You are on page 1of 29

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT


THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LÍ LUẬN CHÍNH TRỊ

Quan điểm của Hồ Chí Minh về dân chủ. Vận


TIỂU LUẬN:
dụng vào xây dựng nền dân chủ ở nước ta.

Môn : Tư Tưởng Hồ Chí Minh


Giáo viên hướng dẫn : TS. Thái Ngọc Tăng
Lớp : Tư Tưởng Hồ Chí Minh _ Nhóm 09
Nhóm sinh viên thực hiện : Nhóm 12

- Lê Hoàng Diễm Quyên 20129076


- Nguyễn Trung Quân 19150082
- Phạm Anh Quân 20142564
- Nguyễn Cao Quý 20130056
- Lê Minh Sang ĐIỂM SỐ 19110446

TP HỒ CHÍ MINH Tháng 11 năm 2021


TIÊU CHÍ NỘI DUNG BỐ CỤC TRÌNH BÀY TỔNG

ĐIỂM

NHẬN XÉT
.....................................................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................

Ký tên

TS. Thái Ngọc Tăng


BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ


STT MSSV Họ và tên Nhiệm vụ Kết quả
tên

Thuyết trình, phụ trách lời mở


Lê Hoàng Diễm Quyên Hoàn thành
1 20129076 đầu, kết luận, chỉnh sửa, tổng
(nhóm trưởng) tốt (100%)
hợp nội dung

2 19150082 Nguyễn Trung Quân Phụ trách phần powerpoint Hoàn thành
tốt (100%)

3 20142564 Phụ trách chương I (phần 1,2,3) Hoàn thành


Phạm Anh Quân
tốt (100%)

4 20130056 Phụ trách chương I (phần 4) Hoàn thành


Nguyễn Cao Quý
tốt (100%)

5 19110046 Phụ trách chương II Hoàn thành


Lê Minh Sang
tốt (100%)
MỤC LỤC
A. LỜI MỞ ĐẦU ...................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................. 1
2. Mục tiêu nghiên cứu ............................................................................. 1
3. Đối tượng nghiên cứu........................................................................... 2
4. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................... 2
5. Kết cấu đề tài ........................................................................................ 2
Chương 1. QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN CHỦ ............... 3
1. Dân chủ là gì? ....................................................................................... 3
2. Dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh:................................................. 3
3. Dân chủ trong các lĩnh vực đời sống xã hội......................................... 4
3.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền làm chủ của nhân dân ................................ 4
3.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong lĩnh vực chính trị ........................... 5
3.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong lĩnh vực kinh tế: ............................. 7
3.4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong lĩnh vực văn hoá - xã hội:............ 10
4. Thực hành dân chủ ............................................................................. 12
4.1. Xây dựng và hoàn thiện các chế độ dân chủ rộng rãi ................................... 12
4.2. Phát huy dân chủ đi đôi với tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, đảm bảo
thật sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân ....................................................... 13
4.3. Xây dựng các tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị -
xã hội vững mạnh để đảm bảo dân chủ trong xã hội .............................................. 15
Chương 2. VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VÀO NỀN DÂN
CHỦ NƯỚC TA HIỆN NAY .......................................................................... 16
1. Dân chủ trong lĩnh vực kinh tế:.......................................................... 16
2. Dân chủ trong lĩnh vực chính trị ........................................................ 19
3. Dân chủ trong lĩnh vực văn hóa ......................................................... 21
4. Dân chủ trong lĩnh vực xã hội ............................................................ 22
B. KẾT LUẬN ........................................................................................ 24
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................... 25
A. LỜI MỞ ĐẦU
Trong xu thế hội nhập, kinh tế quốc tế Việt Nam đang ngày một tiến lên sánh
vai cùng các cường quốc năm châu trên thế giới và dần khẳng định vị thế của mình
với các nước bạn về một nền độc lập, tự do, dân chủ. Để đạt được thành quả này là cả
một quá trình đấu tranh gian khổ với những hy sinh mất mát không thể bù đắp được
của bao thế hệ cha ông chúng ta cùng sự cống hiến, hy sinh của cả một dân tộc, trong
đó có những người con kiệt xuất với phẩm chất anh dũng, kiên cường, không sợ khó,
sợ khổ, sẵn sàng hy sinh cho Tổ quốc. Người thanh niên tên Nguyễn Tất Thành đã
một mình bôn ba khắp năm châu bốn bể để tìm ra con đường mang lại độc lập tự do
cho Tổ quốc mình. Nhắc tới người là nhắc tới một vị anh hùng dân tộc, một danh
nhân văn hoá của nhân loại, một vị lãnh tụ tài ba và đặc biệt là người cha già kình
yêu của dân tộc. Học tập ở người là học tập cả một kho tàng kiến thức quý giá mà
không một sách vở nào có thể dạy nổi.

1. Lý do chọn đề tài

Chúng ta tiếp cận với hệ thống tư tưởng của lãnh tụ Hồ Chí Minh, thấm nhuần
tầm quan trọng của hệ thống tư tưởng này trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất
nước, đồng thời hiểu rõ thế nào là độc lập, tự do, dân chủ. Với vai trò quan trọng ấy
cùng mong muốn được tìm hiểu, học hỏi, chia sẻ kiến thức nhóm 12 đã nghiên cứu và
quyết định chọn đề tài “ Quan điểm của Hồ Chí Minh về dân chủ. Vận dụng vào xây
dựng nền dân chủ ở nước ta”.

2. Mục tiêu nghiên cứu

Tìm hiểu sâu và rõ ràng về những quan điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề dân
chủ nhằm giải đáp được thế nào là dân chủ, quan niệm của Hồ Chí Minh về dân chủ.
Đặc biệt là làm rõ được vấn đề về dân chủ trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội cũng như nổi bật lên nội dung của thực hành dân chủ, làm thế nào để xây dựng
Đảng bộ, Nhà nước, Mặt trận và các ban ngành đoàn thể đảm bảo dân chủ và công
bằng xã hội.

1
3. Đối tượng nghiên cứu

Quan điểm của Hồ Chí Minh về dân chủ.

Vận dụng quan điểm Hồ Chí Minh vào nền dân chủ nước ta hiện nay.

4. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài đứng vững trên lập trường của chủ nghĩa Mác Lênin để xem xét mọi vấn
đề liên quan đến tư tưởng Hồ Chí Minh. Thống nhất giữa tính Đảng vô sản và tính
khoa học. Phải kết hợp phương pháp lịch sử, phương pháp lôgic.

Phương pháp nghiên cứu dựa trên cơ sở nắm vững phép duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, vận dụng nguyên lý kế thừa và phát triển
sáng tạo. Vận dụng quan điểm toàn diện và hệ thống, kết hợp khái quát và mô tả, phân
tích và tổng hợp, các phương pháp liên ngành khoa học xã hội và nhân văn. Học tập
phương pháp của Hồ Chí Minh: gắn lý luận với thực tiễn trong quá trình cách mạng
Việt Nam; lý trí cách mạng với tình cảm cao đẹp.

5. Kết cấu đề tài

Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, đề tài
được kết cấu thành 2 mục như sau:

Chương 1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về dân chủ

Chương 2. Vận dụng quan điểm Hồ Chí Minh vào nền dân chủ nước ta hiện nay

2
Chương 1. QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN CHỦ
1. Dân chủ là gì?

- Dân chủ là một hình thức tổ chức thiết chế chính trị của xã hội, trong đó thừa nhận
nhân dân là nguồn gốc của quyền lực. Cùng với sự xuất hiện của Nhà nước, dân chủ là
một phạm trù lịch sử, cũng như các biểu hiện khác của hình thái ý thức xã hội, dân chủ
do sự tồn tại và phương thức sản xuất vật chất của xã hội quyết định, Do đó, trình độ
của phương thức sản xuất khác nhau dẫn đến trình độ dân chủ (mức độ thực hiện dân
chủ và dân chủ hoá trong xã hội) cũng khác nhau. Dân chủ biến đổi và phát triển không
ngừng cả về chất và lượng trong từng giai đoạn phát triển của lịch sử xã hội loài người.

