You are on page 1of 59

ĐẠI HỌC QUỐC GIA

ĐẠI HỌC BÁCH KHOA TP HỒ CHÍ MINH




BÀI TẬP LỚN MÔN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC


ĐỀ TÀI:
GIA ĐÌNH TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI.
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VĂN HOÁ Ở
NƯỚC TA HIỆN NAY

LỚP L16--- NHÓM16 --- HK211


NGÀY NỘP ………………

Giảng viên hướng dẫn: THS. ĐOÀN VĂN RE


Sinh viên thực hiện Mã số sinh viên Điểm số
Lê Anh Thư 1910598
Nguyễn Minh Tiến 1912198
Nguyễn Phan Thông 1915356
Nguyễn Thị Thanh Thúy 1915397
Lê Đức Tịnh 1915532

Thành phố Hồ Chí Minh – 2021

1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA
KHOA KHOA HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

BÁO CÁO KẾT QUẢ LÀM VIỆC NHÓM VÀ BẢNG ĐIỂM BTL
Môn: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC (MSMH: SP1035)
Nhóm/Lớp: ....L16....... Tên nhóm: ......16.........HK ....211...........Năm học .......2021-2022....................
Đề tài:
GIA ĐÌNH TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY
DỰNG GIA ĐÌNH VĂN HOÁ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

ST % Điểm Điểm
Mã số SV Họ Tên Nhiệm vụ được phân công Ký tên
T BTL BTL
1 1910598 Lê Anh Thư 20%
2 1912198 Nguyễn Minh Tiến 20%
3 1915356 Nguyễn Phan Thông 20%
4 1915397 Nguyễn Thị Thanh Thúy 20%
5 1915532 Lê Đức Tịnh 20%

Họ và tên nhóm trưởng:Nguyễn Phan Thông., Số ĐT: 0584970352, Email: thong.nguyen04040910@hcmut.edu.vn


Nhận xét của GV:.......................................................................................................................................................................
GIẢNG VIÊN NHÓM TRƯỞNG
(Ký và ghi rõ họ, tên) (Ký và ghi rõ họ, tên)

2
MỤC LỤC
Trang

I. PHẦN MỞ ĐẦU......................................................................................................

II. PHẦN NỘI DUNG..................................................................................................

Chương 1. GIA ĐÌNH TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ


HỘI....

1.1. Khái niệm, vị trí và các chức năng của gia đình...............................................
1.1.1. Khái niệm gia đình..................................................................................
1.1.2. Vị trí của gia đình trong xã hội.................................................................
1.1.3. Chức năng cơ bản của gia đình.....................................................................
1.2. Cơ sở xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội...............
1.2.1. Cơ sở kinh tế - xã hội..................................................................................
1.2.2. Cơ sở chính trị - xã hội...............................................................................
1.2.3. Cơ sở văn hoá.............................................................................................
1.2.4. Chế độ hôn nhân tiến bộ.............................................................................
Tóm tắt chương 1………………………………………………………………..

Chương 2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VĂN HOÁ
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY……………

2.1. Gia đình văn hoá và những vấn đề liên quan đến gia đình văn hoá………

2.1.1. Khái niệm về gia đình văn hoá……………………………………..

2.1.2.Quan điểm của Đảng ta về gia đình văn hoá………………………..

2.1.3. Ý nghĩa của việc xây dựng gia đình văn hoá ………………………..

2.2. Thực trạng xây dựng gia đình văn hoáở nước ta thời gian qua.................

2.2.1. Những mặt đạt được và nguyên nhân…………………………………….

2.2.2.Những hạn chế và nguyên nhân …………………………………………

2.3. Giải pháp xây dựng gia đình văn hoáở nước ta thời gian tới…………

2.3.1. Giải pháp phát huy những mặt đạt được………………………..


3
2.1.3. Gỉải pháp khắc phục những mặt hạn chế………………………..

Tóm tắt chương 2………………………………………………………………

III. KẾT LUẬN………………………………………………………………………

IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………………….

4
I. PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài


Gia đình là vấn đề của mọi dân tộc và mọi thời đại. Ở mọi nơi, mọi lúc gia đình
đều chứng tỏ sức mạnh của mình. Gia đình luôn luôn là điểm tựa , là cội nguồn, là cái
nôi của sự bình yên và là nền tản đem lại sự hạnh phúc cho con người. không lúc nào
bằng lúc này, gia đình được đặt ra với một ý nghĩa phổ quát ở cả Phương Đông,
Phương Tây. Nó không chỉ mang lại tính cấp thiết của hiện tại mà còn gắn liền với quá
khứ góp phần quyết định đối với tương lai. Vì lẽ đó, gia đình trở thành một vấn đề của
toàn cầu, có ý nghĩa quan trọng với sự phát triển chung của toàn nhân loại tiến bộ.
Cũng vì thế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay. Có thể nói gia
đình là những tế bào nhỏ để hình thành nên một xã hội, một cộng đồng lớn. gia đình có
vai trò quan trọng và quyết định trực tiếp đến việc xây dựng và ảnh hưởng không nhỏ
đến từng cá nhân. Gia đình là nơi nuôi dưỡng và giáo dục mỗi con người sống có ý
thức, có đạo đức và cống hiến cho xã hội. các thành viên trong gia đình cùng nhau học
tập, xây dựng và phát triển để trở thành một gia đình văn hóa trong xã hội hiện nay.
Gia đình văn hóa là gia đình hòa thuận, hạnh phúc, tiến bộ làm tốt nghĩa vụ công dân
và thực hiện kế hoạch hóa gia đình.
Gia đình văn hóa được đề ra để để mỗi thành viên trng gia đình có sự cố gắng,
nỗ lực trong mọi hoạt động, thay đổi trong tư duy và nhận thức để sống tốt hơn và có
ích hơn. Từ đó xã hội mới ổng định và phát triển được. xã hội nào cũng được tạo nên
từ tập hợp nhiều gia đình mà trong đó là các cá nhân. Xây dựng gia định văn hóa với
nếp sống lành mạnh sẽ tạo ra những con người chuẩn mực, tạo ra một xã hội tốt đẹp
hơn. Ngoài ra xây dựng gia đình văn hóa cũng là việc làm giúp phát triển truyền thống
tốt đẹp của gia đình, gìn giữ bản sắc của các làng xóm.
Ở Việt Nam, xây dựng gia đình đã bước đầu đạt được những điểm tiến bộ trong
công cuộc xây dựng gia đình văn hóa. Nhiều gia đình đã tiếp cận được những dịch vụ
xã hội cơ bản, chất lượng cuộc sống ngày càng nâng cao. Kinh tế hộ gia đình đã đóng
vai trò quan trọng trong thu nhập quốc dân; nhiều hộ gia đình đã nỗ lực vươn lên làm
giàu chính đáng. Bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em và chăm sóc người cao tuổi trong
gia đình được coi trọng và có nhiều tiến bộ. Bình đẳng giới, quyền trẻ em, vai trò của
phụ nữ trong gia đình và xã hội ngày càng được đề cao. Chăm lo, vun đắp, xây dựng,
giữ gìn hạnh phúc gia đình là giá trị cao đẹp mà mỗi người Việt Nam luôn quan tâm
thực hiện và hướng tới. Các giá trị chung thủy, yêu thương, chia sẻ và bình đẳng trong
hôn nhân luôn được coi trọng… Những thành tựu của công tác xây dựng gia đình đã
góp phần tích cực vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng, phát triển văn
hóa và con người Việt Nam, thực hiện thành công mục tiêu thiên niên kỷ về chăm sóc

5
sức khỏe bà mẹ và trẻ sơ sinh. Bên cạch đó, thực trạng vẫn còn tồn tại những khó
khăn. Ở không ít các địa phương, việc có danh hiệu gia đình văn hóa chỉ là hình thức .
Không ít gia đình, khu phố, thôn bản đạt danh hiệu văn hóa chỉ trên danh nghĩa, có
khuynh hướng nặng theo chỉ tiêu. Không ít nơi tỷ lệ gia đình văn hóa đạt chuẩn rất cao
song thực trạng đời sống văn hóa, xã hội lại xuống cấp và diễn biến khá phức tạp. Và
vẫn còn tồn tại thực trạng bạo hành gia đình ở một số các địa phương. Mặt trái của cơ
chế thị trường đã và đang tác động tiêu cực đến đạo đức xã hội, nhiều tệ nạn xã hội
"tấn công" vào các gia đình, ảnh hưởng lớn đến lối sống, đến việc hình thành nhân
cách của con người và các mối quan hệ trong gia đình; quan hệ vợ chồng, anh em, họ
hàng, làng xóm bị phai mờ, giá trị tinh thần bị xem nhẹ; những thay đổi của xã hội đã
kéo theo sự thay đổi của gia đình.
Xuất phát từ tình hình thực tế trên và đứng trước những yêu cầu cấp thiết của
quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội, việc nghiên cứu “Gia đình trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội. Thực trạng và giải pháp xây dựng gia đình văn hoá ở nước ta
hiện nay” là vô cùng quan trọng.
2. Đối tượng nghiên cứu
Thứ nhất,gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai,thực trạng và giải pháp xây dựng gia đình văn hoáở nước ta hiện nay.
3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu thực trạng và giải pháp xây dựng gia đình văn hoáở nước ta
hiện nay.
4. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài:
Thứ nhất, làm rõ lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề dân tộc
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; gia đình văn hoá.
Thứ hai, đánh giá thực trạng xây dựng gia đình văn hoáở nước tathời gian qua.
Thứ ba, đề xuất giải pháp xây dựng gia đình văn hoáở nước ta thời gian tới.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng kết hợpnhiều phương pháp nghiên cứu, trong đó chủ yếu nhất là
các phương pháp:phương pháp thu thập số liệu; phương pháp phân tích và tổng hợp;
phương pháp lịch sử - logic;…
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài mục lục, phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, đề tài gồm 2
chương:
Chương 1: Gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
6
Chương 2: Thực trạng và giải pháp xây dựng gia đình văn hoáở nước ta hiện nay

7
II. PHẦN NỘI DUNG

Chương 1. GIA ĐÌNH TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

1.1. Khái niệm, vị trí và các chức năng của gia đình
1.1.1. Khái niệm gia đình
Gia đình là một cộng đồng người nhưng mang tính chất rất đặc biệt. Gia đình có
vai trò quan trọng, nó quyết định đến sự tồn tại cũng như phát triển của một xã hội.
Khi đề cập về gia đình C. Mác và Ph. Ăngghen cho rằng:“ Quan hệ thứ ba tham dự
ngay từ đầu vào quá trình phát triển lịch sử: hằng ngày tái tạo ra đời sống của bản
thân mình, con người bắt đầu tạo ra những người khác, sinh sôi nảy nở - đó là quan
hệ giữa chồng và vợ, cha mẹ và con cái, đó là gia đình.” 1. Cơ sở hình thành gia đình
bao gồm hai mối quan hệ cơ bản: quan hệ hôn nhân (vợ và chồng) và quan hệ huyết
thống ( cha mẹ và con cái...). “Những mối quan hệ này tồn tại trong sự gắn bó, liên
kết, ràng buộc và phụ thuộc lẫn nhau, bởi nghĩa vụ, quyền lợi và trách nhiệm của mỗi
người, được quy quy định bằng pháp lý hoặc đạo lý.”2
Trong cơ sở hình thành gia đình thì:“ Quan hệ hôn nhân là cơ sở, nền tảng hình
thành nên các mối quan hệ khác trong gia đình, là cơ sở pháp lý cho sự tồn tại của
mỗi gia đình. Quan hệ huyết thống là quan hệ giữa những người cùng một dòng máu,
nảy sinh từ quan hệ hôn nhân. Đây là mối quan hệ tự nhiên, là yếu tố mãnh mẹ nhất
gắn kết các thành viên trong gia đình với nhau.”3 Ngoài hai mối quan hệ cơ bản trong
gia đình là mối quan hệ giữa vợ và chồng, quan hệ giữa cha mẹ và con cái thì bên cạnh
đó còn có các mối quan hệ khác như quan hệ giữa ông bà với các cháu, anh chị em với
nhau, cô, dì, chú, bác với cháu...
Ngoài ra, hiện nay ở Việt Nam cũng như thế giới còn thừa nhận quan hệ cha mẹ
nuôi (người đỡ đầu) với con nuôi (được công nhận bằng thủ tục pháp lý) trong quan hệ
gia đình. Và cho dù gia đình được hình thành từ hình thức nào đi nữa thì gia đình tất
yếu sẽ nảy sinh mối quan hệ nuôi dưỡng. “ Đó là sự quan tâm, chăm sóc nuôi dưỡng
giữa các thành viên trong gia đình cả về vật chất và tinh thần. Nó vừa là trách nhiệm,
nghĩa vụ, vừa là một quyền lợi giữa các thành viên trong gia đình. Trong xã hội hiện
đại, hoạt động nuôi dưỡng, chăm sóc của gia đình được xã hội quan tâm chia sẻ, xong
không thể thay thế hoàn toàn sự chăm sóc, nuôi dưỡng của gia đình.”4

1
Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2021). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học. Hà Nội: NXB Chính trị quốc
gia Sự thật, tr.240.
2
Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2021). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học. Hà Nội: NXB Chính trị quốc
gia Sự thật, tr.240.
3
Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2021). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học. Hà Nội: NXB Chính trị quốc
gia Sự thật, tr.240.
4
Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2021). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học. Hà Nội: NXB Chính trị quốc
gia Sự thật, tr.241.

8
Các quan hệ này có mối liên hệ chặt chẽ với nhau và sẽ luôn vận động, biến đổi,
phát triển. Sự phát triển của nó sẽ phụ thuộc vào trình độ phát triển của kinh tế và
chính trị - xã hội.
Tóm lại,“gia đình là một hình thức cộng đồng xã hội đặc biệt, được hình thành,
duy trì và củng cố chủ yếu dựa trên cơ sở hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ
nuôi dưỡng ,cùng với những quy tắc về quyền và nghĩa vụ của các thành viên trong
gia đình”1
1.1.2. Vị trí của gia đình trong xã hội
1.1.2.1. Gia đình là tế bào của xã hội
Giống như tế bào trong cơ thể sống, gia đình có vai trò quyết định đối với sự tồn
tại, vận động và phát triển của xã hội. Ph. Ăngghen đã chỉ rõ rằng:“Theo quan điểm
duy vật, nhân tố quyết định trong lịch sử, quy đến cùng, là sản xuất và tái sản xuất ra
đời sống trực tiếp. Nhưng bản thân sự sản xuất đó lại có hai loại. Một mặt là sản xuất
ra tư liệu sinh hoạt: thực phẩm, quần áo, nhà ở và những công cụ cần thiết để sản
xuất ra những thứ đó; mặt khác là sự sản xuất ra bản thân con người, là sự truyền nòi
giống. Những trật tự xã hội, trong đó những con người của một thời đại lịch sử nhất
định và của một nước nhất định đang sống, là do hai loại sản xuất quyết định: một
mặt là do trình độ phát triển của lao động và mặt khác là do trình độ phát triển của
gia đình”2
Gia đình như một tế bào tự nhiên, là một đơn vị cấu thành nên cơ thể - xã hội.
Nói gia đình là tế bào của xã hội bởi vì gia đình sản xuất ra tư liệu tiêu dùng, tư liệu
sản xuất, tái sản xuất ra con người. Xã hội sẽ không thể tồn tại và phát triển được nếu
không có gia đình để tái tạo ra con người. Một cơ thể khỏe mạnh là một cơ thể có
những tế bào đủ tốt, khỏe mạnh. Tương tự, để có một xã hội phát triển một cách lành
mạnh thì phải quan tâm, chú trọng vấn đề xây dựng gia đình tốt, như chủ tịch Hồ Chí
Minh từng nói:“ … nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình
càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân của xã hội là con người”3
Tuy nhiên, phụ thuộc vào bản chất của từng chế độ, vào chính sách, đường lối
của gia cấp cầm quyền, và phụ thuộc vào chính bản thân mô hình, kết cấu, đặc điểm
của mỗi hình thức gia đình trong lịch sử mà mức độ tác động của gia đình đối với xã
hội là khác nhau. “Vì vậy, trong mỗi giai đoạn của lịch sử, tác động của gia đình đối
với xã hội không hoàn toàn giống nhau. Trong các xã hội dựa trên cơ sở chế độ tư
hữu về tư liệu sản xuất, sự bất bình đẳng trong quan hệ xã hội và quan hệ gia đình đã
hạn chế rất lớn đến sự tác động của gia đình đối với xã hội. Chỉ khi con người được

1
Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2021). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học. Hà Nội: NXB Chính trị quốc
gia Sự thật, tr.241.
2
Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2021). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học. Hà Nội: NXB Chính trị quốc
gia Sự thật, tr.241-242.
3
Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2021). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học. Hà Nội: NXB Chính trị quốc
gia Sự thật, tr.242.
9
yên ấm, hòa thuận trong gia đình thì mới có thể yên tâm lao động, sáng tạo và đóng
góp sức mình cho xã hội và ngược lại. Chính vì vậy, quan tâm xây dựng xã hội, quan
hệ gia đình bình đẳng, hạnh phúc là vấn đề hết sức quan trọng trong cách mạng xã
hội chủ nghĩa.”1

1.1.2.2. Gia đình là tổ ấm, nơi mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hòa
trong đời sống cá nhân mỗi thành viên
Mỗi cá nhân đều gắn bó chặt chẽ với gia đình kể từ lúc còn nằm trong bụng mẹ
đến lúc lọt lòng và suốt cả cuộc đời. “Gia đình là môi trường tốt nhất để mỗi cá nhân
được yêu thương, nuôi dưỡng, chăm sóc, trưởng thành, phát triển. Sự yên ổn, hạnh
phúc của mỗi gia đình là tiền đề, điều kiện quan trọng trong sự hình thành, phát triển
nhân cách, thể lực, trí lực để trở thành công dân tốt cho xã hội. Chỉ trong môi trường
yên ấm của gia đình, cá nhân mới cảm thấy bình yên, hạnh phúc, có động lực để phấn
đấu trở thành con người xã hội tốt”.2
1.1.2.3. Gia đình là cầu nối giữa cá nhân và xã hội
Sự hình thành và phát triển nhân cách của mỗi người chịu tác động và ảnh
hưởng rất lớn bởi gia đình. Vì gia đình chính là cộng đồng xã hội đầu tiên mà mỗi cá
nhân sinh sống. Những thứ tình cảm thiêng liêng, sâu đậm giữa vợ và chồng, cha mẹ
và con cái, anh chị em với nhau chỉ trong gia đình mới thể hiện được hết. Những tình
cảm đó không thể và khó có thể tìm thấy, thay thế trong một cộng đồng nào khác.
Tuy nhiên, trên thực tế con người có nhiều nhu cầu quan hệ xã hội, quan hệ với
những người khác ngoài các thành viên trong gia đình. Mỗi cá nhân không thể chỉ
sống trong quan hệ tình cảm gia đình mà bỏ qua những mối quan hệ xã hội khác. Bởi,
mỗi cá nhân không chỉ là thành viên của gia đình mà còn là thành viên của xã hội.
Chính vì vậy, quan hệ giữa các thành viên trong gia đình cũng đồng thời là quan hệ
giữa các thành viên của xã hội. “Không có cá nhân bên ngoài gia đình, cũng không thể
có cá nhân bên ngoài xã hội. Gia đình là cộng đồng xã hội đầu tiên đáp ứng nhu cầu
quan hệ xã hội của mỗi cá nhân. Gia đình cũng chính là môi trường đầu tiên mà mỗi
các nhân học được và thực hiện quan hệ xã hội.”3
Ngược lại, xã hội cũng tác động đến cá nhân thông qua gia đình. Thông qua lăng
kính gia đình mà nhiều thông tin, hiện tượng của xã hội sẽ tác động tích cực hoặc tiêu
cực đến sự phát triển của mỗi cá nhân về tư tưởng, đạo đức, lối sống, nhân cách, v.v..

1
Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2021). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học. Hà Nội: NXB Chính trị quốc
gia Sự thật, tr.242-243
2
Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2021). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học. Hà Nội: NXB Chính trị quốc
gia Sự thật, tr.243.
3
Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2021). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học. Hà Nội: NXB Chính trị quốc
gia Sự thật, tr.244.

10
“Xã hội nhận thức đầy đủ và toàn diện hơn về mỗi cá nhân khi xem xét họ trong các
quan hệ xã hội và quan hệ với gia đình. Có những vấn đề quản lý xã hội phải thông
qua hoạt động của gia đình để tác động đến cá nhân. Nghĩa vụ và quyền lợi của mỗi
cá nhân được thực hiện với sự hợp tác của các thành viên trong gia đình. Chính vì
vậy, ở bất cứ xã hội nào, giai cấp cầm quyền muốn quản lý xã hội theo yêu cầu của
mình cũng đều coi trọng việc xây dựng và củng cố gia đình. Vậy nên, đặc điểm gia
đình ở mỗi chế độ xã hội có khác nhau. Trong xã hội phong kiến, để củng cố, duy trì
chế độ bóc lột, với quan hệ gia trưởng, độc đoán, chuyên quyền đã có những quy định
rất khắc khe đối với phụ nữ, đòi hỏi người phụ nữ phải tuyệt đối trung thành với người
chồng, người cha – những người đàn ông trong gia đình. Trong quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội, để xây dựng một xã hội thật sự bình đẳng, con người được giải
phóng, giai cấp công nhân chủ trương bảo vệ chế độ hôn nhân một vợ, một chồng,
thực hiện sự bình đẳng trong gia đình, giải phóng phụ nữ. Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định: “Nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ một
nửa.” Vì vậy, quan hệ gia đình trong chủ nghĩa xã hội có đặc điểm khác về chất so với
các chế độ xã hội trước đó.”1
1.1.3. Chức năng cơ bản của gia đình
1.1.3.1. Chức năng tái sản xuất ra con người
Đây là một chức năng mang tính đặc thù của gia đình mà không một cộng đồng
nào có thể thay thế được. Ngoài việc đáp ứng được nhu cầu tâm, sinh lú tự nhiên của
con người, đáp ứng nhu cầu duy trì nòi giống của gia đình, dòng họ chức năng này còn
đáp ứng nhu cầu về sức lao động và duy trì sự trường tồn của xã hội.
“Việc thực hiện chức năng tái sản xuất ra con người diễn ra trong từng gia
đình, nhưng không chỉ là việc riêng của gia đình mà là vấn đề xã hội. Bởi vì, thực hiện
chức năng này quyết định đến mật độ dân cư và nguồn lao động của một quốc gia và
quốc tế, một yếu tố cấu thành của tồn tại xã hội. Thực hiện chức năng này liên quan
chặt chẽ đến sự phát triển mọi mặt của đời sống xã hội. Vì vậy, tùy theo từng nơi, phụ
thuộc vào nhu cầu của xã hội, chức năng này được thực hiện theo xu hướng hạn chế
hay khuyến khích. Trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ảnh hưởng đến chất
lượng nguồn lực lao động mà gia đình cung cấp.”2
1.1.3.2.Chức năng nuôi dưỡng, giáo dục
“Bên cạnh chức năng tái sản xuất ra con người gia đình còn có trách nhiệm
nuôi dưỡng, dạy dỗ con cái trở thành người có ích cho gia đình và, cộng đồng và xã
hội. Chức năng này thể hiện tình cảm thiêng liêng, trách nhiệm của cha mẹ với con
cái, đồng thời thể hiện trách nhiệm của gia đình đối với xã hội. Thực hiện chức năng
1
Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2021). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học. Hà Nội: NXB Chính trị quốc
gia Sự thật, tr.244-245.
2
Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2021). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học. Hà Nội: NXB Chính trị quốc
gia Sự thật, tr.245-246.

