You are on page 1of 95

ĐẠI HỌC QUỐC GIA

BÀI TẬP LỚN MÔN LỊCH SỬ ĐẢNG

ĐỀ TÀI:

QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

LỚP L16--- NHÓM 15 --- HK212

NGÀY NỘP ……17/04/202………

Giảng viên hướng dẫn: Trần Thị Kim Oanh


Sinh viên thực hiện Mã số sinh viên Điểm số
Trần Trọng Thịnh 1915328
Từ Hoàng Thiệu 1915303
Hoàng Thanh Thế 1910555
Trần Duy Thanh 1915100
Nguyễn Phan Thông 1915356

Thành phố Hồ Chí Minh – 2022


TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA
KHOA KHOA HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

BÁO CÁO KẾT QUẢ LÀM VIỆC NHÓM VÀ BẢNG ĐIỂM BTL
Môn: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM (MSMH: SP1039)
Nhóm/Lớp: ....L16....... Tên nhóm: ......15.........HK ....212...........Năm học ....... 2021-2022....................
Đề tài:
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

% Điểm Điểm
STT Mã số SV Họ Tên Nhiệm vụ được phân công Ký tên
BTL BTL

1 1915328 Trần Trọng Thịnh Mở đầu, kết luận, tổng hợp 20%

2 1915303 Từ Hoàng Thiệu Mục 2.2 20%

3 1910555 Hoàng Thanh Thế Chương 1 20%

4 1915100 Trần Duy Thanh Chương 3 20%

5 1915356 Nguyễn Phan Thông Mục 2.1 và tổng hợp 20%

Nhận xét của GV: .......................................................................................................................................................................


GIẢNG VIÊN
(Ký và ghi rõ họ, tên)
Mục Lục

I. PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1

II. PHẦN NỘI DUNG ........................................................................................................ 4

Chương 1: TÍNH TẤT YẾU CỦA SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI ........................................... 4

1.1. Tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam trong những năm 1975 – 1986 ..................... 4

1.1.1. Mô hình chủ nghĩa xã hội trước đổi mới.......................................................... 5

1.1.2. Tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội và yêu cầu đổi mới ........................ 15

1.2. Những biến đổi của tình hình thế giới .................................................................. 18

1.2.1. Sự thay đổi của trật tự thế giới Ianta và quan hệ quốc tế sau “chiến tranh lạnh”
và ảnh hưởng đến tình hình Việt Nam ......................................................................... 18

1.2.2. Toàn cầu hóa kinh tế và nhu cầu hội nhập với thế giới của Việt Nam .......... 19

Tóm tắt chương 1 .......................................................................................................... 20

Chương 2. SỰ HÌNH THÀNH VÀ ĐỔI MỚI ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG
............................................................................................................................................ 21

2.1. Sự hình thành và xây dựng đường lối đổi mới của Đảng ................................... 21

2.1.1. Sự hình thành đường lối đổi mới: ...................................................................... 21

2.1.1.2 Đường lối đổi mới toàn diện đất nước của Đại hội VI (12-1986)................... 26

2.1.3. Đại hội VII của Đảng (6-1991) và sự hoàn thiện đường lối đổi mới:............... 32

2.1.2.1 Về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ............................ 32

2.1.2.2 Đường lối phát triển kinh tế - xã hội ............................................................... 34

2.1.2.3 . Chủ trương, chính sách đối ngoại ................................................................. 35

2.1.3. Thành tựu cơ bản của 10 năm đổi mới 1986 -1995 và một số kinh nghiệm ..... 37

2.1.3.1 Thành tựu cơ bản ............................................................................................. 37

2.1.3.2 Một số kinh nghiệm .......................................................................................... 38


2.2. Sự phát triển của đường lối đổi mới của Đảng trong 1996 - nay: ..................... 42

2.2.1. Nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. ..... 42

TÓM TẮT CHƯƠNG 2 ................................................................................................ 61

CHƯƠNG 3: ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI – NHỮNG THÀNH TỰU VÀ BÀI HỌC KINH
NGHIỆM ........................................................................................................................... 64

3.1. Những thành tựu .................................................................................................... 64

3.1.1. Về thực tiễn ........................................................................................................ 64

3.1.2. Về lý luận ........................................................................................................... 68

3.2. Một số bài học kinh nghiệm chủ yếu .................................................................... 72

3.2.1. Kiên trì đổi mới toàn diện, có nguyên tắc, sáng tạo .......................................... 72

3.2.2. Đảng phải được xây dựng vững mạnh về mọi mặt............................................ 74

3.2.3. Chăm lo xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên .................................. 75

3.2.4. Gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân
dân ................................................................................................................................ 78

3.2.5. Tăng cường và nâng cao hiệu quả của công tác kiểm tra, giám sát .................. 80

3.2.6. Đổi mới và hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng ................................... 84

Tóm tắt chương 3 .......................................................................................................... 84

Kết luận ............................................................................................................................. 86


I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Lịch sử dựng nước và giữ nước từ xưa đến nay, Việt Nam đã phải đối mặt với
nhiều giai đoạn kinh tế - xã hội khó khăn. Không thể phủ nhận sau 10 năm thực hiện kế
hoạch 5 năm ( 1976-1985), cách mạng Xã Hội Chủ Nghĩa ở nước ta đã đạt được nhiều
thành tựu và ưu điểm song bên cạnh đó cũng gặp không ít khó khăn, hạn chế, đưa đất
nước lâm vào tình trạng khủng hoảng. Kế hoạch 5 năm 1976 – 1980 nước ta thực hiện
nhiệm vụ vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa cải tạo quan hệ sản xuất. Mục tiêu đặt ra là
xây dựng được một bước cơ sở vật chất kĩ thuật cho Chủ Nghĩa Xã Hội, cải thiện đời
sống nhân dân về cả vật chất lẫn tình thần. Kết quả thu được rất khả quan như xóa bỏ
được biểu hiện của văn hóa phản động, xây dựng nền văn hóa mới cách mạng, giai cấp tư
sản mại bản được xóa bỏ, các cơ sở nông nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải bị địch
bắt phá cơ bản được khôi phục, tuy nhiên vẫn còn những tồn tại cần khắc phục như: mất
cân đối, sản xuất phát triển chậm…

Đến giai đoạn 1981 - 1985 mặc dù các hoạt động khoa học- kỹ thuật được triển
khai, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, cơ sở vật chất bước đầu được hoàn thiện, sản
xuất công – nông nghiệp đã ngăn chặn được đà giảm sút của 5 năm trước và bắt đầu phát
triển, song những khó khăn yếu kém còn tồn tại vẫn chưa được khắc phục, thậm chí còn
trầm trọng hơn, mục tiêu quan trọng nhất là ổn định kinh tế - xã hội vẫn chưa thực hiện
được. Bên cạnh đó, trong giai đoạn này, nhà nước ta còn áp dụng quyết sách bao cấp, tem
phiếu. Do đó, đa số các mặt hàng, nhu yếu phẩm của người dân trong giai đoạn này đều
khá khan hiếm, cơm không đủ ăn, áo quần không đủ mặc, tập sách không có để dùng,...có
thể thấy nhu cầu thiết yếu của người dân lúc này đều không được đáp ứng đầy đủ. Từ đó
kéo theo hàng loạt các hệ lụy, tình trạng lạm phát tăng cao, đời sống của nhân dân còn rất
nhiều khó khăn, thiếu thốn. Nguyên nhân cơ bản là do ta mắc phải “Sai lầm nghiêm trọng
và kéo dài về chủ trương, chính sách, sai lầm về chỉ đạo chiến lược sách lược và tổ chức
thực hiện”. Để khắc phục sai lầm, đưa đất nước vượt qua khủng hoảng, Đảng và nhà nước

1
ta cần phải tiến hành đổi mới. Đó là cơ hội, động lực, cũng như thách thức và trở ngại của
việc đổi mới vẫn đặt ra cho từng chặng đường xây dựng và phát triển đất nước. Với tinh
thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng khách quan, Đảng ta đã có quyết định mang
tính cách mạng, đột phá về thực hiện đường lối đổi mới toàn diện, sâu sắc, coi đó là
“mệnh lệnh của cuộc sống”.

Bên cạnh đó là yếu tố khách quan từ những thay đổi của tình hình thế giới và quan
hệ giữa các nước đang rất gay gắt do tác động của cách mạng khoa học kỹ thuật, cuộc
khủng hoảng toàn diện, trầm trọng của Liên Xô và các nước Xã Hội Chủ Nghĩa khác đặt
ra yêu cầu cấp bách, đòi hỏi Đảng và nhà nước phải thực hiện đổi mới, chỉnh đốn, làm
cho những mục tiêu của Chủ Nghĩa Xã Hội được thực hiện có hiệu quả bằng những chính
sách, chủ trương, đường lối đúng đắn.

Xuất phát từ tình hình thực tế trên và đứng trước những yêu cầu cấp thiết của quá
trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội, việc nghiên cứu “quá trình hình thành và phát triển
đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam” là vô cùng quan trọng.

2. Đối tượng nghiên cứu


Đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam
3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu chính sách của Đảng trong giai đoạn đổi mới từ 1986 đến nay
4. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài:
Thứ nhất, làm rõ đặc điểm kinh tế, xã hội Việt Nam sau 10 năm xây dựng chủ nghĩa
xã hội trên phạm vi toàn quốc.
Thứ hai, làm rõ nội dung đường lối đổi mới được thông qua tại Đại hội VI (12.1986).
Thứ ba, đánh giá đường lối đổi mới của Đảng.
Thứ tư, sơ lược quá trình phát triển đường lối trong các giai đoạn tiếp theo.
5. Phương pháp nghiên cứu

2
Đề tài sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu, trong đó chủ yếu nhất là các
phương pháp:phương pháp thu thập số liệu; phương pháp phân tích và tổng hợp; phương
pháp lịch sử - logic;…
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài mục lục, phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Tính tất yếu của sự nghiệp đổi mới.
Chương 2: Đường lối đổi mới và quá trình phát triển đường lối đổi mới của Đảng.
Chương 3: Những thành tựu và bài học kinh nghiệm của đường lối đổi mới.

3
II. PHẦN NỘI DUNG

Chương 1: TÍNH TẤT YẾU CỦA SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI


1.1. Tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam trong những năm 1975 – 1986

Sau Hiệp định Pari năm 1973 về chấm dứt chiết tranh, lặp lại hòa bình ở Việt Nam,
Mĩ rút hết quân về nước. Miền Bắc tiến hành khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục và
phát triển kinh tế - xã hội, ra sức chi viện cho miền Nam; trong khi đó miền Nam tiếp tục
thực hiện cách mạng.

Trong giai đoạn thực hiện công cuộc vừa khắc phục hậu quả do chiế tranh phá hoại
của Mĩ, vừa là hậu phương vững chắc cho miền Nam, miền Bắc đã có những bước phát
triển về kinh tế. “Đến cuối năm 1974, sản xuất công nghiệp, nông nghiệp trên một số mặt
quan trọng đã đạt và vượt mức năm 1964 và năm 1971 – hai năm đạt mức cao nhất trong
20 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Tổng sản phẩm xã hội năm 1973 cao hơn
năm 1965, năm 1974 cao hơn năm 1973 là 12,4%. Sản lượng lúa năm 1973 là 5 triệu tấn;
đến năm 1974, mặc dù có những khó khăn do thiên tai, miền Bắc cũng đạt được 4,8 triệu
tấn. Giá trị tổng sản lượng công nghiệp và thủ công nghiệp năm 1974 tăng 15% so với năm
1973. Về vật chất – kĩ thuật, miền Bắc đã có những nỗ lực phi thường, đáp ứng đầy đủ và
kịp thời nhu cầu to lớn và cấp bách của cuộc tổng tiến công chiến lược ở miền Nam”1.

Tuy trải qua hơn 20 năm (1954 – 1975) tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, miền
Bắc đã đạt được những thành tựu to lớn và toàn diện, đã xây dựng được những cơ sở vật
chất – kĩ thuật ban đầu của chủ nghĩa xã hội. Nhưng cuộc chiến tranh phá hoại bằng không
quân và hải quân đã tàn phá nặng nề, gây hậu quả lâu dài đối với miền Bắc: “Chiến tranh
phá hoại của Mĩ đã phá hủy hầu hết những cái mà nhân dân ta đã tốn biết bao công sức để
xây dựng nên, làm cho quá trình tiến lên sản xuất lớn chậm lại đến vài ba kế hoạch 5 năm”2.

1
Lịch sử 12 Nâng Cao (2009), Nhà xuất bản Giáo dục – Bộ giáo dục đào tạo, Hà Nội, tr. 252 – 253.

2
Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IV, Sđd, tr. 37 – 38.

4
Cuộc chiến tranh của Mĩ đã gây ra hậu quả nặng nề không chỉ ở mặt kinh tế, sản xuất
mà còn gây ra rất nhiều thiệt hại về đời sống xã hội, nhiều làng mạc, ruộng đồng bị đốt phá,
vô số bom mìn còn vùi lấp trên các cánh đồng, ruộng vườn, nơi cư trú của nhân dân, số
người mù chữ chiếm tỉ lệ lớn trong dân cư. Miền Nam hoàn toàn giải phóng, chế độ thực
dân mới của Mĩ cùng bộ máy chính quyền Sài Gòn ở trung ương bị sụp đổ, nhưng cơ sở
của chính quyền này ở địa phương cùng bao di hại của xã hội cũ vẫn còn tồn tại. Nền kinh
tế miền Nam cơ bản mang tính chất kinh tế nông nghiệp, sản xuất nhỏ và phân tán, phát
triển không cân đối, lệ thuộc nặng nề vào viện trợ từ bên ngoài. Chính vì vậy, sau khi giải
phóng, đất nước Việt nam bắt đầu bước vào giai đoạn khắc phục những hậu quả do chiến
tranh và khôi phục, phát triển nền kinh tế - xã hội ở cả hai miền.

1.1.1. Mô hình chủ nghĩa xã hội trước đổi mới

1.1.1.1. Đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa của Đảng trình bày tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IV (1976)

a) Bối cảnh lịch sử:

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV Đảng Cộng sản Việt Nam diễn ra trong bối cảnh
cuộc Kháng chiến chống Mỹ đã đạt được thắng lợi. Hai miền Nam Bắc thống nhất sau hơn
20 năm chia cắt. Nhiệm vụ đầu tiên được Đảng đặt ra là thống nhất hai chính quyền khác
nhau ở hai miền. Chính vì vậy, ngày 25/4/1976 nhân dân cả nước đã tham gia cuộc tổng
tuyển cử đầu tiên bầu ra Quốc hội chung của nước Việt Nam thống nhất. Quốc hội đã ra
những quyết định lịch sử về quốc hiệu, quốc kỳ, quốc ca, xác lập hệ thống bộ máy nhà
nước. Quốc hội đã bầu Chủ tịch nước, các Phó Chủ tịch nước, chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng
Chính phủ, thông qua danh sách Hội đồng quốc phòng, Hội đồng Chính phủ và thành lập
Uỷ ban của Quốc hội. Các đoàn thể, tổ chức chính trị - xã hội trên cả hai miền đất nước
nhanh chóng tiến hành đại hội hợp nhất và đi vào hoạt động. Thắng lợi của cuộc Kháng
chiến chống Mỹ và công việc bầu cử thể hiện ý chí đoàn kết toàn dân tộc quyết tâm thực
hiện Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Dù khó khăn gian khổ đến mấy,

5
nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta.
Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”1.

b) Nội dung của Đại hội:

Đại hội đã nêu ra ba đặc điểm lớn của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới: “Một
là, nước ta đang ở trong quá trình từ một xã hội mà nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất
nhỏ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Hai là,
Tổ quốc ta đã hòa bình, độc lập, thống nhất, cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội với nhiều
thuận lợi rất lớn song cũng còn nhiều khó khăn do hậu quả của chiến tranh và tàn dư của
chủ nghĩa thực dân mới gây ra. Ba là, cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta tiến hành trong
hoàn cảnh quốc tế thuận lợi, song cuộc đấu tranh “ai thắng ai” giữa thế lực cách mạng và
thế lực phản cách mạng trên thế giới còn gay go, quyết liệt”2. Đại hội khẳng định Việt Nam
có đủ điều khiện đi lên và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, nhưng đó là sự nghiệp
khó khăn, phức tạp, lâu dài, đòi hỏi Đảng và nhân dân phải phát huy cao tính chủ động, tự
giác, sáng tạo trong quá trình cách mạng. Trong ba đặc điểm thì đặc điểm đầu tiên là lớn
nhất, quy định cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một quá trình biến đổi cách
mạng toàn diện, sâu sắc và triệt để, đồng thời cũng quy định tính lâu dài, khó khăn và phức
tạp của cuộc cách mạng.

Đại hội đã thảo luận, đánh giá và quyết định chuyển cách mạng Việt Nam từ cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam sang thực
hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa trên toàn đất nước. Từ nhận định đó, Đại hội đề ra đường
lối xây dựng chủ nghĩa xã hội trong phạm vi cả nước bao gồm: Đường lối chung cách mạng
xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới và Đường lối xây dựng, phát triển kinh tế.

Đại hội xác định đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn
mới của nước ta: “Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của
nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất,

1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.623.

2
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.37, tr.988.

6
cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hoá, trong đó cách mạng khoa
học kỹ thuật là then chốt; đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung
tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ
nghĩa; xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hoá mới, xây dựng
con người mới xã hội chủ nghĩa; xoá bỏ chế độ người bóc lột người, xoá bỏ nghèo nàn và
lạc hậu; không ngừng đề cao cảnh giác, thường xuyên củng cố quốc phòng, giữ gìn an ninh
chính trị và trật tự xã hội; xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam hoà bình, độc lập, thống
nhất và xã hội chủ nghĩa; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì
hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội”1

Đại hội xác định đường lối xây dựng, phát triển kinh tế là: Đẩy mạnh công nghiệp hóa
xã hội chủ nghĩa nước nhà, xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa
nền kinh tế từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Ưu tiên phát triển công nghiệp
nặng, kết hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp cả nước thành một cơ cấu kinh tế
công-nông nghiệp; vừa xây dựng kinh tế trung ương vừa phát triển kinh tế địa phương, kết
hợp kinh tế trung ương với kinh tế địa phương trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống
nhất; kết hợp phát triển lực lượng sản xuất với xác lập và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới;
kết hợp kinh tế với quốc phòng; tăng cường quan hệ phân công, hợp tác, tương trợ với các
nước xã hội chủ nghĩa anh em trên cơ sở chủ nghĩa quốc tế xã hội chủ nghĩa, đồng thời phát
triển quan hệ kinh tế với các nước khác trên cơ sở giữ vững độc lập chủ quyền và các bên
cùng có lợi; làm cho nước Việt Nam trở thành một nước xã hội chủ nghĩa có kinh tế công
– nông nghiệp hiện đại, văn hoá và khoa học kỹ thuật tiên tiến, quốc phòng vững mạnh, có
đời sống văn minh, hạnh phúc.

Nhằm thực hiện mục tiêu đưa cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ
nghĩa xã hội theo đường lối đã xác định, Đại hội đã đề ra Kế hoạch 5 năm (1976 – 1980)
phát triển và cải tạo kinh tế, văn hóa, phát triển khoa học, kỹ thuật nhằm cùng một lúc hai

1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.37, tr.998

7
mục tiêu vừa cơ bản vừa cấp bach: xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,
cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hóa nhân dân.

c) Ý nghĩa của Đại hội:

Đại hội đại biểu lần thứ IV của Đảng là Đại hội đầu tiên của nước Cộng hòa Xã hội
chủ nghĩa Việt Nam sau khi được thống nhất hai miền Nam, Bắc. Đại hội đã thành công tốt
đẹp, thu được những kết quả to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc,
khẳng định và xác định được đường lối đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội đã
cổ vũ, động viên toàn Đảng, toàn dân ra sức lao động sáng tạo để “xây dựng lại đất nước ta
đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

d) Hạn chế của Đại hội IV:

Đại hội lần thứ IV còn bộc lộ một số hạn chế như: Chưa tổng kết kinh nghiệm 21 năm
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc trong điều kiện thời chiến, vừa là hậu phương, vừa
là tiền tuyến, vừa xây dựng, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa chống chiến tranh phá hoại
bằng không quân, hải quân của đế quốc Mỹ, vừa làm nhiệm vụ chi viện cho chiến trường
miền Nam và làm nhiệm vụ quốc tế. Trong điều kiện đó, tất yếu phải thực hành chính sách
bao cấp để đáp ứng yêu cầu “tất cả để đánh giặc Mỹ xâm lược”; sau chiến tranh, việc áp
dụng nguyên mô hình chủ nghĩa xã hội trước đã bộc lộ những khuyết tật. Việc đề ra phương
châm tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội; việc dự kiến thời gian
hoàn thành về cơ bản quá trình đưa nền kinh tế từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ
nghia trong chỉ khoảng 20 năm để kết thúc thời kì quá độ; việc ưu tiên phát triển công
nghiệp nặng với quy mô lớn, đề ra các mục tiêu, chỉ tiêu kinh tế nông nghiệp và công nghiệp
vượt quá khả năng thực tế ... là những chủ trương chủ quan, sai lầm, nóng vội.

1.1.1.2. Đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa của Đảng bổ sung trong Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ V (1982)

a) Bối cảnh lịch sử:

Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam V diễn ra trong bối cảnh kinh tế đất nước sau 5 năm
đầu cả nước bước vào kỷ nguyên xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa

8
gặp những vấn đề nghiêm trọng. Công tác lãnh đạo và quản lý kinh tế, quảng lý xã hội của
Đảng và Nhà nước phạm nhiều khuyết điểm. Xuất hiện tình hình khủng hoảng kinh tế - xã
hội.

Bên cạnh tình hình kinh tế - xã hội đang có những trì trệ do những chính sách cải cách
không đúng đắn. Tình hình quan hệ quốc tế cũng có nhiều khó khăn, Mỹ tiếp tục bao vây
cấm vận và “kế hoạch hậu chiến”. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế liên
tục ra sức tuyên truyền xuyên tạc việc Việt Nam đóng quân ở Campuchia sau Chiến tranh
biên giới Tây Nam từ năm 1979, gây sức ép với Việt Nam, chia rẽ ba nước Đông Dương.
Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc bị đổ vỡ sau Chiến tranh biên giới phía Bắc 1979. Trung
Quốc tiến hành hoạt động phá hoại biên giới trên bộ và trên biển thường xuyên, bên cạnh
đó Trung Quốc cũng tiến hành rút bỏ viện trợ chuyên gia và vận động Hoa kiều về nước.

b) Nội dung, phương hướng, nhiệm vụ và những mục tiêu chủ yếu về kinh tế - xã hội
của Đại hội:

Đại hội đã kiểm điểm, đánh giá thành tự, khuyết điểm, sai lầm của Đảng, phân tích
nguyên nhân thắng lợi và khó khăn của đất nước. Đại hội đã thảo luận, đánh giá tình hình
rong nước và quốc tế. Đại hội khẳng định tiếp tục đường lối chung tiến hành cách mạng xã
hội chủ nghĩa và đường lối xây dựng kinh tế trong thời kì quá độ do Đại hội Đảng Cộng
sản Việt Nam lần thứ IV đề ra. Tuy nhiên, đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội bắt đầu có
những sự điều chỉnh, bổ sung, phát triển cụ thể hóa theo từng chặng đường, từng giai đoạn
cho phù hợp với những điều kiện lịch sử, cụ thể là:

Khẳng định nước ta đang ở chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội với những khó khăn về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội; đó là thời kỳ khó khăn, phức
tạp, lâu dài và phải trải qua nhiều chặng đường. Chặng đường đầu bao gồm thời kỳ 5 năm
1981 – 1985 và những năm còn lại của thập niên 80. Nhiệm vụ trước mắt là giữ ổn định,
tiến lên cải thiện một bước đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Tiếp tục công cuộc
xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, chủ yếu nhằm thức đẩy sản xuất
nông nghiệp, sản xuất hàng tiêu dùng và xuất khẩu, đáp ứng nhu cầu của công cuộc phòng
thủ đất nước, củng cố quốc phòng, giữ vững an nình, trật tự xã hội. Đại hội chỉ rõ cần phải

9
cụ thể hóa đường lối của Đảng – đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa và đường
lối xây dựng nên kinh tế xã hội chủ nghĩa ở nước ta, cần phải vạch ra chiến lược kinh tế -
xã hội rõ ràng cho chặng đường đầu tiên của quá trình công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa.

Đại hội xác định cách mạng Việt Nam có hai nhiệm vụ chiến lược là: xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Hai nhiệm
vụ này có quan hệ mật thiết với nhau.

Đại hội xác định những chính sách lớn về kinh tế - xã hội và nêu rõ: Trong 5 năm
1981 – 1985 chúng ta cần tập trung lực lượng thực hiện những nhiệm vụ chủ yếu sau: Giải
quyết những vấn đề cấp bách nhất để ổn định và cải thiện một bước đời sống của nhân dân;
phát triển và sắp xếp lại sản xuất, tiếp tục thực hiện việc phân công và phân bố lại lao động
xã hội; bố trí lại xây dựng cơ bản cho phù hợp với khả năng và theo hướng tạo thêm điều
kiện để phát huy các cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có nhằm vào các mục tiêu cấp bách nhất
về kinh tế và xã hội; cải tiến công tác phân phối lưu thông, thiết lập một bước trật tự mới
trên mặt trận này; đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa, củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa trong cả nước về các mặt chế độ sở hữu, quản lú, phân phối; làm tốt hợp tác kinh tế
với Liên Xô, Lào và Campuchia, với các nước trong Hội đồng tương trợ kinh tế; thực hành
tiết kiệm nghiêm ngặt, đặc biệt coi trọng tiết kiệm trong xây dựng cơ bản và sản xuất; làm
tốt việc ứng dụng nhanh chóng và rộng rãi thành tựu khoa học và tiến bộ kỹ thuật vào sản
xuất và đời sống; đổi mới một bước hệ thống quản lý kinh tế; đẩy mạnh các hoạt động văn
hóa, y tế phù hợp với yêu cầu và khả năng kinh tế, thực hiện cải cách giáo dục một cách
tích cực và vững chắc, xác định quy hoạch hợp lý và tiếp tục đào tạo cán bộ khoa học kỹ
thuật, cán bộ quản lý và công nhân lành nghề; tăng cường quản lý xã hội, kiên quyết đấu
tranh chống các hành vi phạm pháp, tệ nạn xã hội và các biểu hiện tiêu cực khác, đề cao kỷ
cương trong quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế, giữ vững trật tự và an toàn xã hội; bảo đảm
các nhu cầu về kinh tế của công cuộc củng cố quốc phong và an ninh, bảo vệ đất nước,
đồng thời huy động năng lực công nghiệp quốc phòng và sử dụng hợp lý lực lượng quân
đội vào những hoạt động kinh tế thích hợp.