- Mặc dù chưa có một định nghĩa thống nhất về dân chủ, có hai nguyên tắc mà bất kỳ
một định nghĩa dân chủ nào cũng đưa vào. Nguyên tắc thứ nhất là tất cả thành viên của
xã hội (công dân) đều có quyền tiếp cận đến quyền lực một cách bình đẳng; thứ hai,
mọi thành viên (công dân) đều được hưởng các quyền tự do được công nhận rộng rãi.

2. Dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh:

- Quan niệm của Hồ Chí Minh về dân chủ được biểu đạt qua hai mệnh đề ngắn gọn: “
Dân là chủ” và “ Dân làm chủ”.

- “ Dân là chủ”, nghĩa là đề cập đến vị thế của dân.

- “ Dân làm chủ”, nghĩa là đề cập đến năng lực và trách nhiệm của dân.

→ Cả hai vế này luôn đi đôi với nhau, và thể hiện vị trí, vai trò, quyền và trách
nhiệm của dân.

- Như vậy thông qua quan điểm rất ngắn gọn về dân chủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
nêu lên hai nội dung quan trọng của dân chủ. Thứ nhất, dân chủ tồn tại với tư cách là
quyền của nhân dân, quyền được làm chủ chính quyền, làm chủ nhà nước, làm chủ chế
độ, quyền lựa chọn, xây dựng nên cơ quan dân cử. Thứ hai, dân chủ là một chế độ
chính trị, một hình thức nhà nước khi có sự tham gia của tất cả quần chúng nhân dân
trong việc xây dựng, điều hành hoạt động của nhà nước, nhà nước đại diện cho quyền
và lợi ích hợp pháp của nhân dân.

3
- Quan điểm đó của Hồ Chí Minh phản ánh đúng nội dung bản chất về dân chủ. Quyền
hành và lực lượng đều thuộc về nhân dân. Xã hội nào đảm bảo cho điều đó được thực
thi thì đó là một xã hội thực sự dân chủ.

3. Dân chủ trong các lĩnh vực đời sống xã hội

- Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ là một nội dung cơ bản, quan trọng cấu thành hệ
thống tư tưởng của Người. Nội dung căn bản của dân chủ không chỉ thể hiện ở việc
đảm bảo quyền con người, quyền công dân mà dân chủ trong xã hội Việt Nam được
thể hiện trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội…

- Quan niệm dân chủ, theo Hồ Chí Minh còn được biểu hiện ở phương thức tổ chức
xã hội. Người chỉ ra, phương thức tổ chức, hoạt động xã hội của nước ta muốn khẳng
định là một nước dân chủ thì phải có cấu tạo quyền lực xã hội mà ở đó người dân cả
trực tiếp, cả gián tiếp qua dân chủ đại diện, một hệ thống chính trị do dân cử ra và do
dân tổ chức lên. Hồ Chí Minh còn vạch rõ nguồn gốc, lực lượng tạo ra quyền lực đó là
nhân dân.

- Để hiểu rõ về vấn đề dân chủ trong các lĩnh vực trên chúng ta cùng tìm hiểu nội dung
chi tiết.

3.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền làm chủ của nhân dân

- Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ nói chung và về quyền làm chủ của nhân dân nói
riêng là kết quả của sự nhận thức sâu sắc về vai trò của nhân dân trong lịch sử, là kết
quả của sự kết hợp giữa tư tưởng thân dân truyền thống ở phương Đông và quan điểm
cách mạng là sự nghiệp của quần chúng trong học thuyết Mác - Lênin. Kết hợp giữa
truyền thống và hiện đại, giữa lý luận và thực tiễn – Hồ Chí Minh đã nâng tư tưởng
dân chủ lên một tầm cao mới vừa mang tính khoa học, vừa mang tính nhân văn sâu
sắc.

- Dân là chủ, dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân là sợi chỉ đỏ xuyên
suốt toàn bộ tư tưởng Hồ Chí Minh. Dân là chủ và dân làm chủ là vấn đề rộng lớn, xuất
phát từ việc đánh giá đúng đắn vai trò của nhân dân và bản chất của chế độ xã hội chủ

4
nghĩa là chế độ trong đó nhân dân lao động là người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội
và làm chủ cuộc sống bản thân.

- Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cốt lõi của dân chủ xã hội chủ nghĩa là thực hiện quyền
làm chủ của nhân dân lao động về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, thể hiện ở bốn
mặt gắn bó mật thiết với nhau: Bảo đảm dân quyền, cải thiện dân sinh, nâng cao dân
trí, nắm vững dân tâm. Bốn mặt đó là thước đo trình độ làm chủ của nhân dân. Cụ thể,
người dân có quyền làm chủ bản thân, nghĩa là có quyền được bảo vệ về thân thể, được
tự do đi lại, tự do hành nghề, tự do ngôn luận, tự do học tập… trong khuôn khổ luật
pháp cho phép. Người dân có quyền làm chủ tập thể, làm chủ địa phương, làm chủ cơ
quan nơi mình sống và làm việc. Người dân có quyền làm chủ các đoàn thể, các tổ
chức chính trị xã hội thông qua bầu cử và bãi miễn.

- Người dân chủ có thể thực hiện được quyền làm chủ khi có một cơ chế bảo đảm
quyền làm chủ của họ. Đảng phải lãnh đạo xây dựng được một Nhà nước của dân, do
dân, vì dân; với hệ thống luật pháp, lấy việc bảo vệ quyền lợi của dân làm mục tiêu
hàng đầu, xây dựng được đội ngũ cán bộ, đảng viên xứng đáng là người lãnh đạo, là
người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.

3.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong lĩnh vực chính trị

- Dân chủ trong xã hội Việt Nam được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh
tế, văn hoá, xã hội… Trong đó dân chủ thể hiện trên lĩnh vực chính trị là quan trọng
nhất, nổi bật nhất và được biểu hiện tập trung trong hoạt động của nhà nước. Hồ Chí
Minh khẳng định cả trên quan điểm lẫn trên thực tế việc khi có nhà nước mới – Nhà
nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà – nhân dân cử ra, tổ chức nên bộ máy nhà nước
cũng như toàn bộ hệ thống chính trị.

- Trong suốt quá trình hoạt động lý luận và thực tiễn chỉ đạo cách mạng Việt Nam,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác lập và hiện thực hóa hệ thống quan điểm về dân chủ
trong tổ chức xây dựng xã hội mới trên tất cả các lĩnh vực. Tư tưởng của Người về dân
chủ trong chính trị đã trở thành một bộ phận văn hóa của dân tộc Việt Nam. Khi nghiên
cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong chính trị, nổi bật lên những nội dung lớn
sau:

5
- Một là - Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong chính trị xuất phát từ truyền thống
văn hoá dân tộc, được kết tinh qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước; là sự kết
hợp những tinh hoa giá trị dân chủ của văn hóa phương Đông và phương Tây, đặc biệt
là lý tưởng giải phóng dân tộc gắn với giải phóng xã hội, giải phóng con người của
Chủ nghĩa Mác – Lênin.

- Hai là - Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong chính trị được thể hiện ở việc khẳng
định quyền lực của nhân dân trong hiến pháp và pháp luật; đảm bảo tổ chức nhà nước
dân chủ của dân, do dân và vì dân.

 Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nhà nước của dân là nhà nước trong đó dân là
chủ; dân là người có địa vị cao nhất, có quyền quyết định những vấn đề quan trọng
nhất của đất nước, dân tộc. Người khẳng định: “ Tất cả quyền bính trong nước là của
toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp,
tôn giáo”.