11
này, gia đình có ý nghĩa quan trọng đối với sự hình thành nhân cách, đạo đức, lối
sống của mỗi người. Bởi vì, ngay khi sinh ra, trước tiên mỗi người đều chịu sự giáo
dục trực tiếp của cha mẹ và người thân trong gia đình. Những hiểu biết đầu tiên mà
gia đình đem lại thường để lại dấu ấn sâu đậm và bền vững trong cuộc đời mỗi người.
Vì vậy, gia đình là một môi trường văn hóa, giáo dục, trong môi trường này, mỗi
thành viên đều là những chủ thể sáng tạo những giá trị văn hóa, chủ thể giáo dục
đồng thời cũng là những người thụ hưởng giá trị văn hóa, và là chủ thể chịu giáo dục
của các thành viên khác trong gia đình.
Chức năng nuôi dưỡng, giáo dục ảnh hưởng lâu dài và toàn diện đến cuộc đời
của mỗi thành viên, từ lúc lọt lòng cho đến khi trưởng thành và tuổi già. Mỗi thành
viên trong gia đình đều có vị trí, vai trò nhất định, vừa là chủ thể vừa là khách thể
trong việc nuôi dưỡng, giáo dục của gia đình. Đây là chức năng hết sức quan trọng,
mặc dù trong xã hội có nhiều cộng đồng khác (nhà trường, các đoàn thể, chính quyền,
v.v) cũng thực hiện chức năng này, nhưng không thể thay thế chức năng giáo dục của
gia đình. Với chức năng này, gia đình góp phần to lớn vào việc đào tạo thế hệ trẻ, thế
hệ tương lai của xã hội, cung cấp và nâng cao chất lượng nguồn lao động để duy trì
sự trường tồn của xã hội, đồng thời mỗi cá nhân từng bước được xã hội hóa. Vì vậy,
giáo dục của gia đình gắn liền với giáo dục của xã hội. Nếu giáo dục của gia đình
không gắn với giáo dục của xã hội, mỗi cá nhân sẽ khó khăn khi hòa nhập với xã hội,
và ngược lại, giáo dục của xã hội sẽ không đạt được hiệu quả cao khi không kết hợp
với giáo dục của gia đình, không lấy giáo dục của gia đình là nền tảng. Do vậy, cần
tránh khuynh hướng coi trọng giáo dục gia đình mà hạ thấp giáo dục của xã hội và
ngược lại. Bởi cả hai khuynh hướng ấy, mỗi cá nhân đều không phát triển toàn diện.”1
Vì vậy, để thực hiện tốt chức năng nuôi dưỡng, giáo dục thì kiến thức cơ bản,
tương đối toàn diện về mọi mặt, văn hóa, học vấn của mỗi người làm cha, làm mẹ là
hết sức quan trọng, đặc biệt phương pháp giáo dục.
1.1.3.3. Chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng
Gia đình tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất và tái sản xuất ra tư liệu sản
xuất và tư liệu tiêu dùng giống như những đơn vị kinh tế khác. Tuy nhiên, khác với
những đơn vị kinh tế khác, cái đặc thù mà những đơn vị kinh tế đó không có được, đó
là gia đình là đơn vị duy nhất tham gia vào quá trình sản xuất và tái sản xuất ra sức lao
động cho xã hội.
“Gia đình không chỉ tham gia trực tiếp vào sản xuất và tái sản xuất ra của cải
vật chất và sức lao động, mà còn là một đơn vị tiêu dùng trong xã hội. Gia đình thực
hiện chức năng tổ chức tiêu dùng hàng hóa để duy trì đời sống của gia đình về lao
động sản xuất cũng như các sinh hoạt trong gia đình. Đó là việc sử dụng hợp lý các
khoản thu nhập của các thành viên trong gia đình vào việc đảm bảo đời sống vật chất
và tinh thần của mỗi thành viên cùng với việc sử dụng quỹ thời gian nhàn rỗi để tạo ra
1
Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2021). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học. Hà Nội: NXB Chính trị quốc
gia Sự thật, tr.246-247.

12
một môi trường văn hóa lành mạnh trong gia đình, nhằm nâng cao sức khỏe, đồng
thời để duy trì sở thích, sắc thái riêng của mỗi người.
Cùng với sự phát triển của xã hội, ở các hình thức gia đình khác nhau và ngay
cả ở một hình thức gia đình, nhưng tùy theo từng giai đoạn phát triển của xã hội, chức
năng kinh tế của gia đình có sự khác nhau, về mô sản xuất, sở hữu tư liệu sản xuất và
cách thức tổ chức sản xuất và phân phối. Vị trí, vai trò của kinh tế gia đình và mối
quan hệ của kinh tế gia đình với các đơn vị kinh tế khác trong xã hội cũng không hoàn
toàn giống nhau.
Thực hiện chức năng này, gia đình đảm bảo nguồn sinh sống, đáp ứng nhu cầu
vật chất, tinh thần của các thành viên trong gia đình. Hiệu quả hoạt động kinh tế của
gia đình quyết định hiệu quả đời sống vật chất và tinh thần của mỗi thành viên gia
đình. Đồng thời, gia đình đóng góp vào quá trình sản xuất và tái sản xuất ra của cải,
sự giàu có của xã hội. Gia đình có thể phát huy một cách có hiệu quả mọi tiềm năng
của mình về vốn, về sức lao động, tay nghề của người lao động, tăng nguồn của cải
vật chất cho gia đình và xã hội. Thực hiện tốt chức năng này không những tạo cho gia
đình có cơ sở để tổ chức tốt đời sống, nuôi dạy con cái, mà còn đóng góp to lớn đối
với sự phát triển của xã hội.”1
1.1.3.4.Chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lí và duy trì tình cảm gia đình.
“Đây là chức năng thường xuyên của gia đình, bao gồm việc thỏa mãn nhu cầu
tình cảm, văn hóa, tinh thần cho các thành viên, đảm bảo sự cân bằng tâm lý, bảo vệ,
chăm sóc sức khỏe người ốm, người già, trẻ em. Sự quan tâm, chăm sóc lẫn nhau giữa
các thành viên trong gia đình vừa là nhu cầu tình cảm, vừa là trách nhiệm, đạo lý,
lương tâm của mỗi người”2. Do vậy, gia đình không chỉ là nơi nương tựa về vật chất
của con người, quan trọng hơn hết, gia đình là chỗ dựa tình cảm cho mỗi cá nhân, là
nơi nương tựa về mặt tinh thần. Chính vì vậy cần duy trì tình cảm khăng khít, gắn bó
giữa các thành viên trong đình. Thông qua đó gia đình có ý nghĩa quyết định đến sự ổn
định và phát triển của xã hội. Một khi quan hệ tình cảm gia đình rạn nứt, quan hệ tình
cảm trong xã hội cũng có nguy cơ bị phá vỡ.
“Ngoài những chức năng trên, gia đình còn có chức năng văn hóa, chức năng
chính trị... Với chức năng văn hóa, gia đình là nơi lưu giữ truyền thống văn hóa của
dân tộc cũng như tộc người. Những phong tục, tập quán, sinh hoạt văn hóa của cội
đồng được thực hiện trong gia đình. Gia đình không chỉ là nơi lưu giữ mà còn là nơi
sáng tạo và thụ hưởng những giá trị văn hóa của xã hội. Với chức năng chính trị, gia
đình là một tổ chức chính trị của xã hội, là nơi tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật
của nhà nước và quy chế (hượng ước) của làng, xã và hưởng lợi từ hệ thống pháp

1
Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2021). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học. Hà Nội: NXB Chính trị quốc
gia Sự thật, tr.248-249.
2
Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2021). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học. Hà Nội: NXB Chính trị quốc
gia Sự thật, tr.249.

13
luật, chính sách và quy chế đó. Gia đình là cầu nối của mối quan hệ giữa nhà nước
với công dân.”1
1.2. Cơ sở xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
1.2.1. Cơ sở kinh tế - xã hội
Cơ sở kinh tế - xã hội để xây dựng gia đình trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã
hội là sự phát triển của lực lượng sản xuất và tương ứng với trình độ của lực lượng sản
xuất là quan hệ sản xuất mới, xã hội chủ nghĩa mà trong đó cốt lõi của quan hệ sản
xuất mới là sự thay đổi chế độ sở hữu của tư liệu sản xuất ( từ tư hữu sang công hữu ).
Xóa bỏ sự áp bức, bóc lột và bất bình đẳng trong xã hội và gia đình, tạo cơ sở kinh tế
cho việc xây dựng quan hệ bình đẳng trong gia đình và giải phóng phụ nữ trong xã hội.
“V.I. Lênin đã viết: “Bước thứ hai và là bước chủ yếu là thủ tiêu chế độ tư hữu về
ruộng đất, công xưởng và nhà máy. Chính như thế và chỉ có như thế mới mở được con
đường giải phóng hoàn toàn và thật sự cho phụ nữ, mới thủ tiêu được “chế độ nô lệ
gia đình” nhờ có việc thay thế nền kinh tế gia đình cá thể bằng nền kinh tế xã hội hóa
quy mô lớn”.
Xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất là xóa bỏ nguồn gốc nguyên nhân gây
ra tình trạng thống trị của người đàn ông trong gia đình, sự bất bình đẳng giữa nam
và nữ, giữa vợ và chồng, sự nô dịch với người phụ nữ.”2 Sự thống trị của đàn ông
trong gia đình là bởi vì họ thống trị về mặt kinh tế. Chính vì vậy sự thống trị của đàn
ông sẽ tiêu tan khi sự thống trị về kinh tế không còn tồn tại. Bên cạnh đó việc xóa bỏ
chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất cũng là cơ sở để biến lao động tư nhân trong gia đình
thành lao động xã hội trực tiếp. Qua đó người phụ nữ dù lao động xã hội hay gia đình
vẫn có giá trị đóng góp cho sự phát triển của xã hội.“Như Ph. Ăngghen đã nhấn mạnh:
“Tư liệu sản xuất chuyển thành tài sản chung, thì gia đình cá thể sẽ không còn là đơn
vị kinh tế của xã hội nữa. Nền kinh tế tư nhân biến thành một ngành lao động xã hội.
Việc nuôi dạy con cái trở thành công việc của xã hội”. Do vậy, phụ nữ có địa vị bình
đẳng với đàn ông trong xã hội. Xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất cũng là cơ sở
làm cho hôn nhân được thực hiện dựa trên cơ sở tình yêu chứ không phải vì lý do kinh
tế, địa vị xã hội hay một sự tính toán nào khác.”3
1.2.2. Cơ sở chính trị - xã hội

Cơ sở chính trị - xã hội để xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ chính là việc
thiết lập chính quyền nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, nhà nước
xã hội chủ nghĩa. Nhân dân lao động được hiện quyền lực của mình không phân biệt
nam nữ, đồng thời xóa bỏ những luật lệ cũ kỹ, lạc hậu từ đó giải phóng phụ nữ và bảo
vệ hạnh phúc gia đình. “V.I. Lênin đã khẳng định: “Chính quyền Xôviết là chính
1
Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2021). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học. Hà Nội: NXB Chính trị quốc
gia Sự thật, tr.249-250.
2
Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2021). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học. Hà Nội: NXB Chính trị quốc
gia Sự thật, tr.250-251.
3
Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2021). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học. Hà Nội: NXB Chính trị quốc
gia Sự thật, tr.251.
14
quyền đầu tiên và duy nhất trên thế giới đã hoàn toàn thủ tiêu tất cả những pháp luật
cũ kỹ, tư sản, để tiện, những pháp luật đó đặt người phụ nữ vào tình trạng không bình
đẳng với nam giới, đã dành đặc quyền cho nam giới... Chính quyền Xôviết, một chính
quyền của nhân dân lao động, là chính quyền đầu tiên và duy nhất trên thế giới đã hủy
bỏ tất cả những đặc quyền gắn liền với chế độ tư hữu, những đặc quyền của người
đàn ông trong gia đình””1

Với tính cách là nhà nước quá độ lên xã hội chủ nghĩa, việc thể hiện sắc nét nhất
là thông qua hệ thống pháp luật (trong đó có Luật hôn nhân và gia đình) cùng chính
sách xã hội nhằm đảm bảo các quyền và lợi ích của công dân cũng như gia đình, đồng
thời bảo vệ các yếu tố bình đẳng giới, cũng như định hướng và thúc đẩy việc xây dựng
gia đình kiểu mới tiến bộ. “Chừng nào và ở đâu, hệ thống chính sách, pháp luật chưa
hoàn thiện thì việc xây dựng gia đình và đảm bảo hạnh phúc gia đình còn hạn chế.”2

1.2.3. Cơ sở văn hoá


Văn hóa là yếu tố quan trọng trong xây dựng gia đình. Cùng với sự biến đổi của
đời sống chính trị và kinh tế trong quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì đời sống
văn hóa, tinh thần cũng biến đổi dựa trên hệ tư tưởng chính trị của giai cấp công nhân
để từng bước chi phối và giữ vai trò quan trọng trong nền tảng văn hóa và tinh thần
của xã hội. Cùng lúc đó, những yếu tố văn hóa, phong tục tập quán, lối sống lạc hậu
không còn phù hợp với xã hội hiện tại do xã hội cũ để lại từng bước bị loại bỏ.
“ Sự phát triển hệ thống giáo dục, đào tạo, khoa học và công nghệ góp phần
nâng cao trình độ dân trí, kiến thức khoa học và công nghệ của xã hội, đồng thời cũng
cung cấp cho các thành viên trong gia đình kiến thức, nhận thức mới, làm nền tảng
cho sự hình thành những giá trị, chuẩn mực mới, điều chỉnh các mối quan hệ gia đình
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.”3

Thiếu đi cơ sở văn hóa, hoặc cơ sở văn hóa không đi liền với cơ sở kinh tế,
chính trị, thì việc xây dựng gia đình sẽ lệch lạc, không đạt hiệu quả cao.

1.2.4. Chế độ hôn nhân tiến bộ


1.2.4.1 Khái niệm nguyên tắc hôn nhân tiến bộ
Hôn nhân được hiểu là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi kết hôn. Kết hôn là
việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của pháp luật về điều
kiện kết hôn và đăng ký kết hôn.
Khoản 1 điều 36 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm
2013 quy định: “Nam, nữ có quyền kết hôn, ly hôn. Hôn nhân theo nguyên tắc tự

1
Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2021). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học. Hà Nội: NXB Chính trị quốc
gia Sự thật, tr.252.
2
Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2021). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học. Hà Nội: NXB Chính trị quốc
gia Sự thật, tr.253.
3
Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2021). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học. Hà Nội: NXB Chính trị quốc
gia Sự thật, tr.253.
15
nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng tôn trọng lẫn nhau.” Đồng
thời điều 8 Luật hôn nhân gia đình 2014 quy định về điều kiện kết hôn trong đó có quy
định: “Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định”.Vì vậy, hôn nhân tiến bộ là
hôn nhân bao hàm cả hai khía cạnh đảm bảo quyền tự do kết hôn và tự do ly hôn.
1.2.4.2 Biểu hiện của nguyên tắc hôn nhân tiến bộ
a) Hôn nhân tự nguyện
Tình yêu giữa nam và nữ là yếu tố quan cơ bản và quan trọng nhất của hôn nhân
tiến bộ. Cho dù ở trong hoàn cảnh nào, xã hội nào, thời đại nào, tình yêu vẫn luôn là
khát vọng mãnh liệt của con người. Một khi hôn nhân không còn xây dựng trên nền
tảng của tình yêu thì chừng đó, trong hôn nhân, tình yêu, hạnh phúc gia đình sẽ bị hạn
chế.
“Hôn nhân xuất phát từ tình yêu tất yếu dẫn đến hôn nhân tự nguyện. Đây là
bước phát triển tất yếu của tình yêu nam nữ, như Ph. Ăngghen nhấn mạnh: “... nếu
nghĩa vụ của vợ chồng là phải thương yêu nhau thì nghĩa vụ của những kẻ yêu nhau
há chẳng phải là kết hôn với nhau và không được kết hôn với người khác hay sao?”.
Hôn nhân tự nguyện đảm bảo cho nam, nữ có quyền tự do trong việc lựa chọn người
kết hôn, không chấp nhận sự áp đặt của cha mẹ. Tất nhiên, hôn nhân tự nguyện không
bác bỏ việc cha mẹ quan tâm, hướng dẫn giúp đỡ con cái có nhận thức đúng, có trách
nhiệm trong việc kết hôn.
Hôn nhân tiến bộ còn bao hàm cả quyền tự do ly hôn khi tình yêu giữa nam và
nữ không còn nữa. Ph. Ăngghen viết: “Nếu chỉ riêng hôn nhân dựa trên cơ sở tình yêu
mới hợp đạo đức thì cũng chỉ riêng hôn nhân trong đó tình yêu được duy trì, mới là
hợp đạo đức mà thôi... và nếu tình yêu đã hoàn toàn phai nhạt hoặc bị một tình yêu
say đắm mới át đi, thì ly hôn sẽ là điều hay cho cả đôi bên cũng như cho xã hội”. Tuy
nhiên, hôn nhân tiến bộ không khuyến khích việc ly hôn, vì ly hôn để lại hậu quả nhất
định cho xã hội, cho cả vợ, chồng và đặc biệt là con cái. Vì vậy, cần ngăn chặn những
trường hợp nông nổi khi ly hôn, ngăn chặn hiện tượng lợi dụng quyền ly hôn và những
lý do ích kỷ hoặc vì mục đích vụ lợi.”1
b) Hôn nhân một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng
Không giống như những yếu tố vật chất, tình yêu là thứ không thể chia sẻ được.
Vì vậy, hôn nhân một vợ một chồng chính là kết quả tất yếu xuất phát từ tình yêu. Nó
còn là điều kiện tối thiểu để đảm bảo hạnh phúc gia đình. Đồng thời nó còn phù hợp
với quy luật tự nhiên, tâm lý, tình cảm và đạo đức của con người.
“Hôn nhân một vợ một chồng đã xuất hiện từ sớm trong lịch sử xã hội loài
người, khi có sự thắng lợi của chế độ tư hữu đối với chế độ công hữu nguyên thủy. Tuy
nhiên, trong các xã hội trước, hôn nhân một vợ một chống thực chất chỉ đối với người
phụ nữ. “Chế độ một vợ một chồng sinh ra từ sự tập trung nhiều của cải vào tay một
1
Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2021). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học. Hà Nội: NXB Chính trị quốc
gia Sự thật, tr.254-255.
16
người, - vào tay người đàn ông - và từ nguyện vọng chuyển của cải ấy lại cho con cái
của người đàn ông ấy, chứ không phải của người nào khác. Vì thế, cần phải có chế độ
một vợ một chồng về phía người vợ, chứ không phải về phía người chồng”?. Trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện chế độ hôn nhân một vợ chồng là thực
hiện sự giải phóng đối với phụ nữ, thực hiện sự bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau giữa vợ
và chồng. Trong đó, vợ và chồng đều có quyền lợi và nghĩa vụ ngang nhau về mọi vấn
đề của cuộc sống gia đình. Vợ và chồng được tự do lựa chọn những vấn đề riêng,
chính đáng như nghề nghiệp, công tác xã hội, học tập và một số nhu cầu khác, vv..;
đồng thời cũng có sự thống nhất trong việc giải quyết những vấn đề chung của gia
đình như ăn, ở, nuôi dạy con cái... nhằm xây dựng gia đình hạnh phúc.
Quan hệ vợ chồng bình đẳng là cơ sở cho sự bình đẳng ong quan hệ giữa cha
mẹ với con cái và quan hệ giữa anh chị em với nhau. Nếu như cha mẹ có nghĩa vụ yêu
thương con cái, ngược lại, con cái cũng có nghĩa vụ biết ơn, kính trọng, nghe lời dạy
bảo của cha mẹ. Tuy nhiên, quan hệ giữa cha mẹ và con cái, giữa anh chị em sẽ có
những mâu thuẫn không thể tránh khỏi do sự chênh lệch tuổi tác, nhu cầu, sở thích
riêng của mỗi người. Do vậy, giải quyết mâu thuẫn trong gia đình là vấn đề cần được
mọi người quan tâm, chia sẻ.”1
c) Hôn nhân được đảm bảo về pháp lý
“Quan hệ hôn nhân, gia đình thực chất không phải là vấn đề riêng tư của mỗi
gia đình mà là quan hệ xã hội. Tình yêu giữa nam và nữ là vấn đề riêng của mỗi
người, xã hội không can thiệp, nhưng khi hai người đã thỏa thuận để đi đến kết hôn,
tức là đã đưa quan hệ riêng bước vào quan hệ xã hội, thì phải có sự thừa nhận của xã
hội, điều đó được biểu hiện bằng thủ tục pháp lý trong hôn nhân. Thực hiện thủ tục
pháp lý trong hôn nhận là thể hiện sự tôn trọng trong tình yêu, trách nhiệm giữa nam
và nữ, trách nhiệm của cá nhân với gia đình và xã hội và ngược lại. Đây cũng là biện
pháp ngăn chặn những cá nhân lợi dụng quyền tự do kết hôn, tự do ly hôn để thỏa
mãn những nhu cầu không chính đáng, để bảo vệ hạnh phúc của cá nhân và gia đình.
Thực hiện thủ tục pháp lý trong hôn nhân không ngăn cản quyền tự do kết hôn và tự
do ly hôn chính đáng, mà ngược lại, là cơ sở để thực hiện những quyền đó một cách
đầy đủ nhất.”2

Tóm tắt chương I:


Như vậy, qua chương I ta có thể hiểu được khái niệm, chức năng của gia đình
cũng như vị trí của gia đình trong xã hội. “Gia đình là một hình thức cộng đồng xã hội
1
Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2021). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học. Hà Nội: NXB Chính trị quốc
gia Sự thật, tr.255-256.
2
Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2021). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học. Hà Nội: NXB Chính trị quốc
gia Sự thật, tr.256-257.
17
đặc biệt, được hình thành, duy trì và củng cố chủ yếu dựa trên cơ sở hôn nhân, quan
hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng ,cùng với những quy tắc về quyền và nghĩa vụ
của các thành viên trong gia đình”1. Và, cũng chính vì gia đình là một hình thức cộng
đồng đặc biệt mà nó giữ vị trí rất quan trọng trong xã hội: gia đình vừa là tế bào của
xã hội, vừa là tổ ấm mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hòa trong đời sống của mỗi
cá nhân và gia đình cũng đóng vai trò là cầu nối giữa cá nhân với xã hội. Gia đình
thực hiện những chức năng mà không một cộng đồng xã hội nào khác có thể thực hiện
được như: chức năng tái sản xuất ra con người; chức năng nuôi dưỡng, giáo dục;
chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng; chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy
trì tình cảm gia đình. Bên cạnh đó, qua chương 1 ta cũng nắm được cơ sở xây dựng
gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là các cơ sở về: kinh tế - xã hội,
chính trị - xã hội, văn hóa và chế độ hôn nhân tiến bộ. Trong đó chế độ hôn nhân tiến
bộ là: hôn nhân tự nguyện, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng và quan trọng là
được đảm bảo về pháp lý. Cuối cùng, rút ra được tầm quan trọng của việc xây dựng
gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội để có những biện pháp phù hợp thúc
đẩy cũng như cải thiện, khắc phục những vấn đề về xây dựng gia đình văn hóa ở nước
ta hiện nay.

