiểm định chất lượng lao động qua đào tạo, cấp giấy phép hành nghề.
Đối với cán bộ, công chức, viên chức cũng cần được kiểm định chất lượng đầu vào để bảo
đảm chất lượng cần có của mỗi cán bộ, công chức, viên chức, bảo đảm chất lượng trong
cơ quan nhà nước, tránh việc tuyển dụng dựa vào mối quen thân, nể nang, … Bên cạnh đó,
cần xây dựng chiến lược đào tạo, quy hoạch cụ thể theo từng ngành nghề then chốt để phát
triển đất nước nhanh và bền vững. Tập trung vào một số mũi nhọn, như: kinh tế tri thức,
kinh tế số, phân tích dữ liệu, công nghệ sinh học, vật liệu mới, thương mại điện tử, ứng
phó với biến đổi khí hậu, quản trị phát triển xã hội, … tránh việc đầu tư đào tạo nhiều nơi,
nhiều lĩnh vực nhưng hiệu quả thì thấp. Việc đào tạo lãnh đạo cũng nắm một phần rất lớn
trong sự phát triển của nguồn nhân lực. Theo Nghị quyết Đại hội XIII, điểm mấu chốt trong
giai đoạn phát triển mới hiện nay là là ưu tiên phát triển nguồn nhân lực cho công tác lãnh
đạo, quản lý. Với sự phát triển của đất nước, chất lượng đội ngũ lãnh đạo quản lý luôn là
vấn đề quyết định. Giai đoạn nào cũng cần những người lãnh đạo, người đứng đầu có năng
lực phẩm chất, có năng lực quản trị tốt nhằm góp phần đưa đất nước phát triển. Có lãnh
đạo đủ tâm, đủ tầm, phong trào sẽ đi lên và ngược lại. Tuy nhiên, cần phải xác định được
tiêu chuẩn cho từng nhóm vị trí việc làm và khung năng lực cụ thể cho mỗi vị trí việc làm
đó để từ đó dễ dàng lựa chọn người lãnh đạo, quản lý. Việc phát triển nguồn nhân lực, nhất
là nguồn nhân lực lãnh đạo quản lý thì cần phải đổi mới hoạt động đào tạo, bồi dưỡng theo
hướng nâng cao chất lượng chứ không phải yêu cầu về chứng chỉ như hiện nay. Các chương

16
trình đào tạo, bồi dưỡng nên tổ chức trong khoảng thời gian ngắn nhưng cần được cập nhật
thường xuyên hằng năm.

Về vấn đề sử dụng con người, các nhà tuyển dụng cần phải có cho mình những suy
nghĩ hợp lý trong việc tuyển chọn và sử dụng nhân lực. Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế
cho thấy, muốn đạt được thành công trong chiến lược phát triển của mình thì phải chú
trọng đến vai trò quan trọng của yếu tố con người, nhất là nhân tài, là nguồn lực tạo ra thế
mạnh cạnh tranh. Do đó, việc thu hút người tài cần trở thành ưu tiên hàng đầu đối với mỗi
tổ chức. Đây cũng chính là lý do để nguồn nhân lực hiện nay cố gắng đã được. Với những
công ty, nơi làm việc có chế độ đãi ngộ cao thì đây chính là động lực thúc đẩy để nguồn
lao động trau dồi, phát triển bản thân để phù hợp với công việc ấy. Bên cạnh đó, việc thực
hiện đẩy mạnh chuyển giao, ứng dụng và phát triển khoa học – công nghệ; đổi mới sáng
tạo, khơi dậy khát vọng phát triển, phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam.

Để phát triển nhanh phải phát triển dựa vào đổi mới sáng tạo trên cơ sở đẩy mạnh
ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại. Đồng thời, phát huy hệ giá trị văn hóa, sức mạnh
con người Việt Nam theo đúng tinh thần Đại hội XIII của Đảng: “Thực hiện những giải
pháp đột phá nhằm ngăn chặn có hiệu quả sự xuống cấp về đạo đức, lối sống, đẩy lùi tiêu
cực và các tệ nạn xã hội. Bảo vệ và phát huy các giá trị tốt đẹp, bền vững trong truyền
thống văn hoá Việt Nam. Đẩy mạnh giáo dục, nâng cao nhận thức, ý thức tôn trọng và
chấp hành pháp luật, bảo vệ môi trường, giữ gìn bản sắc văn hoá, dân tộc của người Việt
Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ. Từng bước vươn lên khắc phục các hạn chế của con người Việt
Nam; xây dựng con người Việt Nam thời đại mới, gắn kết chặt chẽ, hài hoà giữa giá trị
truyền thống và giá trị hiện đại”.