 Nhà nước do dân nghĩa là dân làm chủ nhà nước, nhà nước phải tin dân và
dựa vào dân. Nội dung này được thể hiện: Nhân dân là người tổ chức nên các cơ quan
nhà nước từ trung ương đến địa phương thông qua thực hiện chế độ tổng tuyển cử phổ
thông. Nhân dân có quyền bầu cử, ứng cử, đồng thời có quyền thực hiện chế độ bãi
miễn. Dân phải có trách nhiệm, nghĩa vụ đóng góp trí tuệ, sức người, sức của để tổ
chức, xây dựng, bảo vệ và phát triển nhà nước. Đồng thời, nhân dân có quyền tham gia
vào công việc quản lý nhà nước, phê bình, kiểm tra, kiểm soát, giám sát hoạt động của
các cơ quan nhà nước, các đại biểu do mình cử ra.

 Nhà nước vì dân, theo Hồ Chí Minh, là nhà nước phục vụ nhân dân, đem lại
lợi ích cho nhân dân. Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo một mục tiêu cao nhất
là không ngừng cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân đúng với phương châm “
Việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì hại đến dân phải hết sức tránh”.

→ Bản chất dân chủ của Nhà nước Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh được
xác định rất rõ: “ Nhà nước là đại diện quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là
người tổ chức thực hiện đường lối chính trị của Đảng. Mọi đường lối, chính sách
của Đảng và pháp luật của Nhà nước đều phản ánh lợi ích của đại đa số nhân dân.

6
Nhân dân không chỉ có quyền mà còn có trách nhiệm tham gia hoạch định và thi
hành các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước”.

- Ba là - Để phát huy dân chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thực sự là của dân,
do dân và vì dân, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ phải xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt
Nam nhằm làm cho hoạt động của Nhà nước đem lại hiệu quả xã hội thực sự. Nhà nước
pháp quyền là nhà nước mà mọi người được tôn trọng, dân chủ được mở rộng, người
dân sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Nhà nước pháp quyền là nhà nước
phải thể hiện được việc điều hành và quản lý xã hội bằng hệ thống luật.

- Bốn là - Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong chính trị có giá trị lý luận và thực
tiễn vô cùng sâu sắc đối với cách mạng Việt Nam qua các thời kỳ. Quán triệt những
nội dung của tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam trong thực tiễn
lãnh đạo cách mạng đã kế thừa, vận dụng và không ngừng phát triển sáng tạo tư tưởng
của Người nhằm mục tiêu “ dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh”, đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đây là mục tiêu xuyên suốt, cao cả và
là điểm tựa về đường lối, chủ trương, chính sách để đoàn kết toàn dân thực hiện thành
công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thực hiện mục tiêu xuyên suốt
đó cũng chính là vận dụng và phát triển những kiến giải sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về dân chủ.

3.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong lĩnh vực kinh tế:

- Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong kinh tế chứa đựng ý nghĩa lý luận và khoa
học, đồng thời có giá trị thực tiễn to lớn, giữ vai trò nền tảng của sự phát triển xã hội.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong kinh tế được thể hiện trên nhiều khía cạnh,
nhiều phương diện khác nhau; trong đó:

- Thứ nhất, là quyền làm chủ về sở hữu của nhân dân, của người lao động. Bởi vì, chỉ
với tư cách làm chủ chứ không phải làm thuê, người lao động mới không ngừng phát
huy tính độc lập, tự chủ, tính năng động, sáng tạo của mình trong sản xuất và công tác.

- Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, làm chủ về sở hữu bao hàm cả việc xác nhận sự tồn tại,
phát triển của các thành phần kinh tế và các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất. Cụ
thể, đó là sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế và sự đa dạng hóa các hình thức sở
7
hữu. Cần phải tôn trọng, bảo đảm phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, với nhiều
loại hình sở hữu tư liệu sản xuất khác nhau. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, “ Trong
chế độ dân chủ mới, có năm loại kinh tế khác nhau: kinh tế quốc doanh; các hợp tác
xã; kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ; tư bản tư nhân; tư bản nhà nước”.
Cùng với đó, “ Trong nước ta hiện nay có những hình thức sở hữu chính về tư liệu sản
xuất như sau:

▪ Sở hữu của Nhà nước tức là của toàn dân.


▪ Sở hữu của hợp tác xã tức là sở hữu tập thể của nhân dân lao động.
▪ Sở hữu của người lao động riêng lẻ.
▪ Một ít tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của nhà tư bản”.

- Song, Người cũng chỉ rõ, bình đẳng về kinh tế hoàn toàn không đồng nghĩa với sự
cào bằng, bình quân chủ nghĩa; trái lại cần có trọng tâm, trọng điểm, phải xác định
đúng vị trí, vai trò của mỗi thành phần kinh tế. Hơn nữa, mục đích của nước ta là đi lên
chủ nghĩa xã hội mà nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội dựa trên chế độ sở hữu toàn
dân và sở hữu tập thể.

- Mặt khác, quyền làm chủ về sở hữu còn là sự xóa bỏ mọi hình thức bóc lột, không
ngừng nâng cao đời sống của nhân dân. Đây chính là biểu hiện tập trung và cao nhất
tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong kinh tế.

- Thứ hai, làm chủ việc tổ chức, quản lý kinh tế, trong đó phải có kế hoạch thống nhất,
dân chủ và hợp lý. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “ Kế hoạch sản xuất và tiết kiệm là
một kế hoạch dân chủ, nghĩa là từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên, nghĩa là Chính
phủ trung ương có kế hoạch toàn quốc, và địa phương căn cứ vào kế hoạch toàn quốc
mà đặt kế hoạch thích hợp với địa phương mình, cho đến mỗi ngành, mỗi gia đình, mỗi
người có kế hoạch riêng của mình, ăn khớp với kế hoạch chung”. Trong kế hoạch cụ
thể của đơn vị sản xuất: “ Phải bàn bạc dân chủ và phải tính toán cho công bằng, hợp
lý”.

- Thứ ba, làm chủ trong quá trình phân phối. Trong quá trình sản xuất, quan hệ tổ chức,
quản lý và phân phối sản phẩm luôn được người lao động quan tâm sâu sắc, mà cơ sở
của những quan hệ ấy là quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất. Quan hệ tổ chức, quản lý

8
và phân phối tác động trực tiếp tới thái độ, hành động của người lao động cũng như tới
lực lượng sản xuất nói chung. Trên cơ sở nhận thức đúng quy luật khách quan đó, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đưa ra quan điểm: “ Từ làm chủ tư liệu sản xuất, họ phải được làm
chủ việc quản lý kinh tế, làm chủ việc phân phối sản phẩm lao động”. Đây là cơ sở
quan trọng nhất cho sự hình thành quan điểm dân chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong
phân phối sản phẩm, trong đó trước hết phải đảm bảo công bằng, hợp lý.

- Người nói: “ Phải ra sức phát triển sản xuất và thực hành tiết kiệm, lại phải phân phối
cho công bằng hợp lý”; nhưng đồng thời phân phối cũng phải căn cứ vào trình độ phát
triển của nền kinh tế đất nước. Nguyên tắc phân phối dân chủ thực sự là “làm nhiều
hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng. Những người già yếu, tàn tật
sẽ được Nhà nước giúp đỡ chăm nom”.

- Vì vậy, Người yêu cầu cần chống chủ nghĩa bình quân, cào bằng trong phân phối,
phải biết sử dụng thích đáng các biện pháp khoán, thưởng, phạt trong kinh tế: “ Phải
thực hiện ba khoán, một thưởng. Nếu ai thực hiện vượt mức quy định thì được thưởng.
Có như thế mới khuyến khích mọi người cố gắng hơn nữa. Thưởng, phạt phải công
bằng”. Hơn thế, nếu làm xấu, làm hỏng, “ có khi phải bồi thường lại cho Nhà nước.
Chính phủ không phát lương cho người ăn không”.

