You are on page 1of 68

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP.

HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA
KHOA KHOA HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

BÀI TẬP LỚN MÔN HỌC


LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐỀ TÀI

QUÁ TRÌNH HOÀN CHỈNH ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG DÂN TỘC
DÂN CHỦ NHÂN DÂN TỪ CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN
ĐẾN CHÍNH CƯƠNG ĐẢNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM

NHÓM L13 – TỔ 8 – HK212

Ngày nộp: 12/4/2022

GVHD: ThS. TRẦN THỊ KIM OANH

Sinh viên thực hiện MSSV Điểm số

Lê Trà Vũ Luân 1914057

Nguyễn Minh Luân 1916077

Nguyễn Bá Lực 1911562

Nguyễn Minh Mẩn 1914127

Châu Nhật Minh 1914134

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – THÁNG 4 NĂM 2022


ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA
KHOA KHOA HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

BÀI TẬP LỚN MÔN HỌC


LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐỀ TÀI

QUÁ TRÌNH HOÀN CHỈNH ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG DÂN TỘC
DÂN CHỦ NHÂN DÂN TỪ CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN ĐẾN
CHÍNH CƯƠNG ĐẢNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM

NHÓM L13 – TỔ 8 – HK212

Ngày nộp: 12/4/2022

GVHD: ThS. TRẦN THỊ KIM OANH

Sinh viên thực hiện MSSV Điểm số

Lê Trà Vũ Luân 1914057

Nguyễn Minh Luân 1916077

Nguyễn Bá Lực 1911562

Nguyễn Minh Mẩn 1914127

Châu Nhật Minh 1914134


TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA
KHOA KHOA HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

BÁO CÁO KẾT QUẢ LÀM VIỆC NHÓM VÀ BẢNG ĐIỂM BTL
Môn: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM (MSHP: SP1039)
Nhóm/Lớp: L13 Tên nhóm: 08 HK: 212 Năm học: 2021 - 2022

Đề tài: QUÁ TRÌNH HOÀN CHỈNH ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG DÂN TỘC DÂN CHỦ NHÂN DÂN TỪ CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU
TIÊN ĐẾN CHÍNH CƯƠNG ĐẢNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM

% Điểm Điểm
STT Mã số SV Họ Tên Nhiệm vụ được phân công Ký tên
BTL BTL
1 1914057 Lê Trà Vũ Luân Chương 1 và Tiểu kết chương 1 20%
Mở đầu và Kết luận; Tổng hợp, trình
2 1916077 Nguyễn Minh Luân bày và chỉnh sửa
20%

3 1911562 Nguyễn Bá Lực Phần 2.1 20%

4 1914127 Nguyễn Minh Mẩn Chương 3 20%

5 1914134 Châu Nhật Minh Phần 2.2 và Tiểu kết chương 2 20%

Họ và tên nhóm trưởng: Nguyễn Minh Luân Số ĐT:070 636 1899 Email: luan.nguyenqsb@hcmut.edu.vn
Nhận xét của GV:
.....................................................................................................................................................................................................................................................
GIẢNG VIÊN NHÓM TRƯỞNG
(Ký và ghi rõ họ, tên) (Ký và ghi rõ họ, tên)

Ths. Trần Thị Kim Oanh


Nguyễn Minh Luân
MỤC LỤC
I. PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................................................1

II. PHẦN NỘI DUNG....................................................................................................................................3

CHƯƠNG 1: ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ, XÃ HỘI VIỆT NAM DƯỚI SỰ THỐNG TRỊ VÀ KHAI THÁC
THUỘC ĐỊA CỦA THỰC DÂN PHÁP ........................................................................................................3

1.1 Đặc điểm kinh tế và xã hội của Việt Nam dưới tác động của các chính sách thống trị và khai thác
thuộc địa của thực dân Pháp .......................................................................................................................3

1.1.1 Chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ở Việt Nam ....................................................3

1.1.2 Sự biến đổi của Việt Nam dưới chính sách thống trị của thực dân Pháp ......................................4

1.1.3 Các phong trào yêu nước ở Việt Nam ...........................................................................................6

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 .............................................................................................................................8

CHƯƠNG 2: CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN VÀ LUẬN CƯƠNG CHÍNH TRỊ THÁNG 10 CỦA
ĐẢNG. ...........................................................................................................................................................9

2.1 Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (02/1930)...............................................................................9

2.1.1 Bối cảnh lịch sử và hoàn cảnh ra đời Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng .............................9

2.1.2 Nội dung Cương lĩnh ...................................................................................................................10