Nhà nước cũng đóng vai trò rất lớn trong việc phát triển nguồn nhân lực. Tập trung
hoàn thiện bộ máy quản lý phát triển nguồn nhân lực, đổi mới phương pháp quản lý, nâng
cao năng lực, hiệu lực và hiệu quả hoạt động bộ máy quản lý về phát triển nguồn nhân lực.
Đổi mới các chính sách, cơ chế, công cụ phát triển và quản lý nguồn nhân lực bao gồm các
nội dung về môi trường làm việc, chính sách việc làm, thu nhập, bảo hiểm, bảo trợ xã hội,

17
điều kiện nhà ở và các điều kiện sinh sống, định cư, chú ý các chính sách đối với bộ phận
nhân lực chất lượng cao, nhân tài. Điều này sẽ là cơ hội cũng như là thách thức cho nhà
nước chúng ta. Bên cạnh đó việc phân bổ và sử dụng hợp lý Ngân sách Nhà nước dành cho
phát triển nhân lực quốc gia cũng góp một phần không nhỏ cho sử phát triển nhân lực. Cần
xây dựng kế hoạch phân bổ ngân sách nhà nước theo hướng tập trung đẩy mạnh thực hiện
các chương trình, dự án đào tạo theo mục tiêu ưu tiên và thực hiện công bằng xã hội. Đẩy
mạnh xã hội hoá để tăng cường huy động các nguồn vốn cho phát triển nhân lực. Nhà nước
có cơ chế, chính sách để huy động các nguồn vốn của người dân đầu tư và đóng góp cho
phát triển nhân lực bằng các hình thức: Trực tiếp đầu tư xây dựng cơ sở giáo dục, đào tạo,
cơ sở y tế, văn hoá, thể dục thể thao; Hình thành các quỹ hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực,
huy động, phát huy vai trò, đóng góp của doanh nghiệp đối với sự phát triển nhân lực; Đẩy
mạnh và tạo cơ chế phù hợp để thu hút các nguồn vốn nước ngoài cho phát triển nhân lực
Việt Nam. Sử dụng hiệu quả các nguồn vốn của nước ngoài hỗ trợ phát triển nhân lực
(ODA); Thu hút đầu tư trực tiếp (FDI) của nước ngoài cho phát triển nhân lực (đầu tư trực
tiếp xây dựng các cơ sở giáo dục, đào tạo, bệnh viện, trung tâm thể thao, …). Tóm lại,
nâng cao năng lực, tuyên truyền, kiểm tra, giám sát, đánh giá thực hiện dự án, trong đó:
Tăng cường đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho cán bộ quản lý nhà nước
về việc làm; phối hợp với các đơn vị liên quan xây dựng khung chương trình và tổ chức
đào tạo, tập huấn cho đội ngũ tư vấn viên của trung tâm dịch vụ việc làm; Thông tin, tuyên
truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng về lao động, việc làm, nhất là cho lao động
nông thôn, lao động di cư và các đối tượng lao động đặc thù, …

Ngoài ra, việc chủ động hội nhập cũng có vai trò rất quan trong công cuộc xây dựng
lực lượng nhân lực chất lượng cao. Để có thể hội nhập sâu hơn vào môi trường kinh doanh
và phát triển quốc tế với mục tiêu phát triển bền vững nguồn nhân lực chúng ta cần chủ
động hội nhập với những định hướng cơ bản là: Xây dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản
pháp luật về phát triển nguồn nhân lực phù hợp với trình độ phát triển của Việt Nam nhưng
không trái với thông lệ và luật pháp quốc tế về lĩnh vực này mà chúng ta tham gia, ký kết,
cam kết thực hiện; Thiết lập khung trình độ quốc gia phù hợp với khu vực và thế giới. Xây

18
dựng lộ trình nội dung, chương trình và phương pháp giáo dục và đào tạo để đạt được
khung trình độ quốc gia đã xây dựng, phù hợp chuẩn quốc tế và đặc thù Việt Nam; Tham
gia kiểm định quốc tế chương trình đào tạo. Thực hiện đánh giá và quản lý chất lượng theo
tiêu chuẩn quốc tế, liên kết, trao đổi về giáo dục và đào tạo đại học, sau đại học và các đề
tài, dự án nghiên cứu khoa học, công nghệ giữa các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam và
thế giới; Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để thu hút các nhà giáo, nhà khoa học có
tài năng và kinh nghiệm của nước ngoài, người Việt Nam ở nước ngoài tham gia vào quá
trình đào tạo nhân lực đại học và nghiên cứu khoa học, công nghệ tại các cơ sở giáo dục
đại học Việt Nam; Tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ từ ngân sách nhà nước và huy động
các nguồn lực xã hội, kêu gọi đầu tư nước ngoài, thu hút các trường đại học, dạy nghề có
đẳng cấp quốc tế vào Việt Nam hoạt động. Tuy nhiên cần phải tỉnh táo khi tiếp nhận các
văn hóa, công nghệ của các nước, tránh việc dần dần mất đi những bản sắc vốn có của dân
tộc ta.