- Đặc biệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sớm nêu vấn đề phải thực hiện kết hợp hài
hòa các lợi ích - lợi ích nhà nước, lợi ích tập thể và lợi ích cá nhân người lao động.
Người cho rằng: “ Mua bán phải theo giá cả thích đáng... Giá cả phải bảo đảm cho Nhà
nước, hợp tác xã và xã viên cùng có lợi để xây dựng nước nhà. Về thuế, cũng phải làm
sao cho Nhà nước, hợp tác xã và nông dân cùng có lợi”.

→ Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong kinh tế thực chất là sự bảo
đảm quyền làm chủ của nhân dân, của người lao động đối với quá trình sản xuất.
Đó là quyền làm chủ của họ với tư liệu sản xuất trong các thành phần kinh tế, với
nhiều hình thức sở hữu theo định hướng xã hội chủ nghĩa; nhân dân làm chủ quá
trình tổ chức, quản lý sản xuất và phân phối sản phẩm lao động.

9
3.4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong lĩnh vực văn hoá - xã hội:

▪ Về văn hoá:

- Trong tư tưởng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định rằng: “Văn hóa phụng
sự nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân, của dân tộc làm cơ sở”. Chính vì thế, người
khuyến khích mở rộng các hoạt động văn hoá, nhằm nâng cao đời sống văn hoá vui
tươi lành mạnh và trình độ văn hoá của nhân dân. Tăng cường công tác xuất bản; chú
trọng xây dựng nền điện ảnh Việt Nam; phát triển vững chắc ngành sân khấu và ca vũ;
lập thêm tủ sách và nhà văn hoá, câu lạc bộ ở các cơ sở và tăng cường lãnh đạo sinh
hoạt văn nghệ, văn hoá của quần chúng; đẩy mạnh và lãnh đạo phong trào thể dục thể
thao. Đồng thời phải nâng cao chất lượng của nền văn học, Hồ Chí Minh đã khẳng định
“nhân dân có quyền sáng tác và thụ hưởng thành quả của mình”. Theo đó, văn hóa phải
trở về với sinh hoạt thực tại của con người; phải miêu tả cho hay, cho thật, cho hùng
hồn. Để làm được điều đó, phải có cách viết phù hợp với trình độ đa số của đồng bào.
Người luôn nhắc nhở giáo dục, tuyên truyền, viết báo hay hoạt động nào khác phải căn
cứ vào “trình độ văn hoá, thói quen sinh hoạt, trình độ giác ngộ, kinh nghiệm tranh
đấu, lòng ham, ý muốn, tình hình thiết thực của quần chúng”. Bên cạnh đó phải tiếp
tục phát triển các khía cạnh về nghệ thuật; đào tạo bồi dưỡng thêm nhiều tài năng mới,
chú trọng khai thác hơn nữa vốn cũ văn hoá dân tộc và tăng cường trao đổi văn hoá với
các nước; học tập kinh nghiệm các nước tiên tiến.

▪ Về giáo dục:

- Tiếp tục đẩy mạnh phong trào thanh toán nạn mù chữ, đặc biệt chú trọng dạy văn
hoá cho các cán bộ cơ sở, có kế hoạch mở rộng phong trào học tập trong các cơ quan,
xí nghiệp, quân đội. Đối với giáo dục phổ thông, chủ yếu là phát triển tuỳ theo khả
năng, nâng cao chất lượng cấp hai và ba, chú ý đào tạo và bồi dưỡng giáo viên, tăng
cường số lượng và chất lượng các sách giáo khoa, ban hành chính sách cụ thể đối với
các trường dân lập và tư thục, tăng cường lãnh đạo giáo dục miền núi, xúc tiến việc
nghiên cứu đặt chữ viết cho các dân tộc thiểu số, và có kế hoạch hướng dẫn các lớp vỡ
lòng. Về đại học và chuyên nghiệp, cần củng cố những cơ sở đã có và phát triển từng
bước. Tăng cường việc giáo dục chính trị và tư tưởng chủ nghĩa Mác - Lênin, ra sức

10
bồi dưỡng và đào tạo giáo sư, chú ý rút kinh nghiệm cải tiến chương trình. Xây dựng
cơ sở nghiên cứu khoa học. Cải tiến việc bổ túc văn hoá cho cán bộ công nông để đưa
vào các trường đại học, chuyên nghiệp.

▪ Về y tế:

- Mở rộng phong trào vệ sinh phòng bệnh, nâng cao chất lượng các cơ sở chữa bệnh,
kiện toàn việc đào tạo và bồi dưỡng cán bộ các cấp, cải tiến và tăng cường việc sản
xuất, nhập nội thuốc và sử dụng nguyên liệu trong nước. Đặc biệt chú ý công tác y tế
và vệ sinh ở miền núi, công tác bảo vệ sản phụ và hài nhi. Y tế công trường, nông
trường, xí nghiệp, cơ quan cần chú trọng để làm tốt hơn nữa nhiệm vụ bảo vệ và bồi
dưỡng sức khoẻ cho công nhân và cán bộ, nhất là phụ nữ. Việc nghiên cứu đông y và
sử dụng hợp lý, theo khả năng lực lượng đông y cũng như học tập kinh nghiệm y học
tiên tiến của các nước bạn và thế giới, cần được tổ chức tích cực và chu đáo hơn, để
xây dựng và phát triển nền y tế nhân dân.

▪ Về lĩnh vực tôn giáo:

- Chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam được xây dựng trên quan điểm
cơ bản của học thuyết Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo và
căn cứ vào đặc điểm tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam. Tư tưởng nhất quán, xuyên suốt
của Đảng và Nhà nước Việt Nam là tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của
nhân dân; đoàn kết tôn giáo, hòa hợp dân tộc. Tinh thần đó được Đảng và Nhà nước
Việt Nam thể hiện bằng hệ thống chính sách phù hợp với từng giai đoạn cách mạng và
đã có từ khi mới thành lập Đảng.

- Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn có quan điểm, thái độ
rõ ràng về tín ngưỡng, tôn giáo. Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VII của Đảng năm 1991 đã khẳng định: "Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của
một bộ phận nhân dân. Đảng và Nhà nước ta tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và
không tín ngưỡng của nhân dân, thực hiện bình đẳng, đoàn kết lương giáo và giữa các
tôn giáo. Khắc phục mọi thái độ hẹp hòi, thành kiến, phân biệt đối xử với đồng bào có
đạo, chống những hành vi lợi dụng tôn giáo phá hoại độc lập dân tộc và đoàn kết dân
tộc, chống phá chủ nghĩa xã hội, ngăn cản tín đồ làm nghĩa vụ công dân". Cương lĩnh

11
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cũng ghi rõ: "Tín ngưỡng,
tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Thực hiện nhất quán chính
sách tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, đồng thời chống việc lợi dụng tín
ngưỡng để làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc và nhân dân".

- Những quan điểm của Đảng ta từ ngày thành lập đến nay chứng minh rằng Đảng coi
quyền tự do tín ngưỡng là một nhu cầu quan trọng của con người, là một trong những
quyền công dân, quyền chính đáng của con người. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn
luôn tôn trọng đức tin của đồng bào theo tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau; tôn trọng
quyền được theo bất cứ tôn giáo nào cũng như quyền không theo tôn giáo nào, mong
muốn cho người dân theo tôn giáo được "phần hồn thong dong, phần xác ấm no".

4. Thực hành dân chủ

4.1. Xây dựng và hoàn thiện các chế độ dân chủ rộng rãi

- Ngay từ năm 1941, trong chương trình của Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh
(Việt Minh), Hồ Chí Minh đã “thiết kế” một chế độ dân chủ cộng hoà cho nước ta sau
khi cuộc cách mạng do nhân dân thực hiện thắng lợi. Đó là chương trình thực hiện mục
tiêu dân chủ, xác định rõ quyền và trách nhiệm của nhân dân trước vận mệnh của nước
nhà; gắn độc lập, tự do của Tổ quốc với quyền lợi của từng người dân. Chương trình
Việt Minh đã khơi dậy sức mạnh vô biên của nhân dân giành chính quyền về tay
mình.Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, một tuyên bố về chế độ dân
chủ ở Việt Nam đã được Hồ Chí Minh nêu trong bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh
nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà ngày 2-9-1945, trong đó các giá trị về dân chủ
được gắn liền với đất nước độc lập, tự do, hạnh phúc.