1
Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2021). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học. Hà Nội: NXB Chính trị quốc
gia Sự thật, tr.241.

18
Chương 2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VĂN HOÁ
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

2.1. Gia đình văn hoá và những vấn đề liên quan đến gia đình văn hoá
2.1.1 Khái niệm gia đình văn hoá
Một xã hội muốn vững mạnh, một dân tộc muốn trường tồn trước hết phải bắt
đầu từ gia đình. Trong quyển “Đại học” của Khổng Tử có viết “Tề gia, trị quốc, bình
thiên hạ”, xây dựng gia đình lành mạnh, ấm no, tiến bộ, bình đẳng, hạnh phúc và bền
vững mới có thể nghĩ đến việc xây dựng một quốc gia hùng cường và bền vững. Có
thể nói rằng gia đình và các mối quan hệ trong gia đình đóngvai trò đặc biệt quan
trongtrong chiến lược phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ đất nước. Chủ
tịch Hồ Chí Minh từng chỉ rõ: “Rất quan tâm đến gia đình là đúng và nhiều gia đình
cộng lại mới thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới
tốt. Hạt nhân của xã hội là gia đình. Chính vì vậy muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội,
phải chú ý hạt nhân cho tốt” 1. Luận điểm của Người vừa khẳng định vai trò to lớn của
gia đình đối với xã hội, vừa khẳng định mối quan hệ không thể tách rời giữa gia đình
và xã hội, đồng thời còn khẳng định sự cần thiết phải xây dựng gia đình mới để có xã
hội mới - một xã hội “xã hội chủ nghĩa” thực sự.
Xã hội sẽ thông qua gia đình đã thể hiện vai trò và trách nhiệm đối với cá nhân,
yêu cầu cá nhân thực hiện nghĩa vụ đối với xã hội. Mỗi cá nhân, để thực hiện nghĩa vụ
của mình đối với xã hội, cũng phải thông qua gia đình và nhờ vào gia đình. Không có
sự tác động hoặc hỗ trợ tích cực của gia đình, mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội rất
dễ bị tách rời. Với quan điểm đó, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí
Minh và Đảng ta đã đề ra chủ trương quan trọng về xây dựng gia đình mới - gia đình
văn hoá, thể hiện sự vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác vào hoàn cảnh lịch
sử cụ thể của Việt Nam. Từ khi ra đời đến nay, khái niệm gia đình mới đã có nhiều tên
gọi khác nhau như: gia đình có nếp sống văn hóa, gia đình văn hóa mới, gia đình văn
hóa xã hội chủ nghĩa, gia đình văn hóa, gia đình mới và hiện nay chúng ta thống nhất
dùng cụm từ “gia đình văn hóa”.
Gia đình văn hóa là một thuật ngữ dùng để chỉ một danh hiệu mà Chính phủ
Việt Nam trao tặng cho các gia đình thưc hiện tốt các chỉ tiêu đã đặt ra, với mục đích
tạo ra một số tiêu chuẩn về văn hóa và khuyến khích, động viên các gia đình thực
hiện, đạt các tiêu chuẩn này. Bản thể của gia đình văn hóa vẫn là gia đình, nó chỉ tới
tính chất hay phẩm chất của gia đình.
Gia đình văn hóa được coi là một kiểu gia đình mới, khác với gia đình truyền
thống hoặc gia đình kiểu cũ trong thời kì phong kiến và thực dân. Bởi trong gia đình,
ngoài các yếu tố truyền thống đã được chọn lọc và phát huy còn có những yếu tố mới
1
Hồ Chí Minh (1980): Toàn tập, tập 12, Nxb. Sự thật, Hà Nội

19
của thời đại đáp ứng yêu cầu của sự phát triển xã hội.Trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, việc giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống của
gia đình đồng thời vận dụng tư tưởng tiến bộ của thế giới là điều rất cần được coi
trọng; trong đó phụ nữ giữ vai trò chủ đạo. Ảnh hưởng của người phụ nữ tác động đến
hầu hết các lĩnh vực trong cuộc sống gia đình. Bác Hồ thể hiện sự đánh giá cao về
người phụ nữ Việt Nam của Người, trong đó có sự ghi nhận sâu sắc những đóng góp
trong cuộc sống gia đình, đó là sự tần tảo đảm đang, là sự trung hậu, là một nửa của
thế giới xứng với tám chữ vàng “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”.Tuy
nhiên do tàn dư của tư tưởng phong kiến, người phụ nữ trong gia đình ngay cả ở thời
điểm hiện nay cũng đôi khi bị coi thường. Không ít cảnh bất bình đẳng khi người phụ
nữ vừa phải gánh vác công việc xã hội, vừa phải toan lo việc gia đình. Đã thế nhiều
người còn phải chịu cảnh bị bạo hành do có những người chồng vũ phu, cư xử thiếu
văn hóa cũng là vấn đềnhức nhối và cần khắc phục. C. Mác nói rằng: "Ai biết lịch sử
thì biết rằng, muốn sửa sang xã hội không có phụ nữ giúp vào thì chắc không làm nổi.
Xem tư tưởng và việc làm của đàn bà con gái thì biết xã hội tiến bộ như thế nào?" 1
Như vậy, ta có thể nói rằng gia đình văn hóa là sự kế thừa văn hóa gia đình
truyền thống được nâng cao lên thành giá trị gia đình văn hóa hiện đại - gia đình xã hội
chủ nghĩa – gia đình phát triển về mặt vật chất và tinh thần thể hiện qua nề nếp kỉ
cương, thuận hòa, êm ấm, yêu thường và có trách nhiệm đối với nhau giữa các thành
viên trong gia đình. Sự tồn tại và phát triển của nó là kết quả của sự nhận thức quy luật
khách quan về điều kiện phát triển cộng đồng và xã hội trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
2.1.2 Những quan điểm của Đảng ta về gia đình văn hoá
Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về gia đình, với tư cách là một tế
bào xã hội, gia đình không chỉ bó hẹp ở phạm vi của những mối quan hệ ruột thịt.
Rộng hơn đó còn là tình cảm dân tộc, đồng loại. Để kế thừa, vận dụng và phát triển tư
tưởng Hồ Chí Minh về gia đình và xây dựng gia đình văn hoá, Đảng ta cũng có nhiều
chủ trương, chính sách nhằm đề cao vai trò của gia đình và nâng cao chất lượng xây
dựng gia đình văn hoá
 2.1.2.1 Chủ trương của Đảng và nhà nước về gia đình văn hoá
Tinh thần quan tâm đến gia đình và xây dựng gia đình văn hoá của Đảng và Nhà
nước ta mang tính chất nhất quán và rất rõ ràng. Khảo lược qua các quan điểm của
Đảng về xây dựng gia đình văn hóa thông qua các kỳ đại hội, chúng ta thấy được rằng
Đảng ta ngày càng bổ sung và hoàn thiện hơn về nội dung và tiêu chí của việc xây
dựng gia đình văn hóa sao cho phù hợp trong từng thời kỳ.
Tại Đại hội Đảng lần VI, Đảng ta đã đưa khái niệm “Gia đình văn hóa” với
những nội dung cơ bản: “Đảng, Nhà nước và các đoàn thể quần chúng cần đề ra
phương hướng, chính sách và có biện pháp tổ chức thực hiện về xây dựng gia đình

1
Phạm Thị Nhung _ 15/3/2012, Tư tưởng và tình cảm của Bác Hồ với phụ nữ, tạp chí Xây dựng Đảng
20
văn hóa mới, bảo đảm hạnh phúc, nâng cao trình độ tự giác xây dựng những quan hệ
tình cảm, đạo đức trong từng gia đình, bảo đảm sinh đẻ có kế hoạch và nuôi dạy con
ngoan, tổ chức tốt cuộc sống vật chất, văn hóa của gia đình” 1.Chủ trương “xây dựng
gia đình mới” lại được nhấn mạnh tại Đại hội VII của Đảng. Trong văn kiện Đại hội
VII của Đảng khẳng định: “Xây dựng gia đình văn hoá có ý nghĩa rất quan trọng
trong tình hình hiện nay, góp phần phát triển lực lượng sản xuất, ổn định và cải thiện
đời sống, thực hiện kế hoạch hóa dân số, giữ gìn và phát huy những truyền thống đạo
đức, văn hoá tốt đẹp của dân tộc. Nâng cao ý thức về nghĩa vụ gia đình đối với với
mọi lớp người. Kết hợp và phát huy vai trò của xã hội, các đoàn thể, nhà trường, tập
thể lao động và tập thể dân cư trong việc chăm lo bồi dưỡng tình đồng chí, đồng đội,
hình thành nhân cách cao đẹp và nếp sống có văn hoá” 2.Ở Đại hội VIII, Đảng ta chú
trọng tới việc xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Giữa nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc và gia đình văn hóa có mối quan hệ
biện chứng của cái chung và cái riêng. Ở Đại hội này, Đảng ta có bước nhận thức mới
về gia đình văn hóa đó là đưa ra các tiêu chí “no ấm, bình đẳng tiến bộ và hạnh phúc”.
Đó chính là: “Xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc; Làm cho
gia đình thực sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là tổ ấm của mỗi người. Phát huy
trách nhiệm của gia đình trong việc lưu truyền những giá trị văn hoá dân tộc từ thế hệ
này sang thế hệ khác. Thực hiện tốt luật hôn nhân và gia đình”. 3
Trong văn kiện Hội nghị lần thứ V, Ban chấp hành Trung ương khoá VIII về xây
dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đảng ta đã
nêu rõ: “Giữ gìn và phát huy những đạo lý tốt của gia đình Việt Nam. Nêu cao vai trò
gương mẫu của các bậc cha mẹ. Coi trọng xây dựng gia đình văn hoá. Xây dựng mối
quan hệ khăng khít giữa gia đình, nhà trường và xã hội” 4.
Với sự cố gắng lớn vào năm 2000, Nhà nước ta đã xây dựng Luật Hôn nhân và
Gia đình mới. Luật Hôn nhân và Gia đình mới được ban hành, có thể nói nó là văn bản
pháp luật phù hợp với điều kiện mới của gia đình trong nền kinh tế nhiều thành phần
định hướng xã hội chủ nghĩa. Cũng từ điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần, luật đã
lưu ý đến yếu tố bền vững của gia đình và do vậy, tiêu chí của gia đình văn hoá Việt
Nam là: “không chỉ ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc mà còn bền vững”5.
Bước vào thế kỷ XXI, Đại hội Đảng lần IX được tiến hành, Đại hội lần này cho
thấy sự tiến bộ của Đảng khi lần nữa khẳng định gia đình không chỉ là tế bào của xã
hội mà còn là tổ ấm của mỗi người, xây dựng gia đình văn hoá gắn với xây dựng xã

1
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội
2
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội
3
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội
4
Văn kiện Hội nghị lần thứ V,Ban chấp hành Trung ương khoá VIII, Đảng Cộng sản Việt Nam
(1998), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội
5
Luật Hôn nhân và Gia đình (2000), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội
21
hội văn hoá. Trong văn kiện Đại hội, Đảng ta đã chỉ rõ: “Nêu cao trách nhiệm của gia
đình trong việc xây dựng và bồi dưỡng các thành viên của mình có lối sống văn hoá,
làm cho gia đình thực sự là tổ ấm của mỗi người và là tế bào lành mạnh của xã hội”1.
Đẩy mạnh phong trào: “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá; Ngăn chặn
việc phục hồi các hủ tục, khắc phục tình trạng mê tín đang có xu hướng lan rộng”1.
Pháp lệnh dân số (năm 2003) Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết 47-NQ TW (2005) về tiếp
tục đẩy mạnh thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình. Theo đó, Ban Bí
thư nêu ra mục tiêu xây dựng gia đình trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa với
tiêu chí: ít con (từ 1 đến 2 con), no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc trong Chỉ thị 49-
CT/TW (năm 2005)
Một lần nữa, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng và Nhà nước đánh
giá cao vai trò của gia đình trong đời sống xã hội, coi gia đình là tế bào của xã hội, là
nhân tố quan trọng quyết định sự phát triển bền vững của xã hội Việt Nam, Đảng tachủ
trương: “Xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tổ ấm của
mỗi người, là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng hình thành nuôi
dưỡng và giáo dục nhân cách con người, bảo tồn và phát huy văn hoá truyền thống tốt
đẹp, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” 2. Đến Đại
hội XI, Đảng ta khẳng định: “Xây dựng gia đình, thật sự là tế bào lành mạnh của xã
hội, là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách”3.
Nên trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng với mục tiêu
không ngừng đề cao vai trò của gia đình đối với sự phát triển của xã hội, của sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đã tiếp tục nhấn mạnh việc xây dựng, phát triển gia
đình Việt Nam trong điều kiện mới với những nội dung cơ bản sau: Một là, xây dựng
gia đình Việt Nam theo mô hình: “no ấm, tiến bộ, hạnh phúc”. So với các kì Đại hội
Đảng khóa trước, mô hình gia đình mà chúng ta cần xây dựng trong thời kỳ mới được
Đảng ta diễn đạt khái quát ngắn gọn, súc tích hơn.Phù hợp mong muốn, khát khao của
tất cả mọi người Việt Nam và với xu hướng phát triển tiến bộ của nhân loại. Hai là,
xây dựng gia đình “thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội”, gia đình là cơ sở, điều
kiện, nội dung, động lực và mục tiêu của phát triển bền vững. Chủ tịch Hồ Chí Minh
từng chỉ rõ rằng, “nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình
càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân của xã hội là gia đình. Chính vì
muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội mà phải chú ý hạt nhân cho tốt”4. Xây dựng để gia
đình thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội là điểm mới cần lưu ý ở đây. Có như vậy
gia đình mới thật sự là cơ sở, điều kiện, nội dung, động lực, mục tiêu của phát triển
bền vững và của tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ba là, gia đình là “môi trường
1
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội
2
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Chính trị quốc gia,
Hà Nội
3
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội
4
Hồ Chí Minh (1980): Toàn tập, tập 12, Nxb. Sự thật, Hà Nội
22
quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách con người”1, là nơi
chăm sóc, giáo dục và bảo vệ quyền trẻ em. Đây là việc khẳng định chức năng giáo
dục của gia đình, một chức năng cơ bản, quan trọng và không thể thay thế trong việc
hình thành, nuôi dưỡng và phát triển nhân cách cá nhân. Gia đình có nhiệm vụ tạo nên
nền tảng nhân cách cá nhân để góp phần cùng với nhà trường và xã hội xây dựng
những thế hệ con người Việt Nam mới “giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ, trách
nhiệm công dân, có tri thức, sức khỏe, lao động giỏi, sống có văn hóa, nghĩa tình, có
tinh thần quốc tế chân chính”1. Bốn là, thực hiện bình đẳng giới, sự tiến bộ của phụ
nữ. Nam và nữ phải được gia đình, xã hội đối xử như nhau về mặt cơ hội, điều kiện để
phát huy khả năng trong phát triển cũng như thụ hưởng thành quả từ sự phát triển đó.
Gia đình phải đem lại no ấm, tiến bộ, hạnh phúc cho mỗi thành viên của mình, trong
đó cần chú ý đến phụ nữ vì phụ nữ đã và đang chịu nhiều thiệt thòi về các phương
diện. Thực hiện bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ là một tiến trình quan trọng để
tiến lên xã hội hiện đại mới -xã hội chủ nghĩa. V.I.Lênin cũng có nói: “Đảng cách
mệnh phải làm sao dạy cho đàn bà nấu ăn cũng biết làm việc nước, như thế cách
mệnh mới gọi là thành công” 2. Mặt khác, đây cũng là một trong những “Mục tiêu
thiên niên kỷ” mà Việt Nam đã cam kết thực hiện với tư cách một thành viên tích cực,
có trách nhiệm của Liên Hợp Quốc. Năm là, gia đình có vai trò “giữ gìn, phát triển
những giá trị truyền thống của văn hóa, con người Việt Nam”1. Văn hóa dân tộc, bản
sắc dân tộc là nguồn sức mạnh to lớn của quốc gia, dân tộc, là mục tiêu và động lực
của phát triển. Bản sắc văn hóa dân tộc chỉ được lưu giữ, trao truyền và phát triển một
cách hiệu quả thông qua môi trường gia đình. Gia đìnhthông qua chức năng này truyền
đến mỗi cá nhân, nhất là thế hệ trẻ thấm đượm tinh thần dân tộc, lòng tự hào dân tộc
và tự nhận thức được vai trò, trách nhiệm của mình đối với gia đình, quê hương, đất
nước.
Cuối cùng là gần đây nhất trong, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng tiếp tục
khẳng định, tiếp tục chỉ rõ phương hướng cần hoàn thành và phát huy trong thời gian
tới : “tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ thống giá trị quốc gia,
hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực đạo dức con người với giữ gìn,
phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kì mới. Quan tâm chăm lo công tác
giáo dục, bồi dưỡng và bảo vệ trẻ em, thiếu niên, nhi đồng”3.
Tóm lại, những nội dung quan điểm về xây dựng phát triển gia đình trong Văn
kiện các kì Đại hội của Đảng là toàn diện và sâu sắc, vừa mang tầm định hướng chiến
lược lâu dài, vừa là phương hướng, giải pháp có tính cụ thể, trước mắt; vừa đáp ứng
yêu cầu mới của tiến trình phát triển đất nước vừa thể hiện việc thực thi có trách nhiệm
những cam kết quốc tế trong lĩnh vực gia đình của Đảng và Nhà nước. Tinh thần xây

1
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội
2
Phạm Thị Nhung _ 15/3/2012, Tư tưởng và tình cảm của Bác Hồ với phụ nữ, tạp chí Xây dựng Đảng
3
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, năm 2021, Nxb Chính trị quốc gia Sự
thật, Hà Nội
23
dựng phát triển gia đình phải được quán triệt, nhận thức và thực thi trong cuộc sống
bằng những chủ trương, chính sách, việc làm cụ thể, thiết thực. Đó là trách nhiệm của
cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành, của mỗi cá nhân, tổ chức, đơn vị, của các gia
đình và của toàn xã hội. Suốt quá trình lãnh đạo, Đảng ta nhiều lần bày tỏ rõ quan
điểm vềvị trí, vai trò to lớn của gia đình, từng bước quan tâm thiết thực và đầy đủ tới
sự phát triển phồn thịnh của gia đình để xây dựng xã hội – xã hội chủ nghĩa. Đây là
một trong những nhân tố quan trọng làm nên những thành tựu của công cuộc đổi mới.
Trong sự nghiệp đổi mới, con người Việt Nam đã nhận thức đúng về vị trí của gia đình
đối với cá nhân nói riêng và đối với xã hội nói chung, đã nhận thức đúng việc nâng cao
trách nhiệm của mình trước gia đình.
Như vậy, quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam và
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về gia đình.
Từ đó có thể khẳng định quan điểm đó của Đảng và Nhà nước ta là định hướng chiến
lược đúng đắn, không chỉ đối với việc xây dựng gia đình Việt Nam mới, mà còn đối
với việc phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam. Quan
điểm và chủ trương của Đảng ta thích ứng kịp thời hơi thở của cuộc sống, ở mỗi thời
điểm lịch sử cụ thể đều có sửa đổi và bổ sung để đáp ứng đòi hỏi của sự nghiệp đổi
mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và hội nhập quốc tế đặt ra.
2.1.2.2 Tiêu chí của gia đình văn hoá ở nước ta hiện nay
Lịch sử phát triển xã hội loài người đã chứng minh những biến đổi về cơ cấu và
chức năng của gia đình luôn gắn liền với sự thay đổi về kinh tế và xã hội của mỗi quốc
gia. Sau thành công Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà ra đời, đánh dấu một thời kỳ mới trong quá trình phát triển xã hội của dân tộc
ta. Năm 1946,Nhà nước công nhận và qui định quyền bình đẳng nam, nữ và chế độ
hôn nhân một vợ một chồng trong Hiến pháp của nước ta. Sau đó là hình thành luật và
ghi rõ trong Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1959. Chủ trương này thể hiện sự tiến bộ
xã hội, góp phần thúc đẩy việc hình thành và từng bước hoàn thiện quyền dân chủ
trong quan hệ gia đình Việt Nam.
Trải qua nhiều thế hệ, gia đình Việt Nam được hình thành và phát triển với
những chuẩn mực giá trị tốt đẹp góp phần xây dựng bản sắc văn hoá dân tộc. Những
giá trị truyền thống quý báu như lòng yêu nước, yêu quê hương, hiếu thảo, hiếu học,
thuỷ chung, yêu thương đùm bọc lẫn nhau, cần cù và sáng tạo trong lao động, bất
khuất kiên cường vượt qua mọi khó khăn thử thách đã được gia đình Việt Nam gìn
giữ, vun đắp và phát huy trong suốt quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước. Qua các
thời kỳ, cấu trúc và quan hệ trong gia đình có thay đổi, nhưng những chức năng cơ bản
của gia đình vẫn tồn tại và gia đình vẫn là một nhân tố quan trọng, không thể thiếu
trong sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
Tư tưởng Hồ Chí Minh đã được Đảng và Nhà nước quán triệt trong Nghị quyết
của các kỳ Đại hội Đảng và trong các bộ luật liên quan, với các nội dung hướng tới