2.1.3 Nhận xét và đánh giá Cương lĩnh đầu tiên ..................................................................................12

2.2 Bối cảnh lịch sử và chủ trương của Đảng từ tháng 10/1930 đến tháng 5/1941..................................13

2.2.1 Luận cương chính trị tháng 10/1930 ...........................................................................................13

2.2.2 Tính thống nhất và sự khác nhau giữa Cương lĩnh chính trị đầu tiên và luận cương lĩnh chính trị
tháng 10/1930 .......................................................................................................................................16

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ...............................................................................................................................25

CHƯƠNG 3: CHÍNH CƯƠNG ĐẢNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM THÁNG 2/1951 VÀ SỰ HOÀN CHỈNH
CÁCH MẠNG DÂN CHỦ NHÂN DÂN ....................................................................................................26

3.1 Bối cảnh lịch sử và nội dung Chính cương Đảng Lao động Việt Nam ..............................................26

3.1.1 Bối cảnh lịch sử ra đời Cương lĩnh chính trị của Đảng Lao động Việt Nam (2/1951) ...............26

3.1.2 Nội dung Chính cương Đảng Lao động Việt Nam ......................................................................31
3.2 Sự hoàn chỉnh đường lối Cách mạng Dân tộc Dân chủ Nhân dân .....................................................41

3.2.1 Nội dung và hoàn cảnh ................................................................................................................41

3.2.2 Giá trị của chính cương Đảng lao động Việt Nam trong sự nghiệp lãnh đạo cách mạng của Đảng
ta. ..........................................................................................................................................................52

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 ...............................................................................................................................59

III. KẾT LUẬN ............................................................................................................................................60

IV. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................................................63


I. PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do lựa chọn đề tài

Cương lĩnh chính trị là ngọn cờ tư tưởng lý luận chỉ đạo sự nghiệp cách mạng của
Đảng. Đường lối cách mạng giải phóng dân tộc là nhân tố hàng đầu quyết định thắng
lợi của các cuộc giải phóng dân tộc ở nước ta. Quá trình vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của xã hội Việt Nam chính là quá trình hình thành
đường lối chiến lược giải phóng dân tộc.

Để hình thành đường lối cách mạng đúng đắn nghĩa, Đảng ta phải vận dụng lý
luận cách mạng vào điều kiện lịch sử cụ thể của xã hội thuộc địa Việt Nam để nhận
thức đúng mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu, xác định đúng kẻ thù, quyết định nhiệm vụ chiến
lược, các chủ trương, chính sách để tập hợp lực lượng và phương pháp cách mạng giải
phóng đúng đắn. Đảng ta đã trải qua quá trình đấu tranh cách mạng kiên cường vừa
tuyên truyền, giáo dục, vận động tổ chức quần chúng đấu tranh chống đế quốc, chống
thực dân, vừa phát triển lực lượng, tăng cường lãnh đạo. Đây là cuộc đấu tranh quyết
liệt và phức tạp chống chủ nghĩa giáo điều, dập khuôn máy móc, chống chủ nghĩa cá
nhân tách rời thực tiễn.

Qua từng giai đoạn phát triển của Cương lĩnh, mỗi Cương lĩnh sau đều là học tập,
phát huy và cuối cùng là bổ sung những vấn đề cốt lõi về con đường cách mạng của
Việt Nam mà Cương lĩnh trước đã đạt được cho phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể
và tối ưu hóa quyền lợi của nhân dân. Trong các Cương lĩnh, không chỉ được đề cập
đến các mục tiêu là giải phóng dân tộc, là giành độc lập thống nhất thật sự cho đất
nước, mà còn quan tâm đến các yếu tố kinh tế nhằm phát triển đất nước, các yếu tố
ngoại giao trên nguyên tắc tự do, bình đẳng tiến đến đấu tranh hòa bình thế giới và
những mặt khác về xã hội đương thời để khôi phục đời sống nhân dân.

Quá trình hoàn thiện các Cương lĩnh đóng vai trò quan trọng trong tư tưởng cách
mạng dân tộc dân chủ, trong sự phát triển của cách mạng Việt Nam, tất yếu đến cách
mạng xã hội chủ nghĩa, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội. Nhân dân là động lực
1
cách mạng, Đảng Cộng sản là đảng lãnh đạo cách mạng; Nhà nước, Chính phủ, quân
đội là của nhân dân; xây dựng nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Với những lý do trên, nhóm lựa chọn đề tài: “Quá trình hoàn chỉnh đường lối
Cách mạng Dân tộc Dân chủ Nhân dân từ Cương lĩnh Chính trị đầu tiên đến Chính
cương Đảng Lao động Việt Nam”. Thông qua đề tài này, nhóm có thể phần nào làm
rõ về sự phát triển, hoàn thiện Cương lĩnh chính trị, hướng đến các yêu cầu phát triển
xã hội phù hợp với thực tiễn, từng bước tiến đến chủ nghĩa xã hội, từ đó có thể đề ra
được đường lối chính trị đúng đắn, đường lối quân sự hợp lý, đảm bảo được sự phát
triển kinh tế đi đôi với an ninh quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ.