10
Đại hội V đã thông qua những nhiệm vụ kinh tế, văn hóa và xã hội, tăng cường Nhà
nước xã hội chủ nghĩa, chính sách đối ngoại; tiếp tục nâng cao tính giai cấp công nhân, tính
tiên phong của Đảng, xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, làm cho
Đảng luôn giữ vững bản chất cách mạng và khoa học, thực sự trong sạch, có sức chiến đấu
cao, gắn bó chặt chẽ với quần chúng.

Nhằm thực hiện nhiệm vụ và mục tiêu đặt ra của chặng đường đầu tiên tiến lên chủ
nghĩa xã hội, Đại hội đề ra Kế hoạch năm năm 1981 – 1985 và quyết định hương hướng,
nhiệm vụ, mục tiêu của Kế hoạch là phát triển thêm một bước, sắp xếp lại cơ cấu và đẩy
mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa nền kinh tế quốc dân nhằm giảm sự mất cân đối nghiêm
trọng của nền kinh tế, đáp ứng những yêu cầu cấp bách và thiết yếu nhất của đời sống nhân
dân.

c) Ý nhĩa của Đại hội:

Đại hội lần thứ V của Đảng là kết quả của việc tập hợp ý kiến của toàn Đảng để đề ra
nhiệm vụ phương hướng nhằm giải quyết những vấn đề gay gắt còn tồn tại. Đại hội đã có
những bước phát triển nhận thức mới so với Đại hội IV, tìm tòi đổi mới trong công cuộc
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là về mặt kinh tế, đánh dấu một bước chuyển biến mới
về sự lãnh đạo của Đảng.

d) Hạn chế của Đại hội:

Đại hội chưa thấy hết sự cần thiết duy trì nền kinh tế nhiều thành phần, chưa xác định
những quan điểm kết hợp kế hoạch với thị trường, về công tác quản lỳ lưu thông, phân
phối; vẫn tiếp tục chủ trương hoàn thành về cơ bản cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam
trong vòng 5 năm; vẫn tiếp tục đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật cho việc phát triển công
nghiệp nặng một cách tràn lan; không dứt khoát dành thêm vốn và vật tư cho phát triển
nông nghiệp và công nghiệp hàng tiêu dùng.

11
1.1.1.3. Quá trình triển khai thực hiện đường lối của Đảng, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam

Thực hiện kế hoạch 5 năm 1976 – 1980 do Đại hội IV đề ra, nhân dân ta đã đạt được
những thành tựu quan trọng trong nhiều lĩnh vực. “Các cơ sở nông nhiệp, công nghiệp, giao
thông vận tải bị tàn phá về cơ bản đã được phục hồi và bước đầu phát triển. Năng lực sản
xuất của các ngành kinh tế được nâng lên. Trong nông nghiệp, nhờ tăng cường biện pháp
khai hoang, thâm canh, tăng vụ, diện tích giao trồng tăng thêm gần 2 triệu hécta. Nông
nghiệp được trang bị thêm 18000 máy kéo các loại, đưa tỉ lệ cơ giới hóa làm đất tăng lên
25% diện tích gieo trồng. Trông công nghiệp, nhiều nhà máy được gấp rút xây dựng như
các nhà máy xi măng, điện, cơ khí động lực, đường, giấy, kéo sợi. Giao thông vận tải được
khôi phục và xây dựng mới 1700 kilômét đường sắt, 3800 kilômét đường bộ, 30000 mét
cầu, 4000 mét bến cảng, bổ sung thêm nhiều phương tiện vận tải. Tuyến đường sắt Thống
nhất từ Hà Nội đi Thành phố Hồ Chí Minh, sau 30 năm bị gián đoạn, đã hoạt động trở lại.
Công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh với tốc độ nhanh trong các vùng mới
giải phóng ở miền Nam. Tầng lớp tư sản mại bản bị xóa bỏ; 1500 xí nghiệp tư bản hạng lớn
và vừa được cải tạo chuyển thành xí nghiệp quốc doanh hoặc công tư hợp doanh. Thủ công
nghiệp và thương nghiệp được sắp xếp và tổ chức lại. Đại bộ phận nông dân miền Nam đi
vào con đường làm ăn tập thể, tham gia những hình thức tổ chức sản xuất phù hợp, như tổ
đoàn kết sản xuất, tập đoàn sản xuất, hợp tác xã sản xuất. Ngành giáo dục mẫu giáo, giáo
dục phổ thông, giáo dục đại học và trung học chuyên nghiệp phát triển mạnh. Tính chung,
số người đi học thuộc các đối tượng trong cả nước năm học 1979 – 1980 là 15 triệu, tăng
hơn năm học 1976 – 1977 là 2 triệu. Đặc biệt, trong những vùng mới giải phóng ở miền
Nam, phong trào bình dân học vụ đã thu hút nhiều người tham gia. Mạng lưới các bệnh
viện, phòng khám chữa bệnh, trạm y tế, nhà hộ sinh, cơ sở điều dưỡng được mở rộng. Các
hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao đã tạo thành phong trào quần chúng trong
các địa phương, xí nghiệp, trường học”1.

1
Bộ giáo dục đào tạo (2009), Lịch sử 12 Nâng Cao, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, tr. 270 – 271.

12
Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội IV, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã tập
trung chủ yếu vào chỉ đạo phát triển nông nghiệp, thủ công nghiệp và phân phối lưu thông.
Hội nghị Trung ương 6 (8/1979) được cho là bước đột phá đầu tiên đổi mới kinh tế của
Đảng với chủ trương là khắc phục những khuyết điểm, sai lầm trong quản lý kinh tế, trong
cải tạo xã hội chủ nghĩa, phá bỏ những rào cản, để cho “sản xuất bung ra”. Theo đó, tháng
10/1979, Hội đồng Chính phủ ra quyết định về việc tận dụng đất đai nông nghiệp để khai
hoang, phục hóa, được miễn thuế, trả thù lao và được sử dụng toàn bộ tài sản phẩm; quyết
định xóa bỏ những trạm kiểm soát để người sản xuất có quyền tự do đưa sản phẩm ra trao
đổi ngoài thị trường.

Bên cạnh những thành tựu, chúng ta gặp không ít những khó khăn, hạn chế trong quá
trình triển khai thực hiện đường lối của Đảng, đặt biệt là trong lĩnh vực kinh tế. Kinh tế -
xã hội. Kinh tế của ta mất cân đối lớn, kinh tế quốc doanh và tập thể trong sản xuất luôn bị
thua lỗ, không phát huy được tác dụng, kinh tế tư nhân và cá thể bị ngăn cấm. Sản xuất phát
triển chậm, thu nhập quốc dân, năng suất lao động thấp, đời sống nhân dân gặp nhiều khó
khăn. Trong xã hội nảy sinh nhiều hiện tượng tiêu cực. “Có tình trạng kinh tế - xã hội như
trên là do nhiều nguyên nhân, một phần do nền kinh tế vốn nghèo nàn lạc hâu, bị chiến
tranh tàn phá nặng nề, mặt khác do chính sách cấm vận của Mĩ làm cản trở quan hệ kinh tế
giữa nước ta với các nước. Nhưng quan trọng hơn là do lãnh đạo của Đản và Nhà nước có
sai lầm trong việc đề ra chủ trương cải tạo, xây dượng kinh tế thể hiện tư tưởng chủ quan
nóng vội trong việc đề ra biện pháp tổ chức và chỉ đạo thực hiện quản lí kinh tế thể hiện tư
tưởng bảo thủ, trì trệ”1.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội V, các hội nghị Trung ương đã cụ thể hóa trên từng
lĩnh vực cụ thể. Hội nghị Trung ương 6 (7/1984) chủ trương tập trung giải quyết một số
vấn đề cấp bách về phân phối lưu thông, đẩy mạnh thu mua nắm nguồn hàng, quản lý chặt
chẽ thị trường tự do; thực hiện điều chỉnh giá cả, tiền lương, tài chính cho phù hợp với thực
tế. Hội nghị Trung ương 7 (12/1984) xác định kế hoạch năm 1985 phải tiếp tục coi mặt trận

1
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, Tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội

13
sản xuất nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, sản xuất lương thực, thực phẩm đặt lên hàng
đầu. Hội nghị Trung ương 8 (6/1985) được xem là bước đột phá thứ hai trong quá trình tìm
tòi, đổi mới kinh tế của Đảng. Tại Hội nghị, Trung ương chủ trương xóa bỏ tập trung quan
liêu hành chính bao cấp, lấy giá – lương – tiền là khâu đột phá để chuyển sang cơ chế hoạch
toán, kinh doanh xã hội chủ nghĩa.

Các chủ trương của Hội nghị Trung ương 8 đã thừa nhận sản xuất hàng hóa và những
quy luật sản xuất hàng hóa trong nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên trong quá trình tổ chức
thực hiện lại mắc những sai lầm như vội vàng đổi tiền; tổng điều chỉnh giá, lương trong
tình hình chưa chuẩn bị mọi mặt làm cho cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội thêm trầm
trọng. Hội nghị Bộ Chính trị khóa V (8/1986) đưa ra kết luận đối với một số vấn đề thuộc
về quan điểm kinh tế. Đây là bước đột phá thứ ba về đổi mới kinh tế, đồng thời cũng là
bước quyết định cho sự ra đời của đường lối đổi mới của Đảng.

Thực hiện kế hoạch 5 năm đề ra trong đại hội, nhân dân ta đã đạt được những tiến bộ
đáng kể. “Trong sản xuất nông nghiệp và công nghiệp, đã chặn được đà giảm sút của những
năm 1976 – 1980. Sản xuất nông nghiệp tăng bình quân hàng năm 4,9% so với 1,9% của
thời kì 1976 -1980. Sản xuất lương thực từ 13,4 triệu tấn (trong thời kì 1976 – 1980) tăng
lên 17 triệu tấn (trong thời kì 1981 – 1985). Sản xuất công nghiệp tăng bình quân hàng năm
là 9,5% so với 0,6% của thời kì 1976 -1980. Thu nhập quốc dân tăng bình quân hàng năm
6,4% so với 0,4% trong 5 năm trước. Về xây dựng cơ sở vật chất – kĩ thuật, trong 5 năm đã
hoàn thành hàng trăm công trình tương đối lớn, hàng nghìn công trình vừa và nhỏ trong đó
có những cơ sở quan trọng về điện, dầu khí, xi măng, cơ khí, giao thống, thủy lợi, dệt ...
Các hoạt động khoa học – kĩ thuật được triển khai, góp phần thúc đẩy sản xuất, nhất là sản
xuất nông nghiệp. Dầu mỏ bắt đầu được khai thác, các công trình thủy điện Hòa Bình, Trị
An được xây dựng, chuẩn bị đứa vào hoạt động. Trong cải tạo quan hệ sản xuất, đại bộ
phận nông dân miền Nam đi vào con đường làm ăn tập thể, nhân dân các dân tộc Tây
Nguyên có nhiều chuyển biến tiến bộ trong xây dựng cuộc sống mới. Cùng với việc áp
dụng những thành tựu về khoa học – kĩ thuật, việc thực hiện rộng rãi phương thức khoán
sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động tuy chưa được hoàn thiện và còn nhiều

14
hạn chế, song đã góp một phần quan trọng tạo nên bước phát triển sản xuất nông nghiệp,
mở ra phương hướng đúng cho việc củng cố quan hệ kinh tế mới ở nông thôn. Chăm lo đời
sống của nhân dân là nhiệm vụ thường xuyên và hết sức khó khăn của Đảng và Nhà nước
ta trong hoàn cảnh nền kinh tế còn yếu kém, thiên tai dồn dập, dân số tăng nhanh. Các
ngành kinh tế quốc dân đã thu hút thêm 4 triệu lao động. Sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế,
thể dục, thể thao, văn học, nghệ thuật phát triển và có những đóng góp nhất định vào việc
xây dựng nền văn hóa mới, con người mới”.1

Kết thúc 5 năm thực hiện Nghị quyết của Đại hội V, những khó khắn về kinh tế - xã
hội, những sai lầm về chính sách, đường lối đã đẩy Việt Nam vào tình thế khó khăn, các
hạn chế ở thời kì trước không được khắc phục mà thậm chí còn có phần trầm trọng thêm.
Mục tiêu Đại hội V đè ra là “Về cơ bản ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định đời sống
nhân dân” vẫn chưa thực hiện được.

Sau quá trình 10 năm thực hiện đường lối của Đảng, xây dựng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam, chúng ta đã đạt được các thành tựu nhất định: Thực hiện thắng lợi chủ trương thống
nhất nước nhà về mặt nhà nước, đạt được những thành tựu quan trọng trong xây dựng chủ
nghĩa xã hội; giành thắng lợi trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế.
Những thành tựu trên đã tạo cho cách mạng nước ta những nhân tố mới để tiếp tục tiến lên.
Tuy nhiên, vẫn còn những khuyết điểm, trong đó là việc không hoàn thành các mục tiêu
kinh tế - xã hội do Đại hội IV và Đại hội V của Đảng đặt ra.

1.1.2. Tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội và yêu cầu đổi mới

1.1.2.1. Tình hình Việt Nam sau 10 năm thực hiện xây dựng xã hội chủ nghĩa

Sau 10 năm thực hiện xây dựng xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đất nước lúc này lại lâm
vào khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài; sản xuất tăng chậm và không ổn định; nền kinh
tế luôn trong tình trạng thiếu hụt, không có tích lũy. “Tổng sản phẩm trong nước bình quân
mỗi năm trong giai đoạn 1977-1985 tăng 4,65%, trong đó: nông, lâm nghiệp tăng

1
Bộ giáo dục đào tạo (2009), Lịch sử 12 Nâng Cao, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, tr. 272 – 273.

15
4,49%/năm, công nghiệp tăng 5,54%/năm và xây dựng tăng 2,18%/năm. Theo loại hình sở
hữu, sở hữu quốc doanh tăng 4,29%; sở hữu tập thể tăng 10,26% và sở hữu tư nhân, cá thể
tăng 0,71%. Nhìn chung, tăng trưởng kinh tế trong thời kỳ này thấp và kém hiệu quả. Nông,
lâm nghiệp là ngành kinh tế quan trọng (chiếm 38,92% GDP trong giai đoạn này), nhưng
chủ yếu dựa vào độc canh trồng lúa nước. Công nghiệp được dồn lực đầu tư nên có mức
tăng khá hơn nông nghiệp, nhưng tỷ trọng trong toàn nền kinh tế còn thấp (chiếm 39,74%
GDP), chưa là động lực để thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng. Kinh tế tăng trưởng chậm làm
mất cân đối cung – cầu (thiếu hụt nguồn cung), đồng thời do bị tác động bởi việc cải cách
tiền lương vào năm 1985, là những nguyên nhân dẫn đến chỉ số giá bán lẻ tăng rất cao, bình
quân giai đoạn 1976-1985 chỉ số giá bán lẻ tăng 39,53%/năm; lương thực, thực phẩm, hàng
tiêu dùng đều vô cùng khan hiếm; tình trạng lạm phát tăng cao và kéo dài, cụ thể lạm phát
tăng từ 300% năm 1985 lên hơn 774% năm 1986. Ở miền Bắc, mặc dù thu nhập bình quân
đầu người một tháng của gia đình công nhân viên chức tăng từ 27,9 đồng năm 1976 lên đến
270 đồng năm 1984; thu nhập bình quân đầu người một tháng của gia đình xã viên hợp tác
xã nông nghiệp tăng từ 18,7 đồng lên đến 505,7 đồng, nhưng do lạm phát cao, nên đời sống
nhân dân hết sức khó khăn, thiếu thốn. Cùng với đó là tình hình bao vây, cấm vận, cô lập
của các nước phương Tây, khiến cho đời sống nhân dân hết sức khó khăn, lòng tin đối với
Đảng, Nhà nước, chế độ giảm sút nghiêm trọng. Các hiện tượng tiêu cực, vi phạm pháp
luật, vượt biên trái phép diễn ra khá phổ biến”1.

Nguyên nhân khách quan dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã hội là do chúng ta xây
dựng đất nước từ kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, sản xuất nhỏ lẻ là phổ biến, bị bao vây, cấm
vận nhiều năm, nguồn viện trợ từ nước ngoài giảm mạnh; hậu quả nặng nề của 30 năm
chiến tranh chưa kịp khắc phục thì đã nổ ra cuộc chiến tranh biên giới nên ưu tiên bảo vệ
Tổ quốc phải đặt lên hàng đầu, nảy sinh ra nhiều khó khăn mới ở mặt phát triển đất nước.
Về mặt chủ quan là do những sai lầm của Đảng trong đánh giá tình hình, xác định mục tiêu,

1
TS. Nguyễn Thị Hương (02/09/2020), Những dấu ấn quan trọng về kinh tế - xã hội trong hành trình 75 năm
thành lập và phát triển đất nước qua số liệu thống kê. Truy cập từ: https://kinhtevadubao.vn/nhung-dau-
an-quan-trong-ve-kt-xh-trong-hanh-trinh-75-nam-thanh-lap-va-phat-trien-dat-nuoc-qua-so-lieu-thong-ke-
15850.html

16
bước đi, sai lầm trong bố trí cơ cấu kinh tế; sai lầm trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, trong
lĩnh vực phân phối và lưu thông; duy trì cơ chế kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp; buông
lỏng chuyên chính vô sản trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội và trong đấu tranh chống
âm mưu, thủ đoạn phá hoại nhiều mặt của địch.

1.1.2.2. Yêu cầu đổi mới

Sau quá trình 5 năm 1976 – 1980, quân dân cả nước đã đạt được một số thành tựu
chung như thống nhất đất nước, bảo vệ độc lập, khắc phục một phần hậu quả hậu chiến
tranh, xóa bỏ quyền chiếm hữu ruộng đất của đế quốc, phong kiến ở miền Nam, ở miền Bắc
đã có sự cải tiến, đưa nông nghiệp từng bước lên sản xuất lớn. Tuy nhiên, vẫn có rất nhiều
hạn chế, chưa đạt được các chỉ tiêu do Đại hội IV đề ra: lưu thông, phân phối rối ren, giá
cả tăng vọt, nhập khẩu tăng gấp 4 – 5 lần xuất khẩu. Đời sống nhân dân, cán bộ, công nhân
viên, lực lượng vũ trang rất khó khăn. Từ cuối năm 1979, ở một số địa phương miền Bắc
xuất hiện hiện tượng “xé rào”, “khoán chui”. Ở miền Nam, việc thí điểm hợp tác xã diễn ra
phức tạp, lúng túng ...

Trước tình hình kinh tế - xã hội khó khăn, yêu cầu đổi mới đã xuất hiện trong suốt
quá trình thực hiện xây dựng xã hội chủ nghĩa trên phạm vị toàn quốc, tuy nhiên những
bước đổi mới vẫn chưa được toàn diện, chưa triệt để; cụ thể ở các chính sách:

“Trước hiện tượng “khoán chui” trong hợp tác xã nông nghệp ở một số địa phương.
Ban Bí thư đã ban hành chỉ thị về khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong các
hợp tác xã nông nghiệp (gọi là Khoán 100). Theo Chỉ thị, mỗi xã viên được nhận mức
khoán theo diện tích và tự mình làm các khâu cấy, chăm sóc và thu hoạch, những khâu khác
do hợp tác xã đảm nhiệm. Thu hoạch vượt mức khoán sẽ được hưởng và tự do mua bán.
Chủ trương được nông dân cả nước ủng hộ, nhanh chóng thành phong trào quần chúng sâu
rộng. Sản lượng bình quân từ 13,4 triệu tấn/năm thời kỳ 1976 – 1980 tăng lên 17 triệu
tấn/năm thời kỳ 1981 – 1985; hiện tượng tiêu cực, lãng phí trong sản xuất nông nghiệp
giảm đáng kể.

17
Trong lĩnh vực công nghiệp, trước hiện tượng “xé rào” bù giá vào lương ở Thành phố
Hồ Chí Minh và tỉnh Long An, Chính phủ ban hành Quyết định số 25/CP (1/1981) về quyền
chủ động sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ về tài chính của các xí nghiệp quốc doanh
và Quyết định số 26/CP về việc mở rộng hình thức trả lương khoán, lương sản phẩm và vận
dụng hình thức tiền thưởng trong các đơn vị sản xuất kinh doanh của Nhà nước. Những chủ
trương đã tạo động lực, góp phần thúc đẩy sản xuất công nghiệp đạt kế hoạch, riêng công
nghiệp đại phương vượt kế hoạch 7,5%”.1

Đây là căn cứ thực tế cho thấy như cầu đổi mới ở nước ta, từ đó Đảng đã đi đến quyết
định thay đổi mới toàn diện.

1.2. Những biến đổi của tình hình thế giới

1.2.1. Sự thay đổi của trật tự thế giới Ianta và quan hệ quốc tế sau “chiến tranh lạnh”
và ảnh hưởng đến tình hình Việt Nam

Trong chiến tranh lạnh việc 2 siêu cường quốc đối địch với nhau khiến tình hình thế
giới thay đổi không ít, châu Á khó tránh khỏi được điều này, trong đó có Việt Nam. Cuộc
chiến tranh ở Việt nam phản ánh rất rõ sự đối đầu của 2 phe Tư bản chủ nghĩa và Xã hội
chủ nghĩa. Nhờ sự ủng hộ rất lớn của Liên Xô cũng như các nước Xã hội chủ nghĩa, Việt
Nam đã đi đến thắng lợi, đẩy lùi được cuộc xâm lược của Mỹ.

Năm 1985, nền kinh tế Liên Xô đang ở trong tình trạng trì trệ và phải đối mặt với sự
giảm sút mạnh nguồn thu nhập ngoại tệ từ nước ngoài vì sự sụt giá dầu mỏ trong thập niên
1980, cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp ở các nước xã hội chủ nghĩa bắt đầu bộc
lộ sự lạc hậu, làn sóng cải cách trong xây dựng xã hội chủ nghĩa đã nổ ra ở Liên Xô và các
nước xã hội chủ nghĩa càng khiến nhu cầu đổi mới trở thành một đòi hỏi bức thiết của Việt
Nam. Sự khủng hoảng kinh tế của Liên Xô cũng ảnh hưởng trục tiếp đến nguồn viện trợ
cho Việt Nam khiến tình hình càng khó khăn.

1
Bộ Giáo dục và đào tạo (2021), Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (Dành cho bậc đại học hệ không
chuyên lý luận chính trị), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr. 247 - 248

18
Chiến tranh lạnh kết thúc, trật tự hai cực Ianta giải thể với sự sụp đổ của chủ nghĩa xã
hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu. So sánh lực lượng trên bình diện toàn cầu từ chỗ cân
bằng giữa hai hệ thống chính trị - xã hội đối lập nay chuyển sang trạng thái mất cân bằng
theo hướng có lợi cho Mĩ và phương Tây. Tuy nhiên, tình hình quốc tế đã không phát triển
một cách hoà bình, ổn định mà liên tục xảy ra các cuộc chiến tranh cục bộ. Sự đối đầu Đông
- Tây về hệ tư tưởng, chính trị, quân sự, kinh tế... đã từng chi phối đời sống quốc tế trong
suốt thời kì chiến tranh lạnh, nay được chuyển hoá dưới những hình thức khác, bên cạnh
sự nổi lên của những mâu thuẫn mới. Sự vận động của các mâu thuẫn này sẽ quyết định
diện mạo của trật tự thế giới và xu hướng phát triển của quan hệ quốc tế sau chiến tranh
lạnh. Liên Xô tan rã nhưng Liên bang Nga vẫn tiếp tục tồn tại với tiềm lực quân sự kế thừa
Liên Xô cũ và không phải là một cường quốc bại trận để chấp nhận một trật tự thế giới do
Mĩ áp đặt.

Trật tự Ianta sụp đổ, phạm vi ảnh hưởng của các nước xã hội chủ nghĩa ở châu Âu và
châu Á dần thu hẹp, trật tự thế giới hai cực sụp đổ, hình thành xu hướng “đa cực”, xu thế
đối thoại trên thế giới dần thay thế xu thế đối đầu. Từ đây, đổi mới là vấn đề cấp bách hàng
đầu, có ý nghĩa sống còn đối với chủ nghĩa xã hội ở nước ta, đồng thời là vấn đề phù hợp
với xu thế chung của thời đại.

1.2.2. Toàn cầu hóa kinh tế và nhu cầu hội nhập với thế giới của Việt Nam

Toàn cầu hóa kinh tế là một trong những mục tiêu của công cuộc đổi mới ở Việt Nam.
Chính sự tụt lại về khoa học, công nghệ sau 2 cuộc chiến lớn đã đặt ra cho Việt Nam yêu
cầu phải thực hiện toàn cầu hóa và hội nhập với thế giới để tiếp thu học hỏi các thành tựu
của thế giới.

Trong bối cảnh quốc tế có nhiều thay đổi sâu sắc và cục diện, trật tự thế giới mới hình
thành, các nước có chế độ chính trị khác nhau vừa đấu tranh vừa hợp tác với nhau, việc
tham gia hợp tác cùng các nước, chủ động hội nhập càng thêm cần thiết hơn hết để phát
triển nền kinh tế cũng như nền khoa học kĩ thuật để tích lũy và thực hiện con đường tiến
lên xã hội chủ nghĩa là vô cùng cần thiết.

19
Tóm tắt chương 1
Sau 10 năm vượt qua những khó khăn và thử thách, Đảng ta đã đạt được nhiều thành
tựu, nhờ sức phấn đấu của nhân dân và Đảng, đồng thời nhờ sự giúp đỡ và hợp tác lớn của
Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa. Thực tế chứng minh đường lối cách mạng xã hội
chủ nghĩa do Đại hội IV và Đại hội V của Đảng đề ra là đúng đắn, nhưng trong quá trình
thực hiện gặp những khó khăn vì nhiều lí do khách quan và chủ quan khác nhau, nên dẫn
đến những hạn chế, chính sách cũng như thực hiện sai lầm, thiếu hiệu quả dẫn đến tình
trạng khủng hoảng kinh tế trầm trọng.

Qua những thành tựu, hạn chế của hai kì Đại hội, cùng với những bước “phá kén” đổi
mới ở thực tiễn tại các địa phương, những biến chuyển của thế giới, Đảng ta đã nhận định
con đường phát triển tiếp theo của Việt Nam là phải đổi mới toàn diện, tiếp tục con đường
tiến lên xã hội chủ nghĩa, vận dụng, phát triển một cách sáng tạo, có tính kế thừa chủ nghĩa
Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào tình hình Việt Nam và xu thế thế giới để đạt
được những kết quả tốt đẹp.