24
việc củng cố vị trí, vai trò và chức năng của gia đình trong sự nghiệp phát triển kinh tế
- xã hội đất nước. Xây dựng và triển khai Chiến lược xây dựng gia đình Việt Nam là
một yêu cầu khách quan và cấp bách nhằm tăng cường năng lực và phát huy mọi khả
năng của gia đình tham gia vào sự nghiệp xây dựng đất nước Việt Nam dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
Gia đình là môi trường quan trọng dưỡng dục, chở che, hình thành nhân cách
cho các thế hệ. Từ nhận thức sâu sắc điều sơ giản đó, sau Đại hội lần thứ III,nông thôn
đồng bằng sông Hồng là nơi đầu tiên trong cả nước phát động phong trào xây dựng gia
đình văn hóa.Năm 1960, sáu gia đình ở thôn Ngọc Tỉnh, xã Ngọc Long (Hưng Yên) đã
tự nguyện giao ước thi đua với nhau xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc. Họ đãbàn
bạc giúp đỡ lẫn nhau trong lao động sản xuất, lo cho con em học hành, đoàn kết xóm
giềng. Các gia đình nông dân đã tự suy nghĩ, dựa vào lời của Bác Hồ dạy thiếu nhi làm
thành tiêu chí phấn đấu. Đó là: Yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; Học tập tốt, lao động tốt;
Giữ gìn vệ sinh, sạch đẹp gia đình làng xóm. Hạt giống 6 gia đình này gieo mầm
nhanh chóng lan tỏa và Ngọc Long trở thành nơi khởi nguồn của phong trào xây dựng
gia đình văn hóa trong cả nước.Phong trào trở thành một điển hình thi đua bắt nhịp
cùng làn sóng các cuộc thi đua khác của cả nước như: “Sóng Duyên Hải”, “Gió Đại
Phong”, “Cờ Ba Nhất”,tiếng trống "Bắc Lý"thôi thúc lúc bấy giờ .
Từ hạt mầm 6 gia đình tại thôn Ngọc Tỉnh ươm trồng, phong trào xây dựng gia
đình văn hóa đến nay đã trở thành một phong trào lớn, phát triển cả bề rộng lẫn chiều
sâu trên phạm vi cả nước. Với hơn 13 triệu hộ đạt danh hiệu gia đình văn hóa toàn
quốc, phong trào này đã tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, giữ gìn an
ninh trật tự, lành mạnh hóa môi trường văn hóa ở cơ sở.
Trên cơ sở đó, sau khi đất nước hoàn toàn được độc lập, Thông tư số 35/TT
ngày 12/05/1975 do Bộ Văn hoá phối hợp với Trung ương Hội liên hiệp Phụ nữ Việt
Nam ban hành về việc đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng gia đình mới và đưa ra tiêu
chuẩn xây dựng gia đình văn hoá như sau:Gia đình hoà thuận, bình đẳng, dân chủ,
hạnh phúc, tiến bộ, thực hiện sản xuất tốt, sinh đẻ có kế hoạch, thực hiện tiết kiệm,
thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng, Chính phủ.
Năm 1986, phong trào có tên gọi là phong trào “Xây dựng gia đình văn hoá
mới” và được thay đổi thành phong trào “Xây dựng gia đình văn hoá” vào năm 1991.
Sau Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 4 (khoá VII) họp và ra nghị
quyết về “Một số nhiệm vụ văn hoá, văn nghệ những năm trước mắt”, Ban chỉ đạo nếp
sống văn hoá Trung ương đã sửa đổi nội dung và tiêu chuẩn gia đình văn hóa cụ thể
như sau: Xây dựng gia đình hoà thuận, hạnh phúc, tiến bộ, thực hiện kế hoạch hoá gia
đình, đoàn kết xóm giềng, thực hiện tốt nghĩa vụ công dân.
Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa được sự tham gia,
hưởng ứng tích cực và mạnh mẽ của toàn xã hội, các bộ, ban, ngành, các cơ quan
thành viên Ban chỉ đạo trung ương đến địa phương, phối hợp triển khai, gắn kết với
những chương trình, phong trào hành động cụ thể, thiết thực của Ủy ban Trung ương

25
Mặt trận Tổ quốc, Hội Nông dân, Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ, Trung ương Hội
Cựu chiến binh, Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội cùng các đoàn thể chính trị - xã hội - nghề nghiệp. Có thể nói,
phong trào xây dựng gia đình văn hóa là nội dung cốt lõi của phong trào toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hóa dựa trên sự kế thừa có chọn lọc giá trị văn hóa gia đình
truyền thống Việt Nam, đáp ứng được tâm tư nguyện vọng của toàn xã hội, phù hợp
với xu thế phát triển của đất nước trong tiến trình hội nhập, được nhân dân đồng tình
hưởng ứng thực hiện, mang lại những kết quả quan trọng, tạo tiền đề và nền tảng cơ
bản để tiếp tục thực hiện “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm
đà bản sắc dân tộc”.
Theo quy chế công nhận danh hiệu “Gia đình văn hoá” 1 đã đưa ra tiêu chuẩn, thủ
tục công nhận danh hiệu danh hiệu “Gia đình văn hóa” thực hiện theo quy định Luật
Thi đua, khen thưởng với những nội dung cụ thể như sau:
Thứ nhất, gương mẫu chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng; pháp luật của
Nhà nước; tích cực tham gia các phong trào thi đua của địa phương nơi cư trú, gồm
các tiêu chí sau:
a) Các thành viên trong gia đình chấp hành các quy định của pháp luật; không
bị xử lý kỷ luật tại nơi làm việc và học tập;
b) Chấp hành hương ước, quy ước của cộng đồng nơi cư trú;
c) Treo Quốc kỳ trong những ngày lễ, sự kiện chính trị của đất nước theo quy
định;
d) Có tham gia một trong các hoạt động văn hóa hoặc văn nghệ ở nơi cư trú;
thường xuyên luyện tập thể dục, thể thao;
đ) Thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội theo quy
định;
e) Tham gia bảo vệ di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, cảnh quan thiên
nhiên của địa phương;
g) Thực hiện các quy định về vệ sinh môi trường, đổ rác và chất thải đúng giờ,
đúng nơi quy định;
h) Tham gia đầy đủ các phong trào từ thiện, nhân đạo, đền ơn đáp nghĩa,
khuyến học khuyến tài; sinh hoạt cộng đồng ở nơi cư trú;
i) Không vi phạm các quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm, phòng chống dịch
bệnh;
k) Không vi phạm quy định phòng, chống cháy nổ;

1
Nghị định 122/2018/NĐ-CP, ngày 17 tháng 9 năm 2018
26
l) Không vi phạm pháp luật về trật tự, an toàn giao thông như: Lấn chiếm lòng
đường, hè phố, tham gia giao thông không đúng quy định.
Thứ hai là gia đình hòa thuận, hạnh phúc, tiến bộ; tương trợ giúp đỡ mọi người
trong cộng đồng, gồm các tiêu chí sau:
a) Ông, bà, cha, mẹ và các thành viên trong gia đình được quan tâm, chăm sóc,
phụng dưỡng;
b) Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, bình đẳng, hòa thuận, thủy
chung;
c) Thực hiện tốt chính sách dân số; thực hiện bình đẳng giới;
d) Các thành viên trong gia đình tham gia bảo hiểm y tế và được chăm sóc sức
khỏe;
đ) Các thành viên trong gia đình có nếp sống lành mạnh, văn minh, ứng xử có
văn hóa trong gia đình, cộng đồng và xã hội;
e) Tương trợ, giúp đỡ mọi người trong cộng đồng khi khó khăn, hoạn nạn.
Thứ ba, tổ chức lao động, sản xuất, kinh doanh, công tác, học tập đạt năng suất,
chất lượng và hiệu quả, gồm các tiêu chí sau:
a) Kinh tế gia đình ổn định và phát triển từ nguồn thu nhập chính đáng;
b) Tham gia các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội do địa
phương tổ chức;
c) Người trong độ tuổi lao động tích cực làm việc và có thu nhập chính đáng;
d) Trẻ em trong độ tuổi đi học được đến trường;
đ) Sử dụng nước sạch;
e) Có công trình phụ hợp vệ sinh;
g) Có phương tiện nghe, nhìn và thường xuyên được tiếp cận thông tin kinh tế,
văn hóa - xã hội.
Với tiêu chí xây dựng “Gia đình văn hoá” trên là cơ sở, mục tiêu để chúng ta
thực hiện tốt, đưa phong trào phát triển rộng khắp trên cả nước. Ở các tỉnh, thành,
phong trào được xây dựng dựa trên truyền thống và nhiệm vụ chính trị, kinh tế - xã hội
của mỗi địa phương, phát huy khả năng sáng tạo của cộng đồng, làm cho mọi người,
mọi nhà ngày càng nâng cao nhận thức về nội dung, mục đích, ý nghĩa của phong trào
thông qua các chương trình hoạt động thích hợp với văn hóa của từng vùng, miền, khu
vực.
Nói tóm lại, gia đình văn hóa là gia đình phát triển về vật chất, tinh thần, thể
hiện qua nền nếp, kỷ cương, thuận hòa, êm ấm, yêu thương và có trách nhiệm với nhau
giữa các thành viên, có hướng xây dựng gia đình giàu có, ít con, tiến bộ, hạnh phúc.

27
Các nội dung trên cũng là là tiêu chuẩn của gia đình văn hóa hiện nay; tùy điều kiện,
tình hình cụ thể, các địa phương vận dụng bình xét công nhận gia đình văn hóa ở cơ
sở.
2.1.3 Một số nhân tố ảnh hưởngđến việc xây dựng gia đình văn hoá ở Việt
Nam hiện nay:
Hiện nay, vấn đề xây dựng gia đình văn hóa ở Việt Nam đang có những biến đổi
mạnh mẽ. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì công cuộc xây dựng gia đình văn
hóa còn gặp nhiều khó khăn. Trong bối cảnh đó, việc xác định đúng đắn sự ảnh hưởng
của các yếu tố kinh tế - xã hội đến việc xây dựng gia đình văn hóa là một yêu cầu cấp
thiết để phát huy những yếu tố tích cực và hạn chế những yếu tố tiêu cực nhằm thúc
đẩy phong trào này thành công.
2.1.3.1 Ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trước tình hình kinh tế tập trung quan liêu bao cấp tồn tại trong một thời gian
dài đã làm cho nước ta lâm vào khủng hoảng, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khan,
Đảng và nhà nước ta đã tiến hành công cuộc đổi mới trên tất cả các lĩnh vực mà trước
hết đó là đổi mới kinh tế, xây dựng kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Nhờvào chủ trương đổimới của Đảng, nền kinh tế thị trường mới đã làm cho đời
sống của các gia đình được nâng cao. Cụ thể là các bậc cha mẹ có điều kiện để nuôi
dạy chăm sóc con cái tốt hơntrong nền kinh tế phát triển. Trước đây khi kinh tế còn
khó khăn hầu hết cha mẹ chỉ có thể cho con học các bậc học, môn học cơ bản thì bây
giờ họ có điều kiện cho con cái học cao hơn với nhiều lĩnh vực học tập đa dạng để đứa
trẻ phát triển toàn diện. Mặt khác, con cái cũng có điều kiện về thời gian và tài chính
để quan tâm và chăm sóc ông bà cha mẹ ngày càng đầy đủ hơn. Nền kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã mở ra cơ hội cho mọi người đều có việc làm phù
hợp với năng lực của bản thân từ đó họ có thu nhập đóng góp vào quỹ kinh tế chung
của gia đình cũng như có nhiều thời gian hơn dành cho nhau. Cơ sở kinh tế mới đã tạo
điều kiện cho sự phát triển tự do cá nhân, dân chủ và tiến bộ giữa các thành viên trong
gia đình. Vì vậy, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã ảnh hưởng tích cực
đến việc thực hiện tiêu chí “no ấm”, “tiến bộ”, “hạnh phúc”9 của gia đình văn hóa.
Song song mặt ảnh hưởng tích cực mà nền kinh tế thị trường mang lạiluôn chứa
đựng mặt tiêu cực đến việc xây dựng gia đình văn hóa. Trong nền kinh tế thị
trường,các mối quan hệ xã hội dần trở nên lạnh lùng, vô cảm và bị thương mại hóa tạo
nên tác động không hề nhỏ đến việc xây dựng gia đình văn hóa. Quan hệ hôn nhân
phát triển theo xu hướng thực dụng, lấy yếu tố kinh tế, tiền bạc làm tiêu chuẩn để kết
hôn nên độ bền vững của quan hệ hôn nhân bị suy giảm; chuẩn mực chung thủy trong
mối quan hệ vợ chồng đang bị tấn công, hiện tượng ngoại tình gia tăng đặc biệt là ở
nhiều lứa tuổi; nhiều bậc cha mẹ lơ là trong việc chăm sóc con cái; nhiều trẻ em có
biểu hiện vô cảm, thờ ơ trước nỗi đau và sự vất vả khó khăn của những người xung
quanh. Đặc biệt, dưới sự tác động của kinh tế thị trường nhiều giá trị truyền thống của

28
dân tộc bị đảo lộn và thay vào đó là lối sống ích kỷ ngày càng gia tăng. Những ảnh
hưởng tiêu cực của kinh tế thị trường đã đi ngược lại với những tiêu chí “hòa thuận”,
“tương trợ”, “tiến bộ”, “hạnh phúc” 9 mà Đảng ta đề ra. Từ đó có thể khẳng định: sự
khủng hoảng về đạo đức, lối sống trong văn hóa gia đình hiện nay đã và đang đặt ra
những thách thức lớn đối với việc xây dựng gia đình văn hóa ở Việt Nam hiện nay.
2.1.3.2 Ảnh hưởng từ toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế:
Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế là một xu thế khách quan trong tình hình khoa
học, công nghệ, kinh tế thị trường đang phát triển mạnh mẽ hiện nay. Đây là một quá
trình mở cửa, chứa đựng nhiều cái mới nhưng cũng nhiều bất cập ảnh hưởng mạnh
mẽ, toàn diện đến các mặt của đời sống xã hội Việt Nam, đặc biệt là công cuộc xây
dựng gia đình văn hóa.
Con người có điều kiện tìm hiểu, học hỏi các giá trị văn hóa tích cực của nhân
loại nhờ việc giao lưu văn hóa với các nước trên thế giới và sự phát triển mạnh mẽ của
khoa học công nghệ. Chính điều này đã làm cho một số giá trị đạo đức của gia đình
đang được biến đổi sâu sắc theo chiều hướng tiến bộ phù hợp với tiêu chí của gia đình
văn hóa. Sự biết ơn của con cháu đối với ông bà cha mẹ; tình yêu thương, hòa thuận
giữa các thành viên trong gia đình và với những người xung quanh..... về cơ bản chuẩn
mực đạo đức gia đình truyền thống ở Việt Nam vẫn được bảo tồn. Bên cạnh đó, còn
tiếp thu một số những giá trị hiện đại như: tính bình đẳng giữa cha mẹ và con cái, giữa
vợ và chồng; tôn trọng tự do cá nhân; phương pháp giáo dục được thay đổi từ mệnh
lệnh gia trưởng đến sự lắng nghe từ nhiều phía… dưới sự ảnh hưởng của toàn cầu hóa
và hội nhập quốc tế.Xét về góc độ văn hóa, nhiều giá trị, kể cả giá trị truyền thống
không còn bị trói chặt, đóng khung; những lối sống lạc hậu, cổ hủ cũng dần được khắc
phục đồng thời một số giá trị tiến bộ của nhân loại được tiếp thu và lồng ghép rất phù
hợpvới các tiêu chí của gia đình văn hóa.
Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế cũng tồn tại mặt trái ảnh hưởng tiêu cực đến
xây dựng gia đình văn hóa. Sự bùng nổ của văn hóa giải trí, của công nghệ thông tin
làm băng hoại nhiều giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp, phá đi thuần phong mỹ tục.
Người trẻ coi thường văn hóa truyền thống đặc biệt là văn hóa gia đình, coi thường
người già, họ cho rằng đó tất cả là những yếu tố cổ hủ và lạc hậu cần phải loại bỏ hoàn
toàn. “Lớp trẻ sẽ ngày càng quên dần đi bầu không khí văn hóa dân tộc mà mới ngày
nào đã nuôi dưỡng và làm nên cuộc sống thực tại của chúng, giống như đã quên đi lời
ru ngọt ngào của người mẹ để chạy theo những tiếng gõ đập rộn rã và mê hoặc của các
bản nhạc “rap” thời thượng”1. Sự nhiễu loạn chuẩn mực của gia đình phương Tây đã
thâm nhập mạnh mẽ vào xã hội, giống như nhiều nhà xã hội học ở các nước đang phát
triển đã nói, là một thứ “ma túy văn hóa” đối với thế hệ trẻ vậy. Cái cuộc “xâm lăng
văn hóa” ấy, nếu không được ngăn chặn kịp thời thì sẽ để lại những hậu quả thật
không thể lường hết được. Hệ quả của vấn đề này là làm suy giảm đạo đức đặc biệt là
đạo đức gia đình một cách trầm trọng. Ảnh hưởng tiêu cực của toàn cầu hóa và hội

1
Đặng Cảnh Khanh, Lê Thị Quý (2009), Gia đình học, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội
29
nhập quốc tế đãđi ngược lại với tất cả các tiêu chí của xây dựng gia đình văn hóa và
chắc chắn sẽ cản trở công cuộc này.
2.1.3.3 Ảnh hưởng từ chủ thể xây dựng gia đình văn hóa:
Xây dựng gia đình văn hóa có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của gia
đình và xã hội nên mọi người đều chú trọng tới việc phát triển phong trào này. Một là,
những người làm công tác quản lý đưa ra những chủ trương, chính sách để bổ sung,
hoàn thiện các tiêu chí của gia đình văn hóa. Đồng thời họ thường xuyên phát động,
đổi mới phương pháp tuyên truyền xây dựng gia đình văn hóa thông qua các phong
trào, hội thi vì vậy phong trào ngày càng phát triển lớn mạnh trong cộng đồng, thu hút
nhiều gia đình tham gia. Hai là, các thành viên trong gia đình mà cụ thể là những
người đứng đầu cũng hăng hái đăng ký tham gia xây dựng gia đình văn hóa thông qua
các phong trào, các hội thi do chính quyền, địa phương tổ chức. Chính bởi lý do trên
nên phong trào xây dựng gia đình văn hóa ở nước ta ngày càng đạt được nhiều thành
tựu.
Tuy nhiên, người làm công tác quản lý cũng cómột số hạn chế ảnh hưởng tiêu
cực đến việc xây dựng gia đình văn hóa. Ở một số địa phương việc xét tặng trao giấy
công nhận gia đình văn hóa không theo đúng quy định, còn mang tính nể nang và hình
thức nên không thu hút được nhiều sự tham gia của toàn bộ người dân. Việc trao tặng
danh hiệu “Gia đình văn hóa” đôi khi mang tính hình thức, nể nang chưa sát sao đúng
với hoàn cảnh của các gia đình.Mặt khác, một số gia đình cũng không nhận thức, đánh
giá đúng được vai trò của xây dựng gia đình văn hóa nên không đăng ký tham gia,
hoặc có tham gia cũng chỉ là hình thức chứ không những hành động cụ thể đối với việc
tuyên truyền, xây dựng nếp sống văn hóa gia đình theo những tiêu chí đó.. Có nhiều
gia đình mặc dù được tặng danh hiệu “Gia đình văn hóa” nhưng thực tế con cái không
hiếu thảo với ông bà cha mẹ, gia đình vẫn có người mắc tệ nạn xã hội… Bởi thế, danh
hiệu “Gia đình văn hóa” đôi khi bị nhìn nhận không có nhiều giá trị thực tế. Đó là một
trong những lý do làm cho một số gia đình đặc biệt là giới trẻ suy nghĩ xây dựng gia
đình văn hóa chỉ là phong trào không có giá trị thực tế nên họ không quan tâm tới việc
xây dựng văn hóa của gia đình mình.
Tóm lại, những ảnh hưởng của các yếu tố văn hóa – kinh tếđến xây dựng phát
triển gia đình trên cho ta cái nhìn toàn diện và sâu sắc, vừa mang tầm định hướng
chiến lược lâu dài, vừa là phương hướng, giải pháp có tính cụ thể, vừa đáp ứng yêu
cầu mới của tiến trình phát triển đất nước của Đảng, Nhà nước ta. Tinh thần xây dựng,
phát triển gia đình trong thời đại mới hiện nay là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị,
các cấp, các ngành, của mỗi cá nhân, tổ chức, đơn vị, của các gia đình và của toàn xã
hội. Đồng thời, vai trò,vị trí của Đảng ta là hết sứcto lớn, từng bước quan tâm thiết
thực và đầy đủ tới sự phát triển phồn thịnh của gia đình để xây dựng xã hội – xã hội
chủ nghĩa. Đây là một trong những nhân tố quan trọng làm nên những thành tựu của
công cuộc đổi mới. Trong sự nghiệp đổi mới, con người Việt Nam đã nhận thức đúng
về vị trí của gia đình đối với cá nhân nói riêng và đối với xã hội nói chung.

30
2.2. Thực trạng xây dựng gia đình văn hoáở nước ta thời gian qua
2.2.1. Gương mẫu chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng; pháp luật
của Nhà nước; tích cực tham gia các phong trào thi đua của địa phương nơi cư trú
Theo cách nhìn của xã hội học, gia đình được coi là một nhóm xã hội nhỏ và
đóng vai trò là một thiết chế xã hội cơ bản. Mà đã là xã hội thì cần có hướng đi, hướng
phát triển đúng đắn tuân theo các quy tắc, với gia đình nó được gọi là “gia đạo”. Trong
Nho giáo, vai trò của gia đạo được đặc biệt đề cao, từ đó yêu cầu các thành viên phải
luôn tu dưỡng để giữ gìn nền nếp gia phong của gia đình. Tuân giữ gia đạo hay những
quy tắc trong gia đình mở rộng ra đó là đường lối, chính sách của Đảng, nhà nước và
các quy định của địa phương.
2.2.1.1. Những mặt đạt được và nguyên nhân
a) Những mặt đạt được
Vấn đề gia đình văn hóa luôn được Đảng ta quan tâm sâu sắc và xây dựng đường
lối, chủ trương theo từng giai đoạn. Sau hơn 20 năm triển khai thực hiện cuộc vận
động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” (1995-2016) và
hơn 15 năm phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” (2000-2016)
trên cả nước đã phát triển đều khắp và lan tỏa đến từng địa phương, từng cơ sở.Phong
trào tiếp tục xây dựng dựa trên truyền thống và nhiệm vụ chính trị, kinh tế - xã hội của
mỗi địa phương, phát huy khả năng sáng tạo của cộng đồng, làm cho mọi người, mọi
nhà ngày càng nâng cao nhận thức về nội dung, mục đích, ý nghĩa của phong trào
thông qua các chương trình hoạt động thích hợp với văn hóa của từng vùng, miền, khu
vực. Thực hiện tốt thông báo của Ban chấp hành Trung ương: “Nhiệm vụ xây dựng,
hoàn hiện gia đình phải được thể hiện rõ nét trong các kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội của Nhà nước, của tất cả các ngành, các cấp, các địa phương” 1. Trong những năm
qua, cuộc vận động này đã đạt nhiều thành tựu to lớn
Một là chấp hành tốt các đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước, tham gia các phong trào của địa phương.Dưới sự phát động của chính
quyền ở các địa phương, nhiều hộ gia đình ở đã tình nguyện tham gia các phong trào
do nhà nước và địa phương phát động như quyên góp để xây dựng nhà văn hóa, làm
đường bê tông đặc biệt trong số đó có nhiều hộ dân tình nguyện hiến đất để làm
đường.Cuộc vận động “xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch” do Trung ương Hội Liên
hiệp Phụ nữ Việt Nam phát động thực hiện cũng đạt được nhiều tín hiệu tích cực.
Trong đó, “năm không” là: không đói nghèo, không vi phạm pháp luật và tệ nạn xã
hội, không có bạo lực gia đình, không sinh con thứ ba trở lên, không có trẻ suy dinh
dưỡng và bỏ học; “ba sạch”, đó là: sạch nhà, sạch bếp, sạch ngõ. Mục đích của cuộc
vận động nhằm tạo sự chuyển biến tích cực trong nhận thức, hành động của phụ nữ về
xây dựng gia đình; giúp chị em nâng cao ý thức chấp hành, thực hiện tốt đường lối,
chủ trương chính của Đảng, Nhà nước; có đủ kỹ năng kiến thức tổ chức tốt cuộc sống

Trần Hữu Tòng - Trương Thìn (1997), Xây dựng gia đình văn hoá trong sự nghiệp đổi mới, Nxb.
1

Chính trị quốc gia, Hà Nội


31
gia đình, góp phần cùng toàn xã hội đầu tư, chăm lo xây dựng, củng cố gia đình thành
những tế bào lành mạnh, nơi lưu truyền giá trị văn hóa tốt đẹp, nơi nuôi dưỡng và phát
triển nhân cách con người Việt Nam.Ví dụ điển hình về kết quả mà phong trào “ Toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” tại tỉnh Thái Nguyên, đến năm 2010 đã huy
động xây dựng Quỹ đền ơn đáp nghĩa được 2.887 triệu đồng; Quỹ vì người nghèo huy
động được trên 10,2 tỷ đồng; hỗ trợ xóa nhà dột nát được 8.996 nhà và xây dựng được
151 nhà đại đoàn kết; quyên góp phục vụ an sinh xã hội, quỹ vì người thu nghèo thu
được trên 40 tỷ đồng; tập trung xây dựng nhà văn hóa làng, bản, tổ dân phố được
2.151 nhà văn hóa, thành lập được 302 Câu lạc bộ thể dục - thể thao, trên 75 600 Câu
lạc bộ văn hoá - nghệ thuật, 214 Câu lạc bộ về phát triển kinh tế, 357 Câu lạc bộ phụ
nữ không sinh con thứ ba, 113 Câu lạc bộ dân số - kế hoạch hoá gia đình… 1Như vậy,
dưới sự phát động, khuyến khích không ngừng của Đảng và Nhà nước, các cấp, ban,
tại địa phương mà nhiều gia đình đã dần thực hiện tốt các chỉ tiêu phấn đấu tiến lên
“gia đình văn hóa”
Hai là tích cực tham gia giữ gìn, bảo vệ và phát huy các truyền thống, bản sắc dân
tộc, di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, cảnh quan thiên nhiên của địa phương.
Bất cứ dân tộc nào trên thế giới cũng đều có truyền thống của mình. Truyền thống của
một dân tộc không phải tự nhiên mà có, cũng không phải do một cộng đồng người nào
đó tự lựa chọn cho mình, mà nó được hình thành, được quy định bởi những điều kiện
lịch sử, kinh tế - xã hội nhất định mà dân tộc đó trải qua. Văn hóa dân tộc, bản sắc dân
tộc là một trong những sức mạnh của quốc gia, dân tộc, là mục tiêu và động lực của
phát triển. Bản sắc văn hóa dân tộc chỉ được lưu giữ, trao truyền và phát triển một cách
hiệu quả thông qua môi trường gia đình. Việc thờ cúng tổ tiên, lễ - tết, gia đình nhắc
nhở, gợi nhớ, truyền đạt cho các thế hệ con cháu về những giá trị văn hóa truyền thống
của dân tộc. Các hình thức lễ - tết là những sinh hoạt văn hóa tinh thần, là gia phong
gia lễ, phản ánh những giá trị truyền thống của dân tộc. Chú trọng xây dựng môi
trường văn hóa, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa thông qua việc sưu tầm, nghiên
cứu và tổ chức các lễ hội truyền thống tiêu biểu như: Lễ hội xuống đồng, lễ hội Oóc
Pò, lễ hội cầu mùa, hát Xình ca, hát Sọng cô và các lễ cấp sắc của người Dao, người
Sán Dìu...