2. Phạm vi nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu quá trình hoàn chỉnh đường lối Cách mạng Dân tộc Dân chủ Nhân
dân từ Cương lĩnh Chính trị đầu tiên đến Chính cương Đảng Lao động Việt Nam.

3. Nhiệm vụ của đề tài

Thứ nhất, làm rõ nội dung của Cương lĩnh chính trị đầu tiên 2/1930

Thứ hai, làm rõ nội dung của Luận cương lĩnh chính trị tháng 10/1930

Thứ ba, làm rõ điểm giống, khác nhau của Cương lĩnh chính trị tháng 2/1930 và tháng
10/1930

Thứ tư, làm rõ Chính cương Đảng Lao động Việt Nam 2/1951

2
II. PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ, XÃ HỘI VIỆT NAM DƯỚI SỰ THỐNG
TRỊ VÀ KHAI THÁC THUỘC ĐỊA CỦA THỰC DÂN PHÁP

1.1 Đặc điểm kinh tế và xã hội của Việt Nam dưới tác động của các chính sách
thống trị và khai thác thuộc địa của thực dân Pháp
1.1.1 Chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ở Việt Nam

Đặc điểm kinh tế:

- Cuộc khai thác của Pháp làm xuất hiện nền công nghiệp thuộc địa mang yếu tố
thực dân; thành thị theo hướng hiện đại ra đời; bước đầu làm xuất hiện nền kinh tế
hàng hoá, tính chất tự cung tự cấp của nền kinh tế cũ bị phá vỡ.
- Tài nguyên thiên nhiên bị khai thác cùng kiệt, nông nghiệp dậm chân tại chỗ,
công nghiệp phát triển nhỏ giọt, thiếu hẳn công nghiệp nặng.
- Xây dựng hệ thống giao thông vận tải phục vụ cho công cuộc bóc lột.
- Thương nghiệp: độc chiếm thị trường Việt Nam, đánh các thuế mới, nặng nhất
là thuế mối, rượu, thuốc phiện.
- Pháp đầu tư mạnh với tốc độ nhanh, quy mô lớn vào các ngành kinh tế ở Việt
Nam, từ năm 1924 – 1929, số vốn đầu tư khoảng 4tr phrang.
- Nông nghiệp: Đầu tư nhiều nhất, chủ yếu mở rộng diện tích đồn điền cao su,
nhiều công ty cao su được thành thành lập (Đất đỏ, Misolanh…)
- Công nghiệp: Mở mang các ngành dệt, muối, xay xát…, đặc biệt là khai thác mỏ
(than..)
- Thương nghiệp: Ngoại thương phát triển, giao lưu buôn bán nội địa được đẩy
mạnh.
- Giao thông vận tải: Phát triển, đô thị mở rộng.
- Ngân hàng Đông Dương: Nắm quyền chỉ huy kinh tế Đông Dương, phát hành
giấy bạc và cho vay lãi

3
- Tổng thu thuế: Ngân sách Đông Dương thu năm 1930 tăng gấp 3 lần so với
1912

Đặc điểm xã hội:

- Giai đoạn đầu, duy trì nền Hán học cũ.

- 1905 cải cách giáo dục, mở trường đào tạo người Việt phục vụ cho cai trị của
Pháp.

- Ấu học ở xã thôn học chữ Hán và chữ Quốc ngữ.

- Tiểu học ở phủ, huyện học chữ Hán,chữ Quốc ngữ và chữ Pháp.

- Trung học ở tỉnh học chữ Hán, chữ Quốc Ngữ, chữ Pháp bắt buộc.