20
Chương 2. SỰ HÌNH THÀNH VÀ ĐỔI MỚI ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG
2.1. Sự hình thành và xây dựng đường lối đổi mới của Đảng
2.1.1. Sự hình thành đường lối đổi mới:
Như tất cả chúng ta đều biết, từ cuối những năm 1970 và giữa những năm 1980, Việt
Nam đã tiến hành cải cách mở cửa, thực hiện các chính sách quan trọng trên tất cả các lĩnh
vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng và các lĩnh vực khác. Tuy nhiên, sự nóng
vội, chủ quan, duy ý chí, giáo điều, chưa nắm vững hoàn cảnh, đặc điểm thực tiễn đất nước,
chưa nhận thức rõ quy luật khách quan mà muốn có ngay nền kinh tế Xã hội Chủ nghĩa
thuần nhất đã đưa lực lượng sản xuất phát triển chậm hơn quan hệ sản xuất, “kéo” lực lượng
sản xuất phát triển theo. Hệ quả là kết quả thu được ngược lại với mong muốn, làm đẩy
nhanh việc thực hiện cuộc cải tạo công thương nghiệp tư bản doanh và tập thể hóa nông
nghiệp ở miền Nam một cách ồ ạt, vội vã ngay sau ngày giải phóng.

Mô hình, cơ cấu kinh tế và xã hội không phù hợp được đặt trên nền sản xuất xã hội
nghèo nàn, lạc hậu và bị chiến tranh tàn phá nặng nề đã dẫn Việt Nam đến cuộc khủng
hoảng kinh tế - xã hội sâu sắc từ năm 1979. “Cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp
từ nhiều năm nay không tạo được động lực phát triển, làm suy yếu kinh tế xã hội chủ nghĩa,
hạn chế việc sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế khác, kìm hãm sản xuất, làm giảm
năng suất, chất lượng hiệu quả, gây rối loạn trong phân phối lưu thông, và đẻ ra nhiều hiện
tượng tiêu cực trong xã hội”1, “Lạm phát luôn luôn tăng,…luôn tăng ở mức hai con
số…năm sau lại tăng nhanh hơn năm trước: năm 1978 tăng 10,0%, năm 1979 tăng 19,4%,
năm 1980 tăng 25,2%”2

Cuộc khủng hoảng này đặt Đảng Cộng sản Việt Nam trước nhiệm vụ lịch sử khó
khăn và thử thách: Phải tạo được bước ngoặt sửa sai cơ bản từ đường lối chính sách, trước
hết trên lĩnh vực kinh tế và cả tổng thể đường lối để đứng vững và phát triển. “Chỉ có đổi

1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 47, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006

2
Trần Văn Thọ, 2000, Kinh tế Việt Nam 1955-2000: Tính toán mới, phan tích mới, Nxb Thống kê, Hà Nội

21
mới cách nghĩ, cách làm, đổi mới tư duy….chúng ta mới có khả năng thoát khỏi tính hình
khó khan gay gắt hiện nay”1.

2.1.1.1 Một số chủ trương, chính sách mới của Đảng nửa sau những năm 70 và nửa
đầu những năm 80

Trong bối cảnh thế giới diễn ra nhiều cuộc cải tổ, cải cách ở Liên Xô, ở các nước
Đông Âu và ở Trung Quốc vẫn còn đang tiếp tục. Những bất ổn của mô hình chủ nghĩa xã
hội đã xây dựng, những biểu hiện trì trệ, khủng hoảng báo hiệu nguy cơ sụp đổ đang hiện
hữu rất gần ở tất cả những nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa buộc công cuộc Đổi mới
ở Việt Nam diễn ra như một tất yếu, từ cả hai chiều: từ “dưới” lên và từ "trên" xuống.

Nghị quyết Trung ương 6 khóa IV (8/1979) là bước đột phá đầu tiên. Với chủ trương
"làm cho sản xuất bung ra" mở đầu quá trình đổi mới của Đảng, hội nghị đã thông qua 2
nghị quyết quan trọng là. Nghị quyết về "Tình hình và nhiệm vụ cấp bách" và Nghị quyết
về “Phương hướng, nhiệm vụ phát triển công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp địa
phương”. Trên cơ sở nhận thức rõ nhu cầu cấp bách của đời sống nhân dân, “hội nghị đã
tập trung vào những biện pháp nhằm khắc phục những yếu kém trong quản lý kinh tế và
cải tạo xã hội chủ nghĩa; điều chỉnh những chủ trương, chính sách kinh tế, phá bỏ rào cản,
mở đường cho sản xuất phát triển: ổn định nghĩa vụ lương thực trong 5 năm, phần dôi ra
được bán cho Nhà nước hoặc lưu thông tự do; khuyến khích mọi người tận dụng ao hồ,
ruộng đất hoang hoá; đẩy mạnh chăn nuôi gia súc dưới mọi hình thức (quốc doanh, tập thể,
gia đình); sửa lại thuế lương thực, giá lương thực để khuyến khích sản xuất; sửa lại chế độ
phân phối trong nội bộ hợp tác xã nông nghiệp, bỏ lối phân phối theo định suất, định lượng
để khuyến khích tính tích cực của người lao động,...”2

Sau khi triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 6, Đảng ta tiếp tục có những đổi
mối quan trọng nhằm khác phục khó khăn, vực nền kinh tế đi lên. Chỉ thị 100 -CT/TW (hay

1
Trường Chinh tiểu sử, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2007
2
TS. Lê Minh Nghĩa, Đổi mới tư duy kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Hội đồng lí luận trung ương, 17/12/2018
22
còn gọi là khoản 100) là một điển hình quyết tâm của Đảng. Ngày 13-1-1981, Ban Bí thư
ban hành chỉ thị cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm và người lao
động trong hợp tác xã nông nghiệp đã ra đời, làm cho người lao động thực sự gắn bó với
sản phẩm cuối cùng, do đó mà đem hết nhiệt tình lao động và khả năng ra sản xuất, đã bước
đầu tạo ra một động lực mới trong sản xuất nông nghiệp. Nội dung cơ bản của chỉ thị này
là “tự nguyện, cùng có lợi, quản lý dân chủ” vạch ra những nguyên tắc và chế định mới
trong việc cải tiến mạnh mẽ các hình thức khoán đối với xã viên trong các hợp tác xã nông
nghiệp, các đội, tổ đối cộng…."Khuyến khích hơn nữa lợi ích chính đáng của người lao
động và làm cho mọi người tham gia các khẩu trong quá trình sản xuất và quản lý của hợp
tác xã gắn bỏ với sản phẩm cuối cùng, do đó mà đưa hết nhiệt tình và khả năng ra lao động
sản xuất và xây dựng, củng cố hợp tác xã”1

Thực tế, để tìm lối thoát cho nền sản xuất đã và đang bị cơ chế cũ trói buộc, ở một
số địa phương đã tìm cách “xé rào”, lách qua những khe hở của thể chế hiện hành để hoạt
động kinh tế có hiệu quả hơn. Đó là phong trào “xé rào" của nhiều xí nghiệp quốc doanh ở
Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh trong những năm 1978 – 1990, không mua giá lúa theo
quy định nhà nước mà mua theo giá thị trường và bán theo giá thị trường. Đó là kiến nghị
của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam về vay vốn nước ngoài để tổ chức sản xuất trong
nước năm 1971.. Ở Long An, chính quyền cho người dân khai hoang tứ giác Long Xuyên,
giao đất cho hộ nông dân, trả lại máy móc nông nghiệp cho chủ cũ đã gia nhập tập đoàn
sản xuất để họ cày cấy….. Ngày 21/1/1981, Chính phủ ban hành Quyết định 25-CP “về một
số chủ trương và biện pháp nhằm tiếp tục phát huy quyền chủ động sản xuất- kinh doanh
và quyền tự chủ về tài chính của các xí nghiệp quốc doanh”. Cùng ngày Chính phủ ban
hành quyết định 26-CP “về việc mở rộng hình thức trả lương khoán, lương sản phẩm và
vận dụng hình thức tiền thưởng trong các đơn vị sản xuất, kinh doanh của nhà nước” sau
khi đã nghiên cứu và tổng kết những thí điểm, mô hình thực tiễn trên.

1
Chỉ thị “ Cải tiến công tác khoán, mở rộng “khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động”
trong hợp tác xã nông nghiệp”, Đảng Cộng sản Việt Nam, 1981
23
Xét về mặt cơ chế quản lý kinh tế, 5 nguyên tắc khoán 100 đã phá vỡ cơ chế tập trung
quan liêu trong sản xuất nông nghiệp, nhất là sử dụng có hiệu quả tư liệu sản xuất, ruộng
đất; quản lý, điều hành tốt lao động làm cho mọi người gắn bó với kết quả cuối cùng; thực
hiện phân phối sản phẩm, phân phối theo lao động, bảo đảm hài hòa lợi ích nhà nước - tập
thể - người lao động; hợp tác xã thực hiện nguyên tắc "tự nguyện, cùng có lợi, quản lý dân
chủ".

Điều quan trọng hơn cả là khi Chỉ thị 100 ban hành, nông nghiệp như được "cởi trói",
bước đầu khơi dậy tinh thần làm chủ, phấn khởi của người lao động, tạo động lực thúc đẩy
nông nghiệp phát triển và các địa phương, các cấp và nhân dân nhiệt liệt tán thành. Nhìn
chung, năng suất lúa sau khi thực hiện khoán sản phẩm ở các hợp tác xã đều tăng lên, nơi
tăng ít khoảng 4-5%, tăng vừa từ 15-20%, cá biệt có nơi tăng 50%.1

Tháng 9-1980, Ban Chấp hành Trung ương Đảng chỉ đạo thảo luận Hiến pháp mới
của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và quyết định những công việc bảo đảm thi
hành chính Hiển thị sau khi được Quốc hội thông qua.

Sau 5 năm 1975-1981, quân đội cả nước đã được thành tựu về mặt nước nhà, chiến
thắng trong hai cuộc chiến tranh biên giới và dã chiến phục hồi một phần hậu quả chiến
tranh và thiên tài liên tiếp ra. Ở miền Bắc, bước đầu có sự cải tiến của các nông nghiệp
từng bước lên sản xuất lớn với các chuyên gia, nhà làm việc. Tuy nhiên, kết quả nhìn chung
không biến đổi chi tiêu do Đại hội IV ra: lưu thông tin, phân phối rối ren, giá cả tăng vọt,
nhập khẩu tăng gấp 4-5 lần xuất khẩu. Đời sống của nhân dân, bộ quản lý, công nhân viên,
lực lượng vũ trang rất khó khăn. Từ cuối năm 1979, ở một số miền bắc miền Bắc xuất hiện
"xé rào", "khoán chui". Ở miền Nam, công việc hợp tác xã diễn ra phức tạp, lúng túng,…

Những khó khăn trên có nguồn gốc sâu xa từ nền kinh tế thấp, thiên tai nặng nề liên
tục, chiến tranh biên giới và chính sách vận chuyển, bao vây, cô lập của Mỹ và các thể lực
thù địch. Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã tự phê bình về những điểm khuyết thiếu và
sai sót trước Đại hội V của Đảng.

1
Chỉ thị 100 và vai trò lịch sử của Ban kinh tế Trung ương, 24/09/2020

24
Đại hội Đảng thứ V họp từ ngày 27 đến ngày 31-3-1982 trong bối cảnh tình hình thế
giới và trong nước có một số mặt thuận lợi, nhưng nhiều khó khăn, thách thức mới. Đại hội
kiểm điểm, đánh giá thành tựu, khuyết điểm sai lầm của Đảng, phân tích nguyên nhân thắng
lợi và khó khăn của đất nước, các biến động của tình hình thế giới; khẳng định tiếp tục thực
hiện đường lối chung và đường lối kinh tế do Đại hội lần thứ IV đề ra. Ngoài thông qua
những nhiệm vụ kinh tế, văn hoá xã hội, tăng cường Nhà nước xã hội chủ nghĩa, chính sách
đối ngoại, xây dựng Đảng…

Sau Đại hội V, Trung ương Đảng có nhiều Hội nghị cụ thể hoá, thực hiện Nghị quyết
Đại hội. Nổi bật là Hội nghị Trung ương 6 (7-1984) chủ trương tập trung giải quyết một số
vấn đề cấp bách về phân phối lưu thông với hai loại công việc cần làm ngày: Một là, phải
đẩy mạnh thu mua nắm nguồn hàng, quản lý chặt chẽ thị trường tự do; Hai là, thực hiện
điều chỉnh giá cả, tiền lương, tài chính cho phù hợp với thực tế.

Kết thúc 10 năm 1975-1986, Đảng đã hoàn tất 3 thành công nối bật: Thực hiện thắng
lợi hệ thống nhà nước nhất về mặt Nhà nước; đạt được những điều quan trọng trong xây
dựng chủ nghĩa xã hội; giành thắng lợi to lớn trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và quốc tế
nghĩa vụ. Những thành công trên đã được tạo ra cho cách mang nước chúng ta những mới
nhân tố để tiếp tục tiến lên. Sai sót, tẩy trắng nổi bật là không hoàn thành các tiểu mục kinh
tế - xã hội do Đại hội IV và Đại hội V của Đảng đề ra. Đất nước lâm vào khủng hoảng kinh
tế - xã hội kéo dài; sản xuất chậm và không ổn định; nên kinh tế luôn trong trạng thái thiếu
hụt, không có tích lũy; lạm phát tăng cao và kéo dài. Đất nước bị bao vây, cô lập, chuyển
nhân dân hết sức khó khăn, lòng tin đối với Đảng, Nhà nước, chế độ giảm sút nghiêm trọng.

Các bước đột phá tháng 8 -1979, tháng 6-1985 và tháng 8-1986 phản ánh sự phát
triển nhận thức từ quá tình khảo nghiệm, tổng kết thực tiễn, từ sáng kiến và nguyện vọng
lợi ích của nhân dân để hình thành đường lối mới.

Nhìn chung những đổi mới trong chỉ thị 100 của Ban bí thư và Quyết định 25, 26
của Chính phủ là những đổi mới từng phần, tuy chưa đồng bộ nhưng đã mang lại kết quả
tích cực trong sản xuất, tạo ra nhưng điều kiện để hình thành đường lối đổi mới để đến Đại
hội VI Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới một cách toàn diện.

25
2.1.1.2 Đường lối đổi mới toàn diện đất nước của Đại hội VI (12-1986)
Từ ngày 15 đến ngày 18-12-1986, tại Hà Nội, Đại hội VI của Đảng diễn ra trong bối
cảnh cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật đang phát triển mạnh, xu thế đối thoại trên thế
giới đang dần thay đổi. Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa đều tiến hành cải tổ sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Việt Nam đang bị các đế quốc và thế lực thù địch bao vây, cấm
vận và ở tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội. Các hiện tượng tiêu cực, vi phạm pháp
luật đều diễn ra khá phổ biến. “Đối với nước ta, đổi mới đang là yêu cầu bức thiết của sự
nghiệp cách mạng, là vấn đề có ý nghĩa sống còn" 1.

a) Đổi mới trên nhận thức thực tiễn và tư duy chính trị.
Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, Đại hội đã đánh giá đúng và nói rõ sự thật, đi
sâu phân tích những tồn tại và những sai lầm, nghiêm túc kiểm điểm, nghiêm khắc tự phê
bình những sai lầm, khuyết điểm trong chỉ đạo của Đảng trong 10 năm (1975 – 1986). Đó
là những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo
chiến lược và tổ chức thực hiện. Khuynh hướng tư tưởng chủ yếu của những sai lầm, khuyết
điểm, tư tưởng tiểu tư sản, vừa “tả” khuynh vừa hữu khuynh. Nguyên nhân bắt nguồn từ
khuyết điểm trong hoạt động tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ của Đảng. “Những sai
lầm và khuyết điểm trong công tác lãnh đạo của Đảng trước hết thuộc về trách nhiệm của
Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Hội đồng Bộ trưởng. Cần nhấn mạnh
rằng, việc chậm bố trí đúng sự chuyển tiếp hạt nhân lãnh đạo là một nguyên nhân trực tiếp
làm cho sự lãnh đạo của Đảng trong những năm gần đây không đáp ứng những đòi hỏi của
tình hình mới. Ban Chấp hành Trung ương xin tự phê bình nghiêm túc về những khuyết
điểm của mình trước Đại hội”2. Đại hội rút ra bốn bài học quý báu:

Một là, trong toàn bộ hoạt động của mình, đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân
làm gốc”.

1
Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội.

2
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa V (15/12/1986), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội

26
Hai là, Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy
luật khách quan.

Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới.

Bốn là, chăm lo xây dựng Đảng ngang tầm với một đảng cầm quyền lãnh đạo nhân
dân tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Đại hội khẳng định, chính sách xã hội bao trùm mọi mặt của cuộc sống con người,
cần có chính sách cơ bản, lâu dài, xác định được những nhiệm vụ, phù hợp với yêu cầu,
khả năng trong chặng đường đầu tiên. Bốn nhóm chính sách xã hội là: Kế hoạch hoá dân
sớm giải quyết việc làm cho người lao động. Thực hiện công bằng xã hội, bảo đảm an toàn,
khôi phục trật tự, kỷ cương trong lĩnh vực xã hội. Chăm lo đáp ứng các nhu cầu giáo dục,
văn hoá, bảo vệ và tăng cường sức khoẻ của nhân dân. Xây dựng chính sách bảo trợ xã hội.

b) Đổi mới về cơ cấu và quản lí kinh tế:

Những đổi mới về tư duy chính trị của Đảng đóng vai trò là màn dạo đầu cho đổi
mới tư duy kinh tế. Đại hội Đảng lần thứ VI đánh giá mô hình kinh tế được áp dụng ở nước
ta trong nhiều năm qua thực chất là mô hình kinh tế hiện vật, phi sản xuất hàng hóa và phi
kinh tế thị trường. Cần đánh dấu một bước ngoặc mới, mở ra một thời kỳ mới cho đất nước
phát triển, trong Đại hội VI của Đảng đã xác định rõ quan điểm coi phát triển kinh tế là
nhiệm vụ trọng tâm, gắn đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị.

Về cơ cấu kinh tế, đẩy mạnh phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, cho phép
và khuyến khích kinh tế tư nhân, cá thể phát triển trong những ngành nghề, lĩnh vực nhất
định. Coi trọng những hình thức kinh tế trung gian, quá độ từ thấp lên cao, từ quy mô nhỏ
lên quy mô lớn, điều chỉnh cơ cấu kinh tế ngành, “đi đôi với việc phát triển kinh tế quốc
doanh, kinh tế tập thể, tăng cường nguồn tích lũy tập trung của nhà nước và tranh thủ vốn
nước ngoài, cần có chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế khác”1.
Thừa nhận sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế nhằm phát huy tiềm năng và giải phóng

1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 47, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội

27
lực lượng sản xuất. Nhưng trong quan điểm của Đảng vẫn còn phân biệt đối với thành phần
kinh tế phi nhà nước, vẫn e ngại những mặt “tiêu cực” của các thành phần kinh tế này.
“Thừa nhận sự tồn tại của kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa và kinh tế tư bản tư nhân, thì đương
nhiên cũng phải thường xuyên đấu tranh với xu hướng tự phát tư bản chủ nghĩa và những
mặt tiêu cực trong hoạt động kinh tế của các thành phần đó. Nhà nước dùng pháp luật và
chính sách, dựa vào sức mạnh của kinh tế xã hội chủ nghĩa để kiểm soát và chi phối các
thành phần kinh tế đó theo phương châm “sử dụng để cải tạo, cải tạo để để sử dụng tốt
hơn””1.

Về cơ chế quản lý kinh tế, Đảng chỉ rõ việc bố trí lại cơ cấu kinh tế phải đi đôi với
đổi mới cơ chế quản lý kinh tế theo hướng kiên quyết xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu,
bao cấp. Cơ chế mới được xây dựng phù hợp với quy luật khách quan và trình độ phát triển
của nền kinh tế, thiết lập và hình thành đồng bộ cơ chế kế hoạch hóa theo phương thức hạch
toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, lấy kế hoạch hóa làm
trung tâm, sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hóa - tiền tệ. Điều kiện của Việt Nam lúc ấy rất
khó khăn, đời sống nhân dân cực khổ, mọi hàng hóa tiêu dùng đều thiếu thốn. Chính vì vậy,
ưu tiên hàng đầu của Đảng và Nhà nước là “mở rộng giao lưu hàng hóa, bãi bỏ việc ngăn
sông, cấm chợ, chia cắt thị trường, để tăng nhanh khối lượng hàng hóa lưu thông”2.

Nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa khi đưa ra quan
điểm phát triển nền kinh tế hàng hóa có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên chủ nghĩa
xã hội, coi chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính chất
quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội trong Hội nghị Ban chấp hành trung ương
lần thứ 6 (khóa VI) (tháng 3/1989) đã đánh dấu bước phát triển vượt bậc về mặt tư duy của
Đảng so với Đại hội VI. Các khái niệm, phạm trù của kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường
như: cung - cầu, thị trường, giá cả, ... bắt đầu được phổ biến rộng rãi. Đặc biệt, tại hội nghị
này, đã khẳng định: Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, thị trường xã hội là một

1
Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội.

2
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 47, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội

28
thể thống nhất, thông suốt trong cả nước và gắn với thị trường thế giới với nhiều lực lượng
khác nhau tham gia lưu thông hàng hoá. Đồng thời, nhấn mạnh “Thị trường tác động đến
quá trình tái sản xuất chủ yếu thông qua giá cả. Trong quan hệ hợp tác và cạnh tranh, người
sản xuất, người lưu thông và người tiêu dùng chủ động mua bán, thỏa thuận với nhau về
giá, hình thành nên giá thị trường... Tỷ giá giữa đồng Việt Nam và ngoại tệ phải phù hợp
với giá thị trường trong nước và giá thị trường quốc tế”1. Từ đó, cơ chế hai giá bị xóa bỏ,
thay vào đó là cơ chế một giá thống nhất trên toàn quốc, kể cả giá của một số mặt hàng do
Nhà nước cần kiểm soát (xăng dầu, điện, nước, cước phí giao thông...) cũng căn cứ theo thị
trường, không được ấn định chủ quan, tùy tiện. Từ tháng 3 - 1989, Nhà nước quyết định
chuyển toàn bộ lương thực và 80% vật tư sang kinh doanh.

Đường lối đổi mới tư duy kinh tế của Đảng đã được đề ra từ Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VI với nội dung cụ thể: cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hóa tập trung bị xóa
bỏ, thay vào đó là cơ chế hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, với một nền kinh tế nhiều
thành phần, có sự quản lý của nhà nước. Đây là một bước tiến dài trong nhận thức của Đảng
về đường lối xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thể hiện sự vận
dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của nước
ta. Thành công trong kế hoạch 5 năm (1986 – 1990) thật ra không đơn thuần là phục hồi
được sản xuất, tăng trưởng kinh tế, kiểm chế đẩy lùi lạm phúc mà quan trọng hơn là dã
chuyển đổi cơ bản cơ chế quản lý cũ sang cơ chế quản lý mới, thực hiện một bước quá trình
dân chủ hóa dời sống kinh tế xã hồi và giải phóng sức sản xuất. Là sự chuẩn bị trước cho
những năm 1990 - 1991, nguồn viện trợ quốc tế đột ngột bị cắt giảm, thị trường xuất nhập
khẩu truyền thống bị lỡng hụt nhưng vì cơ hầu nền kinh tế nước là đã được chuyển đổi, cơ
chế quản lý mới đã được xác lập và hat đầu phát huy tác dụng tích cực nên tuy nền kinh tế
có bị chao đảo nhất định nhưng không bị xáo trận lớn.

c) Đổi mới về chính sách đối ngoại:

1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 49, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội

29
Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam là cột mốc các học giả quan trọng đánh
dấu sự "Cải cách, mở cửa"1, sự chuyển hướng toàn bộ chiến lược (hoặc đánh dấu bước
chuyển có ý nghĩa có thể nói, chiến lược) đối ngoại của Việt Nam. Trong Văn kiện Đại hội
VI, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đổi mới tư duy, nhận thức về các vấn để quan hệ chính trị
quốc tế đương đại. Khi nhìn định về tình hình thế giới mới, Đảng nêu rõ: “Đặc điểm nổi
bật của thời đại là cuộc cách mạng khoa học - kỳ cá thuật đang diễn ra mạnh mẽ, tạo thành
bước phát triển nhảy vọt của lực lượng sản xuất và đẩy nhanh quá trình quốc tế hóa các lực
lượng sản xuất"2. Theo đó, Đảng xác định: “Cuộc đấu tranh trên lĩnh vực kinh tế có ý nghĩa
chính trị ngày càng quan trọng đối với kết cục của cuộc đấu tranh giữa hai hệ thống…, giữa
các nước có chế độ xã hội khác nhau, sự lựa chọn duy nhất đúng đến là thi đua về kinh tế,
về lối sống...”3. Từ nhận thức trên đây, Đại hội VI kết luận: “xu thế mở rộng phân công,
hợp tác giữa các nước, kể cả các nước có chế độ kinh tế - xã hội khác nhau, cũng là những
điều kiện rất quan trọng đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta" 2 và chủ
trương phải đối mới phương cách tập hợp lực lượng, “phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc
với mức mạnh thời đại trong điều kiện mới".
Sau gần hai năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, ngày 20-5-1988, Bộ Chính trị ra
Nghị quyết Số 13/NQ-TW Về nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong tình hình mới. Nhận
định tình hình thế giới, Bộ Chính trị cho rằng, các nước đang “chạy đua ráo riết về kinh tế
và khoa học kỹ thuật nhằm tạo ra một nền kinh tế phát triển cao vào cuối thế kỷ này. Xu
thế đấu tranh và hợp tác trong cùng tồn tại giữa các nước có chế độ xã hội khác nhau ngày
càng phát triển”4. Trên cơ mở nhận định đó, Bộ Chính trị đưa ra một kết luận hết sức quan
trọng. “Với một nền kinh tế mạnh, một nền quốc phòng vừa đủ mạnh cùng với sự mở rộng
quan hệ hợp tác quốc tế chúng ta sẽ càng có nhiều khả năng giữ vững độc lập và xây dựng

1
Cổ Tiểu Tùng, thông tấn xã Việt Nam: Tài liệu tham khảo đặc biệt. sô 037-TTX, 13/2/2007

2
Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI. Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1987

3
Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội

4
Nguyễn Cơ Thạch: Những chuyển biến trên thế giới và tư duy mới của chúng ta, tapk chí Quan hệ Quốc tế,
số 1, tháng 1-1990

30
thành công chủ nghĩa xã hội hơn”3 . So với quan điểm Đại hội VI: “Công cuộc bảo vệ anh
ninh chính trị, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội cần được tiến hành bằng sức mạnh của mọi lực
lượng vũ trang và không vũ trang và bằng mọi phương tiện cần thiết"1; với kết luận của Bộ
Chính trị nếu trên, lần đầu tiên Đảng Cộng sản Việt Nam coi "sự mở rộng quan hệ hợp tác
quốc tế là một nhân tố góp phần giữ vững độc lập và xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội. Đây là bước phát triển mới về tư duy quan hệ chính trị quốc tế của Đảng Cộng sản Việt
Nam.
Bộ Chính trị xác định: mục tiêu chiến lược và lợi ích cao nhất của Việt Nam là giữ
vững hòa bình và phát triển kinh tế, đồng thời nêu rõ quyết tâm, chủ động chuyển cuộc đấu
tranh từ tình trạng đối đầu sang đấu tranh và hợp tác trong cùng tồn tại hòa bình; kiên quyết
mở rộng quan hệ và đa dạng hóa quan hệ hợp tác quốc tế. Như vậy cho thấy, Nghị quyết
13 của Bộ Chính trị thể hiện sự đổi mới tư duy về quan hệ chính trị quốc tế, về an ninh và
phát triển; về đoàn kết quốc tế và tập hợp lực lượng trong quan hệ quốc tế của Việt Nam.
Bộ Chính trị coi đây là sự chuyển hướng toàn bộ chiến lược đới ngoại Sự chuyển hướng
chiến lược đối ngoại thể hiện trong Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị đã đặt nền móng cho
việc hình thành đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa
quan hệ quốc tế của Việt Nam. “Trong suốt nửa cuối thập kỷ 80, giới lãnh đạo Việt Nam
đã có các chuyển biến lớn trong nhận thức về chính sách đối ngoại... chuyển từ đường lối
đối ngoại mang đậm tư tưởng ý thức hệ sang đường lối đối ngoại coi trọng lợi ích quốc gia
và tư tưởng chính trị phương thực tế"1

Nhìn chung, chúng ta có thể thấy được công cuộc đổi mới đất nước ta do Đảng cộng
sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo là bước phát triển mới của sự nghiệp cách mạng Việt
Nam là một một đòi hỏi khách quan tất yếu của chính bản thân sự nghiệp cách mạng Việt
Nam nhằm đưa đất nước vượt qua khó khăn về kinh tế, vì lợi ích của dân tộc và của nhân
dân. Đường lối đổi mới của Đảng đã được toàn dân hưởng ứng và thực hiện, thể hiện sự
trưởng thành của Đảng trong tư duy lý luận và nhận thức thực tiễn, độc lập, tự chủ, sáng

1
Edited by, Carlyle A. Thayer, Ramses Amer: Vietnamese Foreign Policy in Transition, Institute of Southeast
Asian Studies

31
tạo trong đường lối, chính sách và sự lựa chọn hình thức, giải pháp và bước đi thích hợp
của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.