1
Thái Nguyên tổng kết Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam_31/8/2020, Báo cáo số 1747/BC-
SVHTTDL tỉnh Thái Nguyên
32
2

Như ở thành phố Hồ Chí Minh việc thực hiện một số hoạt động cúng lễ khác, như:
cúng giao thừa với tỉ lệ là 81,28%; tết Đoan Ngọ 55,74%; ngày rằm, mùng một
55,32%. Những hoạt động cúng lễ là lúc gia đình, họ hàng có dịp quây quần bên nhau,
chia sẻ với nhau trong bầu không khí ấm cúng, đó là môi trường văn hóa lành mạnh để
gia đình thực hiện chức năng giáo dục của mình.Một số nét văn hóa truyền thống khác
như thờ Thành hoàng làng, thờ người có công với đất nước như Thánh Gióng, Hai Bà
Trưng, Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo, Bà Chúa Kho với những lễ hội nổi tiếng: lễ Phát
ấn đền Trần, lễ hội Phủ Dầy, hội Gióng, hội Lim… cũng được phát động và hưởng
ứng tích cực.Như vậy, có thể thấy rằng những giá trị tốt đẹp của văn hóa dân tộc về cơ
bản vẫn được giữ gìn trong gia đình. Truyền thống văn hóa dân tộc bắt đầu từ văn
hóagia đình và được thể hiện rõ trong gia đình văn hóa.
Ba là nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội theo quy định Nhà
nước và địa phương, tránh các hủ tục lạc hậu làm mất trật tự xã hội và ô nhiễm môi
trường ngày càng thể hiện rõ. Ví như tại địa bàn các tỉnh miền núi phía Bắc, trong việc
tổ chức đám cưới theo nếp sống mới, các gia đình tổ chức phải ký vào bản cam kết với
chính quyền trong quá trình thực hiện không để xảy ra mất trật tự an ninh, gây gổ làm
mất trật tự. Nếu vi phạm, gia đình phải chịu phạt tiền và được xung vào quỹ của xã.
Việc chúc tụng bằng rượu, bia cũng hạn chế giảm bớt, nhờ đó giảm tỷ lệ thuận với số
vụ tai nạn hay mất trật tự do say rượu bia. Đến 22 giờ đêm, gia đình tổ chức phải tắt
hết loa đài, nếu vi phạm sẽ chịu phạt theo quy định của xã. Trong việc tang, xã có một
đội xe tang với 11 thành viên, và được chính quyền xã trang bị toàn bộ dụng cụ, quần
áo đồng phục. Mỗi hộ gia đình trong xã đóng góp 20.000 đồng/năm làm kinh phí để
đội hoạt động. Khi trong xã có người quá cố, đoàn xe tang sẽ đến lo mọi công việc của
mình từ đầu đến cuối. Những gia đình có việc tang tổ chức sinh hoạt ăn uống đơn giản,
và chỉ những người đeo khăn tang mới sinh hoạt. Tại thành phố Hồ Chí Minh, lễ cưới
được tổ chức tập thể cho thanh niên công nhân, người lao động, người chịu thiệt thòi
trong xã hội với hình thức văn minh, lành mạnh, tiết kiệm theo phương thức xã hội
hóa; mô hình “Trao giấy chứng nhận đăng ký kết hôn” cho các cặp đôi; mô hình “Thư

2
Nguyễn Kiều Tiên_22/2/2017,Thực trạng xây dựng văn hóa gia đình ở thành phố hồ chí minh hiện nay, Tạp chí
khoa học Khoa học xã hội và nhân văn

33
chúc mừng” kèm thông điệp tổ chức đám cưới “Trang trọng - Lành mạnh - Tiết kiệm”
cho các cặp đôi khi đến đăng ký kết hôn tại Uỷ ban Nhân dân các phường, xã. “Tổ tư
vấn đám cưới chi phí thấp với phương châm 2 đúng - 3 không” (đúng pháp luật; đúng
giờ - không đua đòi; không phô trương, không lãng phí); vận động các cơ sở, nhà hàng
tổ chức tiệc cưới đăng ký xây dựng cơ sở, nhà hàng tổ chức tiệc cưới đạt chuẩn văn
hóa…. Còn đối với việc tang chế, thành phố triển khai mô hình “Trợ giúp thủ tục pháp
lý mai táng, khai tử” nhanh chóng và tiết kiệm thời gian; tổ tư vấn tiết kiệm trong việc
tang với các nội dung như: không để quàn xác quá 48 giờ, không tổ chức uống rượu
bia, đàn hát trong đêm, hạn chế đốt - rãi giấy tiền vàng mã, vận động chọn giờ đưa
tang tránh ùn tắc giao thông; đối với những gia đình không chấp điếu thì vận động đặt
thùng từ thiện ủng hộ người nghèo… vận động các gia đình cùng phật tử tại chùa
không đốt nhang, vàng mã, chuyển chi phí đốt vàng mã thành kinh phí chăm lo an sinh
xã hội… Với nhiều nỗ lực, nhìn chung các gia đình đã đạt được nhiều kết quả nhất
định khi một số hủ tục giảm rõ rệt, bước đầu hình thành các chuẩn mực của nếp sống
văn minh, mô hình mới theo chỉ thị của Đảng và Nhà nước.
b) Nguyên nhân
Một là phong trào xây dựng gia đình văn hoá đã được Đảng và Nhà nước ta
phát động từ rất sớm. Ngay từ năm 1960, phong trào xây dựng gia đình văn hóa đã
được khởi nguồn từ thôn Ngọc Tỉnh, xã Ngọc Long, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên
do sáu gia đình tự nguyện đoàn kết cùng giúp đỡ nhau xây dựng gia đình văn hóa. Cho
đến nay, phong trào được phát triển rộng khắp và càng được đổi mới để vừa đáp ứng
những tiêu chí, yêu cầu thay đổi liên tục của cuộc sống hiện đại và hội nhập quốc tế,
vừa giữ được những nét đẹp, nếp văn hóa truyền thống của dân tộc từ bao đời nay do
thể hệ đi trước đúc kết và truyền lại.Vì vậy,tất cả đều được mọi tầng lớp nhân dân đều
nhận thức và tiếp cận ,tham gia phong trào xây dựng gia đình văn hóa một cách sôi
nổi, mang đến ý nghĩa sâu sắc không chỉ với chính gia đình mà còn với cả xã hội.
Hai là nhân dân đều thấm nhuần những tư tưởng, đạo lý sâu sắc và có lòng tự
hào truyền thống, văn hóa, bản sắc của dân tộc, đặc biệt là truyền thống văn hóa của
gia đình. Gia đình truyền thống Việt Nam từ xưa rất chú trọng xây dựng gia đạo, gia
phong và gia lễ,với gia đạo – hay chuẩn mực ứng xử giữa các thành viên, là sức mạnh
của gia đình. Ở thời đại nào văn hóa gia đình cũng là nền tảng cho văn hóa xã hội. Chỉ
khi gia đình có văn hóa tốt mới có thể góp phần giúp dân giàu, nước mạnh, giữ cho xã
hội lành mạnh và văn minh.Những giá trị truyền thống, đạo lý, văn hóa tốt đẹp vẫn
luôn được thể hệ trước truyền lại một cách trọn vẹn cho thế hệ sau, cho nên bất cứ ai
cũng đều thấm nhuần và có nhiệm vụ tiếp tục bảo vệ, giữ gìn và phát huy những tư
tưởng tốt đẹp đó.
Ba là nhận thức, trình độ của nhân dân được nâng cao cho thấy tầm quan trọng
của việc xây dựng gia đình văn hóa.Nhờ được thường xuyên bồi dưỡng, cung cấp kiến
thức văn hóa gia đình và nội dung công tác xây dựng gia đình văn hóa, ngày càng

34
nhiều tầng lớp nhân dân được trang bị kiến thức xây dựng gia đình văn hóa trong đời
sống xã hội hiện đại. Qua đó đã tạo nên sự chuyển biến sâu sắc về nhận thức không chỉ
trong cấp ủy, chính quyền, các ban ngành, mà còn ở cả các đoàn thể và nhân dân về
vai trò, vị trí của việc xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc; tích
cực, chủ động xây dựng kế hoạch triển khai toàn diện, đồng bộ theo hướng từng bước
đổi mới, nâng cao chất lượng, hoàn thành tốt các chỉ tiêu, mục tiêu về gia đình.
2.2.1.2. Những mặt hạn chế và nguyên nhân
a) Những mặt hạn chế
Song song những mặt đạt được, việc nghiêm túc chấp hành các chủ trương,
chính cách của Đảng, Pháp luật của nhà nước vẫn còn những hạn chế, về hiện tượng
chạy đua thành tích trong công tác xây dựng gia đình văn hóa, hay về những vi phạm
trong an toàn vệ sinh thực phẩm…
Một là hiện tượng bệnh thành tích trong công tác xây dựng gia đình văn hóa,
dẫn đến phản ánh không đúng thực chất phong trào và chất lượng gia đình văn hóa
vẫn còn tồn tại. Ở không ít các địa phương, các gia đình được công nhận danh hiệu gia
đình văn hóa một cách ồ ạt, không rõ ràng và chính xác để cấp quản lý có thể có được
lợi ích cho riêng bản thân mình như đạt được thi đua, khen thưởng về mình khi tỷ lệ
gia đình văn hóa ở địa phương mà chính mình quản lý đạt mức cao. Có trường hợp hộ
gia đình sau khi được công nhận là gia đình văn hóa, lại không cố gắng duy trì và giữ
gìn các tiêu chí gia đình văn hóa mà lại xảy ra hiện tượng trái ngược như bạo lực gia
đình, tệ nạn xã hội…
Hai là tồn tại các vi phạm về vệ sinh an toàn thực phẩm, phòng chống dịch
bệnh.Ở các hộ gia đình làm nghề chăn nuôi, trồng trọt và chế biến các sản phẩm nông
nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, việc bảo đảm chất lượng sản phẩm vẫn chưa đạt được
tiêu chuẩn chung quy định về an toàn vệ sinh thực phẩm. Cụ thể, đó là mối nguy hiểm
tiềm tàng về mặt hóa học như dư lượng hóa chất bảo vệ thực vật cao trong các sản
phẩm cây trồng, thuốc tăng trưởng có chất cấm theo quy định trong chăn nuôi gia súc,
thuốc thú y, các dung dịch tẩy rửa và tiệt trùng, chất phụ gia, chất bảo quản được sử
dụng trong quá trình thực hiện canh tác, thu hoạch, cải tạo, xử lý sản phẩm hay môi
trường canh tác, trồng trọt sản phẩm…Song song đó còn có mối nguy cơ cao về cơ
học và sinh học như tạp chất vô cơ, hữu cơ phát sinh trong quá trình xử lý canh tác,
thu hoạch, chế biến sản phẩm, điển hình là sản phẩm bị phơi nhiễm độc hại từ bao bì
đóng gói, thiết bị hỗ trợ trong nuôi trồng, nguồn nước được sử dụng bị nhiễm bẩn và
độc hại với hàm lượng các vi mẫu nguyên tố kim loại nặng, các vi sinh vật gây hại cho
vật nuôi, cây trồng.Ngoài ra còn có nguy cơ về ô nhiễm chéo, nghĩa là sự truyền những
chất có hại từ sản phẩm vật nuôi, cây trồng sang người canh tác, chăn nuôi, người sử
dụng và cả theo chiều ngược lại. Tất cả gây nên nguy cơ cao mắc các bệnh như ung
thư, viêm gan, suy giảm hệ miễn dịch…

35
b) Nguyên nhân
Một là do nhận thức của cấp đảng ủy , chính quyền và người dân về vị trí và  
vai trò của gia đình văn hóa trong sự phát triển chung của xã hội chưa được được
đúng đắn và nghiêm túc. Song song với những điểm tích cực trong nhận thức về gia
đình văn hóa, vẫn tồn tại những hạn chế về mặt nhận thức, ý thức văn hóa chung,
khiến việc phát huy giá trị của gia đình văn hóa vần còn tồn tại nhiều hạn chế, bất cập.
Rõ nhất phải kể đến công tác lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện ở một số nơi còn thiếu
nghiêm túc, thiếu sự quan tâm và đôi khi còn mang tính hình thức. Năng lực của đội
ngũ cán bộ làm công tác xây dựng nếp sống văn hóa và gia đình nhất là cấp xã,
phường còn yếu do trình độ hạn chế hoặc làm kiêm nhiệm không đúng chuyên môn...
Hai là do mức độ nhận thức, đạo đức, hiểu biết còn thấp và tốc độ cập nhật, phổ
biến thông tin của người dân còn chậm,nhiều thiếu sót. Các hộ gia đình làm nghề chăn
nuôi, trồng trọt và chế biến sản phẩm vật nuôi, cây trồng còn thiếu nhận thức đúng đắn
và chưa cập nhật kịp thời thông tin, chính sách, quy định của nhà nước về vệ sinh an
toàn thực phẩm; phương thức sản xuất, kinh doanh còn lạc hậu; chưa tuẩn thủ đầy đủ
quy chuẩn kỹ thuật để đảm bảo an toàn trong sản suất, kinh doanh sản phẩm vật nuôi,
cây trồng; chưa tuân thủ quy định về sức khỏe, kiến thức và thực hành của người trực
tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, kinh doanh; trang thiết bị chưa đạt tiêu chuẩn để
sản xuất, kinh doanh gây ra nguy cơ độc hại, gây ô nhiễm;vì lợi nhuận kinh doanh mà
sẵn sằng hạ thấp đạo đức, lương tâm, bất chấp tất cả, bỏ qua những yêu cầu về an toàn
sức khỏe làm gây hại trực tiếp và lâu dài đến tính mạng của người sử dụng sản phẩm
nói riêng và gây suy thoái sức khỏe của xã hội nói chung.
2.2.2. Gia đình hòa thuận, hạnh phúc, tiến bộ; tương trợ giúp đỡ mọi người
trong cộng đồng
Gia đình là nơi mỗi cá nhân được yêu thương, được quan tâm chăm sóc và cảm
thấy hài lòng với cuộc sống. Giá trị cao nhất của mỗi gia đình là hạnh phúc bởi trong
hạnh phúc có no ấm, có tiến bộ văn minh và chứa đựng rất nhiều giá trị truyền thống
của dân tộc. Như vậy một gia đình hạnh phúc có ý nghĩa quan trọng đối với mỗi cá
nhân và xã hội. Bởi vì gia đình hạnh phúc, hòa thuận, tiến bộ là nơi nuôi dưỡng cá
nhân trưởng thành và là nền tảng của một xã hội nhân văn, tiến bộ văn minh.
2.2.2.1. Những mặt đạt được và nguyên nhân
a) Những mặt đạt được
Gia đình là môi trường tốt nhất để mỗi cá nhân được yêu thương, nuôi dưỡng,
chăm sóc, trưởng thành và phát triển. Chỉ có gia đình mới thể hiện được mối quan hệ
tình cảm thiêng liêng giữa vợ và chồng, ba mẹ với con cái. Gia đình là chỗ dựa tinh
thần vững chắc trong cuộc sống, chốn về bình yên giữa những vất vả và gian lao, nơi
luôn rộng mở khoan dung sau những sai lầm vấp ngã.Trong “Gia đình hoà thuận vợ
chồng con cái; con ngoan, học giỏi tiến bộ; con cái khỏe mạnh, sống có văn hóa; kinh