- Dân chủ ở nuớc Việt Nam mới được thể hiện và mới được đảm bảo trong đạo luật
cơ bản nhất là các Hiến pháp do Hồ Chí Minh chủ trì xây dựng và được Quốc hội thông
qua. Hiến pháp năm 1946, bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hoà, thể hiện rõ nhất và thấm đậm nhất tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh. Hiến pháp
năm 1946 đặt cơ sở pháp lý đầu tiên cho việc thực hiện quyền lực của nhân dân.

12
- Với trách nhiệm chủ trì việc soạn thảo hiến pháp năm 1959, Hồ Chí Minh lại một
lần nữa khẳng định quan niệm đảm bảo dân chủ trong việc xác lập quyền lực của nhân
dân trong Hiến pháp. Cơ chế thực hiện quyền lực của nhân dân trong bản Hiến pháp
năm 1959 được phát triển, cụ thể hoá thêm. Điều đó thể hiện rõ ở các điều về quyền
lực của nhân dân (Điều 4); vấn đề đại biểu của nhân dân trong Quốc hội và hội đồng
nhân dân (Điều 5) và đặc biệt ở điều 6 ghi rõ: “Tất cả các cơ quan nhà nước đầu phải
dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát
của nhân dân. Tất cả các nhân viên cơ quan nhà nước đều phải trung thành với chế độ
dân chủ của nhân dân, tuân theo Hiến pháp và pháp luật, hết lòng hết sức phục vụ nhân
dân”.

- Hồ Chí Minh chú trọng đảm bảo quyền lực của giai cấp, tầng lớp, các cộng đồng dân
tộc trong thể chế chính trị nước ta. Đối với giai cấp công nhân, Hồ Chí Minh khẳng
định rằng, công nhân có quyền thực sự trong xí nghiệp, và tự làm chủ về tư liệu sản
xuất, họ phải được làm chủ trong việc quản lý, làm chủ trong việc phân phối sản phẩm
lao động. Đối với nông dân, Hồ Chí Minh cho rằng, bao giờ ở nông thôn người dân
thực sự nắm chính quyền, nông dân phải được giải phóng, thì mới có dân chủ thực sự.
Hồ Chí Minh đánh giá cao vai trò của tầng lớp trí thức trong tiến trình dân chủ hoá ở
Việt Nam và cho rằng lao động trí óc có nhiệm vụ rất quan trọng trong sự nghiệp kháng
chiến kiến quốc. Người đặc biệt quan tâm giải phóng phụ nữ để phụ nữ bình đẳng với
nam giới, thực sự tham gia tích cực vào các công việc xã hội. Người cũng đề cao vai
trò làm chủ đất nước của thanh, thiếu niên. Đối với một quốc gia đa dân tộc như ở Việt
Nam, Hồ Chí Minh quan tâm đấn việc đảm bảo quyền làm chủ của tất cả nhân dân các
dân tộc và cho rằng, phải làm cho các dân tộc làm chủ đất nước, mau chóng phát triển
kinh tế, văn hoá, thực hiện các dân tộc bình đẳng về mọi mặt.

4.2. Phát huy dân chủ đi đôi với tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, đảm
bảo thật sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân

- Để vượt lên tình trạng thấp kém của nền kinh tế, rút ngắn khoảng cách về trình độ
phát triển giữa nước ta với nhiều nước trên thế giới, trong điều kiện cạnh tranh quốc tế
quyết liệt hiện nay, ta không có con đường nào khác là phải “ phát huy cao độ nội lực

13
của dân tộc”, mà một trong những nhân tố cơ bản lảm nên nội lực đó là phát huy dân
chủ. Chính khát vọng dân chủ đã tạo lên sức mạnh kiên cường đấu tranh cho độc lập,
tự do. Giành được chính quyền về tay nhân dân rồi thì quyền làm chủ thật sự của người
dân là nội dung đích thực của độc lập tự do. Bởi như Bác Hồ đã nói: “ Nhưng nếu nước
độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”.

- Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã nói: “ Dân chủ, sáng kiến, hăng hái, ba điều đó rất quan
hệ với nhau. Có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến”. Bởi vậy,
Người nhắc nhở: “Phải thật sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân. Tuyệt đối không
được lên mặt “ Quan cách mạng ra lệnh ra oai”. Điều cần chú ý trong tư duy Hồ Chí
Minh về dân chủ thì dân chủ của ta phải là “ Dân chủ thật sự”, “ Nước ta phải đi đến
dân chủ thực sự”, chúng ta phải ra sức thực hiện những cải cách xã hội, để nâng cao
đời sống của nhân dân, thực hiện dân chủ thực sự”. Nhiều lần Người nhắc đi nhắc lại
hai chữ “ thực sự” , “ thực sự” như là một thuộc tính cơ bản không thể thiếu của nền
dân chủ của chế độ ta, nó vốn xa lạ với thứ dân chủ trừu tượng, dân chủ hình thức mà
người ta dễ dàng nghĩ tới là dân chủ trong xã hội tư sản. Qua đó, có thể thấy dân chủ
là một nội dung lớn trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Theo người, thực hành dân chủ là
chiếc chìa khóa vạn năng có thể giải quyết được mọi khó khăn, mọi chủ trương, đường
lối, thuộc tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội… đều được người xem
xét và giải quyết từ địa vị người làm chủ và quyền làm chủ của nhân dân.

- Phát huy dân chủ phải kết hợp chặt chẽ tăng cường pháp chế, thực hiện quản lý xã
hội bằng pháp luật, theo pháp luật. Nhà nước ta phải tiếp tục thể chế hoá bằng pháp
luật các quyền dân chủ của người dân trên các lĩnh vực đời sống, đặc biệt là trong hoạt
động kinh tế. Đồng thời, phải đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng và chống vi phạm pháp
luật, đảm bảo cho mỗi công dân đều được bình đẳng trước pháp luật, đảm bảo mọi
hành vi vi phạm pháp luật đều được xét xử nghiêm minh, đúng người, đúng tội, không
phân biệt người đó là ai, để đem lại niềm tin cho nhân dân vào tính nghiêm minh của
pháp luật nhà nước ta.

14
4.3. Xây dựng các tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị
- xã hội vững mạnh để đảm bảo dân chủ trong xã hội

- Trong việc xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam, chủ tịch Hồ Chí Minh chú trọng tới
việc xây dựng Đảng - với tư cách là Đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo của nhà nước,
lãnh đạo toàn xã hội; xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân; xây dựng mặt trận
với vai trò là liên minh chính trị tự nguyện của tất cả các tổ chức chính trị - xã hội vì
mục tiêu chung của sự phát triển của đất nước; xây dựng các tổ chức chính trị - xã hội
rộng rãi khác của nhân dân. Có đảm bảo và phát huy dân chủ trong Đảng thì mới đảm
bảo được dân chủ trong toàn xã hội. Đó là quan điểm nhất quán của Hồ Chí Minh.
Quyền lãnh đạo của Đảng xuất phát từ giai cấp công nhân, dân tộc và nhân dân Đảng
trở thành hạt nhân chính trị của toàn xã hội và là nhân tố tiên quyết để đảm bảo tính
chất dân chủ của xã hội. Dân chủ trong Đảng, do đó, trở thành yếu tố quyết định tới
trình độ dân chủ của toàn xã hội.