2.1.3. Đại hội VII của Đảng (6-1991) và sự hoàn thiện đường lối đổi mới:
Trong bối cảnh quốc tế và trong nước đang có những diễn biến phức tạp. Đó là sự
khủng hoảng trầm trọng của chế độ chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu, sự chống phá
nhiều phía vào chủ nghĩa xã hội, vào chủ nghĩa Mác – Lênin và Đảng Cộng sản, những âm
mưu và thủ đoạn của các thế lực thù địch quốc tế hòng xoá bỏ chủ nghĩa xã hội hiện thực
và sự hoang mang dao động của một bộ phận những người cộng sản trên thế giới đã tác
động đến tư tưởng và tình cảm của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân Việt Nam.
Đất nước ta phải đương đầu với các hoạt động phá hoại của các lực lượng thù địch ở cả
trong và ngoài nước. Tình hình kinh tế và đời sóng của nhân dân vẫn còn khó khăn, đất
nước vẫn trong tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội. Tuy nhiên, công cuộc đổi mới được
Đảng ta đề ra từ Đại hội lần thứ VI (12/1986), bước đầu đã đạt được những thành tựu đáng
kể, được nhân dân và quốc tế ủng hộ, nhờ đó mà nước ta đã đứng vững và tiếp tục phát
triển. Nhưng bên cạnh đó, công cuộc đổi mới còn nhiều vấn đề kinh tế - xã hội nóng bỏng
chưa được giải quyết và cần tìm ngay biện pháp khắc phục ngay tại trong Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam họp tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 24 đến
ngày 27/6/1991

2.1.2.1 Về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
Đại hội thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỷ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã
tổng kết cách mạng Việt Nam từ năm 1930, nêu lên những bài học và đặc biệt là xác định
sáu đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng do nhân dân lao
động làm chủ: có một nền kinh tế phát triển cần dựa trên lực lượng sản xuất, hiện đại và
chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu: có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc: con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng
theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá
nhân; các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ; có quan
hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
32
Cương lĩnh xác định quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một quá trình lâu dài,
phải trải qua nhiều chặng đường. Do vậy, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo
vệ Tổ quốc cần nắm vững bảy phương hướng cơ bản sau đây:

Một là, xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của dân, do dân, vì dân, lấy
liên minh công nhân - nông dân - trí thức làm nền tảng lãnh đạo.

Hai là, phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá đất nước theo hướng hiện đại
gắn liền với phát triển mội nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng
bước xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao năng
suất lao dộng xã hội và cải thiện đời sống nhân dân.

Ba là, thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự
đa dạng hoá về hình thức sở hữu, phù hợp với sự phát triển lực lượng sản xuất. Phát triển
liền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa vận hành theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.

Bốn là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hoá làm
cho thế giới quan Mác - Lênin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong
đời sống tinh thần xã hội. Kế thừa, phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân
tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại.

Năm là, thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố, mở rộng Mặt trận dân
tộc thống nhất. Thực hiện chính sách đối ngoại hoà bình, hợp tác, hữu nghị tất cả các nước.

Sáu là, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ chiến lược của
cách mạng Việt Nam. Nâng cao tinh thần cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Bảy là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức
ngang tầm nhiệm vụ. 1

1
Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội

33
Đại hội hoạch định con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội phù hợp đặc điểm của Việt
Nam và những giải pháp đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, đặt cơ sở và
quyết định những bước đi cho sự phát triển mạnh mẽ của đất nước. Từ đó củng cố thêm
niềm tin tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với công cuộc đổi mới đất nước.

Trong bối cảnh quốc tế và trong nước đang diễn ra những biến đổi phức tạp thì
“Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội” đã thể hiện
bản lĩnh vững vàng, sự kiên định về lập trường chính trị của Đảng ta trong qụá trình lãnh
đạo cách mạng và tạo niềm tin cho nhân dân ta về sự thắng lợi tất yếu của công cuộc đổi
mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

2.1.2.2 Đường lối phát triển kinh tế - xã hội


Đại hội VII khẳng định nền kinh tế bước đầu chuyển biến tích cực, hình thành nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lí của Nhà
nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Lạm phát năm 1988: 393,3%, năm 1990 còn
67,4%. Tính chung 5 năm 1986- 1990, tổng sản phẩm trong nước tăng 21,2%, bình quân
mỗi năm tăng 3,9% (1986 tăng 0,3%; 1987 lăng 3,6%; 1988 tăng 6,0%; 1989 tăng 4,7%;
1990 tăng 5,1%), không quá thấp so với thế giới.

Đại hội thông qua Chiến lược “ổn định và phát trìển kinh tế- xã hội đến năm 2000”.
Chiến lược ghi rõ mục tiêu phát triển là "Phát triển kinh tế - xã hội theo con dường củng
cố độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là quá trình thực hiện dân giàu,
nước mạnh, tiến lên hiện đại trong một xã hội nhân dân làm chủ, nhân ái, có văn hoá, có kỷ
cương, xoá bỏ áp bức, bất công, tạo điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc". Mục tiêu tổng quát của Chiến lược đến năm 2000 là: "ra khỏi khủng hoảng,
ổn định tinh hình kinh tế - xã hội, phấn đấu vượt qua tình trạng nước nghèo và kém phát
triển, cải thiện đời sống của nhân dân, củng cố quốc phòng và an ninh, tạo điều kiện cho
đất nước phát triển nhanh hơn vào đầu thế kỷ XXI. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) đến
năm 2000 tăng khoảng gấp đôi so với năm 1990".

Trong giai đoạn 1991-1995, các cách lược tiếp tục tiến hành, ngày càng tập trung
vào những đòi hỏi về mặt thể chế và điều tiết của một nền kinh tế có định hưởng thị trường

34
nhiều hơn. Các bỏ luật về việc thành lập và hoạt động của xí nghiệp tư nhân đã được thông
qua và khuôn khổ luật pháp cho hệ thống ngân hàng cũng được thiết lập vững chắc hơn.
Quốc hội đã ban hành Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân ngày 2 tháng năm 1991.
Hai Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Pháp lệnh Ngân hàng, hợp tác xã tín
dụng, công ty tài chính tuy ban hành từ ngày 25 tháng 4 năm 1990, nhưng cũng mới bắt
đầu có hiệu lực thực tế từ đầu năm 1991. Chính phủ cũng ban hành các văn bản pháp quy
để tổ chức lại các doanh nghiệp Nhà nước; trợ cấp cho doanh nghiệp Nhà nước về cơ bản
đã chấm dứt. Hiến pháp đã được sản dỗi, phản ánh nhu cầu của một nền kinh tế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước. Chính sách tiền tệ và tài chính vốn là mối quan tâm đặc biệt
đối với doanh nghiệp nay đã trở nên mạnh bạo hơn để tạo một môi trường ổn định cho đầu
tư từ khu vực từ nhân và công cộng. Thẩm hụt ngân sách được giảm đáng kể và được bù
đắp hoàn toàn thông qua việc bán công trái và trái phiếu kho bạc, việc tăng cung ứng tiến
và tin dụng được gắn chặt với tỷ lệ tăng trưởng thực tế của nền kinh tế và lực lượng thị
trường đã có tác động trực tiếp hơn đối với lãi suất và phân bố nguồn vốn khan hiếm.

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Đảng có bước tiến mạnh mẽ khi đề cập
đến việc phát triển các loại thị trường như tài chính - tiền tệ và thị trường lao động. Tuy
nhiên chưa đề cập đến thị trường đất đai - bất động sản và thị trường khoa học và công
nghệ. Đồng thời, Đảng đã chỉ rõ, Việt Nam cần “đa dạng hóa và đa phương hóa quan hệ
kinh tế với mọi quốc gia, mọi tổ chức kinh tế trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền,
bình đẳng và cùng có lợi”1. Quan điểm này đã đặt nền móng vững chắc cho quá trình Việt
Nam phát triển quan hệ với các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới một cách linh hoạt.

2.1.2.3. Chủ trương, chính sách đối ngoại


Đại hội Đảng lần thứ VII họp vào tháng 6-1991. Đại hội xác định trọng tâm của công
tác đối ngoại là tiếp tục tạo mối trường quốc tế hòa bình, ổn định, thuận lợi cho sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. So với Đại hội VI, Đại hội VII có những điểm mới về chủ
trương đối ngoại như:

1
V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcova, 1978, bản tiếng Việt, tập 44

35
Một, khẳng định mạnh mẽ chủ trương “hợp tác, bình đảng và cùng có lợi với tất cả
các nước, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau, trên cơ sở các nguyên tắc
cùng tồn tại hòa bình", với phương châm “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong
cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển"1.

Thể hiện bước tiến về tư duy chính trị của Đảng. xuất phát từ nhận thức trong đời
sống chính trị - kinh tế quốc tế, quan hệ giữa các quốc gia, dân tộc, bên cạnh lợi ích mang
tỉnh giai cấp, mang tính ý thức hệ còn có những lợi ích mang tính phổ biến, tính toàn cầu,
do đó sự phối hợp, hợp tác giữa các nước để giải quyết những vấn đế quốc tế là một nhu
cầu khách quan. Vì vậy, tư duy xác định bạn, “thù” trên cơ sở tiêu chí ý thức hệ đơn thuần
của thời kỳ Chiến tranh lạnh không còn phù hợp nữa, mà phải mềm dẻo hơn, linh hoạt hơn;
Về phương châm đối ngoại do Đại hội VII đề ra, theo một số nhà nghiên cứu thì chính là
sự trở lại với tư tưởng đối ngoại rộng mở của Hồ Chí Minh trong điều kiện mới. “Làm bạn
với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai"2

Hai, lần đầu tiên trong Văn kiện Đại hội, Đảng để ra yêu cầu đa dạng hóa, đa phương
hóa quan hệ kinh tế với mọi quốc gia, mọi tổ chức kinh tế;

Ba, lần đầu tiên, Đảng đề ra chủ trương gia nhập các tổ chức quốc tế và các hiệp hội
kinh tế khác khi cần thiết và có điều kiện;

Bốn, khẳng định quan điểm “sẵn sàng thiết lập và mở rộng quan hệ với các đảng xã
hội - dân chủ,."3

Bốn điểm mới nêu trên, thực chất là sự cụ thể hoá và phát triển các quan điểm, chủ
trương đối ngoại được để ra trong Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị (20-5-1988).

1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991

2
Hổ Chỉ Minh. Toàn tập, tập 5, Nxb. Chính trị Quốc gia. hội đại biểu toàn quốc I Hà Nội, 1996

3
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991

36
Khi bàn về đối ngoại Việt Nam trong giai đoạn này, có ý kiến cho rằng “Đại hội VII
đã khẳng định đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hoá"1. Tuy nhiên
thực tế cho thấy, trong Văn kiện Đại hội VII, Đảng Cộng sản Việt Nam mới nêu thuật ngữ
"chính sách đối ngoại rộng mở, mà chưa khẳng định đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa
phương hóa, đa dạng hóa”2. Quá trình mở cửa và hội nhập với bên ngoài đã thu được kết
quả nhất định, từng bước phá thế bao vây, cô lập của các thế lực thù địch. Tất cả những
điều đó đã tạo nên sức mạnh vật chất và tinh thần, kinh nghiệm và lòng tin để tiếp tục con
đường đổi mới, đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo tiến để bước vào
giai đoạn phát triển mới.

2.1.3. Thành tựu cơ bản của 10 năm đổi mới 1986 -1995 và một số kinh nghiệm
2.1.3.1 Thành tựu cơ bản
Tổng kết 10 năm đổi mới (1986 -1996 ) đất nước thu được những thành tựu to lớn,
có ý nghĩa rất quan trọng. Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhưng một số
mặt còn chưa vững chắc. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng được xác định rõ
hơn. Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công
nghiệp hoá đã cơ bản hoàn thành, cho phép chuyển sang thời kỳ mới đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước. “Xét trên tổng thể, việc hoạch định và thực hiện đường lối đổi
mới những năm qua về cơ bản là đúng đắn, đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, tuy trong
quá trình thực hiện có một số khuyết điểm, lệch lạc và kéo dài, dẫn đến chệch hướng ở lĩnh
vực này, hay lĩnh vực khác, ở mức độ này , hay mức độ khác …"2. Đại hội nêu ra sáu bài
học chủ yếu qua 10 năm đổi mới:

Một là, giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong quá trình đổi
mới và phát triển

1
Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương: Chuyên đề nghiên cứu Nghị quyết Đại hội X của Đảng, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2006.

2
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.55, tr.356.

37
Hai là, kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị; lấy đổi
mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị.

Ba là, xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường, đi đôi tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Bốn là, mở rộng và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân phát huy sức mạnh của
cả dân tộc.

Năm là, mở rộng hợp tác quốc tế, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của nhân
dân thế giới, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh thời đại.

Sáu là, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, coi xây dựng và củng cố Đảng là
nhiệm vụ then chốt.

Tiếp tục những tìm tòi, cải cách trong thời kỳ trước, trong những năm 1986-1995 sự
nghiệp cải cách được đẩy lên tầm cao mới. Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế là động lực chủ
yếu của thời kỳ này. Để thay thế cơ chế quản lý cũ, Nhà nước đã ban hành hàng loạt chỉ
thị, nghị quyết nhằm từng bước xác lập cơ chế quản lý mới. Cải cách có ý nghĩa nhất là
việc xoá bỏ chế độ hai giá, áp dụng cơ chế giá thị trường, thương mại hóa tư liệu sản xuất
và hàng hóa tiêu dùng, xoá bỏ chế độ tem phiếu đối với một số mặt hàng tiêu dùng, chấm
dín chế độ phân phối theo giá thấp đối với phần lớn hàng hoá tự liệu sản xuất, tự do hoá
một phần nội thương, thông qua Luật Đầu tư nước ngoài, cho phép xí nghiệp quốc doanh
có quyền tự chủ quản lý nhiều hơn và khuyến khích chế độ hạch toán lỗ lãi. Những nét đặc
trưng nổi bật và diễn hình của thời kỳ này là Việt Nam đã sản xuất và xuất khẩu dấu thì, đã
trở thành nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới, đồng thời là một địa chỉ thu hút đấu tư trực
tiếp nước ngoài. Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế và bước dầu hội nhập kinh tế khu vực và
quốc tế đã giúp cho hầu hết các chỉ tiêu chủ yếu để ra cho kế hoạch 5 năm (1991-1995)
hòan thành và hoàn thành vượt mức: đây là kế hoạch 5 năm đầu tiên đạt và vượt mục tiêu.

2.1.3.2 Một số kinh nghiệm

Trên cơ sở thực tiễn cách mạng của 10 năm vừa qua, đất nước đã đạt được những
thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước

38
đổi mới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên. Đời sống nhân dân cả về vật chất và
tinh thần được cải thiện rõ rệt. Tuy nhiên chúng ta cũng rút ra được nhiều bài học kinh
nghiệm quý giá vô cùng đau đớn mà không thể nào quên:

Một là, bài học về công tác lãnh đạo và công tác xây dựng Đảng. Yêu cầu xây dựng
Đảng ngang tầm nhiệm vụ của Đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Báo cáo chính trị nêu rõ, để bảo đảm cho Đảng làm tròn sứ mệnh lịch sử vẻ vang, vấn
đề cấp bách là tăng cường sức chiến đấu, nâng cao năng lực lãnh đạo, tổ chức thực hiện của
Đảng. Phải giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, không ngừng nâng cao phẩm chất, đạo
đức cách mạng, thường xuyên tự phê bình và phê bình trong Đảng và trước quần chúng.
“Nhân tố quyết định đem lại những thành tựu đổi mới là sự lãnh đạo kiên định, vững vàng
của Đảng, tinh thần cách mạng và sự nỗ lực phấn đấu của toàn dân”1. “Tăng cường vai trò
lãnh đạo của Đảng, coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt”1. Đảng ta là đảng cầm quyền
nên: “những thắng lợi và thành tựu, những thất bại và tổn thất của cách mạng đều gắn liền
với trách nhiệm của Đảng”1. Bài học này nhấn mạnh xây dựng Đảng là nhiệm vụ “then
chốt” là tư tưởng xuyên suốt trong các nhiệm kỳ sau này.

Hai là, bài học “lấy dân làm gốc”, đổi mới vì nhân dân, vì lợi ích của nhân dân. Là
bài học xuyên suốt trong thời kỳ đổi mới, là sự tiếp nối truyền thống của lịch sử dân tộc ta.
Tuy nhiên, từ thực tiễn công cuộc đổi mới, Đảng ta ngày càng nhận thức sâu sắc, đầy đủ
hơn về nội dung, ý nghĩa của bài học này. Bắt đầu thời kì đổi mới, “Trong toàn bộ hoạt
động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân lao động”1. Sang Đại hội lần thứ VII, trước sự khủng hoảng,
từng bước tan vỡ của hệ thống Chủ nghĩa Xã hội hiện thực thế giới, Đảng ta rút ra là: “chúng
ta khẳng định tiếp tục phát huy ngày càng sâu rộng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhưng
để phát huy dân chủ đúng hướng và đạt kết quả thì quá trình đó phải được lãnh đạo tốt, có
bước đi vững chắc phù hợp với tình hình chính trị, xã hội nói chung”1. Đảng Cộng sản Việt

1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự Thật, Hà Nội,
1991
39
Nam ra đời, tồn tại không có mục đích tự thân, mà vì ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Mục
tiêu ấy phù hợp với nguyện vọng của nhân dân, được nhân dân đồng tình ủng hộ

Ba là, bài học về tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Đảng phải xuất
phát từ hiện thực khách quan, tôn trọng và hành động theo các quy luật khách quan. “Đảng
phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan”1.
Việc Đảng ta lãnh đạo chuyển từ thể chế kinh tế kế hoạch sang kinh tế thị trường định
hướng xã hội Chủ nghĩa, chuyển từ chế độ đơn sở hữu sang đa sở hữu, chuyển từ hệ thống
chuyên chính vô sản sang hệ thống chính trị xã hội Chủ nghĩa, thực hiện đa dạng hóa, đa
phương hóa quan hệ quốc tế... chính là tôn trọng và hành động theo các quy luật khách
quan. Và nhờ vậy, đất nước đã có những sự thay đổi vượt bậc trên nhiều mặt. Bởi thực tiễn
luôn vận động, điều đó đòi hỏi nhận thức của con người, đường lối, chính sách của Đảng,
Nhà nước phải thay đổi để đáp ứng yêu cầu của thực tế.

Bốn là, bài học về gữ vững các nguyên tắc trong đổi mới. Đổi mới là sự nghiệp vĩ
đại, quyết định vận mệnh của cả một đất nước, đổi mới không phải được làm một cách ngẫu
nhiên, tùy tiện mà phải tuân theo các nguyên tắc nhất định. trong quá trình đổi mới phải
kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định, vận dụng, phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây được coi là nguyên tắc có tính sống
còn, quyết định tính định hướng của công cuộc đổi mới. “Phải giữ vững định hướng xã hội
chủ nghĩa trong quá trình đổi mới, kết hợp sự kiên định về nguyên tắc và chiến lược cách
mạng với sự linh hoạt hoạt trong sách lược, nhạy cảm trong nắm bắt cái mới”, “đổi mới
toàn diện, đồng bộ và triệt để, nhưng phải có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp”, “kết
hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng
tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị” 2. Đổi mới phải giải quyết hài hòa các mối

1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng thời kỳ đổi mới VI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,2005
2
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự Thật, Hà Nội,
1991
40
quan hệ lớn, “phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần phải đi đôi với tăng cường vai
trò quản lý của nhà nước về kinh tế - xã hội”1.

Năm là, bài học về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Cách mạng Việt
Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, một mặt chịu tác động bối cảnh thời đại, mặt
khác góp phần thúc đẩy, tạo xu hướng của thời đại. Vì vậy, với tư duy biện chứng, phải tìm
ra được mối liên hệ phổ biến, sự tác động qua lại song phương giữa cách mạng Việt Nam
và cách mạng thế giới. Đó là “phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong
điều kiện mới”1, là “Mở rộng hợp tác quốc tế, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ và giúp đỡ của
nhân dân thế giới, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh thời đại”2. Trong toàn bộ sự
nghiệp cách mạng của mình, chúng ta phải đặc biệt coi trọng kết hợp các yếu tố dân tộc và
quốc tế, các yếu tố truyền thống và thời đại, sử dụng tốt mọi khả năng mở rộng quan hệ
thương mại, hợp tác kinh tế và khoa học, kỹ thuật với bên ngoài để phục vụ công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội và luôn luôn làm tròn nghĩa vụ quốc tế của mình đối với các nước
anh em và bầu bạn.

Những bài học kinh nghiệm đó rút ra từ chính quá trình lãnh đạo và sự nghiệp cách
mạng của Đảng, của dân tộc, là sự vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ
nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể Việt Nam. Không chỉ thế Đảng còn phải tiếp tục
không ngừng cần được đổi mới, nâng cao sức chiến đấu, tiến hành cải cách không chỉ trên
lĩnh vực kinh tế mà cả trên lĩnh vực chính trị, xã hội và cả con người theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. “Đây là một cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra
những cái mới mẻ, tốt tươi3”. “Thế giới ngày ngày đổi mới, nhân dân ta ngày càng tiến bộ,
cho nên chúng ta phải tiếp tục học và hành để tiến bộ kịp nhân dân”4.

1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng thời kỳ đổi mới VI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,2005
2
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 1996
3
Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 15, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011

4
Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 10, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011

41
2.2. Sự phát triển của đường lối đổi mới của Đảng trong 1996 - nay:
2.2.1. Nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Tổng kết 10 năm (1987-1996) thực hiện bước đầu đổi mới trong báo cáo chính trị tại
Đại hội lần thứ VIII đã chỉ rõ con đường đi lên của nước ta là sụ phát triển quá độ lên chủ
nghĩa xã hội bỏ qua tư bản chủ nghĩa ,tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ
sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành
tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản đặc biệt là về khoa học và công nghệ ,để
phát triển nhanh lực lượng sản xuất , xây dựng nền kinh tế hiện đại.Xây dựng chủ nghĩa xã
hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh
vực là một sự nghiệp rất khó khăn phức tạp, cho nên tất yếu phải trải qua một thời kỳ quá
độ lâu dài , với nhiều chặng đường , nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá
độ.
2.2.1.1 Về chủ nghĩa xã hội:
Đại hội VIII của Đảng đã tổng kết, đánh giá thành công cũng như thất bại và rút ra
những bài học kinh nghiệm. Điểm nổi bật là Đại hội VIII đã khẳng định một số nhận thức
về xây dựng cơ chế quản lý mới : Sản xuất hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hội,
tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; Trong nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần ở nước ta, thị trường theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa là
thể thống nhất với nhiều lực lượng tham gia sản xuất và lưu thông. Trong đó, kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo, thị trường vừa là căn cứ, vừa là đối tượng của kế họach, kế họach
chủ yếu mang tính định hướng còn thị trường trực tiếp hướng dẫn, lựa chọn lĩnh vực họat
động, tổ chức sản xuất và kinh doanh. Do vậy, cơ chế thị trường phải có sự điều tiết ủa
Nhà nước, vì thế cần nâng cao quản lý vĩ mô của Nhà nước, đồng thời xác lập đầy đủ chế
độ tự chủ của các đơn vị sản xuất kinh doanh.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã bổ sung thêm từ “dân chủ “ vào
trong mục tiêu chung để phản ánh đầy đủ hơn , rõ ràng hơn nhận thức của chúng ta về vấn
đề dân chủ, vấn đề bản chất của chủ nghĩa xã hội .” Lợi ích giai cấp công nhân thống nhất
với lợi ích toàn dân tộc trong mục tiêu chung là : độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội ; dân giàu, nước mạnh ,xã hội công bằng, dân chủ,văn minh”. “Tư tưởng Hồ Chí
Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to
lớn của Đảng và dân tộc ta. Khẳng định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh

42
làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động là bước phát triển quan trọng trong
nhận thức và tư duy lý luận của Đảng ta.”1

Kế thừa những đường lối của Đại hội IX, Đại hội X tiếp tục bổ sung các đặc trưng
mới sau: “ Xã hội chủ nghĩa là xã hội mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu,
nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ ; có nền kinh tế phát triển
cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người
được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển
toàn diện ; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp
đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác
với nhân dân các nước trên thế giới.”2

Ở Đại hội XI, có bổ sung hai đặc trưng bao trùm, tổng quát bao gồm: “Dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” , “có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.” Cương
lĩnh 2011 nhấn mạnh, quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa là quá trình cách mạng sâu sắc,
triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đồi về chất trên các
lĩnh vực của đời sống xã hội , nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều
bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen.”