36
tế vững vàng, vợ chồng có nghề nghiệp ổn định; chăm sóc cha mẹ già yếu” 1. Quy mô
gia đình ngày nay tồn tại xu hướng thu nhỏ so với trước kia, số thành viên trong gia
đình trở nên ít đi hình thành nên kiểu gia đình hạt nhân, nhưng giá trị của hai tiếng
“gia đình” vẫn còn tồn tại và phát triển không ngừng.
Một là mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình ngày càng được cải
thiện, vấn đề bình đẳng giới và vai trò của người phụ nữ ngày được đề cao .Khi điều
kiện kinh tế xã hội này càng được cải thiện, đặc biệt là sự tác động của môi trường đô
thị công nghiệp khiến cho mối quan hệ vợ chồng trong gia đình dần được cởi mở,
thoải mái hơn.Mức độ gia trưởng thấp, tính bình đẳng giữa các thành viên trong gia
đình tăng lên là dấu hiệu đáng mừng. Không những vậy, vai trò, địa vị của người phụ
nữ, người vợ trong gia đình cũng được nâng lên rõ rệt. Đây là thành tựu, là xu hướng
tiến bộ trong công cuộc xây dựng gia đình văn hóa trên cả nước. Sự bình đẳng đó được
thể hiện qua một số vấn đề sau: Trước hết, vai trò làm chủ gia đình đã có những thay
đổi nhất định. Nếu như trước đây văn hóa của gia đình truyền thống Việt Nam nói
chung và đặc biệt là trong gia đình theo mô hình Nho giáo nói riêng, thì người đàn ông
chính là trụ cột, là người chủ nhưng hiện nay phụ nữ cũng có thể gánh vác gia đình và
san sẻ công việc với chồng. Ở thành phố Hồ Chí Minh, khi khảo sát “Người làm “chủ”
trong gia đinh là ai?”, có 62,13% ý kiến cho rằng người chủ trong gia đình là cả hai vợ
chồng, 33% cho rằng là người chồng nên làm chủ gia đình và xấp xỉ 5% cho là người
phụ nữ có thể gánh hết trách nhiệm. Kết quả trên cho thấy trong nhiều gia đình ở thành
phố Hồ Chí Minh, quan niệm về người làm chủ gia đình đã có ít nhiều sự thay
đổi2.Trước đây, gia đình truyền thống Việt Nam chịu ảnh hưởng của Nho giáo sâu sắc-
tư tưởng trọng nam khinh nữ, người chồng là người mang lại nguồn thu nhập chính
cho cảgia đình, phụ nữ không được làm việc lớn, học hành. Ngày nay, phụ nữ cũng có
thể đi học, đi làm, thậm chí có thu nhập cao hơn người chồng, thay đổi về quan hệ
kinh tế, đã giúp thay đổi địa vị xã hội của người phụ nữ, người vợ trong gia đình. Sự
bình đẳng trong mối quan hệ vợ chồng là thành quả của một quá trình đấu tranh xóa bỏ
sự bất bình đẳng giữa nam và nữ ở Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng à trên cả nước
nói chung. C.Mác nói rằng: "Ai biết lịch sử thì biết rằng, muốn sửa sang xã hội không
có phụ nữ giúp vào thì chắc không làm nổi. Xem tư tưởng và việc làm của đàn bà con
gái thì biết xã hội tiến bộ như thế nào?". Mối quan hệ giữa vợ và chồng có tôn trọng,
có bình đẳng, có hạnh phúc thì mới có thể giáo dục con cái. Việc xây dựng mối quan
hệ này cũng đạt được nhiều thành quả thể hiện qua sự chuyển biến trong từng gia đình.
Là môi trường giáo dục đầu tiên, gia đình có tầm quan trọng quyết định việc hình
thanh nhân cách của con cái. Trong các gia đình hiện đại, con cái vẫn yêu thương, kính
trọng cha mẹ, chăm ngoan, thành đạt.Con cái được bày tỏ ý kiến, được tham gia vào
các công việc chung của gia đình. Theo kết quả điều tra cho thấy có 68,51% con cái
1
Lê Thi (1996), Vai trò của gia đình trong việc xây dựng nhân cách con người Việt Nam, Nxb Phụ nữ,
Hà Nội
2
Nguyễn Kim Hiền, Thực trạng xây dựng văn hóa gia đình ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, Tạp
chí khoa học, khoa học xã hôi nhân văn,Tập 14, Số 2 (2017): 158-170
37
được hỏi ý kiến khi mua sắm tài sản trong gia đình, 33,62% được hỏi ý kiến trong các
hoạt động sản xuất kinh doanh và trong việc phân chia tài sản có 19,57% con cái được
hỏi ý kiến15. Như vậy qua số liệu trên đã chứng minh phần nàomối quan hệ giữa cha
mẹ và con là mối quan hệ tôn trọng tự do cá nhân lẫn nhau, con cái được gần gũi, trao
đổi tâm tình thường xuyên với cha mẹ giữa cha mẹ và con cái đang là xu hướng của
nhiều gia đình hiện nay.
Hai là hôn nhân dựa trên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, bình đẳng,
hòa thuận, thủy chung. Trong thời gian gần đây, được sự quan tâm và chỉ đạo của
Đảng, Nhà nước và chính quyền ở các địa phương cùng sự nhận thức của các gia đình
được nâng cao. Hôn nhân xuất phát từ tình yêu tất yếu dẫn đến hôn nhân tự nguyện.
Tình yêu là khát vọng của con người trong mọi thời đại. Hôn nhân tự nguyện là đảm
bảo cho nam nữ có quyền tự do trong việc lựa chọn người kết hôn, không chấp nhận
sự áp đặt của cha mẹ và còn bao hàm cả quyền tự do ly hôn khi tình yêu nam và nữ
không còn nữ. Nếu như trước kia trong hôn nhân con cái là do cha mẹ đặt đâu con
ngồi đấy thì bây giờ con cái quyết định hôn nhân có sự đồng ý của cha mẹ chiếm
66,2%, bố mẹ quyết định chỉ chiếm 6,6% 1. Nhiều hủ tục lạc hậu trong hôn nhân và gia
đìnhnhư: nạn tảo hôn, tục gả con đòi của tin vào thầy cúng thầy mo, tam thê tứ
thiếp…..được loại trừ, không còn gây ảnh hường nặng nề đến mối quan hệ gia đình,
hôn nhân. Những cá nhân lợi dũng quyền tự do kết hôn, tư do ly hôn để thỏa mãn
những nhu cầu không chính đáng, để bảo vệ hạnh phúc cá nhân và gia đình đã bị phát
hiện và xử lí. Các quan hệ hôn nhân phát triển theo xu hướng thực dụng, lấy yếu tố
kinh tế, tiền bạc làm tiêu chuẩn để kết hôn giảm mạnh và hầu như không còn tồn tại.
Thực hiện thủ tục pháp lý trong hôn nhân không ngăn cản quyền tư do kết hôn và tự
do ly hôn chính đáng, mà ngược lại, là cơ sở để thực hiện những quyền đó một cách
đầy đủ.Bên cạnh đó, việc thực hiện chế độ hôn nhân một vợ một chồng làphù hợp với
qui luật tự nhiên, phù hợp với tâm lý, tình cảm, đạo đức con người, đồng thời cũnglà
điều kiện đảm bảo hạnh phúc gia đình. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thực
hiện chế độ hôn nhân một vợ một chồng là thực hiện sự giải phóng đối với phụ nữ,
thực hiện bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau giữa vợ và chồng. Như vậy, Quan hệ hôn
nhân, gia đình thực chất không phải là vấn đề riêng tư của mỗi gia đình mà là quan hệ
xã hội. Thực hiện thủ tục pháp lý trong hôn nhân, là thể hiện sự tôn trọng trong tình
yêu, trách nhiệm giữa nam và nữ, trách nhiệm của cá nhân với gia đình và ngược lại.
Ba là công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình luôn được thực hiện tốt, đảm
bảo một gia đình hạnh phúc và bền vững. Năm 1968, tại Hội nghị Quốc tế về Nhân
quyền ở thủ đô Tehra của Iran, lần đầu tiên, kế hoạch hóa gia đình được khẳng định là
một quyền và là của con người. Trải qua 50 năm, hàng tỷ người trên thế giới đã được
hưởng quyền cơ bản này đó là sinh đẻ có kế hoạch, góp phần cải thiện số phận từng
người, từng gia đình và sự phát triển bền vững của trái đất. Ở Việt Nam, ngay từ
những năm đầu thập kỷ 60 thế kỷ trước, mặc dù trong lúc đất nước còn bị chia cắt làm
1
Lê Ngọc Văn (2012), Gia đình và biến đổi gia đình ở Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội
38
hai miền nhưng công tác dân số- kế hoạch hóa gia đình đã được Đảng, Nhà nước quan
tâm chỉ đạo với việc ban hành Quyết định số 216-CP ngày 26/12/1961 về việc sinh đẻ
có hướng dẫn. Theo đó cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch chính thức được phát động
với mục tiêu vì sức khoẻ của người mẹ, vì hạnh phúc của gia đình, vì để cho việc nuôi
dạy con cái được chu đáo. Thực hiện chương trình “dân số và kế hoạch hóa gia đình”
cũng nằm trong phong trào xây dựng gia đình văn hóa bởi vì nó nâng cao sức khỏe của
người phụ nữ và trẻ em. Đặc biệt với việc thực hiện tiêu chí “mỗi gia đình chỉ có hai
con”, “dù gái hay trai chỉ hai là đủ”…, đã giúp các gia đình có điều kiện quan tâm
chăm sóc nuôi dạy đứa trẻ trưởng thành trong môi trường tốt nhất.Do thực hiện tốt
chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình, được tuyên truyền vận động và có những
biện pháp kịp thời mà trên cơ bản đã hạn chế sự gia tăng dân số, các gia đình đều thực
hiện sinh đẻ có kế hoạch. Tổng kết 10 năm thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia
Dân số - Kế hoạch hóa gia đinh từ năm 2003 đến năm 2013, thành phố Hồ Chí Minh
đã hoàn thành xuất sắc các mục tiêu Dân số - Kế hoạch hóa gia đình đề ra. Theo số
liệu của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, tỉ suất sinh thô giảm từ 15,80%
năm 2003 xuống còn 14,03% năm 2012. Tỉ lệ trẻ sinh ra là con thứ 3 trở lên giảm đều
hàng năm, năm 2003 là 5,65% đến năm 2012 đã giảm xuống còn 3,71%, bình quân
hàng năm giảm 0,2%. Tỉ lệ các cặp vợ chồng sử dụng biện pháp tránh thai hàng năm
đạt khoảng 80% trong đó sử dụng biện pháp tránh thai hiện đại đạt khoảng 70% Tỉ lệ
các cặp vợ chồng sử dụng biện pháp tránh thai hàng năm đạt khoảng 80% trong đó sử
dụng biện pháp tránh thai hiện đại đạt khoảng 70%. Bên cạnh đó, tư tưởng trọng nam
khinh nữ, muốn sinh con trai cũng có chiều hướng giảm, điều đó được chứng minh
phần nào qua tỉ số giới tính khi sinh giảm dần khoảng cách chênh lệch, năm 2003 là
123 bé trai/100 bé gái, năm 2012 là 106 bé trai/100 bé gái1.Như vậy, chúng ta được kế
hoạch hoá gia đình là để ổn định mức tăng dân số hợp lý, xây dựng gia đình ấm no,
bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc cũng là tiêu chí xây dựng gia đình văn hoá nhằm thực
hiện đường lối chung của Đảng góp phần cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh
b) Nguyên nhân
Một là đời sống vật chất tinh thần ngày càng được nâng cao, các thành viên
trong gia đình có điều kiện để phát triển, nâng cao nhận thức, tư duy, trách nhiệm và
bổn phận của mình với các mối quan hệ trong gia đình và xã hội. Quan hệ giữa vợ
chồng, với những truyền thống văn hóa gia đình qua sự đúc kết của các thế hệ đi trước,
được xây dựng trên nền tảng “Đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm”; “Thuận vợ thuận
chồng, tát biển đông cũng cạn”. Vợ chồng tôn trọng, quan tâm, giúp đỡ, chia sẻ gánh
nặng công việc gia đình nhiều hơn đê giảm gánh nặng áp lực về tâm lý cho mỗi người,
chủ động giải quyết mâu thuẫn từ những điều nhỏ nhất theo nguyên tắc hòa thuận, yêu
thương, tôn trọng vì sự phát triển bền vững của gia đình. Trong cách ứng xử mối quan

1
Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2013), Báo cáo Tổng kết 10 năm thực hiện Pháp lệnh dân
số (2003-2013), số 122/BC-UBND, ngày 03 tháng 7 năm 2013
39
hệ giữa cha mẹ và con cái, cha mẹ làm luôn là tấm gương về mặt ý chí rèn luyện, nhân
cách, đạo đức tốt đẹp, là điểm dựa tinh thần của con. Con cái luôn kính trọng cha mẹ,
chăm chỉ rèn luyện, học tập để có thể trở thành công dân tốt, có ích cho cả gia đình và
xã hội. Trong mối quan hệ ông bà với con cháu, luôn có sự hiếu thảo kính trọng của
con cháu dành cho ông bà, sự quan tâm, chăm sóc về mặt thể chất và tinh thần hợp lý
để ông bà luôn sống vui khỏe. Trong mối quan hệ anh chị em, luôn có sự bao dung,
nhường nhịn và hỗ trợ nhau, cùng nhau học tập, rèn luyện.
Hai là nhận thức, hiểu biết của người dân về Luật Hôn nhân và gia đình ngày
càng được nâng cao. Trong hôn nhân, các cặp vợ chồng hiểu được vai trò, vị trí, trách
nhiệm của mình đối với xây dựng gia đình, có được sự yêu thương, tôn trọng, lắng
nghe, chia sẻ dành cho nhau;luôn nghĩ cho con cái, tôn trọng những giá trị truyền
thống của gia đình Việt Nam, không sa vào các tệ nạn xã hội, sống thủy chung,… Khi
có mâu thuẫn, xung đột thì luôn bình tĩnh, khéo léo giải quyết các vấn đề, có khả năng
kiểm soát và kiềm chế hành vi không đúng chuẩn mực, biết điều chỉnh, bỏ cái tôi, sống
có trách nhiệm với gia đình và xã hội.
Ba là các tổ chức như: Hội liên hiệp phụ nữ, Ban kế hoạch hóa gia đình,…được
tạo điều kiện thuận lợi, thành lập nhanh và hoạt động ngày càng sôi nổi. Hội Liên
hiệp phụ nữ các dịa phương đẩy mạnh các phong trào tuyên truyền, vận động xây
dựng tích cực phong trào “Xây dựng đời sống văn hóa gia đình” qua các hoạt động cụ
thể như: vay vốn để phát triển kinh tế gia đình; giới thiệu, tạo dựng hay thay đổi công
ăn việc làm theo hướng giúp tăng thu nhập; vận động quyên góp cá quỹ vì giảm nghèo
dành hộ gia đình; tuyên truyền về các chính sách pháp luật phổ biến về Luật hôn nhân
gia đình, Luật Phòng chống bạo lực gia đình, phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hóa”; các hoạt động vì mục tiêu đảm bảo giáo dục cho trẻ em ở các gia
đình khó khăn. Ban kế hoạch hóa gia đình các địa phương đóng vai trò chủ đạo trong
viêc đảm bảo sức khỏe sinh sản, cũng như đảm bảo chất lượng cuộc sống của người
dân, góp phần vào việc phát triển kính tế - xã hội.
2.2.2.2. Những mặt hạn chế và nguyên nhân
a) Những mặt hạn chế
Gia đình hạnh phúc, tiến bộ vừa là động lực, vừa là mục tiêu phát triển của mỗi
cá nhân cũng như toàn xã hội. Thế nhưng trong xã hội hiện đại, với xu hướng toàn cầu
hóa và quá trình chuyển đổi nền kinh tế theo cơ chế thịtrường,các giá trị vật chất càng
được coi trọng, sự giao thoa, tác động lẫn nhau và hội nhập văn hóa giữa các quốc gia
thì gia đình Việt Nam vừa có điều kiện phát triển kinh tế, vừa giao lưu hội nhập với
các nền văn hóa tiên tiến văn minh của các nước. Song bên cạnh những mặt tích cực
đã nảy sinh nhiều vấn đề tác động đến đời sống cũng như mặt trái của cơ chế thị
trường làm cho các thế hệ gia đình đang đứng trước những thử thách, sóng gió.
Một là đời sống vật chất tinh thần ngày càng nâng cao nhưng đạo đức gia đình
có biểu hiện xuống cấp, các giá trị văn hóa bị đảo lộn cũng như giảm sút về tình cảm,
sự gắn bó của các thành viên gia đình. Với các truyền thống, nề nếp văn hóa của gia

40
đình được lưu truyền qua nhiều thế hệ phải chịu sự tác động trực tiếp và liên tục của
nhịp sống hiện đại, yếu tố vật chất ngày càng quan trọng thì cácgiá trị cốt lõi của gia
đình càng bị mai một,đánh mất dần. Chủ nghĩa cá nhân, vô cảm càng ngày càng phổ
biến và là xu hướng của không ít cá nhân.Các giá trị tinh thần, niềm tin, đạo đức giảm
sút và thậm chí có dấu hiệu tha hóa, biến chất, là mầm móng của gây ra những hậu quả
khôn lương về lâu dài. Hệ thống giá trị xã hội thay đổi kéo theo định hướng giá trị
trong từng người cũng thay đổi , gia đình cũng như các giá trị văn hóa vốn có không
còn được coi trọng và dần bị thay thế. Mối quan hệ giữa các thành viên dần trở nên xa
cách, tư tưởng lối sống của từng thế hệ trong gia đình lại khác nhau nên tình cảm, sự
gắn bó càng giảm sút. Rõ nhất có thể thấy như hiện trạng người lớn tuổi sống cô đơn,
thiếu vắng sự chăm sóc quan tâm chu của gia đình và người thân, hay con cái thiếu sự
quan tâm giáo dục đầy đủ của cha mẹ.
Hai là xu hướng trẻ vị thành niên phạm tội tăng cao,  tệ nạn mại dâm ma túy
đang xâm nhập vào gia đình. Trẻ em là mầm non tương lai của đất nước.Thế nhưng
trẻ em lại chính là đối tượng bị tác động mạnh mẽ nhất đối với sự thay đổi của xã hội
nói chung và những thay đổi trong các mối quan hệ gia đình nói riêng.Khi trẻ em
không được nhận được sự quan tâm, chăm sóc đúng đắn, đầy đủ, kịp thời về mặt tinh
thần và vật chất, cũng như sự giáo dục lành mạnh từ các thành viên có trách nhiệm
trong gia đình như ông bà, cha mẹ, anh em thì dễ dẫn đến các rối loạn về nhân cách,
tâm sinh lý, có xu hướng sa vào những tệ nạn xã hội, các hành vi vi phạm pháp luật,
ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự an toàn xã chung của xã hội.
Ba là lối sống thực dụng, xem nhẹ đạo đức, trách nhiệm, bổn phận với gia đình
và cả cộng đồng, vô tâm , lạnh lùng, thiếu sự cảm thông với các trường hợp gặp khó
khăn trong xã hội. Bắt nguồn từ những lối sống suy nghĩ, nhận thức lệch lạc và không
phù hợp với quay chuẩn đạo đức chung của xã hội, một bộ phận không nhỏ có những
hành vi dược xem là tha hóa về nhân cách như lối sống thực dụng, chạy theo cái lợi
riêng cho bản thân, bất chấp lý lẽ, thuần phong mỹ tục, đặt lợi ích của mình lên trên tất
cả.Lối sống này lại tiếp tục tấn công vào từng người, từng gia đình chưa bị ảnh
hưởng.Đã có không ít hiện tượng như: từ chỗ quan niệm coi trọng các giá trị chính trị,
xã hội, giá trị về nhân cách sang coi trọng và tuyệt đối hóa các giá trị vật chất kinh tế.
Hoặc từ chỗ lấy con người hy sinh vì tập thể, vì cộng đồng, vì xã hội là tiêu chuẩn đạo
đức cao nhất để làm mẫu mực, chuyển sang coi trọng tuyệt đối hóa con người cá nhân,
thậm chí là cá nhân ích kỉ, cá nhân chủ nghĩa.Từ chỗ tôn vinh, đề cao sự tài giỏi, đạo
đức và nhân cách tốt đẹp lên trên, lại chuyển sang tôn sùng tiện nghi vật chất, tôn sùng
đồng tiền, coi tiền là trên hết, lấy đồng tiền làm thước đo giá trị của con người. Tiền
xâm nhập vào nhiều mối quan hệ đạo đức xã hội, thậm chí thành nguyên tắc xử thế và
tiêu chuẩn hành vi của không ít người. Chính vì vậy mà những hiện tượng buôn lậu,
lừa đảo, làm hàng giả, chạy việc làm, mua quan bán chức, chạy chức chạy quyền bằng
tiền... vẫn đang diễn ra phức tạp và ngày càng nghiêm trọng.
b) Nguyên nhân

41
Một là do giá trị văn hóa của gia đình  chưa đủ mạnh để khẳng định vị thế
trong đời sống xã hội hiện đại.Gia đình chưa được chuẩn bị đầy đủ năng lực để thích
ứng với xu hướng luôn vận động, thay đổi, hòa nhập sâu rộng của xã hội hiện đại thì sẽ
không thực hiện được chức năng vốn có của mình, không thực hiện được vai trò là hạt
nhân của xã hội. Sự tác động của những yếu tố văn hóa mới từ bên ngoàitrong quá
trình hội nhập sâu rộng với thể giới trong xu hướng toàn cầu hóa đang dần ảnh hưởng
đến lối sống, nhận thức của các thành viên trong gia đình, đặc biệt là thế hệ trẻ. Mặt
trái của nền kinh tế thị trường kéo theo lối sống buông thả, vị kỉ, chủ nghĩa cá nhân,
quá đề cao vấn đề vật chất khiến cho con người ngày càng đánh mất giá trị đạo đức gia
đình truyền thống tốt đẹp mà bao thế hệ đi trước đã gầy dựng.
Hai là do con cái không được giáo dục một cách lành mạnh, không được hưởng
điều kiện cần thiết để phát triển,nhất là ở các gia đình ly hôn. Khi gia đình không
được hạnh phúc, tất yếu sẽ dẫn đến sự hình thành và phát triển những nhân cách đạo
đức và tư tưởng, suy nghĩ không phù hợp ở các thành viên, nhất là với con cái trong
gia đình.Đây là đối tượng dễ bị tổn thương và ảnh hưởng nặng nề bởi hậu quả từ việc
thiếu sự quan tâm, chăm sóc,giáo dục kịp thời, đầy đủ, đúng đắn của các bậc cha mẹ,
nhất là ở các gia đình có che mẹ ly hôn hay có nạn bạo lực gia đình xảy ra thường
xuyên.Trẻ em ở các gia đình này gặp phải rất nhiều khó khăn trong quá trình thích ứng
tâm lý – xã hội như: khó khăn trong học tập, khó khăn trong thích nghi với hoàn cảnh
sống mới, khó khăn trong các mối quan hệ xã hội… từ đó sinh ra tâm lý mặc cảm, tự
ti, ngại tiếp xúc, và có nguy cơ xuất hiện các rối nhiễu tâm lý cao.Tình trạng trẻ em bị
bỏ rơi,mồ côi,phải lao động nặng nhọc trong điều kiện độc hại hay lang thang kiếm
sống dẫn dến các tai nạn thương tích, có nguy cơ cao bị xâm hại, không được chăm
sóc về sức khỏe, giáo dục, xu hướng trẻ vị thành niên phạm tội và các tệ nạn xã hội
tăng cao.
Ba là do nhu cầu vật chất tăng cao, các thành viên phải tham gia vào các hoạt
động kinh tế với nhiều hình thức khác nhau trong thời gian dài, hy sinh các nhu cầu
trong cuộc sống cá nhân và gia đình.Không chỉ ở vợ chồng, mà mối quan hệ giữa các
thành viên trong gia đình cũng ngày càng giảm sút do định hướng giá trị trong từng
con người thay đổi, hiện tượng rạn nứt tình cảm giữa các thành viên trong gia đình
tăng lên, sự gắn bố với nhau giữa các thành viên trong gia đình trở lên lỏng lẻo hơn.
Nhiều con cái mải lo cuộc sống riêng tư mà để quên cuộc sống của cha mẹ già, để cha
mẹ sống cô đơn, lầm lũi một mình hay thậm chí để mặt cha mẹ khó khăn về kinh tế,
sức khỏe. Nhiều bậc cha mẹ sao nhãng thời gian dành cho gia đình, không quan tâm
chăm lo việc giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối sống, nếp sống văn hoá trong gia đình cho
con cái. Ngoài ra , còn có nhiều mâu thuẫn cha mẹ con cái, anh em trong gia đình xảy
ra vì tiền bạc hay quyền lợi kinh tế của riêng mỗi cá nhân. Hầu hết đều xuất phát từ
việc xem nhẹ hoặc không cần biết đến lòng hiếu thuận, lễ nghĩa gia đình, thiếu trách
nhiệm với gia đình.Hơn nữa không chỉ đối với gia đình , mà còn có lối sống lạnh lùng,
vô cảm và xa lánh những người đang phải đối mặt với những khó khăn cần sự thương
cảm và giúp đỡ ngoài xã hội .