Khi đất nước ta đang bước vào giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tiếp cận kinh
tế tri thức trong điều kiện sự phát triển kinh tế – xã hội chưa cao thì yêu cầu nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực có ý nghĩa quyết định tới sự thành công của sự nghiệp đổi mới. Đảng
ta xác định phải lấy việc phát huy chất lượng nguồn nhân lực làm yếu tố cơ bản cho sự
phát triển nhanh và bền vững; là điều kiện để rút ngắn khoảng cách tụt hậu, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế và đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nhằm phát
triển bền vững; là điều kiện hội nhập quốc tế sâu rộng.

Do đó, trong chiến lược phát triển đất nước, nguồn nhân lực phải được quan tâm tạo
mọi điều kiện thuận lợi để nâng cao năng lực về trí tuệ, ý chí và niềm tin, … Nguồn nhân
lực có chất lượng cao, với số lượng và cơ cấu hợp lý, giàu trí tuệ, giàu ý chí và khát vọng,
có lý tưởng cách mạng soi sáng, sẽ là động lực để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại, đáp ứng được yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp
lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay.

19
PHẦN KẾT LUẬN

Sau hơn 25 năm thực hiện đường lối đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành
tựu to lớn trên các lĩnh vực, kinh tế, văn hóa, xã hội được bạn bè thế giới ghi nhận. Những
thành tựu đó, chứng minh tính đúng đắn của Đảng và dân tộc ta trong việc lựa chọn con
đường phát triển đất nước và là một minh chứng chứng minh tính đúng đắn của quan điểm
“trồng người” của Hồ Chí Minh. Tóm lại, nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về con
người ở Việt Nam từ khi thành lập Đảng đến nay, đã tạo ra được những câu trả lời cho các
vấn đề nan giải hiện tại – tương lai – triển vọng của chủ nghĩa xã hội ở nước ta, của nhân
dân và dân tộc ta. Đó chính là lý do tại sao phải đặt việc nghiên cứu về phạm trù con người
và vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cần được đặt
lên hàng đầu. Trải qua một khoảng thời gian tuy không dài nhưng sự nghiệp giáo dục –
đào tạo nước ta đã có nhiều bước phát triển về quy mô chất lượng, hình thức đào tạo, cơ
sở vật chất. Mặc dù vậy vẫn không thể hoàn toàn tránh khỏi một số các biến cố như một
số người tốt nghiêp nhưng lại đi làm không đúng ngành nghề, thiếu tự giác, trung thực
trong lao động, thiếu trách nhiệm, không tôn trọng quy trình kỹ thuật, tham ô lãng phí
nguyên vật liệu, cơ cấu đào tạo nhân lực từng vùng chưa hợp lý, … gây ra sự tổn thất về
chất xám cũng như về tài chính. Đây chính là những điểm chưa tốt mà Đảng và nhà nước
đã và đang từng ngày khắc phục. Kết luận rằng nguồn lực con người là nguồn lực có vai
trò quyết định của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Do vậy muốn công
nghiệp hóa, hiện đại hóa thành công thì phải đổi mới cơ bản các chính sách đầu tư vào các
ngành nhằm tạo nguồn nhân lực thích nghi với công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tự tạo định
hướng và giải pháp phát triển thị trường lao động. Đây là nhiệm vụ lớn nhất cũng như khó
khăn nhất trong cuộc đổi mới này. Chính vì thế công cuộc đổi mới là công cuộc do con
người, phụ thuộc vào con người và vì con người.

20
TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Bộ giáo dục và đào tạo (2012), Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản
chính trị quốc gia, Hà Nội.
[2] Phạm Thị Hạnh (2020), Phát triển nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong bối
cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Tạp chí Cộng sản.
[3] TS. Đặng Xuân Hoan (2015), “Phát triển nguồn nhân lực Việt Nam giai đoạn 2015
– 2020 đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc
tế”, Tạp chí Cộng sản điện tử.
[4] Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2008, tr. 91.
[5] Nguyễn Thị Tuyết Mai (2016), Một số vấn đề về phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao ở Việt Nam. Tạp chí Tổ chức nhà nước.
[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t. 11, tr. 528.
[7] Đại tá Trần Thanh Tâm, Chủ tịch Hồ Chí Minh với chiến lược trồng người, Sài Gòn
giải phóng.
[8] Thực trạng lao động Việt Nam và một số vấn đề đặt ra, đường link:
https://laodongphothong.vn/thuc-trang-luc-luong-lao-dong-viet-nam-va-mot-so-
van-de-dat-ra
[9] Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người và chiến lược “Trồng người”,
đường link: https://loigiaihay.com/quan-diem-cua-ho-chi-minh-ve-vai-tro-cua-con-
nguoi-va-chien-luoc-trong-nguoi-c124a20453.html
[10] Nguồn nhân lực Việt Nam: Thực trạng và giải pháp, đường link:
http://domi.org.vn/tin-nghien-cuu/nguon-nhan-luc-viet-nam-thuc-trang-va-giai-
phap.2902.html

You might also like