Đại hội XII, Đảng ta lãnh đạo Nhà nước không có mục đích nào khác là đem lại
quyền dân chủ, quyển làm chủ của nhân dân. Không có sự lãnh đạo của Đảng thì quyền
lực nhà nước sẽ bị biến dạng, biến chất và sẽ xuất hiện một lực lượng chính trị khác chi
phối quyền lực nhà nước. Đảng lãnh đạo không có nghĩa là áp đặt, ra lệnh, bao biện làm

1
Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr.298.

2
Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr.311,312.

43
thay công việc của Nhà nước; lãnh đạo để khắc phục tình trạng quyền lực của nhân dân
mang tính hình thức, hoạt động của Nhà nước thụ động, kém hiệu lực, hiệu quả.

Đại hội XIII, “kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định
đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo
vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.”1
2.2.1.2 Về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
Ở đại hội VIII (1996), Đảng ta đã đề ra mục tiêu là: “Trên cơ sở phân tích những đặc
điểm nổi bật của tình hình thế giới, những xu thế chủ yếu trong quan hệ quốc tế, nêu rõ
những thời cơ và thách thức lớn, Đại hội định ra mục tiêu phấn đấu đến năm 2000 và 2020
của sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là: tiếp tục nắm vững hai
nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá và xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở - kỹ thuật hiện
đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Từ nay đến 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản
trở thành một nước công nghiệp”.2

Đến đại hội IX (2001), Đảng ta bổ sung và hoàn thiện nhận thức con đường đi lên
Xã Hội Chủ Nghĩa như sau: Về mục tiêu lý tưởng của Đảng “Độc lập dân tộc gắn liền với
Chủ Nghĩa Xã Hội” là nguyên tắc, là sự chỉ đạo xuyên suốt toàn bộ đường lối của cách
mạng của ta.Về thời kỳ quá độ báo cáo chính trị đã chỉ ra con đường đi lên xã hội chủ nghĩa
của nước ta là sự phát triển lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bảng công nghiệp tức là
bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng Xã Hội
Chủ Nghĩa nhưng tiếp thu kế thừa những thành tựu của nhân loại đặc biệt là khoa học và

1
Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr.388.

2
Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr.340.

44
công nghệ.Về đấu tranh gia cấp là động lực phát triển đất nước. Trong đó động lực chủ yếu
để phát triển đất nước là đại đòan kết tòan dân dựa trên cơ sở liên minh giữa giai cấp Công
Nhân, ND và trí thức do Đảng lãnh đạo.Về nền tảng tư tưởng Đảng: Đại hội đã làm rõ khái
niệm và nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh.

Từ những bài học của cách mạng Việt Nam trong mấy chục năm qua, nhất là những
kinh nghiệm thu được trong những năm đổi mới, chúng ta có cơ sở khoa học để tin tưởng
rằng: Với chủ nghĩa yêu nước, truyền thống quý báu của dân tộc ta, với tinh thần chủ động
sáng tạo, ý chí tự lực tự cường của nhân dân ta, lại có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng cách
mạng kiên cường, với sự giúp đỡ và hợp tác của bạn bè quốc tế, nhân dân ta có đủ khả năng
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta, góp phần vào cuộc đấu tranh chung
của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.

Đại hội XII, Đảng lãnh đạo Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa bằng quan điểm,
đường lối chính trị và cầm quyền lãnh đạo bằng pháp luật: “Trong tổ chức và hoạt động
của Nhà nước, phải thực hiện dân chủ, tuân thủ các nguyên tắc pháp quyền” . Nhà nước thể
chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành pháp luật, chính sách và tổ chức thực hiện
thông qua bộ máy nhà nước, bảo đảm cho đường lối, chũ trương của Đảng trở thành hiện
thực trong đời sống xã hội của nhân dân; luôn tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền công dân,
bảo vệ quyển con người. Trong một xã hội dân chủ, nhà nước phải là người bảo vệ quyền
công dân, bảo vệ quyền con người, chứ không phải để hạn chế công dân thực hiện quyền
dân chủ của mình. Đảng giải quyết đúng đắn quan hệ giữa Đảng và Nhà nước, phân định
rõ chức năng của Đảng và Nhà nước để không làm suy yếu cả sự lãnh đạo của Đảng lẫn
hiệu lực quản lý của Nhà nước. Đảng lãnh đạo Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trên
cả phương diện chính trị và pháp lý; đồng bộ cả lập pháp, hành pháp và tư pháp. Phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước theo hướng ngày càng thực hiện và mở rộng dân
chủ trong quan hệ Đảng - Nhà nước - Nhân dân. Vì vậy, Đảng lãnh đạo Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa luôn bảo đảm cho nhà nước tổn tại để phục vụ nhân dân; Nhà nước
pháp quyền đó thực sự của dân, do dân, vì dân.

45
Đại hội XIII, thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và
vai trò tự quản của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; củng cố, nâng
cao niềm tin của nhân dân, tăng cường đồng thuận xã hội; tiếp tục đổi mới tổ chức, nội
dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã
hội. Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh,
tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước.
Tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình; kiểm soát quyền lực gắn với siết
chặt kỷ cương, kỷ luật trong hoạt động của Nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức.
Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tội phạm và tệ
nạn xã hội.

2.2.2. Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa:

Trước đổi mới, do chưa thừa nhận trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn tồn
tại sản xuất hàng hóa và cơ chế thị trường nên chúng ta đã xem kế hoạch đặc trưng quan
trọng nhất của kinh tế xã hội chủ nghĩa, đãthực hiện phân bổmọi nguồn lực theo kế hoạch
là chủyếu. Còn thịbtrường chỉ được coi là một công cụ thứ yếu bổ sung cho kế hoạch, đo
đó không cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Vào thời kỳ đổi mới, chúng ta ngày càng nhận rõ có thể dùng cơ chế thị trường làm
cơ sở phân bổ các nguồn lực kinh tế, dùng tín hiệu giá cả để điều tiết chủng loại và số lượng
hàng hóa, điều hòa quan hệ cung cầu, điều tiết tỷ lệ sản xuất thông qua cơ chế cạnh tranh,
thúc đẩy cái tiến bộ, đào thải cái lạc hậu, yếu kém.Thực tế cho thấy, chủ nghĩa tư bản không
sinh ra kinh tế thị trường nhưng đã biết thừa kế và khai thác có hiệu quả các lợi thế của kinh
tế thị trường để phát triển. Thực tiễn đổi mới ở nước ta cũng đã chứng minh sự cần thiết và
hiệu quả của việc sử dụng kinh tế thị trường làm phương tiện xây dựng chủ nghĩa xã hội.
2.2.2.1 Nhận thức của Đảng về kinh tế thị trường từ Đại hội VIII đến Đại hội XI.
Kinh tế thị trường tồn tại nhiều khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, Đại hội VIII (1996) đã đề ra nhiệm vụ đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện và đồng
bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

46
Vào thời kỳ đổi mới, chúng ta ngày càng nhận rõ có thể dùng cơ chế thị trường làm cơ
sở phân bổ các nguồn lực kinh tế, dùng tín hiệu giá cả để điều tiết chủng loại và số lượng
hàng hóa, điều hòa quan hệ cung cầu, điều tiết tỷ lệ sản xuất thông qua cơ chế cạnh tranh,
thúc đẩy cái tiến bộ, đào thải cái lạc hậu, yếu kém.

Đại hội IX của Đảng (2001) xác định nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Đây
là bước chuyển quan trọng từ nhận thức kinh tế coi kinh tế thị trường như một chính thể, là
cơ sở kinh tế của sự phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội IX xác định, kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là "một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo quy
luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và chịu sự dẫn dắt chi phối bởi các nguyên
tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội". Trong nền kinh tế đó, các thế mạnh của "thị trường"
được sử dụng để "phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật
chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân"!, còn tính "định hướng
xã hội chủ nghĩa" được thể hiện trên cả ba mặt của quan hệ sản xuất: sở hữu, tổ chức quản
lý và phân phối, nhằm mục đích cuối cùng là "dân giàu, nước mạnh, tiến lên hiện đại trong
một xã hội do nhân dân làm chủ, nhân ái, có văn hóa, có kỷ cương, xóa bỏ áp bức và bất
công, tạo điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh, phúc".

Dựa trên những đường lối của Đại hội IX, Đại hội X và XI đã làm sáng tỏ thêm nội dung
cơ bản của định hướng chủ nghĩa xã hội trong con đường phát triển kinh tế thị trường của
nước ta qua các điểm sau:

Về mục đích phát triển: Mục tiêu của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta nhằm thực hiện "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bàng, văn minh" giải phóng
mạnh mẽ lực lượng sản xuất và không ngừng nâng cao đời sống nhân dân; đẩy mạnh xóa
đói, giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ người
khác thoát nghèo và từng bước khá giả hơn.

Về phương hướng phát triển: phát triển nền kinh tế với nhiểu hình thức sỡ hữu, nhiều
thành phần kinh tế nhằm phát huy mọi tiềm năng trong tất cả thành phần kinh tế, của toàn
dân và toàn quốc. Trong nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo,
47
là công cụ chủ yếu để nhà nước điều tiết nền kinh tế, định hướng cho sự phát triển vì mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Để giữ vai trò chủ đạo, kinh tế
nhà nước phải nắm được các vị trí then chốt của nền kinh tế bằng trình độ khoa học, công
nghệ tiên tiến, hiệu quả sản xuất kinh doanh cao chứ không phải dựa vào bao cấp, cơ chế
xin - cho hay độc quyền kinh doanh.

Về quản lý: Phát huy vai trò làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều
tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Tiêu chí này thể hiện sự khác biệt cơ bản giữa kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa với kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu
cực của kinh té thị trường, đảm bảo quyền lợi chính đáng của mọi người.

Ở Đại hội XIII, Hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trước hết là thể chế phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện
đại, cạnh tranh hiệu quả. Tập trung ưu tiên hoàn thiện đồng bộ, có chất lượng và tổ chức
thực hiện tốt hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách, tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh
thuận lợi, lành mạnh, công bằng cho mọi thành phần kinh tế, thúc đẩy đổi mới sáng tạo;
huy động, quản lý và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển, nhất là đất đai, tài
chính, hợp tác công - tư; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền hợp lý, hiệu quả, đồng thời tăng
cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực bằng hệ thống pháp luật.

Sau hơn 20 năm đổi mới, nước ta đã chuyển đổi thành công từ thể chế kinh tế kế hoạch
hóa tập trung quan liêu – bao cấp sang thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Đường lối đổi mới của Đảng đã được thể chế hóa thành pháp luật, tạo hành lang
pháp lý cho nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hình thành và phát triển.chế
độ sở hữu với nhiều hình thức và cơ cấu kinh tế nhiều thành phần được hình thành: từ sở
hữu toàn dân và tập thể, từ kinh tế quốc doanh và hợp tác xã là chủ yếu đã chuyển sang
nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế đan xen, hỗn hợp, trong đó sở hữu toàn
dân những tư liệu sản xuất chủ yếu và kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Điều đó đã tạo
ra động lực và điều kiện thuận lợi cho giải phóng sức sản xuất, khai thác tiềm năng trong
và ngoài nước vào phát triển kinh tế xã hội.

48
2.2.2.2 Hoàn thiện về thể chế sở hữu, các thành phần kinh tế.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dựa trên sự tồn tại khách quan nhiều
hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, nhiều loại hình doanh nghiệp. Đó là yêu cầu
khách quan. Do đó các yêu cầu này cần được khẳng định trong các quy định của pháp luật,
đảm bảo các quyền và lợi ích của các chủ thể sở hữu. Pháp luật cần quy định về sở hữu đối
với các tài sản mới như trí tuệ, cổ phiếu, tài nguyên nước…
Phương hướng cơ bản của hoàn thiện chế độ sở hữu là: Tách biệt vai trò của Nhà
nước với tư cách là bộ máy công quyền quản lý toàn bộ nền kinh tế - xã hội với vai trò chủ
sở hữu tài sản, vốn của Nhà nước; tách chức năng chủ sở hữu tài sản, vốn của Nhà nước
với chức năng quản trị kinh doanh của doanh nghiệp Nhà nước.Ban hành các quy định pháp
lý về sở hữu của doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam.Khẳng định đất
đai thuộc sở hữu toàn dân mà đại diện là Nhà nước, đồng thời đảm bảo và tôn trọng các
quyền của người sử dụng đất.Quy định rõ, cụ thể về quyền của chủ sở hữu và những người
liên quan đối với các loại tài sản.
Hoàn thiện thể chế về phân phối: Hoàn thiện luật pháp, cơ chế, chính sách về phân
bổ nguồn lực, phân phối và phân phối lại theo hướng đảm bảo tăng trưởng kinh tế với tiến
bộ và công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển.Đổi mới, phát triển,
nâng cao hiệu quả hoạt động của các chủ thể trong nền kinh tế.u hẹp các lĩnh vực độc quyền
nhà nước. Đổi mới, phát triển các hợp tác xã, tổ hợp tác theo cơ chế thị trường, theo nguyên
tắc: tự nguyện, dân chủ, bình đẳng, cùng có lợi và phát triển cộng đồng. Thực hiện nghiêm
túc, nhất quán một mặt bằng pháp lý kinh doanh không phân biệt hình thức sở hữu, thành
phần kinh tế… Đổi mới cơ chế quản lý của Nhà nước để các đơn vị sự nghiệp công lập phát
triển mạnh mẽ, có hiệu quả.
Các loại thị trường cơ bản đã ra đời và từng bước phát triển thống nhất trong cả
nước, gắn với thị trường khu vực và thế giới. Cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
đã và đang đi vào cuộc sống thay cho cơ chế kế hoạch hóa tập trung. Các doanh nghiệp,
doanh nhân được tự chủ sản xuất, kinh doanh, cạnh tranh lành mạnh. Quản lý Nhà nước về
kinh tế được đổi mới từ can thiệp trực tiếp bằng mệnh lệnh hành chính vào hoạt động sản

49
xuất, kinh doanh sang quản lý bằng pháp luật, chính sách, quy hoạch, kế hoạch phát triển
kinh tế xã hội và các công cụ điều tiết vĩ mô khác.
2.2.2.3 Hoàn thiện thể chế gắn kinh tế với tiến bộ công bằng xã hội và thúc đẩy công nghiệp
hóa - hiện đại hóa.

Thực hiện chính sách khuyến khích làm giàu đi đôi với tích cực thực hiện giảm
nghèo, đặc biệt ở các vùng nông thôn, miền núi, vùng dân tộc và các căn cứ cách mạng
trước đây. Chính sách giảm nghèo nhằm mục tiêu ổn định và tạo động lực cho sự phát triển.
Chính sách đó tạo điều kiện để mọi công nhân nắm bắt cơ hội làm ăn, nâng cao thu nhập
và đời sống, được hưởng thành quả chung của sự phát triển.

Xây dựng hệ thống bảo hiểm xã hội đa dạng và linh hoạt phù hợp với yêu cầu của
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Mở rộng các hình thức bảo hiểm bắt buộc
và tự nguyện, bảo đảm quyền lợi của người tham gia bảo hiểm. Chăm sóc các đối tượng
bảo trợ xã hội, bảo đảm cho họ có cuộc sống ổn định, hòa nhập tốt hơn vào cuộc sống và
tự vươn lên. Phát triển đa dạng các hình thức tổ chức tự nguyện, nhân đạo, hoạt động không
vì mục tiêu lợi nhuận, chăm sóc các đối tượng bảo trợ xã hội.

Hoàn thiện luật pháp, chính sách về bảo vệ môi trường, có chế tài đủ mạnh đối với
các trường hợp vi phạm, xử lý triệt để những điểm ô nhiễm môi trường nghiêm trọng và
ngăn chặn không để phát sinh thêm. Xây dựng đồng bộ luật pháp, cơ chế, chính sách quản
lý, hỗ trợ các tổ chức nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao công nghệ. Đổi mới cơ chế quản
lý khoa học và công nghệ phù hợp với cơ chế thị trường, nâng cao hiệu quả hoạt động của
cơ quan quản lý thị trường công nghệ.

Việc gắn phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, xóa đói, giảm nghèo đạt
nhiều kết quả tích cực. Sau hơn 20 năm đổi mới, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa đã hình thành và từng bước hoàn thiện, thay cho thể chế kế hoạch hóa tập
trung quan liêu, bao cấp. Thể chế kinh tế mới đã đi vàocuộc sống và phát huy hiệu quả tích
cực, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, khắc phục được khủng hoảng kinh tế

50
xã hội, tạo ra những tiền đề cần thiết đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đạihóa và
sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển.

2.2.3. Về văn hóa, xã hội, giáo dục và khoa học công nghệ:
Cùng với sự biến đổi của cơ cấu xã hội, tính năng động xã hội của mọi tầng lớp dân
cư được phát huy, đời sống của đại đa số người dân trong nước được cải thiện. Ở thời kỳ
đổi mới, cùng với quá trình phát triển nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, từng bước phát triển kinh tế tri thức đi đôi với xây dựng xã
hội học tập, thì cơ cấu các giai cấp xã hội đã biến đổi theo hướng ngày càng đa dạng và
phong phú hơn. Cơ cấu đó giờ đây không còn bị bó hẹp trong khuôn khổ “một tầng, hai
tầng” nữa mà bao gồm giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức, tầng lớp
tiểu thương, tầng lớp chủ doanh nghiệp tư nhân, tầng lớp những người lao động tự do…Sự
nghiệp giáo dục có bước phát triển về quy mô , đa dạng hóa về loại hình đào tạo và đang
được tiếp tục đổi mới, chấn chỉnh về mục tiêu, nội dung và phương pháp để nâng cao chất
lượng dạy và học. Để hội nhập với nền kinh tế thế giới đang toàn cầu hóa một cách mạnh
mẽ thì phát triển khoa học công nghệ là một điều tất yếu và cần quan tâm, đầu tư yêu cầu
những chính sách đổi mới để phát triển công nghệ.

2.2.3.1 Về văn hóa - xã hội, giáo dục:


Khi chuyển sang thời kỳ đổi mới, cùng với quá trình phát triển kinh tế thị trường
nhiểu thành phần, đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, từng bước phát triển
kinh tế tri thức đi đôi với xây dựng xã hội học tập. Ở Đại hội VIII, “đã ban hành nghị quyết
chuyên đề về “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, cho thấy chuyển
biến hết sức mạnh mẽ trong nhận thức của Đảng về tầm quan trọng của văn hóa bên cạnh
vấn đề phát triển kinh tế và xây dựng Đảng. Nghị quyết khẳng định: "Văn hóa là nền tảng
tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Mọi hoạt động văn hóa, văn nghệ phải nhằm xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người Việt Nam về tư tưởng, đạo đức, tâm hồn, tình
cảm, lối sống, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh cho sự phát triển xã hội.”

51
Đại hội IX của Đảng tiếp tục khẳng định, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Bước phát triển trong quan điểm của Đảng về văn hóa thời kỳ này là nhấn mạnh mục
tiêu hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa. Đại hội
xác định nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện. Để đạt
được mục tiêu đề ra, các chương trình hành động phải được triển khai đồng bộ, chú trọng
việc mở rộng và nâng cao hiệu quả cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
văn hóa”, “Xây dựng nếp sống văn minh và gia đình văn hóa”, phong trào “Người tốt, việc
tốt”, làm cho văn hóa thấm sâu vào từng khu dân cư, từng gia đình, từng người.”1

Ở Đại hội XII, Việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng con người có bước chuyển biến
quan trọng: Gắn nhiệm vụ xây dựng văn hóa, con người với nhiệm vụ xây dựng và phát
triển đất nước; gắn xây dựng môi trường văn hóa với xây dựng con người; bước đầu hình
thành những giá trị mới về con người với các phẩm chất về trách nhiệm xã hội, ý thức công
dân, dân chủ, chủ động, sáng tạo, khát vọng vươn lên. Mục tiêu được đề ra là: Xây dựng
nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm
nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học, trong đó, “xây dựng con người
Việt Nam phát triển toàn diện”phải trở thành một mục tiêu của chiến lược phát triển.

Đảng ta cũng khẳng định muốn phát huy nhân tố con người cần phải biết đấu tranh
chống lại sự suy thoái, xuống cấp về đạo đức về con người có thể phát triển một cách toàn
diện: “Đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, thấp hèn, lạc hậu; chống các quan điểm,
hành vi sai trái, tiêu cực ảnh hưởng xấu đến xây dựng nền văn hóa, làm tha hóa con người.
Có giải pháp ngăn chặn và đẩy lùi sự xuống cấp về đạo đức xã hội, khắc phục những mặt
hạn chế của con người Việt Nam”.2

1
Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam (16/04/2018). Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của
Đảng.

2
Tạp chí Cộng sản (29/06/2020). Quan điểm của Đảng về xây dựng nền văn hóa từ sau đổi mới đến
nay - thành tựu và những vấn đề đặt ra.
52
Đại hội XIII, Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; ưu
tiên phát triển nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt trên
cơ sở nâng cao, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện, cơ bản về chất lượng giáo dục,
đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ nhân tài, đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển
giao, ứng dụng và phát triển mạnh khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo; khơi dậy khát
vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy giá trị văn hoá, sức mạnh con
người Việt Nam, tinh thần đoàn kết, tự hào dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.

Đáng chú ý là nhận thức xã hội về việc làm và giải quyết việc làm đã có sự chuyển
biến đáng kể. Không chờ đợi Nhà nước và tập thể, người lao động ngày càng có ý thức chủ
động tạo ra việc làm cho mình và cho người khác. Từ năm 1991 đến năm 2000, trung bình
mỗi năm cả nước giải quyết cho khoảng 1-1,2 triệu người có công ăn việc làm; từ năm 2001
đến năm 2005, con số đó tăng lên 1,4-1,5 triệu người. Năm 2000, cả nước đạt chuẩn quốc
gia về nạn xóa mù chữ và phổ cập giáo dục. Tỷ lệ người lớn ( trên 15 tuổi trở lên ) biết chữ
đã tăng lên từ 85% ở những năm 1980 lên trên 90% vào năm 2005.

2.2.3.2 Về khoa học - công nghệ:


Đại hội VIII của Đảng (năm 1996) đặt ra yêu cầu ở chặng đường đầu của thời kỳ
quá độ phải chuẩn bị đầy đủ tiền đề cho phép chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Đại hội khẳng định “Khoa học và công nghệ trở thành nền tảng của công
nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Đại hội IX của Đảng (năm 2001) nhận định, thế kỷ XXI, khoa
học - công nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt, kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật. Do
đó, Đại hội chỉ rõ “Phát triển khoa học và công nghệ cùng với phát triển giáo dục và đào
tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa” để từng bước phát triển kinh tế tri thức và nâng cao năng suất lao động. Đại hội X của
Đảng (năm 2006) tiếp tục nhấn mạnh: “Kết hợp chặt giữa hoạt động khoa học và công nghệ
với giáo dục và đào tạo để thực sự phát huy vai trò quốc sách hàng đầu, tạo động lực đẩy
nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức”. Đến Đại hội XI (năm
2011), Đảng ta chú trọng tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát

53
triển kinh tế tri thức: “Phát triển mạnh khoa học, công nghệ làm động lực đẩy nhanh quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế tri thức”. Cương lĩnh xây dựng đất
nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “Phát
triển khoa học và công nghệ nhằm mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, phát triển kinh tế tri thức, vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới”.

Đại hội XII của Đảng (năm 2016) nhấn mạnh: “Phát triển mạnh mẽ khoa học và
công nghệ, làm cho khoa học - công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu, là động lực quan
trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, kinh tế tri thức”. Với mục tiêu “đến
năm 2020 khoa học và công nghệ đạt trình độ phát triển của nhóm nước dẫn đầu ASEAN”,
tại Đại hội này, Đảng ta xác định công nghiệp hóa, hiện đại hóa cần tiến hành qua 3 bước
là: Tạo tiền đề, điều kiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đẩy mạnh và nâng cao chất lượng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Đại hội XIII, Tạo đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút và trọng dụng nhân tài. Thúc đẩy nghiên cứu,
chuyển giao, ứng dụng mạnh mẽ thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, chú trọng một số ngành, lĩnh vực trọng điểm, có tiềm
năng, lợi thế để làm động lực cho tăng trưởng theo tinh thần bắt kịp, tiến cùng và vượt lên
ở một số lĩnh vực so với khu vực và thế giới.