- Duy trì ‘văn hóa làng’ theo hướng ‘bần cùng hóa’ và ‘ngu dân hóa’
- Hạn chế phát triển giáo dục
- Hệ thống giáo dục Việt – Pháp được mở rộng. Cơ sở xuất bản, in ấn ngày căng
nhiều, ưu tiên xuất bản các sách báo cổ vũ…
- Các trào lưu tư tưởng, khoa học kỹ thuật, văn hóa, nghệ thuật phương Tây vào
Việt nam…

1.1.2 Sự biến đổi của Việt Nam dưới chính sách thống trị của thực dân Pháp

1.1.2.1 Biến đổi về giai cấp

- Sự phân hóa giai cấp và mâu thuẫn xã hội diễn ra ngày càng gay gắt.

- Phần lớn giai cấp địa chủ cấu kết với thực dân Pháp ra sức bóc lột nông dân; một
bộ phận địa chủ có lòng yêu nước, đã tham gia đấu tranh chống Pháp dưới các hình
thức và mức độ khác nhau.

- Tầng lớp địa chủ còn tiến hành nhiều phương cách khác để bóc lột tá điền, như
đặt ra lệ công lễ, vật lễ, cho vay lãi nặng hoặc bán chịu cho tá điền những mặt hàng
4
thiết yếu (vải vóc, nước mắm, muối, dầu lửa,...) để đến vụ mùa thu hoạch thì thu lại lúa
với lãi suất cao,...

- Giới tư sản người Việt bắt tay với tư sản Pháp ra sức bóc lột công nhân để làm
giàu. Tuy nhiên, họ cũng bị tư sản Pháp cạnh tranh, chèn ép và kiềm hãm. Do đó, trong
chừng mực nhất định, giai cấp này, trừ bọn mại bản, vẫn có tinh thần dân tộc và tham
gia đấu tranh chống thực dân Pháp khi có điều kiện.

- Giai cấp tư sản Việt Nam đã bị tư sản Phảp và tư sản người Hoa cạnh tranh, chèn
ép, do đó, thế lực kinh tế và địa vị chính trị của giai cấp tư sản Việt Nam nhỏ bé và yếu
ớt. Vì vậy, giai cấp tư sản Việt Nam không đủ điều kiện để lãnh đạo cuộc cách mạng
dân tộc, dân chủ đi đến thành công.

- Tầng lớp tiểu tư sản Việt Nam bao gồm học sinh, trí thức, những người làm nghề
tự do… đời sống bấp bênh, dễ bị phá sản trở thành người vô sản, có lòng yêu nước,
căm thù đế quốc, thực dân, có khả năng tiếp thu những tư tưởng tiến bộ từ bên ngoài
truyền vào.

- Giai cấp nông dân là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội Việt Nam, bị thực dân
và phong kiến áp bức, bóc lột nặng nề. Tình cảnh bần cùng khốn khổ của giai cấp nông
dân Việt Nam đã làm tăng thêm lòng căm thù đế quốc và phong kiến tay sai, tăng thêm
ý chí cách mạng của họ trong cuộc đấu tranh giành lại ruộng đất và quyền sống tự do.

- Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của
thực dân Pháp, đa số xuất thân từ giai cấp nông dân, có quan hệ trực tiếp và chặt chẽ
với giai cấp nông dân, bị đế quốc, phong kiến áp bức bóc lột.

1.1.2.2 Biến đổi về tính chất

- Chuyển từ xã hội phong kiến độc lập sang xã hội thuộc địa nửa phong kiến.

- Một là, phải đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược, giành độc lập cho dân tộc, tự do
cho nhân dân; Hai là, xóa bỏ chế độ phong kiến, giành quyền dân chủ cho nhân dân,

5
chủ yếu là ruộng đất cho nông dân, trong đó chống đế quốc, giải phóng dân tộc là
nhiệm vụ hàng đầu.

- Chế độ thuộc địa nửa phong kiến là chế độ mà ở đó tồn tại đan xen cả hình thái
xã hội tư bản chủ nghĩa, khi ở đó có sự phát triển kinh tế tư bản, có giai cấp tư sản,
công nhân và có sự tồn tại (không mất đi) của hình thái xã hội phong kiến khi giai cấp
phong kiến, địa chủ vẫn còn nắm quyền thống trị (dù chỉ là hình thức) và bóc lột nông
dân. Điển hình là xã hội Việt Nam sau cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực
dân Pháp.

- Các giai cấp cũ: địa chủ phong kiến, nông dân bị phân hoá.

- Xuất hiện các tầng lớp, giai cấp mới: công nhân, tầng lớp tư sản, tiểu tư sản thành
thị, tạo điều kiện cho cuộc vận động giải phóng dân tộc theo xu hướng mới.

1.1.2.3 Biến đổi về mâu thuẫn

- Mẫu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam lúc này, không chỉ là mâu thuẫn giữa
nhân dân, chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ và phong kiến, mà đã nảy sinh mâu
thuẫn ngày càng gay gắt giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược.