- Nhà nước thực hiện chức năng quản lí xã hội của mình qua việc đảm bảo thực thi ý
chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động đối với sự phát triển của đất nước.
Nhà nước thể chế hóa toàn bộ bản chất dân chủ của chế độ. Các tổ chức Mặt trận và
đoàn thể nhân dân thể hiện quyền làm chủ và tham gia quản lí xã hội của tất cả các giai
cấp, tầng lớp trong xã hội. Tất cả các tổ chức đó đều có mục tiêu chung là đạt tới trình
độ dân chủ cao, dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đó cũng là động lực cơ bản nhất để các giai
cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam phấn đấu trong sự nghiệp cách mạng. Thực hành
dân chủ rộng rãi, theo quan điểm Hồ Chí Minh, là trên nền tảng của khối đại đoàn kết
dân tộc, nòng cốt là liên minh công - nông – trí.

15
Chương 2. VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VÀO
NỀN DÂN CHỦ NƯỚC TA HIỆN NAY
- Quyền con người là phẩm giá, nhu cầu, lợi ích và năng lực vốn có ở con người được
pháp luật công nhận, nhằm thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm thực hiện và thúc
đẩy. Việt Nam đã xây dựng được các thể chế và thiết chế bảo đảm quyền con người,
nhất là bảo đảm ngày càng tốt hơn các quyền chính trị, dân sự, các quyền kinh tế, xã
hội và văn hóa; quyền của nhóm thiểu số hoặc yếu thế, như người cao tuổi, phụ nữ, trẻ
em, người khuyết tật, người dân tộc thiểu số, người có tín ngưỡng, tôn giáo.

1. Dân chủ trong lĩnh vực kinh tế:

 Xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần.

 Quyền tự do kinh doanh buôn bán.

 Quyền sử dụng những tư liệu sản xuất chung của xã hội.

 Quyền làm chủ của công dân đối với tư liệu sản xuất, trên cơ sở đó làm chủ
quá trình quản lý sản xuất và phân phối sản phẩm.

- Mọi công dân cũng như các thành phần kinh tế đều bình đẳng và tự do kinh doanh
trong khuôn khổ pháp luật, làm chủ trực tiếp quá trình sản xuất, kinh doanh, phân phối
sản phẩm của mình và làm nghĩa vụ đối với đất nước.

- Đảng chủ trương thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển
kinh tế tri thức; đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn
với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương, lấy phục vụ lợi ích đất nước
làm mục tiêu cao nhất; nâng cao vai trò, hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước bằng
sự đồng bộ của hệ thống pháp luật…

- Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng đầy đủ, tạo ra môi
trường kinh tế, pháp lý thuận lợi: thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ quyền sở hữu của tất cả
mọi người và quyền tự do sản xuất kinh doanh; chống độc quyền, dỡ bỏ rào cản và
những phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế, bảo đảm cho các thành phần kinh

16
tế đều bình đẳng trước pháp luật. Sự dân chủ, bình đẳng này đã tạo ra động lực vật
chất, kinh tế thúc đẩy các chủ thể kinh tế khai thác và phát huy mọi tiềm năng phát
triển kinh tế của mình.

- Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thừa nhận, tôn trọng nhiều thành
phần kinh tế, nhiều hình thức sở hữu, nhiều hình thức phân phối chính là thừa nhận và
tôn trọng tính đa dạng về lợi ích của các giai cấp, tầng lớp, các tập đoàn, nhóm và cá
nhân người lao động trong xã hội. Theo đó, tiến trình đổi mới đã dần làm cho quyền tự
do, tự chủ trong sản xuất, kinh doanh của cá nhân, tập thể lao động, các đơn vị kinh tế,
các doanh nghiệp được thực hiện ngày càng tốt hơn. Các chủ thể kinh tế được giải
phóng khỏi sự ràng buộc của các cơ chế không hợp lý, phát huy được quyền làm chủ
và tính năng động, sáng tạo trong sản xuất, kinh doanh, trong hội nhập kinh tế quốc tế.
Người dân có điều kiện tạo việc làm, tìm kiếm việc làm, tăng thu nhập, lựa chọn cơ
hội học tập, lập nghiệp. Nhờ đó, đã kích thích mạnh mẽ việc đầu tư cho sản xuất kinh
doanh, tạo ra động lực to lớn để mọi người sáng tạo và phát triển kinh tế vì lợi ích của
chính mình và đóng góp cho xã hội. Hơn nữa, kinh tế thị trường với cơ chế cạnh tranh
phân hóa, sàng lọc nghiêm ngặt về năng lực, trình độ nên đã từng bước hình thành
những người sản xuất kinh doanh, những người lao động linh hoạt, năng động, tự chủ,
có trách nhiệm cao với bản thân, với công việc, với đơn vị, doanh nghiệp và cộng đồng
xã hội. Người dân được tự do, dân chủ, bình đẳng hơn trong việc làm giàu cho bản
thân, gia đình và góp phần làm giàu cho đất nước, xã hội. Nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là “sân chơi” dân chủ, bình đẳng cho mọi người,
mọi nhà, mọi thành phần, mọi chủ thể kinh tế phù hợp với điều kiện đất nước và xu
hướng vận động phát triển tiến bộ của thế giới.

- Việc tạo lập cơ sở, điều kiện kinh tế và thực hiện dân chủ về kinh tế ở nước ta vẫn
còn không ít hạn chế và nảy sinh những vấn đề phức tạp cần giải quyết. Đó là:

- Thể chế kinh tế thị trường gồm cả hệ thống pháp luật và các chính sách của Nhà
nước còn thiếu đồng bộ, nhất quán, có những điểm chưa phù hợp, nên cản trở hoặc ảnh
hưởng xấu đến sự vận hành của nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc
triển khai, thực thi đường lối, chính sách kinh tế có biểu hiện thiếu dân chủ, bất bình

17
đẳng trong đối xử với các chủ thể kinh tế, các thành phần kinh tế về thuế, vay vốn, lãi
suất cho vay, về thủ tục xuất nhập khẩu. Điều này ít nhiều tạo nên môi trường cạnh
tranh thiếu lành mạnh, động lực đầu tư kinh doanh, phát triển kinh tế bị tổn thương. Vì
vậy mà nhiều nguồn lực, tiềm năng về vật chất và tinh thần để phát triển kinh tế còn
dồi dào trong các tầng lớp nhân dân chưa được khai thác, phát huy một cách hiệu quả.

- Việc đổi mới, phát triển, nâng cao hiệu quả của kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể
còn nhiều hạn chế. Vai trò chủ đạo, nền tảng của những thành phần kinh tế này trong
nền kinh tế quốc dân chưa được thể hiện rõ nét. Tốc độ tăng trưởng và hiệu quả hoạt
động của doanh nghiệp nhà nước chưa tương xứng với sự đầu tư, ưu đãi của Nhà nước
và sự kỳ vọng của nhân dân. Kinh tế tập thể, nhất là trong khu vực nông nghiệp gặp
nhiều khó khăn, lúng túng, trong khi sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đối với loại hình
kinh tế này vẫn chưa được đầu tư đúng mức còn nặng về khẩu hiệu.

- Công tác quản lý nhà nước về kinh tế còn nhiều khuyết điểm. Tình trạng quan liêu,
quản lý lỏng lẻo, gây thất thoát, lãng phí ở nhiều công trình, nhiều cơ quan, nhiều địa
phương nhưng chưa được xử lý nghiêm, thiếu khách quan, thiếu trách nhiệm. Việc tích
tụ ruộng đất, đô thị hoá, công nghiệp hoá ở nhiều nơi không được tiến hành bài bản,
không thật sự lắng nghe tâm tư, nguyện vọng, những đề xuất kiến nghị chính đáng của
nhân dân nên đã gây thất thoát, lãng phí nhiều tài nguyên đất đai màu mỡ khiến nhân
dân bất bình, lo lắng. Đặc biệt, việc thu hồi, đền bù đất, tái định cư ở nhiều nơi thực
hiện thiếu dân chủ, không công bằng, không đảm bảo cuộc sống ổn định lâu dài của
nhân dân nên đã gây bất bình, bức xúc, mất lòng tin của nhân dân. Một bộ phận nhân
dân, chủ yếu là nông dân, do tình trạng công nghiệp hoá thiếu kế hoạch nên không còn
tư liệu sản xuất, không có việc làm ổn định. Thất nghiệp, việc làm không ổn định ở đô
thị, thiếu việc làm ở nông thôn vẫn ở mức cao.