Trong thời gian qua, với xu thế toàn cầu hóa, sự chuyển giao và hội nhập quốc tế về
khoa học, công nghệ đã khiến nền kinh tế đất nước ta phát triển một cách mạnh mẽ. Đặc
biệt ,trong lĩnh vực khoa học công nghệ đã có được rất nhiều các thành tựu nổi bật như:
Giàn khoan tự nâng 90m nước: Đây là giàn khoan đầu tiên của Việt Nam có thể đạt tới
độ sâu 90m nước, thuộc sở hữu của Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (PVN). Ở Việt
Nam, dự án cơ khí này được tài trợ nhiều nhất. Sau khi dự án được lắp đặt thành công trên
biển, Việt Nam có thể tự hào là quốc gia sở hữu giàn khoan có chất lượng nằm trong top 3
khu vực châu Á và top 10 trên thế giới. Lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt tái hoạt động: Lò
phản ứng hạt nhân Đà Lạt đã hoạt động 3 lần trong nửa thế kỷ vừa qua, một lần vào năm
1963, một lần vào năm 1984, và lần gần đây nhất là vào năm 2011. Lần hoạt động thứ ba

54
này diễn ra vào ngày 30/10/2011, đánh dấu một cột mốc quan trọng trong lịch sử phát triển
của lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt. Điều này một lần nữa đã chứng minh rằng Việt Nam có
khả năng cung cấp một nguồn năng lượng nguyên tử ổn định; nó cũng đánh dấu một bước
phát triển trong việc sản xuất năng lượng trong nước nói chung. Ngoài ra, còn có các thành
tựu khác như: máy soi cắt lớp điện toán trong công nghiệp, dây chuyền sản xuất điện tử
viễn thông, phương pháp phẫu thuật nội soi cắt các khối u tuyến tụy,…

2.2.4 Về an ninh quốc phòng, đối ngoại và hệ thống chính trị:


Khi mà xu hướng của thời đại là toàn cầu, đề cao sự hợp tác cùng phát triển của các
quốc gia với nhau thì đối ngoại là một vấn đề cần được quan tâm hơn bao giờ hết để tạo
được một tiền đề vững chắc cho sự phát triển kinh tế đất nước, hội nhập quốc tế. Từ đó
công tác chỉnh đốn Đảng, chính trị cần được quan tâm chặt chẽ để có được những chính
sách đúng đắn, phù hợp với sự nghiệp xây dựng đất nước. Và những đổi mới cần thiết cho
an ninh quốc phòng cũng góp phần giữ vững toàn vẹn lãnh thổ, độc lập quốc gia phù hợp
với con đường xã hội chủ nghĩa.

2.2.4.1 Về an ninh quốc phòng:


Nền quốc phòng của nước ta là nền quốc phòng toàn dân, với tính tự vệ tích cực.
Mục tiêu của quốc phòng, an ninh là giữ vững môi trường hoà bình cho sự nghiệp phát triển
đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Với tính chất, mục tiêu đó, nền quốc phòng và
an ninh được xây dựng theo hướng toàn dân, toàn diện, độc lập, tự chủ, tự cường và ngày
càng hiện đại. Phương hướng này chỉ rõ phải xây dựng và phát huy tiềm năng và lực lượng
mọi mặt của đất nước cả về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội... vào củng cố quốc phòng,
bảo vệ an ninh quốc gia. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã khẳng
định: “Tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh cả về tiềm lực và thế trận; xây dựng khu
vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững mạnh; xây dựng thế trận lòng dân vững chắc trong thực
hiện nhiệm vụ chiến lược bảo vệ Tổ quốc”.

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng xác định: “Phát huy mạnh
mẽ sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, thực hiện tốt mục tiêu,
nhiệm vụ quốc phòng, an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn

55
vẹn lãnh thổ; giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm
thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch và sẵn sàng ứng phó
với các mối đe doạ an ninh phi truyền thống mang tính toàn cầu, không để bị động, bất ngờ
trong mọi tình huống”.1

Đại hội XII, Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của
Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa luôn gắn bó chặt chẽ,
mật thiết với nhau; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước là nhiệm
vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn dân,
trong đó Quân đội nhân dân, Công an nhân dân là nòng cốt. “Kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn
hoá, xã hội với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hoá, xã hội
trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, chú trọng vùng sâu,
vùng xa, biên giới, biển, đảo. Kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại; tăng
cường hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh. Xây dựng "thế trận lòng dân", tạo nền tảng
vững chắc xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân... Xây dựng Quân đội
nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên
hiện đại hoá một số quân chủng, binh chủng, lực lượng; vững mạnh về chính trị, nâng cao
chất lượng tổng hợp sức mạnh chiến đấu, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà
nước và nhân dân.”2

Đại hội XIII, Giữ vững độc lập, tự chủ, tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt
động đối ngoại, hội nhập quốc tế; tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, xây dựng Quân
đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một
số lực lượng tiến thẳng lên hiện đại, tạo tiền đề vững chắc phấn đấu năm 2030 xây dựng
Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; kiên

1
Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb CTQG, tr.234.

2
Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam (17/03/2016). Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa XI về các văn kiện Đại hội XII của Đảng.
56
quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển,
đảo, vùng trời; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước.

2.2.4.2 Về đối ngoại:


Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (6-1996) khẳng định tiếp tục mở
rộng quan hệ quốc tế, hợp tác nhiều mặt với các nước, các trung tâm kinh tế, chính trị khu
vực và quốc tế. Đồng thời chủ trương “xây dựng nền kinh mở” và “đây nhanh quá trình
hội nhập kinh tế khu vực và thế giới”.
Đại hội VIII xác định rõ hơn quan điểm đối ngoại với các nhóm đối tác như: ra sức tăng
cường quan hệ với các nước láng giềng và các nước trong tổ chức ASEAN; không ngừng
củng cô quan hệ với các nước bạn bè truyền thống; coi trọng quan hệ với các nước phát
triên và các trung tâm kinh té - chính trị thế giới; đoàn kết với các nước đang phát triên,
với phong trào không liên kết; tham gia tích cực và đóng góp cho hoạt động của các tô
chức quốc tế, các điễn đàn quốc tê.
So với Đại hội VII, chủ trương đối ngoại của Đại hội VIII có đặc điểm mới là: một
là, chủ trương mớ rộng quan hệ với các đáng câm quyên và các đảng khác; hai là, quán
triệt yêu cầu mở rộng quan hệ đối ngoại nhân dân, quan hệ với các tổ chức phi chính phú;
ba là, lần đầu tiên, trên lĩnh vực kinh tế đối ngoại, Đảng đưa ra chú trương thứ nghiệm đề
tiến tới thực hiện đầu tư ra nước ngoài. Cụ thể hoá quan điểm của Đại hội VIII, Nghị
quyết Hội nghị lần thức tư. Ban chấp hành Trung ương, khoá VII (12-1997), “chỉ rõ: trên
cơ sở phát huy nội lực, thực hiện nhật quán, lâu dài chính sách thu hút các nguồn lực bên
ngoài. Nghị quyết đề ra chủ trương tiễn hành khẩn trương, vững chắc việc đàm phán Hiệp
định Thương mại với Mỹ, gia nhập APEC và WTO.
Tại Đại hội đại biêu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (4-2001), Đảng nhân mạnh
chủ trương chủ động hội nhập kinh tế quôc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa
nội lực. Lần đầu tiên, Đảng nêu rõ quan điêm vẻ xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ:
“Xây dựng nên kinh tế độc lập tự chú, trước hết là độc lập tự chủ về đường lối, chính
sách, đồng thời có tiềm lực kinh tế đủ mạnh. Xâu dựng nên kinh tế độc lập tự chủ phải đi
đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối
ngoại, kết hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tông hợp phát triển đất nước”.

57
Đại hội X (2006) được bồ sung, phát triển theo phương châm chủ động, tích cực
hội nhập kinh tế quốc tế hình thành đường lối đối ngoại độc lập tự chú,hoà binh, hợp tác
và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc
tế.
Đại hội XII, tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh
toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi
mới; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định; xây dựng nền
tảng để sớm đưa nước ta cơ bản thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.Trong bối
cảnh tình hình thế giới chuyển biến rất nhanh, với những tác động thuận nghịch đan xen,
đường lối chính sách đối ngoại mà Đại hội XII đưa ra có giá trị định hướng rất quý báu
và tạo thuận lợi lớn cho công tác đối ngoại thời gian tới.Cụ thể, công tác đối ngoại sẽ
được xây dựng trên một cơ sở đồng thuận xã hội lớn hơn, đó là lợi ích quốc gia - dân tộc.
Đồng thuận lớn hơn sẽ góp phần củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, tăng cường nhất trí
trong toàn bộ hệ thống chính trị về các vấn đề đối ngoại, theo đó huy động nhiều hơn nữa
nguồn lực bên trong cho công tác đối ngoại và kết hợp với sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại trong công tác đối ngoại. Quan trọng hơn, nhấn mạnh việc theo đuổi lợi
ích quốc gia - dân tộc đã góp phần khẳng định sự lãnh đạo của Đảng trong công tác đối
ngoại. Lợi ích quốc gia - dân tộc đã trở thành tiêu chí tối cao để đánh giá hiệu quả sự chỉ
đạo của Đảng trong hoạch định và của toàn bộ hệ thống trong triển khai đường lối đối
ngoại của Đảng. Sự khẳng định theo đuổi lợi ích quốc gia - dân tộc còn làm cơ sở cho
chúng ta áp dụng bài học đối ngoại rất thành công trong thời đại Hồ Chí Minh là “dĩ bất
biến, ứng vạn biến. “Cuối cùng, việc theo đuổi lợi ích quốc gia - dân tộc còn tạo cơ sở
ngày càng vững chắc để chúng ta đấu tranh và hợp tác với các đối tác bên ngoài. Việc
quan tâm đến lợi ích của đối tác, và phù hợp với luật pháp quốc tế là những cơ sở rất có
sức thuyết phục để chúng ta triển khai công tác đối ngoại, tạo ra điểm đồng lợi ích để xây
dựng quan hệ cùng có lợi với các đối tác và tạo cơ sở đấu tranh khi lợi ích không song
trùng.
Đại hội XIII, Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương
hoá, đa dạng hoá; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả;

58
giữ vững môi trường hoà bình, ổn định, không ngừng nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của
Việt Nam. Tiếp tục phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong việc tạo lập và giữ
vững môi trường hòa bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất
nước, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước. đối ngoại phải “Bảo đảm cao nhất lợi ích
quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và
luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Đại hội nêu rõ nhiệm vụ “Chủ động và
tích cực hội nhập quốc tế, giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập
quốc tế; thúc đẩy hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, linh hoạt, hiệu quả vì lợi ích quốc
gia - dân tộc, bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia”.
2.2.4.3 Về hệ thống chính trị:

Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, công tác xây dựng Đảng vẫn còn nổi lên
một số vấn đề lớn như: sự tác động của cơ chế thị trường và hoạt động chống phá của kẻ
thù làm một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng bản thân, phai nhạt lý
tưởng, mất cảnh giác, giảm sút ý chí, kém ý thức tổ chức kỷ luật, sa đoạ về đạo đức lối
sống, một số thoái hoá biến chất về chính trị; trình độ, kiến thức, năng lực lãnh đạo của
Đảng có mặt chưa theo kịp yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. ”Để làm tốt vai trò lãnh đạo,
Đảng phải tiếp tục tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao hơn nữa sức chiến đấu và năng lực
lãnh đạo của mình, khắc phục các khuyết điểm, các biểu hiện tiêu cực và yếu kém. Đảng
phải mạnh từ Trung ương đến cơ sở, ở tất cả các cấp, các ngành. Trong công tác xây dựng
Đảng phải thường xuyên nắm vững và quán triệt các nhiệm vụ sau: giữ vững và tăng
cường bản chất giai cấp công nhân; nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất và năng lực
cán bộ, đảng viên; kiện toàn hệ thống tổ chức của Đảng, thực hiện nghiêm chỉnh nguyên
tắc tập trung dân chủ; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, chủ trọng đội ngũ cán bộ chủ
chốt các cấp, chuẩn bị tốt đội ngũ cán bộ kế cận; nâng cao sức chiến đấu của tổ chức cơ
sở Đảng; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. ”

Ở Đại hội X, “ nội dung mới của thành tố thứ hai trong chủ đề Đại hội X là “phát
huy sức mạnh toàn dân tộc”.Muốn đoàn kết phải lấy mục tiêu chung của toàn dân tộc là
giữ vững độc lập, thống nhất Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,…Điểm

59
mới ở đây là xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần giai
cấp; tôn trọng những ý kiến khác nhau không trái với lợi ích của dân tộc. Đề cao truyền
thống nhân nghĩa, khoan dung, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau vì ổn định
chính trị và đồng thuận xã hội. Đại hội chỉ ra nhiều biện pháp, hình thức, nhằm phát huy
dân chủ, có chính sách bảo vệ lợi ích các giai cấp, tầng lớp nhân dân, bảo đảm công bằng
xã hội.”1Đại hội X đã sắp xếp lại bộ máy của Đảng và Nhà nước trở nên tinh gọn, linh
hoạt và hiệu quả hơn. Tiếp tục thực hiên công tác chỉnh đốn Đảng thông qua những
nguyên tắc và hoạt động cụ thể là: “Thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ thực
hành dân chủ rộng rãi trong Đảng và trong xã hội; Đẩy mạnh phân cấp, tăng chế độ trách
nhiệm cá nhân nhất là đối với người đứng đầu. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với hoạt động của hệ thống chính trị là công việc hệ trọng. Phải chủ động tích cực có
quyết tâm cao đồng thời cần thận trọng có bước đi vững chắc, vừa làm, vừa tổng kết rút
kinh nghiệm. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ chính trị
ở mỗi cấp, mỗi ngành vừa phải quán triệt nguyên tắc chung phù hợp với đặc điểm từng
cấp, nghành.”2

Cương lĩnh năm 2011 đã bổ sung cách diễn đạt bản chất của Đảng : “Đảng Cộng
sản Việt Nam là đội tiền phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của
nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấpcông
nhân, nhân dân lao động và của dân tộc, đồng thời khẳng định: Đảng lấy chủ nghĩa Mác-
Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam hành động, lấy tập
trung dân chủ làm nguyên tắc cơ bản của tổ chức. ”3

Ở Đại hội XII, tiếp tục đổi mới trong thực hiện chỉnh đốn Đảng “ Tăng cường xây
dựng chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống, biểu hiện “tự chuyển biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Tập trung xây dựng đội

1
Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam. Nxb Chính trị quốc gia Sự thật

2
Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam. Nxb Chính trị quốc gia Sự thật

3
Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam. Nxb Chính trị quốc gia Sự thật,

60
ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín,
ngang tầm nhiệm vụ.”1“ Thu hút, phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực và sức sáng tạo của
nhân dân. Chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, giải quyết những vấn đề bức
thiết; tăng cường quản lý phát triển xã hội, đảm bảo an ninh xã hội, an ninh con người,
nâng cao phúc lợi xã hội và giảm nghèo bền vững. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân,
phát huy sức mạnh đại đoàn kết của toàn dân tộc.“ 2

Đại hội XIII, kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định
đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Qua quan điểm này cho thấy, so với các Đại
hội trước, Đại hội XIII lần này bổ sung thêm vấn đề: “kiên định các nguyên tắc xây dựng
Đảng”.Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tăng cường bản chất giai cấp công nhân
của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng;
xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện, xây dựng Nhà
nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là
đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ,
gắn bó mật thiết với nhân dân là những nhân tố có ý nghĩa quyết định thành công của sự
nghiệp xây dựng, phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc.

TÓM TẮT CHƯƠNG 2

Con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, từ một nước nông nghiệp lạc hậu,
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tiến lên một nước có công nghiệp và nông nghiệp hiện
đại, có khoa học – kỹ thuật tiên tiến là con đường mới, lần đầu tiên được khai phá. Chúng
ta xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng chủ nghĩa xã
hội, trong bối cảnh toàn cầu hoá, là một bước chuyển đầy khó khăn, nó đặt ra hàng loạt

1
Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam. Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, tr.370.

2
Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam. Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, tr.371.

61
vấn đề lý luận và thực tiễn mà chúng ta chưa thể nhận thức và giải đáp ngay một lúc được,
phải vừa tìm tòi, vừa thử nghiệm nên có thể có đúng, có sai. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh,
con đường quá độ lên chủ nghĩa tư bản ở Việt Nam là một thờ kỳ lịch sử lâu dài và khó
khăn , nó phải trải qua nhiều bước, “bước ngắn, bước dài tuỳ theo hoàn cảnh”, nhưng “đi
bước nào phải vững chắc bước ấy , cứ tiến dần dần”. Phải chống nóng vội, chủ quan, duy
ý chí, đồng thời phải chống rụt rè, bảo thủ, thiếu ý chí cách mạng tiến công. Phải thấy chủ
nghĩa quá độ là một vấn đề lớn, có tính quy luật, sẽ còn chi phối lâu dài, nên cần được
nghiên cứu cụ thể và dự báo đầy đủ hơn nữa.

Trước sự phát triển không ngừng của kinh tế thế giới, việc đẩy mạnh hội nhập kinh tế
là một điều tất yếu mà đất nước ta phải thực hiện trong công cuộc đổi mới, xây dựng đất
nước. Tiến hành xây dựng nền kinh tế thị trường theo con đường xã hội chủ nghĩa, đổi
mới về cơ chế thị trường, gắn kết với xã hội, đi đôi với sự nghiệp “ trồng người”, nâng cao
đời sống vật chất lẫn tinh thần của nhân dân. Quan tâm đến phát triển khoa học công nghệ
đã tạo ra nhiều thành tựu quan trọng, góp phần vào phát triển đất nước. Cũng như củng cố
và phát huy nền an ninh quốc phòng quốc gia vững mạnh, hiện đại và trong sạch tạo một
lá chắn kiên cố cho con đường đi lên theo chủ nghĩa xã hội.

Trong cơ chế một Đảng duy nhất lãnh đạo, công tác xây dựng Đảng thường xuyên
về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, … là nhân tố quyết định nhất, là quy luật tồn tại
và phát triển của Đảng. Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng không ngừng nâng cao
mọi mặt lên ngang tầm thời đại: về trí tuệ, đạo đức, năng lực tổ chức thực hiện, gắn bó máu
thật với nhân dân, nói đi đôi với làm, … chỉ như vậy Đảng mới thực sự xứng đáng là “ hiện
thân của trí tuệ, vinh dự và lương tâm của dân tộc”, Đảng mới hoàn thành được sứ mệnh
vẻ vang của minh là đội tiên phong sáng suốt của dân tộc.

Độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, Đảng, Nhà nước,
nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa là những nội hàm cốt lõi của lợi ích quốc gia - dân tộc.
Với điều này, Đảng ta khẳng định mạnh mẽ hơn quyết tâm bảo vệ đến cùng các lợi ích đó,
đồng thời chỉ ra phương cách đấu tranh là kiên trì với nghĩa là không nóng vội, không manh
động, phải tận dụng mọi biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế, tận dụng mọi

62
kênh và mọi phương thức có thể. Đường lối đối ngoại là “độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác
và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực
hội nhập quốc tế; là bạn là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc
tế”1.

1
Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội

63
CHƯƠNG 3: ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI – NHỮNG THÀNH TỰU VÀ BÀI HỌC KINH
NGHIỆM
3.1. Những thành tựu

Lý luận và thực tiễn là hai phạm trù có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Trên
lĩnh vực cách mạng xã hội, V.I. Lê-nin từng nói “Không có lý luận cách mạng thì
không có phong trào cách mạng”. Lý luận mang tính tiên phong, định hướng, dẫn
tới những thắng lợi của thực tiễn phong trào cách mạng. Ngược lại, thực tiễn là minh
chứng rõ ràng nhất tính đúng đắn, khoa học của lý luận, bổ sung và phát triển lý
luận, cho thấy lý luận đó có phải là cội nguồn, là cơ sở của những thắng lợi trong
thực tiễn hay không.
3.1.1. Về thực tiễn

Năm 1986 Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, đã khơi dậy và phát huy sức mạnh tổng hợp của cả dân
tộc để đi vào đổi mới. Đổi mới toàn diện từ kinh tế, đối ngoại đến đổi mới quốc
phòng, an ninh và đặc biệt là càng ngày càng thấy sự đổi mới mạnh mẽ trong lãnh
đạo văn hóa. Cho nên 35 năm qua đất nước đã có bước phát triển toàn diện, giành
được những thành tựu rất to lớn trên tất cả các lĩnh vực, tạo ra thế và lực mới cho
cách mạng Việt Nam.
Chưa bao giờ sức mạnh quốc gia, uy tín và vị thế quốc tế của chúng ta mạnh
và cao như bây giờ. Chúng ta hoàn toàn có quyền tự hào, sự nghiệp đổi mới ấy đã
mang lại sự thay đổi toàn bộ diện mạo đất nước, đời sống vật chất và tinh thần hiện
đã được cải thiện rõ rệt. Mọi người dân Việt Nam và ngay cả lớp trẻ, thế hệ 8x, 9x,
cũng đã cảm nhận được sự đổi mới, sự lớn mạnh của đất nước, vị thế quốc tế, uy tín
của dân tộc ta. Trong đó trước hết phải nói thành tựu rất quan trọng của Đảng ta về
đổi mới tư duy, nghiên cứu, nhận thức sâu sắc hơn Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng
Hồ Chí Minh, đi vào tổng kết thực tiễn của cách mạng Việt Nam và thế giới. Đảng
ta vừa trung thành, vừa phát triển rất sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, khẳng định Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư
tưởng, là kim chỉ nam hành động của Đảng, tiếp tục nghiên cứu tổng kết thực tiễn

64
để phát triển sáng tạo, nhận thức rõ hơn một cách tổng thể về chủ nghĩa xã hội, con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam với những cách làm sáng tạo.
Ví dụ, mô hình tăng trưởng của chúng ta là phát triển một nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Lúc đầu các thế lực thù địch tấn công ghê gớm,
cho rằng đã thị trường thì không có xã hội chủ nghĩa. Nhưng quả thật chúng ta nghiên
cứu rất sâu sắc lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tổng kết thực tiễn và
Đảng ta đã phát triển sáng tạo. Từ đó, thấy rất rõ là kinh tế thị trường là một thành
tựu của văn minh nhân loại, tạo động lực cho tăng trưởng. Đảng đã đưa ra đường lối
phát triển nền kinh tế thị trường, tất cả các loại thị trường phát triển theo quy luật
của kinh tế thị trường. Thị trường hàng hóa, thị trường lao động, thị trường bất động
sản, thị trường tiền tệ chứng khoán... dần dần hoạt động theo đúng quy luật, nhưng
được kiểm soát trong điều kiện chúng ta có Nhà nước của dân, do dân, vì dân và
chúng ta điều chỉnh bằng hệ thống pháp luật. Nền kinh tế có sự quản lý của Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Cho nên vừa khơi dậy
được mặt tích cực của cơ chế thị trường nhưng lại định hướng được đến mục tiêu
của chúng ta là dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đây là sự sáng
tạo rất tuyệt vời đã tạo ra bước phát triển vượt bậc.
Ví dụ khác, trên lĩnh vực đối ngoại, Đảng ta vừa trung thành vừa sáng tạo,
tiến hành một đường lối độc lập, đa phương hóa, đa dạng hóa, làm bạn và tiến tới là
đối tác tin cậy với mọi quốc gia không phân biệt chế độ chính trị, nhưng tất cả phải
vì mục tiêu hòa bình độc lập tiến bộ xã hội. Việt Nam trở thành thành viên đầy trách
nhiệm với cộng đồng, khu vực và quốc tế. Đường lối đối ngoại đã phát huy tác dụng,
Việt Nam tiến hành đối ngoại trên mọi mặt trận, đối ngoại chính trị, đối ngoại kinh
tế, đối ngoại văn hóa, đối ngoại quốc phòng an ninh, được bạn bè quốc tế ngày càng
ủng hộ, nâng cao vị thế quốc tế. Việt Nam đã hai lần trở thành Ủy viên không thường
trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Uy tín càng lên bạn bè càng đông, đặc biệt
là Việt Nam đã tham gia rất nhiều các hiệp định về kinh tế và Hiệp định đối tác từ
đối tác chiến lược, đối tác chiến lược toàn diện và đặc biệt với tất cả các nước. Từ
sức mạnh kinh tế tiềm năng kinh tế, các giá trị văn hóa, triển khai trên tất cả các lĩnh

65
vực an ninh quốc phòng, tạo được các thành tựu một cách toàn diện và có thể khẳng
định đây là những thành tựu có ý nghĩa lịch sử, tạo thế và lực mới chưa bao giờ tiền
đồ của dân tộc tươi sáng như vậy, khiến chúng ta rất đỗi tự hào.
Dù trong 35 năm qua, chúng ta không phải không có vấp váp, sai lầm, nhưng
tổng thể từ năm 1986 - 1995 đang từ một nền kinh tế khủng hoảng rất sâu sắc nền
kinh tế Việt Nam đã ra khỏi khủng hoảng. Thế rồi từ năm 1996 - 2005 bắt đầu phát
triển với tốc độ khá cao, tốc độ tăng trưởng bình quân từ 7,5 - 8% hằng năm. “Từ
năm 2006 - 2010, Việt Nam đã vượt qua nước chậm phát triển trở thành nước phát
triển trung bình. Kinh tế tăng trưởng nhanh, đạt tốc độ bình quân 7,26%/năm”1. Năm
2010 theo giá thực tế đạt trên 101,6 tỉ USD, GDP bình quân đầu người đạt 1,168
USD2. Kinh tế phát triển, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện,
văn hóa có bước phát triển mới, nhiều giá trị được xây dựng. Hệ giá trị của con người
Việt Nam, đặc biệt là các giá trị cốt lõi: yêu nước, lao động cần cù sáng tạo, đạo đức
nhân văn ngày càng phát triển với những thế hệ con người, ngày càng phát triển
thêm, sáng tạo thêm những giá trị mới, tạo ra nguồn lực nội sinh cho dân tộc này
phát triển. Đặc biệt, trong năm 2020, đại dịch COVID-19 gây ra nhiều thiệt hại về
kinh tế - xã hội, song nhờ phát huy được sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, sự ưu
việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, sự tham gia đồng bộ, quyết liệt của cả hệ thống
chính trị dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, sự đồng lòng ủng hộ của nhân dân,
đất nước ta đã từng bước kiểm soát có hiệu quả đại dịch COVID-19; từng bước phục
hồi sản xuất, kinh doanh và các hoạt động kinh tế - xã hội; ổn định đời sống nhân
dân; góp phần củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước
và chế độ xã hội chủ nghĩa; khẳng định bản lĩnh, ý chí, truyền thống tốt đẹp của nhân
dân ta, dân tộc ta. “Trong khi kinh tế thế giới suy thoái, tăng trưởng âm gần 4%, kinh

1
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2011, tr. 70

2
Tạp chí Cộng sản. (22/04/2011). Tình hình đất nước sau 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội 2001-2010. Truy cập từ: https://www.tapchicongsan.org.vn/noi-dung-co-ban-va-moi-cua-cac-van-
kien/-/2018/2121/tinh-hinh-dat-nuoc-sau-10-nam-thuc-hien-chien-luoc-phat-trien-kinh-te---xa-hoi-2001-
2010.aspx

66
tế nước ta vẫn đạt mức tăng trưởng 2,91%, là một trong những nền kinh tế có tốc độ
tăng trưởng cao nhất thế giới”1.
Những thành tựu đạt được là kết tinh sức sáng tạo của quá trình phấn đấu liên tục,
bền bỉ của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta qua nhiều nhiệm kỳ đại hội, góp phần tạo
nên những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của nước ta qua 35 năm đổi mới. Đạt được
những thành tựu nêu trên có nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân bao trùm và quan
trọng nhất là sự đoàn kết, thống nhất, sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, kịp thời, có hiệu quả
của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cấp uỷ đảng trong việc
triển khai thực hiện toàn diện, đồng bộ Nghị quyết Đại hội lần thứ XII, giải quyết kịp thời,
có hiệu quả nhiều vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn; sự quản lý, điều hành quyết liệt của
Chính phủ và chính quyền các cấp; sự nỗ lực đổi mới nội dung và phương thức hoạt động
của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp; sự tham gia tích cực và có hiệu quả của Mặt
trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội; sự phối hợp đồng bộ của cả hệ thống chính
trị; sự nỗ lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên; tinh thần lao động tích cực, cần cù, sáng tạo,
trách nhiệm của cộng đồng doanh nghiệp và các tầng lớp nhân dân; sự ủng hộ của bạn bè
quốc tế.