42
2.2.3. Tổ chức lao động, sản xuất, kinh doanh, công tác, học tập đạt năng
suất, chất lượng và hiệu quả:
Hiện nay, quá trình xây dựng gia đình văn hóa chịu sự tác động mạnh mẽ của
kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, công nghệ thông tin... vì vậy việc xây dựng mô
hình kinh tế hộ sản xuất nông nghiệp hàng hóa là rất cần thiết. Kinh tế là nhân tố quyết
định đến hôn nhân và gia đình (bên cạnh việc kết hợp với các nhân tố khác như: thẩm
mỹ, đạo đức, nghệ thuật, văn hoá) và trình độ phát triển kinh tế - xã hội quyết định quy
mô, kết cấu, hình thức tổ chức và tính chất của gia đình. Do đó, để xây dựng gia đình
văn hoá được tốt thì cần phải xây dựng được một đời sống kinh tế ổn định, phát triển.
2.2.3.1 Những mặt đạt được và nguyên nhân
a) Những mặt đạt được
Ở Việt Nam, nghèo đói là vấn đề được Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Ngay từ
những ngày đầu thành lập nước (2/9/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quan niệm
nghèo đói như một thứ giặc đó là “giặc đói”, “giặc dốt”, “giặc ngoại xâm”. Chính vì
thế Người đã xác định nhiệm vụ trước mắt là phải diệt giặc đói để đồng bào ta: ai cũng
có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành.Đảng và Nhà nước ta cũng coi đây là một
trong những chủ trương lớn, được nhiều địa phương hưởng ứng, thực hiện, đã trở
thành phong trào rộng khắp trên cả nước
Một là công tác xóa đói giảm nghèo và xây dựng kinh tế hộ gia đình luôn là vấn
đề đặt lên hàng đầu và giải quyết tốt. Mục tiêu xóa đói giảm nghèo là yếu tố cơ bản để
đảm bảo công bằng xã hội và tăng trưởng bền vững, ngược lại chỉ có tăng trưởng cao,
bền vững mới có sức mạnh vật chất để hỗ trợ và tạo cơ hội cho người nghèo vươn lên
thoát khỏi đói nghèo. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã phân tích sâu sắc những
nguyên nhân của tình hình khủng hoảng kinh tế - xã hội của nước ta từ nhiều năm
trước, đề ra đường lối đổi mới toàn diện, vạch ra những định hướng đúng đắn để từng
bước đưa nước ta thoát khỏi tình trạng khủng hoảng đó, mở ra bước ngoặt trong sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta. Kể từ đây nền kinh tế của Việt Nam có
những bước phát triển mới, “Đặc biệt là từ năm 1991 đến 1995 nhịp độ tăng tổng sản
phẩm trong nước (GDP) đạt 8,2%”. Với tốc độ tăng trưởng như vậy nên “đời sống vật
chất của phần lớn nhân dân được cải thiện. Số hộ có thu nhập bình quân và số hộ giầu
tăng lên, số hộ nghèo giảm”1.Thành phố Hồ Chí Minh là địa phương đi đầu cả nước
trong xóa đói, giảm nghèo. Trải qua các giai đoạn, mức chuẩn hộ nghèo đã tăng lên,
điều đó cho thấy mức sống người dân phần nào được cải thiện. Giai đoạn 1992- 2003
là 3 triệu đồng/người/năm ở 12 quận nội thành và 2,5 triệu đồng/người/năm ở 10 quận,
huyện ngoại thành. Giai đoạn 2004- 2008, mức chuẩn hộ nghèo là 6 triệu
đồng/người/năm, không phân biệt thành thị, nông thôn. Đến giai đoạn 2009-2015,

1
Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
43
Thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục nâng chuẩn nghèo lên 12 triệu đồng/người/năm 1. Các
gia đình có hoàn cảnh khó khăn thuộc diện hộ nghèo, gia đình chính sách… đã được
tạo điều kiện vay vốn thoát nghèo, từng bước đưa tỉ lệ hộ nghèo giảm dần hàng năm.
Cùng với đó, hoạt động khuyến công đã thổi một luồng gió mới, khơi dậy và đánh
thức các nghề, làng nghề truyền thống, tạo ra những giá trị vật chất góp phần làm thay
đổi kinh tế đất nước hằng ngày. Có thể nói công tác xoá đói giảm nghèo của tỉnh,
thành phố và khắp nơi trên cả nước trong thời gian qua đã có bước chuyển biến tích
cực, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân, tỷ lệ hộ nghèo đã giảm
đáng kể, không còn hộ thiếu đói. Đặc biệt là những hộ dân ở vùng sâu vùng xa và
đồng bào các dân tộc thiểu số đã từng bước được ổn định về kinh tế, đảm bảo đủ lương
thực để sống góp phần xóa đói giảm nghèo, xây dựng một nông thôn mới, đời sống ấm
no hạnh phúc. Nhìn chung, những thành tựu trong thực hiện công tác xóa đói giảm
nghèo cho các hộ gia đình thời gian qua đã góp phần tích cực vào quá trình phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh, đóng góp vào công cuộc xoá đói giảm nghèo, nâng cao đời
sống nhân dân, phát triển đất nước.
Hai là nâng cao trình độ dân trí trong gia đình, trẻ em trong độ tuổi đi học được
đến trường.Từ thời phong kiến, vấn đề giáo dục luôn được xem trọng, là thước đo của
sự chuẩn mực và xem xét địa vị xã hội nên trẻ con được tiếp xúc với việc giáo dục từ
rất sớm, không chỉ là giáo dục chữ nghĩa mà còn là đạo đức và phép tắt. Khổng Tử có
viết trong quyển “Đại học” rằng “Cần thiết phải dạy nó biết sử dụng tay phải, con trai
phải biết thưa dạ, con gái phải biết nhu hòa. Khi con lên sáu tuổi, dạy về số học và
đếm số. Tám tuổi, dạy khi ra vào hay ngồi vào bàn ăn phải theo sau bậc trưởng
thượng, bắt đầu dạy biết nhường nhịn. Mười tuổi, cho ra ngoài học thêm 34 sách vở,
bắt đầu hướng dẫn về lễ, sớm tối tuân theo nghi thức của trẻ nhỏ. Hai mươi tuổi là
làm lễ đội mũ, bắt đầu học lễ, dạy tuần hậu về hiếu lễ”2. Đảng và Nhà nước tađặc biệt
quan tâm tới nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực, coi đây là mục tiêu phát triển
kinh tế - xã hội và văn hoá của đất nước. Với mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nguồn
nhân lực đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của cả nước nhất là ở các vùng
đồng bào dân tộc thiểu số, các tỉnh đã đầu tư xây dựng được một số trường dân tộc
thiểu số, với hàng nghìn học sinh người dân tộc thiểu số theo học và được Nhà nước
chu cấp toàn bộ. Bên cạnh đó là các chính sách cử tuyển học sinh dân tộc thiểu số vào
các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, trung cấp nghề ngày càng
nhiều. Các chính sách hỗ trợ bảo đảm việc học tập của sinh viên như vay vốn, ưu đãi
khác được triển khai thực hiện, giúp các em yên tâm trong học tập. Hoàn thiện hệ
thống trường, lớp tại các thôn, bản có học sinh dân tộc ít người để đảm bảo huy động
học sinh dân tộc ít người các cấp học phổ thông đến trường. Xây dựng cơ sở vật chất,
đầu tư thiết bị dạy học cho các trường mầm non, tiểu học, phổ thông dân tộc nội trú
đảm bảo đủ điều kiện để nuôi dưỡng, giáo dục trẻ em, học sinh các dân tộc. Theo kết
1
Báo cáo chương trình giảm nghèo, tăng hộ khá của Thanhg phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2008-2015
2
Minh Anh (2005), “Tư tưởng Nho giáo về gia đình và việc xây dựng gia đình mới ở Việt Nam hiện
nay”, Tạp chí Triết học, 10 (173)
44
quả Tổng điều tra năm 2019 cho thấy, mặc dù tỷ lệ trẻ em không đến trường trên phạm
vi cả nước chỉ còn 8,3% nhưng sự khác biệt vẫn còn khá lớn giữa khu vực nông thôn
và khu vực thành thị, cũng như giữa các vùng kinh tế - xã hội. Tỷ lệ trẻ em ngoài nhà
trường ở khu vực nông thôn cao hơn gần hai lần so với khu vực thành thị (9,5% so với
5,7%). Chênh lệch cao nhất về tỷ lệ trẻ em ngoài nhà trường giữa các vùng kinh tế - xã
hội là 10,1 điểm phần trăm. Đồng bằng sông Hồng có tỷ lệ trẻ em ngoài nhà trường
thấp nhất (3,2%), thấp hơn khoảng bốn lần so với Tây Nguyên và Đồng bằng sông
Cửu Long (cả hai vùng này đều bằng 13,3%). Đáng chú ý, Đông Nam Bộ là một trong
hai vùng kinh tế phát triển nhất cả nước nhưng có tỷ lệ trẻ em ngoài nhà trường thuộc
nhóm cao (sau Tây Nguyên và Đồng bằng sông Cửu Long), chiếm 9,5% 1. Các trường
trung cấp và phổ cập cũng được triển khai rộng rãi trên khắp cả nước. Ví dụ như ở các
tỉnh miền núi, trước năm 2020, hoàn thành phổ cập giáo dục trung học phổ thông cho
95% dân số trong độ tuổi đi học ở khu vực thành phố, thị xã, thị trấn (trong đó 15%
học nghề, 15% giáo dục chuyên nghiệp, 70% tốt nghiệp phổ thông và bổ 84 túc) và
85% dân số trong độ tuổi đi học ở khu vực nông thôn; kiên cố hoá toàn bộ trường, lớp
học; mỗi huyện có ít nhất 03 trường trung học phổ thông. Đây là thành quả của sự vận
động, nhắc nhở, khuyến khích, tạo điều kiện không ngừng của chính quyền các cấp,
ban, bộ và sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước quá trình nâng cao dân trí. Nhìn vào
những con số, chúng ta có thể đành giá sự cố gắng của Đảng và Nhà nước đã có nhiều
khởi sắc trong công tác xây dựng “gia đình văn hóa”.
b) Nguyên nhân
Một là nhờ sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp, sự phối hợp
của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể trong thực hiện công tác giảm nghèo bền vững
gắn với xây dựng nông thôn mới. Đây là nhiệm vụ chính trị trọng tâm, là trách nhiệm
của cả hệ thống chính trị và chính bản thân người nghèo. Tăng cường công tác đối
thoại giảm nghèo, chủ động nắm bắt tình hình tư tưởng, dư luận của người dân, tiếp
nhận thông tin phản ánh của báo chí về những khó khăn, vướng mắc và những bất cập,
hạn chế trong quá trình triển khai thực hiện chương trình giảm nghèo nhanh và bền
vững ở các địa phương.Xây dựng các chính sách hỗ trợ nhóm hộ cận nghèo, nhóm hộ
mới thoát nghèo để họ tiếp tục được trợ giúp về tín dụng, về khuyến nông - lâm
nghiệp, học nghề trong một thời gian nhất định để có đủ tiềm lực và vững vàng hơn
khi tự vươn lên thoát nghèo, bỏ xa ngưỡng nghèo, tránh tình trạng bị rơi xuống dưới
ngưỡng nghèo hoặc tái nghèo khi gặp rủi ro (thiên tai, đau ốm, tai nạn,...). Có chế độ
khen thưởng đối với những huyện, xã đăng ký thực hiện và hoàn thành mục tiêu giảm
nghèo. Thực hiện đa dạng hóa nguồn vốn huy động để phát triển hạ tầng các vùng khó
khăn, tỷ lệ hộ nghèo cao. Tích cực xã hội hóa trong công tác giảm nghèo, tạo thành

1
Thu Hòa_16/12/2020, Thành tựu giáo dục và đào tạo qua kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở năm
2019, tạp chí Con số sự kiện

45
phong trào sâu rộng, thu hút và động viên sự tham gia của các tầng lớp dân cư trong
việc thực hiện các chương trình giảm nghèo, việc hỗ trợ, giúp đỡ người nghèo, bảo
đảm cho người nghèo được thụ hưởng đúng, đủ, kịp thời các chính sách.
Hai là công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập đã và đang
được tích cực đẩy mạnh thực hiện, đáp ứng yêu cầu của nền giáo dục nước nhà. Trong
tiến trình xây dựng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cần có nguồn lực lao động
có kỹ thuật, tay nghề, đáp ứng được yêu cầu công việc. Từ ý nghĩa đó, công tác
khuyến học, khuyến tài được nhà nước xem trọng, được nhân dân đề cao và phát huy,
qua đó đã nhận được sự đồng thuận của người dân nói chung. Trong đó chú trọng nhất
là đối tượng trẻ em, học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn. Trong những năm qua,
với mục tiêu tạo điều kiện phát triển về số lượng, nâng cao chất lượng giáo dục, nhà
nước đã có những chính sách ưu tiên tuyển sinh, hỗ trợ học tập, tăng cường công tác
truyền thông nâng cao nhận thức về phát triển giáo dục; quan tâm việc đầu tư cơ sở vật
chất, thiết bị dạy học phù hợp với tình hình thực tế của địa phương; thường xuyên
giám sát việc thực hiện các chế độ, chính sách đối với trẻ em, học sinh, sinh viên có
hoàn cảnh khó khăn; làm tốt công tác quy hoạch nguồn nhân lực, có chính sách ưu tiên
xét tuyển học cử tuyển và đảm bảo bố trí việc làm cho người học cử tuyển sau khi tốt
nghiệp. Không những vậy, còn có sự chung tay của các tổ chức phi chính phủ hay các
tổ chức quốc tế vì trẻ em và giáo dục như UNICEF, các tổ chức đa quốc gia hoạt động
với mục đích nâng cao và hỗ trợ cho giáo dục hoạt động tại Việt Nam.
2.2.3.2. Những mặt hạn chế và nguyên nhân
a) Những mặt hạn chế
Kinh tế gia đình là nền tảng cốt lõi góp phần xây dựng nền kinh tế chung của xã
hội. Vì vậy, khi kinh tế gia đình không vững chắc thì nền kinh tế của xã hội sẽ gặp
nhiều khó khăn. Thực tế có nhiều mặt hạn chế khiến cho kinh tế gia đình kém bền
vững, kém phát triển vẫn luôn tồn tại và cần được đưa ra giải pháp khắc phục.
Một là kinh tế gia đình chưa ổn định và còn phát triển dựa trên phương thức lạc
hậu, kém hiệu quả. Đánh giá ở cấp độ kinh tế hộ gia đình, quá trình và quy mô sản
xuất của kinh tế họ gia đình thường nhỏ, chủ yếu dựa vào sức lao động thủ công và
công cụ truyền thống, năng suất lao động thấp, trình đồ quản lý và chuyên môn nghiệp
vụ theo tiêu chuẩn còn hạn chế, không có được lượng vốn đủ lớn để đầu tư đổi mới
công nghệ. Cơ cấu ngành nghề còn lạc hậu, chất lượng sản phẩm chưa tiếp cận được
yêu cầucủa thị trường, dẫn đến thị trường tiêu thụ sản phẩm hạn hẹp và bị động. Đó là
chưa kể đến những rủi ro, tổn thất trong kinh doanh có thể gặp phải trong tình huống
bất lợi.
Hai là thu nhập của gia đình hay của các thành viên trong gia đình chưa phải là
thu nhập chính đang theo quy định của pháp luật. Hiện tượng các hộ gia đình vi phạm
luật kinh doanh do thiếu kiến thức, thiếu thông tin về quy định cuả pháp luật về các
loại hình, mặt hàng kinh doanh không được phép lưu hành hoặc cố ý vi phạm quy định

46
vẫn xảy ra. Tình trạng khai thác trái phép nông lâm ngư nghiệp như khai thác gỗ trái
phép, khai thác khoáng sản trái phép hay săn bắn các loài động vật trong danh sách
được bảo vệ ở Việt Nam; hoạt động sản xuất và kinh doanh các mặt hàng giả, hàng
kém chất lượng, hàng hóa chưa được đăng ký cấp phép kinh doanh và lưu hành trên thị
trường, hàng hóa buôn lậu, các mặt hàng cấm, các chất kích thích như ma túy, thuốc
phiện…
b) Nguyên nhân
Một là do, nhận thức của hộ gia đình về luật pháp, quy định về kinh doanh,
cũng như về kinh tế thị trường còn hạn chế.Kiến thức và năng lực tiếp cận thông tin
của hộ gia đình chưa cao, các hộ gia đình thường ngại tâm lý đổi mới trong phương
thức phát triển kinh tế, còn mang nặng tư tưởng lạc hậu của thế hệ trước. Trong nền
kinh tế hội nhập hiện đại, do quá trình công nghiệp hóa mà chức năng sản xuất của gia
đình cũng bị giảm đi đáng kể do không thể cạnh tranh được với các loại hình và quy
mô sản xuất mang tính tự động cao, với tiêu chuẩn đáp ứng được yêu cầu của nhiều thị
trường, chi phí sản xuất thấp.Khi các hoạt động sản xuất kinh doanh do gia đình như
một đơn vị kinh tế thực hiện có xu hướng giảm thì các hoạt động kinh tế do cá nhân
thực hiện ngoài gia đình sẽ tăng lên, ví dụ như: làm công ăn lương… Xu hướng cá
nhân hóa các nguồn thu nhập của các thành viên trong gia đình dẫn đến chỗ phạm vi
hoạt động của gia đình như một đơn vị kinh tế bị thu hẹp lại.
Hai là do sự quản lý chưa chặt chẽ của các ban ngành trong việc quản lý thị
trường kinh doanh. Các phương thức kinh doanh vi phạm pháp luật vẫn còn tồn tại,
xảy ra thường xuyên các hiện tượng hàng hóa không đạt tiêu chuẩn, kém chất lượng
được lưu thông trên thị trường. Ở các địa phương gặp khó khăn về việc tiếp cận thông
tin, người dân chưa được phổ biến rộng rãi, đầy đủ về những chính sách quy định của
nhà nước về các hoạt động kinh tế, loại hình kinh doanh hợp pháp theo quy định của
pháp luật. Ngoài ra các văn bản quy định vẫn còn thiếu sót và chưa hoàn thiện, chưa
có những chế tài hợp lý để xử lý các hành vi vi phạm, tạo cơ hội cho những đối tượng
thu lợi bất chính từ hoạt động kinh tế bất hợp pháp.
2.3. Giải pháp xây dựng gia đình văn hóa ở nước ta trong thời gian tới

2.3.1. Giải pháp để tiếp tục phát huy những mặt đạt được

2.3.1.1. Đẩy mạnh công tác truyền thông, giáo dục, vận động xây dựng gia
đình văn hoá. Kế thừa, giữ gìn, phát huy và tiếp thu những giá trị gia đình văn hóa.

Đẩy mạnh công tác truyền thông, giáo dục, vận động nhằm đẩy mạnh xã hội
hoá công tác gia đình, xây dựng gia đình văn hoá.Mục tiêu của công tác tuyên truyền
vận động quần chúng tham gia xây dựng gia đình văn hoá là từng bước làm chuyển
biến nhận thức trong xã hội về vai trò, vị trí của gia đình văn hoá cũng như những sai

47
lệch về giá trị văn hoá gia đình trong điều kiện cơ chế thị trường.Phải tuyên truyền,
giáo dục cho quần chúng nhân dân những chuẩn mực văn hoá gia đình và xây dựng gia
đình văn hoá. Nhận thức được sự cần thiết của sự nghiệp xây dựng và phát triển văn
hoá trong thời kỳ đổi mới. Bên cạnh đó, phải chú trọng giáo dục chủ nghĩa yêu nước,
lý tưởng sống cao đẹp... để văn hoá thực sự là động lực của sự phát triển kinh tế - xã
hội.

Trong công tác tuyên truyền cần phổ biến sâu rộng những gương điểnhình của
những gia đình mẫu mực đồng thời kiên quyết đấu tranh, phê phánnhững biểu hiện
tiêu cực, lạc hậu.Công tác tuyên truyền vận động thực hiện bằng nhiều hình thức
phong phú như phát thanh, truyền hình, bài viết, xuất bản văn học nghệ thuật, thông tin
cổ động, triển lãm... tăng cường các biện pháp, hình thức giáo dục truyền thống, ý thức
trách nhiệm đến mọi người.Để thực hiện nhiệm vụ trên cần xây dựng mạng lưới và bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ tuyên truyền cơ sở, tuyên truyền phổ biến từng nội dung gia
đình văn hoá với mọi tầng lớp nhân dân.

Việc tuyên truyền giáo dục xây dựng gia đình văn hoá là nhiệm vụ củatất cả các
ban ngành, đoàn thể của tỉnh, tuỳ thuộc vào chức năng và nhiệm vụhoạt động của đơn
vị mình và xây dựng chương trình hành động riêng.Sự kết hợp chặt chẽ giữa Uỷ ban
nhân dân và Mặt trận tổ quốc cùngcác đoàn thể khác (như: Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh
niên Cộng sản Hồ ChíMinh, Hội nông dân, Liên đoàn lao động, Hội cựu chiến binh)
nhằm thốngnhất mục tiêu, xây dựng các chỉ tiêu cụ thể, những biện pháp thiết thực
nhằmtạo hành hang pháp lý cho cuộc vận động đồng thời thể hiện vai trò tráchnhiệm
của chính quyền, mặt trận và các tổ chức thành viên, đề cao tinh thầntrách nhiệm mỗi
công dân trong quá trình xây dựng gia đình văn hoá và đờisống văn hoá cơ sở.

Kế thừa, giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa gia đình truyền thống gắn
liền với việc tiếp thu những giá trị văn hóa gia đình tiên tiến của xã hội hiện đại.Đất
nước đang trên đường đổi mới, xây dựng và phát triển kinh tế, thực hiện công nghiệp
hóa, hiện đại hóa thì vấn đề văn hóa gia đình cũng đang có sự chuyểntiếp từ truyền
thống đến hiện đại. Nhưng xây dựng, phát triển văn hoá giađình từ truyền thống đến
hiện đại như thế nào cho phù hợp với xu thế pháttriển của xã hội đúng với ý nghĩa văn
hoá gia đình tiến bộ là một vấn đềkhông đơn giản, đòi hỏi sự phấn đấu của toàn Đảng

48
bộ và nhân dân trong đó có sự nỗ lực không mệt mỏi từ mỗi gia đình.Trong xã hộihiện
nay đã và đang có sự biến đổi đáng lo ngại về các thang giá trị trong tâmlý không ít
người: “giá trị kinh tế to lớn hơn giá trị tinh thần, văn hoá; giá trịkinh tế hơn giá trị
chính trị; giá trị trước mắt trội hơn giá trị lâu dài; giá trịhiện đại dễ lấn át giá trị truyền
thống”1.

Để đáp ứng ngày càng cao yêu cầu phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội,nâng cao
mức hưởng thụ văn hoá tinh thần của nhân dân trong giai đoạn mớihiện nay. Định
hướng đẩy mạnh nâng cao chất lượng phong trào xây dựng giađình văn hoá cần bám
sát mục tiêu, nhiệm vụ trong Văn kiện đại hội Đảng bộtỉnh đề ra. Kế hoạch hành động
xây dựng phát triển phong trào hướng tới mụctiêu: xây dựng và phát triển nền văn hoá
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắcdân tộc, làm cho văn hoá ngày càng thấm sâu vào
các lĩnh vực đời sống xãhội, vào từng khu vực dân cư, từng gia đình, từng người, kế
thừa truyền thốngtốt đẹp của gia đình Việt Nam, hoàn hiện giá trị chuẩn mực mới, tiếp
thu cóchọn lọc tinh hoa văn hoá nhân loại để xây dựng gia đình bình đẳng, ấm no,hạnh
phúc, tiến bộ và văn minh, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, giữ vững quốc phòng, an ninh của tỉnh nhà.

Với những yêu cầu đã đượcđưa ra cho thấy cần phảinhận thức rõ được tầm quan
trọng của việc xây dựng gia đình văn hoá đối vớixã hội, vì mục tiêu phát triển con
người để qua đó giúp cho các cấp uỷ Đảng,chính quyền các cấp hoạch định được
những chính sách, giải pháp phù hợp.

2.3.1.2. Thúc đẩy giáo dục gia đình, truyền thông về bình đẳng giới và các
dịch vụ hỗ trợ gia đình

Chú trọng giáo dục gia đình. Tránh sự phân biệt giới trong việc dạy dỗ con cái.
Cần thay đổi định kiến hay khuôn mẫu giới bắt đầu từ chính các công việc nhà hằng
ngày trong gia đình, từ sự dạy dỗ hay phân công công việc của cha mẹ dành cho con
cái.

Bố mẹ cần xác định tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức và lối sống trong
gia đình, quan tâm tạo dựng môi trường gia đình, xây dựng nền nếp, truyền thống đạo
đức gia đình, lối sống lành mạnh, tình cảm yêu thương, chia sẻ, quan tâm, lắng nghe
1
Bùi Thu Hằng (2001), “Bạo lực trong gia đình”, Khoa học về Phụ nữ.
49
và tôn trọng con cái. Một môi trường gia đình tốt sẽ giúp trẻ em có nền tảng đạo đức,
lối sống tốt.

Giáo dục trước hôn nhân nhằm cung cấp cho những người trưởng thành kiến
thức cần thiết về tình bạn, tình yêu, tình dục, sức khỏe sinh sản, Luật Hôn nhân và Gia
đình, điều kiện kết hôn, lựa chọn bạn đời, quan hệ vợ chồng,... Xây dựng mối quan hệ
mới giữa cha mẹ và con cái trên cơ sở tiếp thu những giá trị nhân văn mới và kế thừa
những giá trị tốt đẹp của gia đình Việt Nam truyền thống. Có các biện pháp hỗ trợ,
trang bị kiến thức, kỹ năng cho cha mẹ trong việc giáo dục, định hướng lối sống phù
hợp cho trẻ vị thành niên cũng như trong ứng xử giữa các thế hệ của gia đình nhằm
giảm thiểu khoảng cách bất đồng giữa các thế hệ. Hỗ trợ để các bậc cha mẹ có phương
pháp, biện pháp, nội dung giáo dục phù hợp với sự thay đổi những giá trị mới của gia
đình trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay.

Đảng và Nhà nước cần có chủ trương đẩy mạnh nghiên cứu khoa họcvề gia đình,
phụ nữ và giới, từng bước xác định hệ thống các giá trị đạo đức,tâm lý trong đời sống
gia đình phù hợp với các giá trị nhân văn, nhân bản củaCNXH, lấy đó làm nội dung
giáo dục đạo đức gia đình trong chương trình đàotạo các cấp, đặc biệt là cấp học phổ
thông. Coi gia đình là yếu phát triển xãhội nên cần có chương trình, kế hoạch ngắn hạn
và dài hạn về gia đình.