- Tăng trưởng của nền kinh tế vẫn ở mức dưới tiềm năng, hiệu quả và chất lượng tăng
trưởng thấp, chưa bền vững, năng suất thấp và chất lượng sản phẩm chưa tốt, sức cạnh
tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp và hàng hóa chưa cao. Tính tự phát, tuỳ tiện trong
sản xuất, kinh doanh vẫn còn khá phổ biến. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, cơ cấu
đầu tư chưa hợp lý, còn phân tán và lãng phí. Mức sống của nhân dân, nhất là nông dân

18
ở một số địa phương, miền núi, vùng sâu, vùng xa còn quá thấp. Chính sách tiền lương
và phân phối thu nhập trong xã hội còn nhiều bất hợp lý. Một bộ phận nông dân, công
nhân chưa được thụ hưởng một cách tương xứng với sự tăng trưởng, phát triển của nền
kinh tế đất nước. Trong xã hội xuất hiện không ít người giàu lên bằng con đường làm
ăn phi pháp. Hiện tượng lợi dụng chức quyền tham ô, tham nhũng vẫn là vấn đề nhức
nhối. Hiện tượng sản xuất vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức kinh doanh vẫn diễn
biến phức tạp gây tổn hại cho người sản xuất, kinh doanh, người tiêu dùng, đến sự lành
mạnh của nền kinh tế và ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội.

2. Dân chủ trong lĩnh vực chính trị

 Quyền ứng cử, bầu cử vào các cơ quan quyền lực nhà nước

 Quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội

 Quyền giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, quyền khiếu nại, tố cáo
của công dân…

 Quyền kiến nghị, biểu quyết với cơ quan nhà nước

 Quyền được thông tin, tự do ngôn luận, tự do báo chí.

 Cùng với các quyền được hưởng, công dân có nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc, tham
gia bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội.

- Quy chế chất vấn trong Đảng và việc lấy phiếu tín nhiệm đối với các chức danh lãnh
đạo chủ chốt của Đảng. Bên cạnh đó, công tác cán bộ đã được tiến hành theo những
quy trình chặt chẽ, công khai; công tác bầu cử với những quy định mới bước đầu tạo
ra sự công bằng về cơ hội cho mọi đảng viên. Chế độ bầu cử tại các đại hội tiếp tục
được đổi mới theo hướng mở rộng dân chủ trực tiếp, bầu cử có số dư, mở rộng quyền
ứng cử, đề cử thông qua việc xây dựng và bảo vệ chương trình hành động.

- Quy định số 205-QĐ/TW, ngày 23-9-2019, của Bộ Chính trị, “ về việc kiểm soát
quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền”. Nâng cao hiệu quả
của công tác kiểm tra, thanh tra, chọn cho được những cán bộ kiểm tra, thanh tra có
chuyên môn giỏi, liêm chính, vững vàng trước mọi sức ép và biết dựa vào nhân dân để
thực hiện nhiệm vụ.
19
- Nhà nước quan tâm đến việc nâng cao trình độ dân trí và bảo đảm quyền được tiếp
cận thông tin của người dân như là những giải pháp chủ yếu để nâng cao năng lực làm
chủ, bảo đảm quyền và trách nhiệm của người dân trong thực hiện dân chủ xã hội chủ
nghĩa nói chung và dân chủ ở cơ sở nói riêng. Mặt khác, về phía người dân cũng phải
tự chăm lo đến việc nâng cao trình độ học vấn, hiểu biết xã hội và đòi hỏi được tiếp
cận thông tin một cách đầy đủ, kịp thời, chính xác qua các kênh thông tin khác nhau.

- Thông qua hệ thống báo chí, truyền thanh, truyền hình để giới thiệu, tuyên truyền
thông tin về luật pháp, chính sách của Nhà nước và các vấn đề có liên quan trực tiếp
đến đời sống xã hội, nhất là ở cơ sở xã, phường, thị trấn; liên quan đến các nhu cầu, lợi
ích hằng ngày của người dân, cũng như đến việc phòng, chống tham nhũng, lãng phí,
tiêu cực trong cán bộ, công chức, viên chức nhà nước,... Đồng thời cấp ủy, chính quyền
và các đoàn thể chính trị - xã hội có thể truyền đạt, giải thích trực tiếp cho người dân
trong các cuộc họp ở thôn, xóm, tổ dân phố... Cần khuyến khích người dân nêu lên
những nhận thức và những băn khoăn, thắc mắc còn tồn tại để giải thích kịp thời, thỏa
đáng, nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết của người dân về quyền và trách nhiệm của
họ trong thực hiện dân chủ ở cơ sở.

- Nhà nước tạo mọi điều kiện, cơ hội thuận lợi cho người dân thực hiện quyền làm chủ
đất nước, được hưởng thụ các quyền tự do, dân chủ về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội; được sử dụng quyền làm chủ để mưu cầu lợi ích cá nhân và bảo toàn lợi ích chung
của cộng đồng và xã hội.

- Công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình để bảo đảm thực hiện đúng, đủ, có
hiệu quả các quy định của pháp luật về dân chủ ở cơ sở. Cán bộ, công chức nhà nước
đổi mới phong cách, thái độ của chính quyền với người dân khuyến khích người dân
dám nói, dám làm, dám biểu lộ chính kiến, quan điểm của mình theo tinh thần thực
hiện dân chủ ở cơ sở.

- Nhà nước kiên quyết chống nạn tham nhũng và quan liêu của cán bộ chính quyền
các cấp; cấm trù dập, trả thù những người đã mạnh dạn tố cáo những sai trái của cán
bộ nhà nước; xử lý thích đáng, nghiêm minh những kẻ vi phạm luật pháp, vi phạm lợi
ích của nhân dân và xã hội,...

20
- Tăng cường và nâng cao hiệu quả thực hiện dân chủ ở cơ sở, nghiên cứu bổ sung,
khắc phục những hạn chế, bất hợp lý trong các quy định của pháp luật hiện hành có
liên quan đến thực hiện dân chủ ở cơ sở như: Về những nội dung cần công khai để dân
biết; những nội dung dân bàn và quyết định; những nội dung dân giám sát; bổ sung quy
định về chế tài xử lý các vi phạm của chính quyền và của người dân trong việc thực
hiện dân chủ ở cơ sở,...

- Các khâu, như quản lý, đánh giá, tuyển chọn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân
chuyển, bố trí, sử dụng và thực hiện chính sách cán bộ được cấp ủy và tổ chức đảng
bàn bạc dân chủ và quyết định theo đa số; sự phân cấp trong công tác cán bộ được nhận
thức và thực hiện tốt. Việc tổ chức góp ý, phê bình, lấy phiếu tín nhiệm đội ngũ cán
bộ, nhất là cán bộ chủ chốt được tiến hành nghiêm túc, đúng Quy chế Dân chủ ở cơ sở.
Các cấp ủy, tổ chức đảng đã đẩy mạnh thực hiện dân chủ, công khai, minh bạch trong
đề bạt, bổ nhiệm, đào tạo cán bộ, nên đã củng cố được lòng tin của quần chúng nhân
dân đối với sự lãnh đạo của Đảng.