Thành tựu lớn thứ hai cũng cần nói đến đó là thành tựu xây dựng Đảng. Hội nghị
giữa nhiệm kỳ Đại hội VII vào năm 1994 Đảng ta đã nhận diện bốn nguy cơ: Nguy cơ tụt
hậu; Nguy cơ suy thoái đạo đức, lối sống, tư tưởng chính trị, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng
phí; Nguy cơ chệch định hướng, con đường chúng ta đi nếu bị chệch thì sẽ đi vào vết xe đổ
của một số Đảng cộng sản khác; Nguy cơ các thế lực thù địch điên cuồng coi Việt Nam là
một trong những trọng điểm để tiến hành chiến lược diễn biến hòa bình gắn với bạo loạn
lật đổ, phủ định sự lãnh đạo của Đảng này, lật đổ chế độ này.

1
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2021, tập 1, tr. 23

67
Từ Đại hội VII, VIII, IX chúng ta liên tục tìm rất nhiều giải pháp để ngăn
chặn, đẩy lùi từng nguy cơ. Đảng đối mặt nguy cơ suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống, trở thành quá trình tự diễn biến, tự chuyển hóa. Đến Đại hội XII
đã đưa ra Nghị quyết Trung ương 4 về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Nếu Đảng cầm
quyền, Đảng chính trị duy nhất lãnh đạo toàn xã hội mà suy thoái thì nguy cơ đụng
đến sự tồn vong của Đảng và đặc biệt là chế độ này. Đảng ta đã triển khai đồng bộ
cả 4 giải pháp, về chính trị tư tưởng phê bình tự phê bình, cơ chế, chính sách, giám
sát, kiểm tra và giải pháp về phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, của các đoàn thể
chính trị tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Không những giáo dục, rèn luyện cán
bộ đảng viên, ban hành hệ thống cơ chế, chính sách pháp luật đồng bộ và đặc biệt là
tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát càng ngày càng mạnh mẽ, sâu sắc,
gắn với phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị thực sự tham
gia xây dựng Đảng. Đội ngũ cán bộ đảng viên có bước trưởng thành về tư tưởng
chính trị, đạo đức, năng lực lãnh đạo.
3.1.2. Về lý luận

Thứ nhất, đó là thành tựu về lý luận cách mạng giải phóng dân tộc ở một nước
thuộc địa và phong kiến.
Trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, Đảng đã xây dựng được một nền
tảng lý luận vững chắc, đúng đắn, sáng tạo về con đường đấu tranh giải phóng dân
tộc. Lý luận về con đường cách mạng giải phóng do Nguyễn Ái Quốc tiếp thu chủ
nghĩa Mác Lê-nin,vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh một nước thuộc địa và phong
kiến như Việt Nam. Lý luận cách mạng giải phóng dân tộc bao hàm một số nội dung
chính yếu sau: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, cách mạng Việt Nam
từ cách mạng giải phóng dân tộc tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, với câu nói nổi
tiếng, chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những
người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã xác
định làm tư sản dân quyền cách mạng để đi tới xã hội cộng sản. Từ đây, cách mạng
Việt Nam có đường lối đúng đắn với tư tưởng cốt lõi là độc lập dân tộc gắn liền với

68
chủ nghĩa xã hội, giải phóng dân tộc gắn với giải phóng giai cấp và giải phóng con
người. Trên cơ sở đó, Đảng đã phát triển lý luận về xây dựng lực lượng cách mạng
và đại đoàn kết toàn dân tộc. Cùng với đó, Đảng đề cao đoàn kết quốc tế, tranh thủ
sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ của quốc tế đối với cách mạng Việt Nam. Trên cơ sở
đường lối cách mạng, Đảng xác định phương pháp cách mạng trong cách mạng giải
phóng dân tộc là phươg pháp sử dụng bạo lực quần chúng cách mạng chống lại bạo
lực phản cách mạng, dùng sức mạnh của đông đảo quần chúng đấu tranh giành chính
quyền về tay nhân dân.
Với lý luận đúng đắn về con đường cách mạng giải phóng dân tộc, Đảng đã
lãnh đạo nhân dân Việt Nam làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám thành công, sáng
lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đó chính là thành tựu thực tiễn minh chứng
rõ nét nhất thành công của Đảng về mặt lý luận khi lãnh đạo cách mạng giải phóng
dân tộc trong bối cảnh phong trào cộng sản và công nhân quốc tế có sự tả khuynh về
đường lối cách mạng, trong bối cảnh nhiều phong trào đấu tranh yêu nước của nhân
dân Việt Nam đã không giành được thắng lợi.
Thứ hai, là lý luận về chiến tranh nhân dân, chiến tranh giải phóng gắn liền
với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
Phải đối diện với kẻ thù mạnh hơn rất nhiều, Đảng đã từng bước xây dựng và
phát triển lý luận về cuộc chiến tranh giải phóng. Trước cuộc xâm lăng của thực dân
Pháp lần thứ hai, Đảng đề ra đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ,
dựa vào sức mình là chính. Trong hoàn cảnh phải lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít địch nhiều,
chỉ có dựa vào sự đoàn kết của nhân dân mới có thể chiến thắng kẻ thù hung bạo.
Qua hai cuộc kháng chiến, lý luận về cuộc chiến tranh nhân dân Việt Nam dần được
bổ sung và phát triển, bao gồm một số luận điểm chính như vũ trang toàn dân, xây
dựng lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt, tiến hành đấu tranh toàn diện trên
tất cả các mặt kinh tế, chính trị, quân sự ngoại giao, khoa học kỹ thuật quân sự, giành
thắng lợi từng bước, đánh thắng từng chiến lược chiến tranh của kẻ thù, biết mở đầu
và kết thúc chiến tranh một cách chủ động, sáng tạo; thấu suốt quan điểm bạo lực
cách mạng, coi tư tưởng tiến công là quy luật giành chiến thắng; kết hợp sức mạnh

69
dân tộc với sức mạnh thời đại, tranh thủ sự giúp đỡ và ủng hộ quốc tế. Với lý luận
về chiến tranh nhân dân, quốc phòng toàn dân, Đảng đã lãnh đạo thắng lợi cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, thực hiện thống nhất đất nước,
đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Thứ ba, là lý luận về cách mạng xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi mới đất
nước, thể hiện qua các Cương lĩnh của Đảng năm 1991, năm 2001 và năm 2011.
Khi những hạn chế của mô hình chủ nghĩa xã hội thời chiến đã lộ rõ, trở thành
vật cản trên con đường phát triển, Đảng đã tập trung tìm tòi, nghiên cứu lý luận về
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Qua các cương lĩnh, lý luận về mô
hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng rõ nét. Đảng đã xác định những vấn đề
cốt lõi, đó là mục tiêu, là động lực, là phương hướng, là giải pháp xây dựng chủ
nghĩa xã hội trên tất cả các lĩnh vực trọng yếu của đời sống xã hội. Đảng đã xác định
rõ từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa phải
trải qua một thời kỳ quá độ với những chặng đường, bước đi phù hợp, lâu dài. Từ
một nước nông nghiệp lạc hậu tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển
tư bản chủ nghĩa, cần bỏ qua điều gì, tiếp thu điều gì. Qua ba cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ đổi mới, lý luận về con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam đã từng bước được xây dựng, bổ sung, phát triển. Đến Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm
2011), Đảng đã chỉ rõ những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội mà Đảng, nhân dân ta
xây dựng là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, do nhân dân làm
chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ
sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người
có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc
trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát
triển; có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên
thế giới. Trên cơ sở những đặc trưng đó, đường lối của Đảng đã xác lập được hệ

70
thống lý luận về con đường và những giải pháp cơ bản nhằm hiện thực hóa chủ nghĩa
xã hội. Trước hết là phải thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng
xác định mục tiêu, nội dung, con đường mô hình, phương thức và nguồn lực của
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tiếp đó là lý luận về nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Lý luận về xây dựng nền văn hóa mới tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc. Lý luận về giải quyết những vấn đề xã hội. Lý luận về chiến tranh nhân
dân, quốc phòng toàn dân trong điều kiện mới. Lý luận về đường lối và chính sách
đối ngoại của Đảng, ngoại của Nhà nước. Lý luận về xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa, lý luận về phát huy dân chủ, xây dựng hệ thống chính trị. Lý luận
về xây dựng Đảng trong điều kiện mới. Có thể nói, qua ba cương lĩnh xây dựng đất
nước tiến lên chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ đổi mới, lý luận về con đường cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ngày càng được bổ sung hoàn thiện sáng tỏ hơn
cụ thể hơn, khoa học hơn và như chúng ta đã biết đó là cơ sở vững chắc để Đảng,
Nhà nước và nhân dân ta đạt được thành tựu thực tiễn trên tất cả các lĩnh vực đó. Cụ
thể là kinh tế phát triển cao và ổn định, quan hệ đối ngoại được mở rộng, chính sách
xã hội được thực hiện tốt, quốc phòng an ninh được giữ vững… vị thế kinh tế và
chính trị của Việt Nam trên trường quốc tế được xác lập vững chắc, Việt Nam ngày
càng hội nhập quốc tế sâu rộng. Thành tựu kinh tế - xã hội, an ninh – quốc phòng,
đối ngoại của Việt Nam trong 35 năm đổi mới đã chứng tỏ lý luận về con đường xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã được thực tiễn kiểm nghiệm là đúng đắn, sáng
tạo, là khoa học mặc dù còn nhiều vấn đề phải tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và phát
triển. Thực tế mô hình chủ nghĩa xã hội hoặc đã sụp đổ ở Liên Xô, Đông Âu, hoặc
đang lạc bước với sự phát triển chung của thế giới (Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều
Tiên, Cu Ba, Venezuela), mới thấy hết sức sáng tạo lớn lao của Đảng về mặt lý luận
trong xây dựng mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Như vậy, dựa trên nền tảng tư tưởng vững chắc của Chủ nghĩa Mác - Lê-nin,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng bước xây dựng và phát triển lý luận về cách mạng
giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở đó, Đảng đã lãnh đạo
nhân dân Việt Nam đạt được những thành tựu vẻ vang trong thực tiễn mà không thế

71
lực nào có thể phủ nhận. Đó là những thành tựu có ý nghĩa dân tộc và thời đại của
Việt Nam trong nửa cuối thế kỷ XX và những thập niên đầu thế kỷ XXI, là hành
trang của dân tộc Việt Nam có thể tiếp tục tiến xa hơn, vững chắc hơn trên con đường
đã chọn.

3.2. Một số bài học kinh nghiệm chủ yếu


3.2.1. Kiên trì đổi mới toàn diện, có nguyên tắc, sáng tạo

Đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp.
Biện chứng của cuộc sống đặt ra cho Ðảng và nhân dân ta một thử thách to lớn về trí tuệ:
đổi mới như thế nào cho hiệu quả và an toàn, nhất là trong đổi mới chính trị và hệ thống
chính trị? Thực tiễn đã chỉ rõ phải đổi mới toàn diện: từ nhận thức tư tưởng đến hoạt động
thực tiễn; từ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, từ đối nội đến đối ngoại, nghĩa là đổi mới
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong chính trị, đổi mới và chỉnh đốn Ðảng, gắn
liền với đổi mới quản lý của Nhà nước, đồng thời phải đổi mới tổ chức, nội dung, phương
thức hoạt động của từng bộ phận cấu thành hệ thống chính trị, của mặt trận và các tổ chức
chính trị - xã hội. Phải đổi mới đồng bộ tất cả các mặt của đời sống xã hội, nhưng không có
nghĩa là làm đồng loạt, dàn đều, mà phải có trọng tâm, trọng điểm, có những bước đi thích
hợp. Lúc đầu, phải tập trung vào đổi mới kinh tế và từng bước đổi mới hệ thống chính trị.
Tiếp theo, phải tiến hành đồng thời đổi mới kinh tế với đổi mới hệ thống chính trị; có sự
tính toán cân nhắc, trù liệu cẩn thận các bước đi, hình thức, biện pháp thích hợp. Vội vã,
hấp tấp sẽ gây mất ổn định, thậm chí rối loạn, tạo cơ hội cho các thế lực thù địch chống phá
công cuộc đổi mới; ngược lại, quá chậm chạp trong đổi mới, trong đó có đổi mới hệ thống
chính trị sẽ cản trở sự phát triển kinh tế cũng như toàn bộ công cuộc đổi mới. Phải đảm bảo
sự gắn kết, đồng bộ giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Ðảng là nhiệm
vụ then chốt với phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội.
Nhận thức đúng mối quan hệ giữa các lĩnh vực của đời sống xã hội, giữa các
nội dung và nhiệm vụ mà công cuộc đổi mới đặt ra để từ đó xác định rõ các biện
72
pháp, các bước đi hợp lý cần phải thực hiện có ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất to lớn.
Trong vấn đề phức tạp này, nổi bật lên mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị. Việc
tiến hành đổi mới hai lĩnh vực trọng yếu này là đòi hỏi Ðảng và Nhà nước, những
chủ thể lãnh đạo và quản lý xã hội chẳng những phải thấm nhuần quan điểm thực
tiễn, thấu hiểu cuộc sống của nhân dân, đáp ứng những nhu cầu bức xúc, những lợi
ích thường nhật của người dân cùng với sự phát triển lâu dài, bền vững của dân tộc
mà còn phải thể hiện được tầm nhìn văn hóa, nhãn quan văn hóa chính trị trong việc
đề ra chủ trương và chính sách. Văn hóa, đó là kết quả sáng tạo tổng hợp từ tất cả
các lĩnh vực hoạt động của con người, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng chỉ ra,
văn hóa không ở bên ngoài mà ở trong kinh tế và chính trị. Nhìn lại sau bao năm đổi
mới, cả những thành tựu và những hạn chế, khiếm khuyết, ta càng thấy rõ giá trị và
ý nghĩa của những đột phá trong đổi mới kinh tế, từ những thử nghiệm ban đầu về
khoán, về những điều chỉnh cơ chế quản lý đến việc chuyển sang cơ chế thị trường
và định hình đường lối phát triển mạnh mẽ nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Tập trung mọi nỗ lực vào đổi mới kinh tế để đạt được tốc độ và nhịp độ
tăng trưởng kinh tế cao, nhờ đó mới có thể chăm lo lợi ích cho người lao động, cải
thiện điều kiện sống và mức sống của dân cư, tạo ra động lực phát triển xã hội. Với
đổi mới kinh tế, gắn liền chính sách kinh tế với chính sách xã hội, kết hợp tăng
trưởng kinh tế với từng bước thực hiện công bằng xã hội, Ðảng và Nhà nước không
chỉ chú trọng giải quyết các vấn đề thiết yếu trước mắt của cuộc sống dân cư, thực
hiện công bằng trong phân phối lợi ích mà còn hướng tới điều căn bản, sâu xa hơn
là công bằng về cơ hội phát triển cho tất cả mọi người dân. Ðó là tầm vóc và ý nghĩa
cách mạng của đổi mới, trước hết là đổi mới kinh tế, thể hiện ở tư tưởng lý luận và
biện pháp thực hiện về giải phóng và phát triển nguồn lực con người. Ðó cũng chính
là dân chủ hóa kinh tế, đồng thời là dân chủ hóa chính trị để thực hiện quyền làm
chủ và thụ hưởng lợi ích của những người lao động làm chủ xã hội. Ðổi mới kinh tế,
đổi mới chính trị và đổi mới toàn diện xã hội đã đi đúng quy luật, thuận lòng dân,
được nhân dân hết lòng ủng hộ và hăng hái nhập cuộc là vì thế. Một đường lối, chủ
trương và chính sách đúng sẽ nhanh chóng đi vào cuộc sống và sớm phát huy tác

73
dụng, bởi nó đáp ứng được lợi ích của nhân dân, phát triển được sức dân, đó là sức
mạnh nền tảng của xã hội. Thành công của đổi mới kinh tế đã góp phần trực tiếp vào
việc củng cố sự vững mạnh của chế độ chính trị, đồng thời đổi mới chính trị đúng
đắn, thận trọng, có bước đi hợp lý lại thúc đẩy kinh tế phát triển và làm lành mạnh
hóa xã hội. Trong vấn đề này, giữ vững ổn định chính trị tích cực có một tầm quan
trọng đặc biệt. Nó là tiền đề, là điều kiện tiên quyết để đổi mới có kết quả, hiệu quả.
Thành bại của mọi chương trình cải cách và đổi mới ở tất cả các nước, trong đó có
nước ta, bắt đầu từ việc có giải quyết được vấn đề ổn định chính trị hay không. Ðó
là bài học kinh nghiệm quý báu từ việc đổi mới toàn diện, có biện pháp đúng và
bước đi thích hợp.
3.2.2. Đảng phải được xây dựng vững mạnh về mọi mặt

“Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải được triển khai quyết liệt, toàn diện, đồng
bộ, thường xuyên, hiệu quả cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Kiên định,
vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; nâng cao
năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; thường xuyên củng cố, tăng
cường đoàn kết trong Đảng và hệ thống chính trị; thực hiện nghiêm các nguyên tắc xây
dựng Đảng, thường xuyên đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Xây dựng Nhà nước
và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; hoàn thiện cơ chế kiểm soát chặt
chẽ quyền lực; kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống suy thoái, “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong nội bộ; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí”1.
Công cuộc đổi mới đạt được nhiều thành tựu và nhân tố quyết định đem lại thành công
này chính là sự lãnh đạo của Ðảng thông qua đường lối đúng quy luật, thuận lòng dân và
hợp với xu thế thế giới; thông qua bản lĩnh chính trị vững vàng của Ðảng và khối đoàn kết
thống nhất chặt chẽ trong Ðảng, thông qua mối liên hệ mật thiết giữa Ðảng với quần chúng.
Mặt khác, trong quá trình lãnh đạo đổi mới, Ðảng cũng bộc lộ một số mặt yếu kém và cả
biểu hiện tiêu cực như một bộ phận không nhỏ đảng viên thoái hóa về tư tưởng, lập trường,
tham nhũng, suy thoái về lối sống, đạo đức, tác phong. Bởi vậy, để tiếp tục lãnh đạo ngày

1
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2021, tập 1, tr. 26

74
càng có hiệu quả sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, Ðảng ta xác định
xây dựng Ðảng trong sạch, vững mạnh là khâu then chốt: “công tác cán bộ phải thực sự là
“then chốt của then chốt”, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cán bộ cấp
chiến lược và người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; phát
huy trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên theo phương châm chức vụ càng cao
càng phải gương mẫu, nhất là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp
hành Trung ương”1. Ðảng phải thật sự tiêu biểu cho trí tuệ, lương tâm và danh dự của dân
tộc; tiêu biểu cho đạo đức và văn minh, đó là một Ðảng chân chính cách mạng. Chỉ như
vậy, Ðảng mới có đủ năng lực đưa ra các quyết sách đúng đắn, kịp thời để định hướng cho
hoạt động của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội nói chung. Nâng cao bản lĩnh chính trị,
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Ðảng là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp
đổi mới.
3.2.3. Chăm lo xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên

Đất nước ta đã bước sang một giai đoạn cách mạng mới, giai đoạn đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đây là cuộc cách mạng toàn diện nhất, sâu
sắc nhất và triệt để nhất, diễn ra trên tất cả các lĩnh vực, đòi hỏi cần tăng cường hơn
nữa công tác quản lý, bồi dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên
theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Để làm theo lời Bác, mỗi cấp ủy, tổ chức
đảng, cán bộ, đảng viên cần thực hiện tốt một số giải pháp cơ bản sau:
Một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị
đối với công tác bồi dưỡng, rèn luyện nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng
viên.
Đây là giải pháp cơ bản, quan trọng hàng đầu giữ vai trò quyết định đến nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Bởi mọi hoạt động của con người đều bắt đầu từ nhận
thức, trên cơ sở nhận thức, chỉ có nhận thức đúng mới có cơ sở cho hành động đúng. Do
vậy, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp, lãnh đạo các cơ quan, đơn vị cần tổ chức quán triệt, giáo
dục, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức cho mọi tổ chức, mọi lực lượng. Thường

1
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2021, tập 1, tr. 27

75
xuyên đổi mới nội dung, phương pháp trong bồi dưỡng, giáo dục, định hướng tư tưởng,
nhận thức và hành động, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Để thực
hiện có hiệu quả, chất lượng công tác này, cần phát huy tốt vai trò, trách nhiệm của các cấp
uỷ, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Đồng thời, cần có những biện pháp kịp thời
khắc phục triệt để những tư tưởng, nhận thức và hành động chưa đúng, chưa đầy đủ, trách
nhiệm chưa cao trong công tác này.

Hai là, thường xuyên đổi mới nội dung, hình thức phương pháp bồi dưỡng, giáo dục,
rèn luyện nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Mục đích cao nhất của việc đổi mới nội dung bồi dưỡng, rèn luyện cán bộ, đảng viên
là hướng vào nâng cao nhận thức cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, ý thức tổ chức
kỷ luật cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Cần làm cho họ có động cơ phấn đấu rèn luyện đúng
đắn, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc và Nhân dân; trung thành với Chủ nghĩa
Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; có trách
nhiệm cao với công việc, với đơn vị và bản thân. Do vậy, nội dung bồi dưỡng, rèn luyện
cần hướng trọng tâm vào nâng cao năng lực quán triệt và tổ chức thực hiện các chỉ thị, nghị
quyết của Đảng; thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ của đảng viên.
Đổi mới nội dung, hình thức phương pháp bồi dưỡng, rèn luyện đảng viên trước hết
là đổi mới nhận thức và tư duy của các lực lượng, các đối tượng. Cùng với đó là đổi mới
cách thức quán triệt và tổ chức thực hiện kế hoạch học tập lý luận chính trị theo quy định,
học tập và triển khai thực hiện nghị quyết, các chuyên đề thông báo chính trị - thời sự, các
đợt sinh hoạt chính trị tư tưởng. Tổ chức tốt hoạt động thực tiễn gắn với thực hiện các nhiệm
vụ của đơn vị; đưa đội ngũ đảng viên vào hoạt động thực tiễn để thử thách, rèn luyện và
đánh giá kết quả khách quan, chính xác. Cùng với đó đội ngũ cán bộ chủ chốt, bí thư cấp
uỷ và những đảng viên lâu năm có uy tín trong đơn vị thường xuyên gần gũi, động viên,
giáo dục, thuyết phục đội ngũ đảng viên khắc phục khó khăn, phấn đấu vươn lên hoàn thành
nhiệm vụ. Lấy gương người tốt, việc tốt hằng ngày, những điển hình tiên tiến trong đội ngũ
đảng viên để giáo dục lẫn nhau. Duy trì thực hiện nghiêm các nền nếp chế độ sinh hoạt,
nhất là sinh hoạt tự phê bình và phê bình; thực hiện tốt việc phân loại đánh giá chất lượng

76
tổ chức đảng và đảng viên hằng năm. Thông qua đó các cấp ủy, cán bộ chủ trì cơ quan chức
năng nắm chắc điểm mạnh, điểm yếu, kết quả phấn đấu rè
luyện của từng tổ chức đảng và đảng viên; chỉ ra được nguyên nhân của những hạn chế,
thiếu sót, đề ra nội dung biện pháp, giúp tổ chức đảng và từng đảng viên khắc phục hạn
chế, khuyết điểm kịp thời góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên.
Ba là, mỗi cán bộ, đảng viên cần nêu cao tính tự giác, tích cực chủ động trong
tự bồi dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống.
Tự bồi dưỡng, rèn luyện là nhân tố bên trong đóng vai trò hết sức quan trọng
đối với việc củng cố, hoàn thiện và phát triển phẩm chất đạo đức, nhân cách của
người cán bộ, đảng viên. Trong thực tiễn công tác cán bộ, đảng viên vừa là đối tượng,
vừa là chủ thể của quá trình bồi dưỡng, giáo dục, rèn luyện. Với tư cách là chủ thể
của quá trình đó, đòi hỏi từng cán bộ, đảng viên phải xác định đúng động cơ, đề cao
tính tự giác, tích cực chủ động trong tự học tập, tu dưỡng rèn luyện nâng cao phẩm
chất đạo đức, lối sống, năng lực, phương pháp, tác phong công tác. Mỗi cán bộ, đảng
viên phải tự nhận thức, phân tích, đánh giá đúng, khách quan, toàn diện về bản thân,
nhất là những hạn chế, khuyết điểm để khắc phục kịp thời, không ngừng phấn đấu
vươn lên; gương mẫu trong học tập, rèn luyện, có sức đề kháng với những tác động
tiêu cực nảy sinh từ mặt trái xã hội; luôn tiếp nhận thông tin, tri thức, kinh nghiệm
chuyên môn, nghiệp vụ, tu dưỡng rèn luyện, chấp hành nghiêm kỷ luật Đảng, pháp
luật Nhà nước, quy định của đơn vị; chống bệnh chủ nghĩa cá nhân. Thường xuyên
làm tốt công tác tuyên truyền, vận động quần chúng, trước hết là động viên mọi
người trong gia đình, người thân thực hiện nghiêm đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Bốn là, kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán
bộ, đảng viên.
Mọi cấp ủy, tổ chức đảng phải thường xuyên quán triệt, tổ chức thực hiện
nghiêm túc Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng;
Kết luận số 21-KL/TW ngày 25-10-2021 Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung

77
ương Đảng khóa XIII về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị,
kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; Quy định số
37-QĐ/TW về những điều đảng viên không được làm. Đồng thời, gắn kết chặt chẽ
việc thực hiện các nghị quyết của Trung ương với đẩy mạnh thực hiện học tập và
làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Từng cán bộ, đảng viên cần có thái độ kiên quyết trong đấu tranh với những
biểu hiện vi phạm; đề cao tính tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt đảng, trong
công tác và trong cuộc sống hằng ngày; kết hợp chặt chẽ đấu tranh khắc phục tình
trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” với đấu tranh phòng, chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến
hòa bình” của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, góp phần xây dựng trận
địa tư tưởng vững chắc trong đơn vị, xây dựng các tổ chức đảng vững mạnh về chính
trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức.
Năm là, thực hiện tốt việc kiểm tra, giám sát và phân tích đánh giá chất lượng
đảng viên.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người,
ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn
được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ
nghĩa cá nhân”1. Thực tiễn cho thấy, có làm tốt việc kiểm tra đảng viên thực hiện chức
trách, nhiệm vụ được giao, cấp ủy, chi bộ mới xem xét, đánh giá, phân tích, kết luận chính
xác về trình độ, năng lực của cán bộ, đảng viên. Thông qua kiểm tra, giám sát là biện pháp
giáo dục, góp phần chủ động ngăn ngừa vi phạm và cảnh tỉnh, cảnh báo, răn đe đối với mọi
cán bộ, đảng viên; ngăn ngừa, hạn chế vi phạm kỷ luật đảng, làm trong sạch đội ngũ. Chính
vì thế, công tác này có ý nghĩa hết sức quan trọng, phải được tiến hành thường xuyên, công
tâm, khách quan, gắn với thi hành kỷ luật đảng.