Truyền thông về bình đẳng giới.Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến và hỗ trợ phụ
nữ tự thoát khỏi các định kiến xã hội từ cộng đồng và từ chính bản thân, hướng phụ nữ
tới những giá trị được tôn trọng, được hạnh phúc, được thể hiện bản thân, đồng thời
đóng góp tốt cho xã hội.

Xây dựng môi trường làm việc thân thiện, có hệ thống dịch vụ hỗ trợ (ví dụ như
hệ thống nhà trẻ chăm sóc ban ngày…), giúp phụ nữ sẵn sàng và thuận lợi hơn trong
tham gia xã hội. Đề ra nhiều biện pháp nhằm tham gia giảiquyết việc làm cho phụ nữ
nông thôn và phụ nữ nghèo, đặc biệt tập trung chophụ nữ vùng bị thu hồi đất đầu tư
cho các dự án. Trung tâm dạy nghề, giớithiệu việc làm của tỉnh và Hội Phụ nữ các
huyện, thành phố đã khảo sát nhucầu học nghề của lao động tại các huyện, thành phố,
chủ động xây dựng đề ándạy nghề cho các đối tượng phù hợp với từng địa phương, với

50
lao động nữ,tận dụng nguồn nhiên liệu phục vụ cho sản xuất, dạy nghề đạt hiệu quả
đảm bảo tiêu thụ hàng hoá được thuận lợi.

Thực hiện bình đẳng với nam giới trong gia đình cũng nhưngoài xã hội, góp
phần xây dựng gia đình văn hoá được hiệu quả. Phải có việclàm, có thu nhập ổn định,
có sự đóng góp cho kinh tế gia đình thì người phụnữ mới trở thành người bình đẳng,
có vị thế xứng đáng trong gia đình. Quyềncó việc làm là quyền rất cơ bản của con
người. Hiến pháp nước ta cùng vớinhiều đạo luật, chính sách của Nhà nước đã nhấn
mạnh quyền bình đẳng trongviệc làm (tuyển dụng, đào tạo, tiền lương...) “Công dân
nữ và nam có quyềnngang bằng nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, xã hội và gia
đình”1.

Thúc đẩy các dịch vụ hỗ trợ gia đình.Có nhận thức đầy đủ về hệ thống dịch vụ
công thuộc lĩnh vực gia đình, xây dựng danh mục dịch vụ công và cơ chế quản lý đối
với từng loại hình dịch vụ công thuộc lĩnh vực gia đình. Nghiên cứu và triển khai
những dịch vụ gia đình cần thiết để hỗ trợ cho công việc nội trợ và chăm sóc sức khỏe.
Đặc biệt quan tâm đến việc hỗ trợ sắp xếp và tổ chức cuộc sống gia đình của người di
cư lao động nhằm bảo đảm sự ổn định, an toàn của cuộc sống gia đình. Xây dựng môi
trường văn hóa - xã hội lành mạnh, kiên quyết đấu tranh chống những tệ nạn xã hội,
tham nhũng, lãng phí và lối sống thực dụng, tôn thờ đồng tiền làm ảnh hưởng đến sự
phát triển nhân cách trẻ em.

2.3.1.3. Phát triển kinh tế, phát triển giáo dục và đào tạo

Phát triển kinh tế, giải quyết việc làm cho mọi thành viên trong gia đình.Phát
triển kinh tế, trong đó có kinh tế hộ gia đình nhằm cải thiện chấtlượng cuộc sống, qua
đó để các thành viên trong gia đình có thể nâng caonhận thức, quyền lợi, nghĩa vụ của
mình trong việc xây dựng gia đình vănhoá, tạo điều kiện giải quyết những mâu thuẫn,
xung đột gia đình một cáchhiệu quả.

Vốn là nhân tố cơ bản của quá trình sản xuất và là vấn đề khó khăn nhấtđối với
các hộ gia đình khi tham gia phát triển kinh tế. Hầu hết các hộ gia đìnhở nông thôn,
vùng sâu vùng xa đều khó khăn, thiếu kinh phí để sản xuất, họkhông có tài sản thế

Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
1

Việt Nam 1992.


51
chấp vay vốn ngân hàng, lãi suất thì quá cao nên họ khôngthể đầu tư, mua sắm máy
móc, thiết bị để sản xuất. Do đó chất lượng xây dựnggia đình văn hoá cũng bị ảnh
hưởng. Do vậy cần có các chủ trương, chính sáchcủa các cơ quan ban ngành của Nhà
nước và của tỉnh để giải quyết vấn đề giúpđỡ vốn cho các hộ gia đình, bên cạnh đó cần
có sự giúp đỡ, tài trợ của các tổchức trong và ngoài nước (như Chương trình 135,
Chương trình 327, Chươngtrình PAM...).Thực tế cho thấy, nếu có được sự đầu tư về
vốn thì đời sống củacác hộ gia đình đã có sự vươn lên thoát nghèo, ổn định đời sống.

Phát triển giáo dục và đào tạo.Ở nước ta, giáo dục và đào tạo được coi là quốc
sách hàng đầu, là yếutố quyết định sự phát triển của đất nước. Điều này được khẳng
định trongHiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (1992) và Nghị
quyếtTrung ương 2 khóa VIII (1996): định hướng chiến lược phát triển giáo dụcđào
tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Tăng cường công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức về sự cần thiếtphải phát
triển giáo dục cho các dân tộc ít người, nhằm nâng cao nhận thức của các cấp uỷ đảng,
chính quyền, cộng đồng, phụhuynh học sinh, giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục, nhân
viên và học sinh đểthấy rõ việc phát triển giáo dục đối với dân tộc ít người là rất quan
trong vàcấp thiết.

Tăng cường công tác xã hội hoá giáo dục, huy động các nguồn lực trongnước và
các tổ chức quốc tế để phát triển giáo dục.Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất cho các cơ
sở giáo dục. Nâng cao năng lực cho đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục.

Gia đình cần phối hợp chặt chẽ hơn với nhà trường trong việc quản lý, giáo dục
đạo đức, lối sống cho trẻ em. Thông qua quan hệ chặt chẽ với nhà trường, gia đình có
thể nắm bắt rõ tình hình con cái, can thiệp giáo dục kịp thời khi con cái có biểu hiện
sai lệch về lối sống, đạo đức, hạn chế những tác động tiêu cực từ phía xã hội, đồng
thời khen thưởng và động viên khi con cái có thành tích học tập, rèn luyện tốt, tạo
thêm động lực cho trẻ phát huy những điểm mạnh, sở trường. Khi có sự phối hợp chặt
chẽ giữa gia đình và nhà trường, hiệu quả giáo dục sẽ cao hơn nếu bố mẹ của trẻ tham
gia vào các hoạt động học tập của trẻ và có những hỗ trợ tích cực về mặt tinh thần, qua
đó giúp trẻ phát triển hơn về tinh thần, đạo đức.

52
Cần có những biện pháp để nâng cao nhận thức về gia đình trong xã hội, đặc
biệt cần nâng cao dân trí. Chỉ khi trình độ học vấn của người dân được nâng cao thì
vấn đề xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc mới có thể trở thành
nếp sống của một xã hội văn minh. Đảng và Nhà nước cần tập trung phát triển giáo
dục đào tạo, xây dựng đồng bộ các cơ sở giáo dục và cán bộ quản lý giáo dục.

2.3.2. Giải pháp để tiếp tục khắc phục những mặt hạn chế

2.3.2.1. Coi xây dựng gia đình văn hoá là một trong những nội dung quan
trọng của công cuộc xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa

Xuất phát từ vị trí, vai trò quan trọng của gia đình với xã hội đã đượckhẳng định
cả về lý luận và thực tiễn, xuất phát từ bản chất xã hội - XHCN,việc xác định xây dựng
gia đình văn hoá là một nội dung quan trọng, làphương hướng cơ bản của công cuộc
xây dựng xã hội mới - XHCN là hết sứccần thiết và đúng đắn. Bởi vì: một là, xây dựng
gia đình văn hoá thực sự ấmno, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững; có lối sống
văn hoá gắn kết bảovệ cộng đồng; chấp hành tốt chủ trương, đường lối của Đảng, pháp
luật củaNhà nước là góp phần xây dựng xã hội ổn định, phát triển tốt đẹp, làm cho
xãhội mới ra đời khác hẳn về chất so với các xã hội trước đó. Hai là, coi việcxây dựng
gia đình văn hoá là một trong những nội dung quan trọng của côngcuộc xây dựng
XHCN là vấn đề cơ bản nó sẽ chi phối định hướng quá trìnhhoạch định chủ trương,
đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Đồngthời nó chi phối việc thực hiện
triển khai vận dụng sáng tạo chủ trương,đường lối đó ở các cấp, ban ngành, các đoàn
thể chính trị - xã hội trong điềukiện hoàn cảnh cụ thể, vừa chi phối sự quan tâm chỉ
đạo sát sao, tạo mọi điềukiện thuận lợi thúc đẩy phong trào phát triển hơn nữa vì mục
tiêu “ích nước,lợi nhà”. Hơn nữa xác định rõ vấn đề cơ bản này nó tác động cuộc vận
độngcác gia đình tích cực hưởng ứng phong trào xây dựng gia đình văn hoá, biếnnó
thành mục đích, nhu cầu phát triển tự thân của các gia đình, không còn cógia đình
đứng ngoài phong trào này. Thông báo của Ban chấp hành Trungương ghi rõ: “Nhiệm
vụ xây dựng, hoàn hiện gia đình phải được thể hiện rõnét trong các kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội của Nhà nước, của tất cả cácngành, các cấp, các địa phương” 1. Ba là,
coi xây dựng gia đìnhvăn hoá là một trong những nội dung quan trọng của công cuộc
1
Trần Hữu Tòng - Trương Thìn (1997), Xây dựng gia đình văn hoá trong sự nghiệp đổi mới, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
53
xây dựng XHCN, nó sẽ chi phối việc thực hiện xây dựng gia đình văn hoá của các cấp,
ban ngành, đoàn thể sát sao đúng tiến độ và có chấtlượng.

Như vậy, có thể nói coi xây dựng gia đình văn hoá là một trong nhữngnội dung
quan trọng của công cuộc xây dựng xã hội - XHCN nó là phươnghướng chỉ đạo để qua
đó Đảng uỷ, chính quyền và các ban ngành các tỉnh nhận thức được tầm quan trọng
của việc xây dựng gia đình văn hoáqua đó thúc đẩy phong trào xây dựng gia đình văn
hoá phát triển nhanh, mạnhcả bề rộng lẫn chiều sâu và có ý nghĩa xã hội sâu sắc.

2.3.2.2. Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng, sự chỉ đạo của chính
quyền. Hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật.

Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng và sự chỉ đạo của chính quyền
các cấp đối với công tác gia đình.Cần xác định trách nhiệm của các cấp uỷ Đảng và
chính quyền các cấp, các tổ chức chính trị - xã hội đối với cuộc vận động xây dựng gia
đình văn hoá. Sự quan tâm tới những nội dung hoạt động cụ thể của cuộc vận động
xây dựng gia đình văn hoá với mục tiêu giữ gìn sự ổn định của các gia đình, tế bào của
xã hội, thực sự là tổ ấm hạnh phúc cho mỗi thành viên. Tăng cường việc giáo dục và
nâng cao hiểu biết một cách đầy đủ những kiến thức khoa học và thẩm mỹ cần thiết
trong đời sống gia đình cho mọi người đặc biệt chú trọng đến tầng lớp thanh, thiếu
niên và nhi đồng.

Các cấp uỷ Đảng và chính quyền các cấp cần xác định công tác gia đình là một
nội dung quan trọng trong các kế hoạch và chương trình phát triển kinh tế - xã hội
hàng năm, 5 năm và dài hạn; coi đây là nhiệm vụ thường xuyên; chủ động rà soát,
đánh giá tình hình gia đình, chất lượng xây dựng gia đình văn hoá tại địa phương xây
dựng chương trình, kế hoạch cụ thể giải quyết những thách thức khó khăn về gia đình
và công tác gia đình. 

Chính quyền các cấp của tỉnh cần quy hoạch đủ cán bộ, đào tạo, hỗ trợcán bộ có
năng lực phụ trách công tác gia đình, việc thực hiện xây dựng giađình văn hoá. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã từng nói cán bộ là gốc của mọi côngviệc, việc thành hay bại đều
do cán bộ tốt hay xấu. Cán bộ chỉ đạo việc thựchiện xây dựng gia đình văn hoá phải là
cán bộ có đầy đủ phẩm chất đạo đứccách mạng của người cộng sản: cần, kiệm, liêm
chính, chí công vô tư. Bêncạnh đó đội ngũ cán bộ chỉ đạo phong trào còn là những

54
người có trình độ, amhiểu lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, quan điểm của Chủ tịch Hồ
Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề gia đình và xây dựng gia đình mới –
giađình văn hoá trong cách mạng XHCN. Đồng thời đội ngũ cán bộ chỉ đạophong trào
cần đảm bảo là những cán bộ có năng lực trong hoạt động thựctiễn xây dựng gia đình
văn hoá ở địa phương. Biết tổng kết, phát hiện nhữngvấn đề mới trong phong trào, làm
cơ sở khoa học chỉ đạo những bước đi tiếptheo. Cán bộ có phẩm chất, có tri thức và
kinh nghiệm, có năng lực hoạt độngthực tiễn mới đề ra được chủ trương đúng đắn, kịp
thời, sáng tạo; mới có khảnăng tuyên truyền, thuyết phục tạo ra sức mạnh tổng hợp
thúc đẩy phong tràođi lên. Có như vậy, phong trào xây dựng gia đình văn hoá mới phát
triển vàthu được những thành tựu lớn, không mang tính chất hình thức, bề nổi và
mớithực hiện được mục tiêu đề ra.

Tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về gia đình theo hướng lấy
hoạt động của gia đình làm trọng tâm, bảo đảm sự gắn kết xã hội và vai trò của gia
đình. Các chính sách về gia đình phải hướng đến mục tiêu xây dựng gia đình no ấm,
tiến bộ, hạnh phúc, văn minh, chú trọng đến đối tượng trẻ em và người bệnh tật, cao
tuổi. Xây dựng danh mục dịch vụ công thuộc lĩnh vực gia đình. Phát triển hệ thống
cung cấp dịch vụ xã hội cơ bản đối với gia đình, hỗ trợ gia đình phát triển bền vững,
hạnh phúc và thực hiện bình đẳng giới. Huy động các cá nhân, tổ chức xã hội, cộng
đồng tham gia cung cấp dịch vụ gia đình và chăm lo giúp đỡ, hỗ trợ các gia đình
nghèo, khó khăn; bảo đảm gia đình được tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản công bằng,
bình đẳng, thuận lợi. Gắn việc thực hiện công tác xây dựng gia đình với Đề án tổng thể
phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; Chương trình
mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững; Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng
nông thôn mới.

Chúng ta đã có Luật Hôn nhân và Gia đình (năm 2000); Luật Bình đẳng giới
(năm 2007); Luật Phòng, chống bạo lực gia đình (năm 2008); Pháp lệnh Dân số - Kế
hoạch hóa gia đình; Chiến lược  quốc gia về xây dựng gia đình Việt Nam giai đoạn
2010 -  2020... Tuy nhiên, gia đình luôn vận động và biến đổi theo sự vận động của xã
hội, vì vậy, Đảng và Nhà nước cần tiếp tục ban hành, bổ sung một số chính sách mới
phù hợp với điều kiện xây dựng gia đình văn hóa Việt Nam trong thời kỳ hội nhập
quốc tế. Đồng thời, phải đổi mới nội dung và giải pháp truyền thông về gia đình, nâng
55
cao hiểu biết về các văn bản luật này, cùng các kiến thức, kỹ năng về cuộc sống gia
đình.

2.3.2.3. Phát triển kinh tế - xã hội trên cơ sở đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa của tỉnh làm cơ sở cho việc xây dựng gia đình văn hoá

Trong bối cảnh đất nước hiện nay đang đẩy mạnh phát triển kinh tế,thực hiện
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì các tỉnh cũng nằm trong xu thế chungđó.
Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các tỉnh phải nhận thức được rằng cần phải đẩy
mạnh phát triển kinh tế - xã hội,thực hiện CNH, HĐH, đảm bảo cho việc gắn tăng
trưởng kinh tế với việc thựchiện tiến bộ và công bằng xã hội, tạo những điều kiện
thuận lợi nhất đảm bảocuộc sống các hộ gia đình cả về vật chất và tinh thần. Kinh tế
gia đình chưa ổn định và còn phát triển dựa trên phương thức lạc hậu, kém hiệu quả,
thu nhập của gia đình hay của các thành viên trong gia đình chưa phải là thu nhập
chính đang theo quy định của pháp luật.Vì vậy, phát triển kinh tế - xã hội, nhất là mô
hìnhkinh tế hộ gia đình là một ưu tiên để các tỉnh sẽ tạo điều kiện xây dựng tốthơn cơ
sở hạ tầng, nâng cao trình độ dân trí để các hộ gia đình đáp ứng đượcđiều kiện cần
thiết và tốt nhất cho sự phát triển.

Công nghiệp hóa cần tạo cơ hội công bằng để tất cả các hộ gia đình ở mọi vùng,
miền, tất cả các dân tộc, khu vực thành thị và nông thôn, nhóm hộ giàu và hộ nghèo
đều có thể tham gia vào quá trình phát triển. Quan điểm này cũng phù hợp với mục
tiêu tăng trưởng toàn diện mà Việt Nam đang hướng tới, đó là “không ai bị bỏ lại phía
sau” trong quá trình phát triển.

Việc ưu tiên phát triển kinh tế - xã hội hiện nay sẽ tạođiều kiện cho các gia đình
phát triển toàn diện mọi mặt về đời sống vật chất,văn hoá, nơi ăn chốn ở, vệ sinh môi
trường, dân số - kế hoạch hoá gia đình đểổn định mức tăng dân số hợp lý, xây dựng
gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ,hạnh phúc cũng là tiêu chí xây dựng gia đình văn
hoá nhằm thực hiện đườnglối chung của Đảng góp phần cho dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng,dân chủ, văn minh.

56
Tóm tắt chương II:

Trong gia đình, mối quan hệ giữa các thành viên ngày càng dân chủ,bình đẳng
trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau; gia đình có ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa dântộc, phát
huy các giá trị truyền thống; chămlo phát triển kinh tế gia đình, nuôi dưỡng, giáodục
con cái; tổ chức các hoạt động kinh tếvà văn hóa nhằm nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần cho gia đình. Trong bối cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay,
thiết chế gia đình không tránh khỏi những rung chuyển trong hệ giá trị của mình.
Trước khó khăn, thách thức mới, cần thực hiện đồng thời nhiều giải pháp nhằm nâng
cao chất lượng xây dựng gia đình văn hoá. Tuy nhiên, đây cũng là một vấn đề không
dễ dàng và có thể thực hiện một sớm một chiều mà cần phải có định hướng, có sự
nhận thức rõ ràng, đúng đắn và sự đồng thuận củaĐảng, Nhà nước, các cơ quan ban
ngành đoàn thể của tỉnh và của toàn xã hộicùng chung tay giải quyết mới có thể thấy
được bản chất của vấn đề gia đình,gia đình văn hoá.

57
III. KẾT LUẬN

Gia đình là tế bào của xã hội, là nhân tố quan trọng đảm bảo cho sự ổn định, phát triển
bền vững của quốc gia, dân tộc. Quan tâm, chăm lo phát triển gia đình ấm no, tiến bộ,
hạnh phúc, văn minh là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn thể nhân dân.
Gìn giữ, vun đắp hệ giá trị gia đình với sự kết hợp hài hòa giá trị truyền thống và hiện
đại sẽ tạo môi trường văn hóa lành mạnh, là điểm tựa tinh thần để mỗi cá nhân, gia
đình không ngừng phát triển, tạo động lực, sức mạnh nội sinh góp phần xây dựng nước
Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc. Bên cạch biết được vai trò quan trọng của gia đình, ta
cũng biết được cơ sở xây dựng nên một gia đình văn hóa trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, từ đó có thể thấy được tầm quan trọng và cần thiết của việc xây dựng gia
đình. Đồng thời nhận thấy rõ được hiện trạng những mặt đạt được và hạn chế của quá
trình này qua sự chuyển biến xã hội, hội nhập nên kinh tế trong khu vực và trên thế
giới. Sau đó đề ra những biện pháp phù hợp để phát huy những mặt tốt và khắc phục
những mặt hạn chế còn tồn đọng trong công cuộc xây dựng gia đình văn hóa ở nước
ta. Với mục đích xây dựng một gia đình, một xã hội thu nhỏ tốt đẹp hơn. Tuy nhiên,
việc khắc phục những khuyết điểm ấy cần có thời gian, cần sự nổ lực, chung tay của
Đảng, Nhà nước, chính quyền địa phương và cả người dân và chính những thành viên
trong gia đình để giải quyết những mặt hạn chế đó, cũng như phát huy mạnh mẽ
những mặt đạt được để có thể có được xã hội văn minh, tiến bộ.

58
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2021). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học. Hà Nội:
NXB Chính trị quốc gia Sự thật.

2. Chỉ thị số 49-CT/TW về xây dựng gia đình thời kì công nghiê ̣p hóa, hiê ̣n đại hóa
đất nước. Truy cập từ https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Van-hoa-Xa-hoi/Chi-thi-
49-CT-TW-xay-dung-gia-dinh-thoi-ky-cong-nghiep-hien-dai-hoa-130938.aspx

3. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia, các bộ môn khoa học
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. (2008). Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học.
Hà Nội:NXB Chính trị quốc gia.

4. Trường Đại học Luật Hà Nội. (2009). Giáo trình Luật Hôn nhân và Gia đình Việt
Nam. Hà Nội: NXB Công an nhân dân.

5. Khánh Dũng (09/04/2021). Hội phụ nữ các cấp với phong trào “Toàn dân đoàn kết
xây dựng đời sống văn hóa”.
6. Nguyễn Công Đức. (2011). Nâng cao chất lượng xây dựng gia đình văn hóa ở tỉnh
Thái Nguyên hiện nay. Truy cập từ
https://drive.google.com/file/d/1cGWDlmKP5All9pwC2x3V8WaVdrx9RX14/vie
w?usp=sharing
7. Nguyễn Thu Hiến (24/11/2011). Xây dựng gia đình văn hóa trong tình hình hiện
nay. Truy cập từ  https://nhandan.vn/dong-chay/Xây-dựng-gia-đình-văn-hóa-trong-
tình-hình-hiện-nay-563451
8. Lưu Thị Mai. (2018). Phát huy giá trị truyền thống trong xây dựnggia đình văn hóa
ở Tây Nguyên hiện nay. Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc, 23, tr.134 – 137.
9. Vũ Hào Quang. (2006). Gia đình Việt Nam – Quan hệ quyền lực và xu hướng biến
đổi. Hà Nội: NXB Đại học quốc gia
10. PGS, TS. Trần Thị Minh Thi. (2021). Về xây dựng chiến lược gia đình trong giai
đoạn tới. Truy cập từ
https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/van_hoa_xa_hoi/-/2018/821622/ve-xay-
dung-chien-luoc-gia-dinh-trong-giai-doan-toi.aspx#

59

You might also like