3. Dân chủ trong lĩnh vực văn hóa

 Quyền tham gia vào đời sống văn hóa

 Quyền hưởng lợi ích từ sáng tạo văn hóa

 Quyền sáng tác, phê bình văn học, nghệ thuật

- Các bộ, ngành, đặc biệt là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Thông tin và Truyền
thông, Bộ Tư pháp đã tham mưu cho Quốc hội, Chính phủ ban hành nhiều đạo luật,
thông tư, nghị định và các quyết định liên quan trực tiếp đến lĩnh vực văn hóa. Việc
ban hành hệ thống các luật, như Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Di sản văn hóa, Luật Xuất
bản, Luật Quảng cáo, Luật Thư viện, Luật Báo chí, Luật Điện ảnh..., đã tạo hành lang
pháp lý thuận lợi cho các hoạt động sáng tạo, quảng bá và tiếp nhận các sản phẩm văn
hóa, nghệ thuật của cá nhân, tổ chức xã hội; kịp thời điều chỉnh hành vi ứng xử của
con người với di sản văn hóa dân tộc; bảo đảm quyền tự do, dân chủ trong sáng tạo,
hưởng thụ văn hóa của nhân dân; bảo vệ quyền tác giả và các quyền liên quan… Việt
Nam tham gia Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (ICESCR)

21
ngày 24-9-1982, trong đó Nhà nước cam kết bảo đảm những điều kiện tốt nhất để người
dân có quyền tiếp cận, hưởng thụ những giá trị, thành quả của văn hóa, phát triển bản
thân và đóng góp tích cực cho xã hội.

- Việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật về văn hóa đã được tổ chức, lồng ghép qua
những phong trào, cuộc vận động lớn gắn chặt với đời sống văn hóa hằng ngày của
người dân, như các phong trào “ Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, “Toàn
dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”. Cùng với đó là các chỉ thị,
nghị định của Chính phủ, như Chỉ thị số 11/CT-TTg, ngày 29-3-2017, “ Về việc đẩy
mạnh giáo dục đạo đức, lối sống trong gia đình”; Nghị định số 110/2018/NĐ-CP, ngày
29-9-2018, “ Quy định về quản lý và tổ chức lễ hội”; Nghị định số 122/2018/NĐ-CP,
ngày 17-9-2018, “ Quy định về xét tặng danh hiệu “ Gia đình văn hóa”, “ Thôn văn
hóa”, “ Làng văn hóa”, “ Ấp văn hóa”, “ Bản văn hóa”, “ Tổ dân phố văn hóa””… đã
tạo phong trào thi đua sôi nổi trong các tầng lớp nhân dân, góp phần nâng cao ý thức
tuân thủ pháp luật của người dân, hạn chế và từng bước đẩy lùi những hiện tượng tiêu
cực, những hành vi vi phạm để không ngừng xây dựng đời sống văn hóa lành mạnh,
nhân văn, khoa học.

4. Dân chủ trong lĩnh vực xã hội

 Quyền lao động, bình đẳng nam nữ

 Quyền được hưởng an toàn, bảo hiểm xã hội

 Quyền được bảo vệ về vật chất và tinh thần khi không còn khả năng lao động.

 Quyền bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ cống hiến trong xã hội.

- Nhấn mạnh khát vọng vươn lên của thế hệ trẻ. Quan tâm tạo động lực cho thanh niên
xung kích trong học tập, lao động sáng tạo, khởi nghiệp, lập nghiệp. Tăng cường giáo
dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hoá, nâng cao lòng yêu nước, tự hào
dân tộc, nuôi dưỡng hoài bão; nêu cao tinh thần trách nhiệm đối với đất nước, với xã
hội; làm chủ các kiến thức khoa học, công nghệ hiện đại, phát huy vai trò quan trọng
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chăm lo bồi dưỡng, giáo dục, phát triển
toàn diện và bảo đảm quyền của thiếu niên, nhi đồng; dành những điều kiện tốt nhất,

22
sự chăm lo chu đáo nhất cho trẻ em - tương lai của đất nước; xây dựng môi trường,
điều kiện học tập, lao động, giải trí, rèn luyện để phát triển lành mạnh, toàn diện, hài
hoà cả về trí tuệ, thể chất và giá trị thẩm mỹ cho thế hệ trẻ.

- Đề xuất quan điểm về xây dựng người phụ nữ Việt Nam thời đại mới: Trí tuệ, nhân
ái, hiện đại, văn minh. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ, đáp ứng yêu cầu phát
triển bền vững và hội nhập quốc tế của đất nước. Phát huy truyền thống, tiềm năng, thế
mạnh và tinh thần làm chủ, khát vọng vươn lên của các tầng lớp phụ nữ. Hoàn thiện và
thực hiện tốt luật pháp, chính sách liên quan đến phụ nữ, trẻ em và bình đẳng giới.
Tăng cường các chương trình phát triển, hỗ trợ cập nhật tri thức, kỹ năng cho phụ nữ
có hoàn cảnh khó khăn, vùng dân tộc thiểu số, miền núi. Kiên quyết xử lý nghiêm theo
pháp luật các tệ nạn xã hội, các hành vi bạo lực, mua bán, xâm hại phụ nữ, trẻ em.

- Đối với người cao tuổi, bổ sung từ “ bảo trợ”, báo cáo Chính trị nhấn mạnh yêu cầu
phát huy trí tuệ, kinh nghiệm sống, lao động, học tập của người cao tuổi trong xã hội,
cộng đồng và gia đình. Tôn trọng, bảo vệ và chăm sóc người cao tuổi. Bảo trợ, giúp
đỡ người cao tuổi gặp khó khăn, cô đơn không nơi nương tựa. Nhấn mạnh chủ trương
tiếp tục xây dựng gia đình kiểu mẫu “ Ông bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu thảo hiền,
vợ chồng hòa thuận, anh chị em đoàn kết, thương yêu nhau”.

23
B. KẾT LUẬN
Như vậy, chúng ta có thể khẳng định rằng tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ có
giá trị lý luận và thực tiễn to lớn, sâu sắc, định hướng cho việc xây dựng và hoàn thiện
nền dân chủ, Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam. Học tập và quán triệt tư tưởng này để
xây dựng nhà nước ngang tầm nhiệm vụ của giai đoạn cách mạng mới là hết sức cần
thiết.

Thế hệ trẻ chúng ta ngoài việc không ngừng học tập, rèn luyện, trau dồi kiến
thức chuyên ngành thì cần phải có những kiến thức xã hội cần thiết và hơn thế là những
kiến thức về hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Sống, học tập và rèn luyện theo tấm
gương của Người, góp phần xây dựng nước nhà ngày một giàu đẹp, dân chủ, văn minh.

24
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, nhà xuất bản Chính trị quốc gia, năm 2011.

2. Hiến pháp Việt Nam, nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2003.

3. PGS,TS. MAI HẢI OANH (2020) , “ Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam hiện nay”, https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/chinh-tri-xay-dung-
dang/-/2018/815955/phat-huy-dan-chu-trong-cong-tac-can-bo-o-nuoc-ta-hien-nay-
-thuc-trang-va-giai-phap.aspx [truy cập vào 10/11/2021].

4. ThS. Nguyễn Anh Tuấn (2015) , “ Thực hiện dân chủ về kinh tế theo tư tưởng
Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới”, https://www.moha.gov.vn/hochiminh/nghien-
cuu-trao-doi/thuc-hien-dan-chu-ve-kinh-te-theo-tu-tuong-ho-chi-minh-trong-thoi-
ky-doi-moi-20120.html [truy cập vào 10/11/2021].

5. TS. NGUYỄN HUY PHÒNG (2021) , “ Thực hành dân chủ và tăng cường pháp
chế trong lĩnh vực văn hóa ở nước ta hiện nay”,
https://www.tapchicongsan.org.vn/en_US/web/guest/media-story/-
/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/thuc-hanh-dan-chu-va-tang-cuong-phap-
che-trong-linh-vuc-van-hoa-o-nuoc-ta-hien-nay [truy cập vào 10/11/2021].

6. Nguồn Tạp chí Tuyên giáo (2021) , “ Thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát
huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII”,
https://binhdinh.dcs.vn/chinh-tri/-/asset_publisher/content/thuc-hanh-dan-chu-xa-
hoi-chu-nghia-phat-huy-suc-manh-dai-doan-ket-toan-dan-toc-theo-tinh-than-nghi-
quyet-dai-hoi-xiii?p_p_auth=JHnTRNb7 [truy cập vào 10/11/2021].

25

You might also like