1
Hồ Chí Minh, Toàn tập, NXB. Chính trị quốc gia - Sự thật, tập 7, tr.431

78
3.2.4. Gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân
dân

“Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc
quan điểm “dân là gốc”, thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, kiên trì, kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công
cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự
xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy
hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Thắt chặt mối quan hệ mật
thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; củng cố và tăng
cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, chế độ xã hôi chủ nghĩa”1.
Cuộc sống đang tiếp tục vận động mau lẹ, phức tạp cả trên phạm vi quốc gia và quốc
tế, đặt ra vô vàn vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách cần xử lý, giải đáp. Ðộng lực nào thúc
đẩy con thuyền cách mạng, con thuyền đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đi lên phía
trước? Ðó ắt hẳn là động lực của toàn dân, động lực của thực tiễn sáng tạo và kiên định. Ðể
tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, Ðảng và nhân dân ta phải không ngừng sáng tạo;
song, để sự sáng tạo không chệch hướng, một mặt, phải nắm vững, vận dụng sáng tạo, phát
triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của
các nước; mặt khác, phải luôn luôn xuất phát từ thực tiễn, thường xuyên tổng kết thực tiễn,
tìm ra nhân tố mới để nhân rộng và phát hiện những điểm không phù hợp trong chủ trương
chính sách, kịp thời có sự điều chỉnh, bổ sung và phát triển đường lối, chính sách.

Những năm đổi mới vừa qua, với những tiến bộ và trưởng thành mà Ðảng và
nhân dân ta đạt được, đã tỏ rõ sức mạnh sáng tạo của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo
của Ðảng. Thực tiễn đổi mới cho chúng ta thêm vững tin vào tiềm năng to lớn của
nhân dân và dân tộc ta, vào triển vọng tốt đẹp của cách mạng nước ta. Phát huy sức
mạnh sáng tạo, sử dụng mọi nguồn lực của xã hội vào việc thực hiện thắng lợi mục

1
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2021, tập 1, tr. 27

79
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vì củng cố vững
chắc nền độc lập dân tộc của Tổ quốc, tự do của dân tộc và hạnh phúc của đồng bào,
thực hiện hoài bão, khát vọng của Bác Hồ - đó là trọng trách lịch sử của Ðảng khi
khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới. Dựa vào dân, phát huy sức mạnh sáng
tạo của nhân dân để phục vụ nhân dân thì phải ra sức gây dựng và phát huy sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân tộc. Ðây là một tư tưởng lớn, một đường lối chiến lược của
Chủ tịch Hồ Chí Minh mà Ðảng ta đang ra sức thực hiện. Sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc là một động lực to lớn, quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới và
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sức mạnh đại đoàn kết dân tộc được nuôi dưỡng và phát
huy từ đâu? Từ thực hành dân chủ rộng rãi, từ việc bảo đảm thực hiện và phát huy
quyền làm chủ thực chất của nhân dân lao động theo đúng những quan điểm của
Chủ tịch Hồ Chí Minh: bao nhiêu lợi ích là của dân, bao nhiêu quyền lực cũng là
của dân, mọi quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân, ở trong dân. Do đó, phải ra
sức làm điều lợi cho dân, tránh điều hại cho dân. Ðem tài dân, sức dân để phục vụ
dân, mưu cầu lợi ích cho dân. Có dân thì có tất cả, mất dân thì mất tất cả. Ðó là chân
lý của lịch sử, là quy luật của muôn đời. Nguồn gốc sức mạnh của dân tộc, sức chiến
đấu của Ðảng và thắng lợi của cách mạng đều do chỗ biết dựa vào dân như Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã dạy: làm cho dân hiểu biết, dân tin tưởng, dân ủng hộ, dân giúp đỡ
và dân bảo vệ. Mấu chốt của thắng lợi và thành công là ở đó.
3.2.5. Tăng cường và nâng cao hiệu quả của công tác kiểm tra, giám sát

Để giữ vững và bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng với thắng lợi của sự nghiệp đổi
mới, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là nhiệm vụ then chốt, thường xuyên, đổi mới
và chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng ngang tầm với
yêu cầu và nhiệm vụ của tình hình mới là đòi hỏi có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế
độ ta. Trong công tác xây dựng Đảng, công tác kiểm tra giám sát của Đảng là một trong
những nội dung quan trọng, góp phần quan trọng giữ vững bản chất, mục tiêu, lý tưởng,
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.

80
Vì vậy, Đảng ta đã khẳng định việc tăng cường công tác kiểm tra giám sát là rất cần
thiết và quan trọng, là chức năng lãnh đạo của Đảng. Kiểm tra, giám sát và giữ gìn kỷ luật
của Đảng là nhiệm vụ của toàn Đảng. Đảng ta luôn luôn quan tâm đến công tác kiểm tra
giám sát và xác định công tác này có vị trí cực kỳ quan trọng trong toàn bộ hoạt động lãnh
đạo của Đảng. Các cấp ủy đảng có trách nhiệm lãnh đạo công tác kiểm tra giám sát và tổ
chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra giám sát các tổ chức đảng và đảng viên chấp hành Cương
lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Ủy
ban kiểm tra các cấp là cơ quan kiểm tra giám sát chuyên trách của cấp ủy cùng cấp và là
lực lượng chủ công thực hiện nhiệm vụ kiểm tra giám sát theo quy định của Điều lệ Đảng
và nhiệm vụ cấp ủy giao.
Việc tăng cường công tác kiểm tra giám sát cần tập trung vào một số nội dung
trọng tâm sau:
Thứ nhất, đổi mới, tăng cường, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra
giám sát, kỷ luật của Đảng theo tinh thần Đại hội XII của Đảng. Đó là: “Nâng cao
nhận thức của các cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, trước hết là người đứng
đầu cấp ủy, tổ chức đảng về công tác kiểm tra, giám sát, để lãnh đạo, chỉ đạo, tổ
chức thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm trong công tác
kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng. Tập trung chỉ đạo xây dựng, hoàn thiện các quy
định của Đảng để nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám
sát, kỷ luật của Đảng.
Đổi mới, tăng cường, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát
của các cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra các cấp và chi bộ; xử lý kịp thời,
nghiêm minh những tổ chức đảng, đảng viên vi phạm Cương lĩnh chính trị, Điều lệ
Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước,
những hành vi dung túng, bao che cho khuyết điểm, vi phạm của tổ chức đảng và
đảng viên, công khai kết quả xử lý. Chú trọng kiểm tra, giám sát người đứng đầu
cấp ủy, tổ chức đảng, tổ chức nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã
hội trong việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn được giao và việc giữ gìn
phẩm chất đạo đức, lối sống, không để người thân trong gia đình lợi dụng chức vụ,

81
quyền hạn để trục lợi. Tăng cường kiểm tra, giám sát đối với các ban cán sự đảng,
đảng đoàn, các tổ chức đảng ở các cơ quan nhà nước, các đơn vị kinh tế và các lĩnh
vực dễ xảy ra sai phạm. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, phương pháp, quy trình kiểm
tra, giám sát, thi hành kỷ luật và giải quyết khiếu nại trong Đảng; hoàn thiện cơ chế
và nâng cao chất lượng phối hợp thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ
luật đảng giữa ủy ban kiểm tra với các tổ chức đảng và cơ quan liên quan”1.
Thứ hai, công tác kiểm tra giám sát phải góp phần quan trọng trong ngăn
ngừa, ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, quan liêu, tham nhũng, “lợi ích nhóm”. Hiện
nay, một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, tư cách đạo đức,
phẩm chất cách mạng giảm sút; có người dao động mục tiêu lý tưởng; chủ nghĩa cá
nhân phát triển, bệnh quan liêu, tham nhũng ngày càng nặng; các phần tử cơ hội xuất
hiện bằng nhiều hình thức, đặc biệt nguy hiểm là kẻ cơ hội chính trị tìm mọi cách
giấu mình để chờ cơ hội thực hiện mưu đồ đen tối.
Trong khi đó, nguyên tắc tổ chức của Đảng không được giữ nghiêm,
nhiều nơi đang bị buông lỏng; nguyên tắc tập trung dân chủ bị vi phạm, tự phê bình
và phê bình yếu, có nơi chỉ là hình thức; dân chủ chưa tốt, tính chiến đấu của nhiều
tổ chức đảng và đảng viên đang sa sút; quan hệ nội bộ có lúc, có nơi bị đồng tiền và
quyền lực chi phối. Đặc biệt, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức,
lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và quan liêu, “lợi ích nhóm”, tham nhũng
diễn ra ngày càng tinh vi, trầm trọng và có tính phổ biến - từ lĩnh vực kinh tế đã lan
sang cả các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, hoạt động từ thiện..., đặc biệt nghiêm trọng
là nó đã len lỏi vào các cơ quan bảo vệ pháp luật và an ninh như kiểm sát, tòa án,
công an, quân đội. Hậu quả của chúng chẳng những làm tổn hại lớn đến tài sản của
tập thể và của Nhà nước mà nguy hại hơn là làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối
với sự lãnh đạo của Đảng, vào bản chất tốt đẹp của chế độ ta.

1
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 208-209

82
Từ suy thoái về đạo đức, lối sống sẽ dẫn đến suy thoái về tư tưởng chính trị, tạo điều
kiện cho bọn cơ hội chính trị và các thế lực thù địch lợi dụng chia rẽ nội bộ Đảng và thực
hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng nước ta; do đó, công tác kiểm
tra giám sát phải chủ động, tích cực ngăn ngừa, ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, quan liêu, tham nhũng,
“lợi ích nhóm”, “sân sau” và điều đó cũng chính là góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo,
sức chiến đấu của Đảng.
Thứ tư, công tác kiểm tra giám sát hướng nhiệm vụ trọng tâm vào phục vụ sự
thành công của đại hội đảng bộ các cấp trong năm 2020 và Đại hội XIII của Đảng
vào đầu năm 2021. Gắn mục tiêu tổ chức thành công đại hội đảng các cấp với tiếp
tục thực hiện chỉnh đốn Đảng theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, XII.
Chú trọng khâu thẩm định nhân sự cấp ủy các cấp bảo đảm chất lượng, tiêu chuẩn,
quy trình theo quy định của Trung ương. Những đảng viên được bầu vào cấp ủy lần
này phải xứng đáng là “Người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.
Kiên quyết không để những người cơ hội về chính trị, vi phạm tiêu chuẩn chính trị,
những người có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, quan
liêu, tham nhũng, “lợi ích nhóm” lọt vào cấp ủy; bảo đảm cấp ủy là tổ chức trong
sạch, vững mạnh nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Khi tổ chức Đảng, đảng viên có dấu hiệu vi phạm thì phải kịp thời chỉ đạo
kiểm tra làm rõ, nhất là những trường hợp liên quan đến nhân sự cấp ủy; những vấn
đề nổi cộm được dư luận xã hội quan tâm cần phải được chỉ đạo và giải quyết dứt
điểm trước khi vào đại hội. Những đơn, thư tố cáo cũng phải kịp thời được xem xét
và chỉ đạo giải quyết, nhất là trường hợp liên quan nhân sự đại hội đảng bộ các cấp
để có cơ sở đánh giá tư cách đại biểu hoặc tiêu chuẩn nhân sự cấp ủy; mặt khác,
cũng kịp thời làm sáng tỏ để minh oan, bảo vệ người tốt khi bị kẻ xấu bôi nhọ, hãm
hại. Tổ chức Đảng, đảng viên vi phạm đến mức phải xử lý kỷ luật thì phải xử lý
nghiêm minh, bảo đảm tính chính xác, khách quan, công bằng và nhân văn, không
có vùng cấm, không có ngoại lệ.

83
Thứ năm, để công tác kiểm tra giám sát của Đảng có chuyển biến mạnh mẽ
và hiệu quả trong hoạt động, cấp ủy các cấp cần quan tâm hơn nữa chất lượng hoạt
động kiểm tra giám sát, phải coi đây là công việc thường xuyên, là công cụ lãnh đạo
quan trọng. Thực tiễn cho thấy, kiểm tra giám sát là công cụ hữu hiệu để Đảng thực
hiện sự lãnh đạo, chỉ đạo có hiệu quả, giữ vững kỷ luật, kỷ cương trong toàn Đảng.
Các cấp ủy đảng phải quan tâm thường xuyên đến việc kiện toàn tổ chức bộ máy và
đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra các cấp. Có chính sách đào tạo, bồi dưỡng để
cán bộ làm công tác kiểm tra được rèn luyện nâng cao bản lĩnh chính trị, dũng khí
đấu tranh, nâng cao đạo đức, phẩm chất trong sạch, liêm chính; nâng cao kỹ năng,
trình độ chuyên môn, sử dụng công nghệ nhằm phát huy hiệu quả trong công việc.
Tạo mọi điều kiện thuận lợi để ủy ban kiểm tra các cấp chủ động, tích cực trong
công tác tham mưu cho cấp ủy triển khai tổ chức thực hiện đúng chức năng, nhiệm
vụ theo quy định của Điều lệ Đảng. Có chế độ đãi ngộ tương xứng để bảo đảm đội
ngũ này toàn tâm toàn ý phục vụ, ngăn ngừa những tư tưởng, hành vi tiêu cực có thể
xảy ra trong quá trình thực thi nhiệm vụ.
3.2.6. Đổi mới và hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng

“Trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện, phải có quyết tâm
cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, năng động, sáng tạo, tích cực; có bước đi phù
hợp, phát huy mọi nguồn lực, động lực và tính ưu việt của chế độ của chế độ xã hội
chủ nghĩa; kịp thời tháo gỡ các điểm nghẽn, vướng mắc; đề cao trách nhiệm của
người đứng đầu, gắn liền với phát huy sức mạnh đồng bộ của cả hệ thống chính trị;
phát huy dân chủ đi đôi với giữ vững kỷ cương; coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên
cứu lý luận; thực hiện tốt sự phối hợp trong lãnh đạo, quản lý, điều hành; coi trọng
chất lượng và hiệu quả thực tế; tạo đột phá để phát triển” 1.
“Chủ động nghiên cứu, nắm bắt, dự báo đúng tình hình, tuyệt đối không
được để bị động, bất ngờ. Kiên quyết, kiên trì bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất
và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc đi đôi với giữ vững môi trường hòa bình, ổn định,

1
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2021, tập 1, tr. 28

84
an ninh, an toàn để phát triển đất nước. Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn
diện và sâu rộng trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường. Xử lý đúng
đắn, hiệu quả mối quan hệ với các nước lớn và các nước láng giềng; đánh giá đúng
xu thế, nắm bắt trúng thời cơ. Phát huy hiệu quả sức mạnh tổng hợp của đất nước
kết hợp với sức mạnh của thời đại. Khai thác, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực,
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc
trong tình hình mới”1.
Tóm tắt chương 3

Sau hơn 35 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và
lãnh đạo, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Kinh tế
ra khỏi khủng hoảng và có sự tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang được
đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. “Ở trong nước, sau 35 năm đổi
mới, thế và lực, sức mạnh tổng hợp quốc gia, uy tín quốc tế, niềm tin của nhân dân
ngày càng được nâng cao, tạo ra những tiền đề quan trọng để xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc”2. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng
cường. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng và an ninh được giữ vững. Vị thế của
nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của
quốc gia được tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên
với triển vọng tốt đẹp. Điều đó một lần nữa khẳng định đường lối đúng đắn và sự
lãnh đạo sáng suốt của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt
Nam; đồng thời, cũng thể hiện năng lực cầm quyền, lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng ngày càng được nâng lên, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị từng giai đoạn
cách mạng.

1
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2021, tập 1, tr. 29

2
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2021, tập 1, tr. 107

85
Cội nguồn của các thành tựu đó là do Ðảng ta có đường lối đổi mới đúng đắn,
sáng tạo, phù hợp lợi ích, nguyện vọng của nhân dân, được nhân dân tích cực ủng
hộ, thực hiện, được bạn bè quốc tế ủng hộ, hợp tác, giúp đỡ. Ðảng đã nhận thức, vận
dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa,
phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vận dụng kinh
nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam, từ đó giữ bản lĩnh chính trị, kiên định lý
tưởng, mục tiêu độc lập dân tộc và xã hội chủ nghĩa, đồng thời nhạy bén, sáng tạo,
kịp thời đưa ra các chủ trương, quyết sách phù hợp từng giai đoạn cách mạng, phù
hợp tình hình thế giới và trong nước. Ðó là cơ sở để năm 2020, với phương châm vì
tính mạng con người, không để ai bị bỏ lại phía sau, toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân
đã nỗ lực vượt qua đại dịch Covid-19, khắc phục hậu quả bão lụt ở các tỉnh miền
trung, giúp nhân dân sớm ổn định cuộc sống.
Song bên cạnh những thành tựu, chúng ta còn có hạn chế, khuyết điểm. Cụ
thể như: Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận còn bất cập, chưa làm rõ
một số vấn đề đặt ra trong quá trình đổi mới để định hướng thực tiễn, cung cấp cơ
sở khoa học hoạch định đường lối của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước;
Kinh tế phát triển chưa bền vững, chưa tương xứng tiềm năng, yêu cầu và thực tế
nguồn lực được huy động; kinh tế vĩ mô chưa thật ổn định, tốc độ tăng trưởng kinh
tế chưa cao; Chất lượng, hiệu quả, năng suất lao động xã hội và năng lực cạnh tranh
của nền kinh tế còn thấp; Phát triển còn thiếu bền vững cả về kinh tế, văn hóa, xã
hội, môi trường. Nhiều vấn đề bức xúc nảy sinh, nhất là các vấn đề xã hội và quản
lý xã hội chưa được nhận thức đầy đủ và giải quyết có hiệu quả; còn tiềm ẩn một số
nhân tố, nguy cơ gây mất ổn định xã hội. Trên một số mặt, lĩnh vực, còn một bộ
phận nhân dân chưa được thụ hưởng đầy đủ, công bằng thành quả của công cuộc đổi
mới,..Chính từ những hạn chế, khuyết điểm đó, Đảng đã đúc kết ra những bài học
kinh nghiệm và quyết tâm từng bước thay đổi, hiệu chỉnh để công tác quản lý, đời
sống nhân dân ngày một tốt đẹp hơn.

86
III. Kết luận

Đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một khoảng thời gian đầy khó
khăn đối với Đảng và nhà nước cũng như nhân dân ta thêm vào đó là tình hình thế giới có
những chuyển biến mới. Trước tình hình đó, Đảng ta đã đề ra những đường lối đổi mới về
mọi mặt như kinh tế, chính trị…

Những chính sách đổi mới trong nước với những biện pháp, chủ trương cụ thể kết
hợp đối ngoại đã dần dần đưa Đất nước bước ra khỏi khủng hoảng. Tất cả như một bước
đà, bước chuyển mình mạnh mẽ để Việt Nam chuyển sang thời kì công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, chuyển từ quan hệ đối ngoại đơn phương sang đa phương có hiệu quả để đem lại
lợi ích kinh tế cũng như bình ổn hòa bình cho dân tộc.

Với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xa hội công bằng dân chủ, văn minh mà Đảng đã
thực hiện dựa trên định hướng xã hội chủ nghĩa. Quá trình thực hiện đường lối đổi mới đã
đem lại nhiều thành tựu cả về mặt tư tưỡng lẫn thực tế.

Qua đó mỗi công dân Việt Nam nghiêm túc, tập trung, cố gắng phát huy bản thân để
góp phần vào công cuộc đổi mới Đất nước ngày một hưng thịnh.

87
88
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương: Chuyên đề nghiên cứu Nghị quyết Đại hội X của
Đảng, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006.

2. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa V (15/12/1986), NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội.

3. Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam (16/04/2018), Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII của Đảng. Truy cập từ: https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-
uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-viii/dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-viii-cua-dang-13

4. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam (17/03/2016). Báo cáo của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa XI về các văn kiện Đại hội XII của Đảng. Truy cập từ:
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-
thu-xii/bao-cao-cua-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-xi-ve-cac-van-kien-dai-hoi-
xii-cua-dang-1601.

5. Chỉ thị “Cải tiến công tác khoán, mở rộng “khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người
lao động” trong hợp tác xã nông nghiệp”, Đảng Cộng sản Việt Nam, 1981.

6. Cổ Tiểu Tùng, thông tấn xã Việt Nam: Tài liệu tham khảo đặc biệt. sô 037-TTX,
13/2/2007

7. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, Tập 1, Nxb
Sự thật, Hà Nội.

8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 1996

9. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, 2005

10. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, 2006

11. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 2, 12, 16, 18, 21, 32, 37, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

89
12. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.

13. Đoàn Minh Huấn, Vài nết về cải cách bộ máy nhà nước ở Việt Nam những năm 1986 -
1996, tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 3, 2001.

14. Edited by, Carlyle A. Thayer, Ramses Amer: Vietnamese Foreign Policy in Transition,
Institute of Southeast Asian Studies

15. Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam. Nxb Chính trị quốc gia Sự thật.

16. GS. TS. Phạm Quang Minh, “Lịch sử không cáo chung”: đổi mới của việt nam nhìn từ
góc độ so sánh khu vực, Việt Nam 30 năm đổi mới: Thành tựu và phát triển, Sách lưu hành
nội bộ, Nxb Hồng Đức, 2016.

17. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 8, 9, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000.

18. Lưu Ngọc Long, Quá trình hình thành nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa của đảng cộng sản việt nam (1986 - 2001), tạp chí Giáo dục và lý luận, số
279, 9/2018

19. Nguyễn Cơ Thạch: Những chuyển biến trên thế giới và tư duy mới của chúng ta, tapk
chí Quan hệ Quốc tế, số 1, tháng 1-1990.

20. Tạp chí Cộng sản (29/06/2020). Quan điểm của Đảng về xây dựng nền văn hóa từ sau
đổi mới đến nay - thành tựu và những vấn đề đặt ra. Truy cập từ:
https://www.tapchicongsan.org.vn/van_hoa_xa_hoi/-/2018/816918/quan-diem-cua-dang-
ve-xay-dung-nen-van-hoa-tu-sau-doi-moi-den-nay---thanh-tuu-va-nhung-van-de-dat-
ra.aspx.

21. Tạp chí Cộng sản (29/06/2020). Quan điểm của Đảng về xây dựng nền văn hóa từ sau
đổi mới đến nay - thành tựu và những vấn đề đặt ra. Truy cập từ:
https://www.tapchicongsan.org.vn/van_hoa_xa_hoi/-/2018/816918/quan-diem-cua-dang-
ve-xay-dung-nen-van-hoa-tu-sau-doi-moi-den-nay---thanh-tuu-va-nhung-van-de-dat-
ra.aspx.

22. Tạp chí quốc phòng toàn dân. (02/04/2020). Thành tựu lý luận và thực tiễn trong 90
năm lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Truy cập từ
http://m.tapchiqptd.vn/vi/ky-niem-90-nam-ngay-thanh-lap-dcs-viet-nam/thanh-tuu-ly-

90
luan-va-thuc-tien-trong-90-nam-lanh-dao-cach-mang-cua-dang-cong-san-viet-nam-
15066.html

23. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng trong bối cảnh mới, (29/05/2020). Truy cập từ
https://www.moha.gov.vn/nghi-quyet-tw4/bao-ve-nen-tang-tu-tuong-cua-dang/tang-
cuong-cong-tac-kiem-tra-giam-sat-gop-phan-44395.html

24. TS. Lê Minh Nghĩa, Đổi mới tư duy kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Hội đồng lí luận trung ương,
17/12/2018

25. TS. Nguyễn Thị Hương (02/09/2020), Những dấu ấn quan trọng về kinh tế - xã hội
trong hành trình 75 năm thành lập và phát triển đất nước qua số liệu thống kê. Truy cập từ:
https://kinhtevadubao.vn/nhung-dau-an-quan-trong-ve-kt-xh-trong-hanh-trinh-75-nam-
thanh-lap-va-phat-trien-dat-nuoc-qua-so-lieu-thong-ke-15850.html
26. Toàn văn Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Thư viện pháp luật. (26/02/2021). Truy
cập từ https://thuvienphapluat.vn/tintuc/vn/thoi-su-phap-luat/thoi-su/34574/toan-van-nghi-
quyet-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-xiii-cua-dang

27. Trần Văn Thọ, 2000, Kinh tế Việt Nam 1955-2000: Tính toán mới, phan tích mới, Nxb
Thống kê, Hà Nội.

28. Trường Chinh tiểu sử, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2007

29. Vũ Quang Hiển, Một số kinh nghiệm từ thực tiễn hội nhập kinh tế quốc tế của Việt
Nam, Bài trong sách Đổi mới ở Việt Nam - tiến trình, thành tựu và kinh nghiệm, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, 2004.

30. Xây dựng Đảng. Quan điểm của Đảng về phát huy nhân tố con người trong phát triển
đất nước. Truy cập từ: http://www.xaydungdang.org.vn/Home/dien-
dan/2018/12380/Quan-diem-cua-Dang-ve-phat-huy-nhan-to-con-nguoi-trong.aspx.

31. Xây dựng Đảng. (04/01/2022). Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên theo tư
tưởng Hồ Chí Minh. Truy cập từ
http://www.xaydungdang.org.vn/Home/tutuonghochiminh/2022/16329/Nang-cao-chat-
luong-doi-ngu-can-bo-dang-vien-theo-tu.aspx

91

You might also like