1.1.3 Các phong trào yêu nước ở Việt Nam

1.1.3.1 Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và tư sản

Phong trào Cần Vương (1885 – 1896)

- Do vua Hàm Nghi và cụ Tôn Thất Thuyết lãnh đạo, hoạt động tại Bắc Kỳ và
Trung Kỳ (Ngày 13/7/1885, vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương. Phong trào Cần
Vương phát triển mạnh ra nhiều địa phương ở Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ. Ngày
1/11/1888, vua Hàm Nghi bị Pháp bắt nhưng phong trào vẫn tiếp tục phát triển cho đến
năm 1896 mới kết thúc. Thất bại của các phong trào trên đã chứng tỏ hệ tư tưởng phong

6
kiến không đủ điều kiện để lãnh đạo phong trào yêu nước giải quyết thành công nhiệm
vụ dân tộc Việt Nam).

Khởi nghĩa Nông dân Yên Thế (1885 – 1913)

- Do Hoàng Hoa Thám và Lương Văn Nắm lãnh đạo, diễn ra tại Bắc Giang. KN
đã đánh thắng Pháp nhiều trận và gây cho chúng nhiều khó khăn thiệt hại nhưng đến
năm 1913 thì bị dập tắt.

Khởi nghĩa Ba Đình (1881 – 1887)

- Do Phạm Bành và Đinh Công Tráng lãnh đạo, diễn ra tại Thanh Hóa.

Khởi nghĩa Bãi Sậy (1883 – 1892)

- Do Nguyễn Thiện Thuật lãnh đạo, diễn ra ở các tỉnh Hải Dương, Hải Phòng,
Hưng Yên, Thái Bình.

Khởi nghĩa Hương Khê (1885 – 1896)

- Do Phan Đình Phùng và Cao Thắng lãnh đạo, diễn ra tại Bắc Giang. Khởi nghĩa
đã đánh thắng Pháp nhiều trận và gây cho chúng nhiều khó khan thiệt hại nhưng đến
năm 1913 thì bị dập tắt.

1.1.3.2 Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản

- Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị các điều kiện về chính trị, tư tưởng, tổ chức cho việc
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

- Năm 1911, Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước.

- 1917, Nguyễn Ái Quốc trở lại Pháp. Cách mạng tháng Mười Nga thành công đã
ảnh hưởng quyết định đến xu hướng hoạt động của Người

- 18-6-1919, Nguyễn Ái Quốc gửi tới Hội nghị Véc-xai Bản yêu sách gồm 8 điểm
đòi các quyền tự do dân chủ cho nhân dân Việt Nam.

7
- Vào tháng 7/1920, Người đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn
đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin đăng trên báo Nhân đạo. Người tìm thấy trong
Luận cương của Lênin lời giải đáp về con đường giải phóng cho nhân dân Việt Nam.

- Tháng 12/1920, tại Đại hội của Đảng Xã hội Pháp họp ở Tua, Nguyễn Ái Quốc
đã bỏ phiếu tán thành Quốc tế thứ ba và lập ra Đảng Cộng sản Pháp. Sau đó Người đã
tham gia Đảng Cộng sản Pháp và là người cộng sản Việt Nam đầu tiên đánh dấu bước
ngoặt trong hoạt động Nguyễn Ái Quốc, từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác -
Lênin và đi theo cách mạng vô sản.

- Sự kiện đó cũng đánh dấu bước mở đường giải quyết cuộc khủng hoảng về đường
lối giải phóng dân tộc.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1

Trong những biến đổi xã hội vì sự xâm nhập của người Pháp thì nhìn chung kinh
tế, xã hội Việt có những phát triển tích cực, có nhiều mặt hàng mới, trong đó có nhiều
thực vật đưa vào Việt Nam từ châu Âu… Nông nghiệp, công nghiệp được đẩy mạnh.
Cùng với đó là sự nổi dậy của các phong trào yêu nước đã đẩy mạnh tinh thần chiến
đấu, yêu nước của nhân dân, không khuất phục trước sự xâm lược của các thực dân
Pháp.

8
CHƯƠNG 2: CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN VÀ LUẬN CƯƠNG
CHÍNH TRỊ THÁNG 10 CỦA ĐẢNG.

2.1 Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (02/1930)
2.1.1 Bối cảnh lịch sử và hoàn cảnh ra đời Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng

Đến cuối năm 1929, những người cách mạng Việt Nam trong các tổ chức cộng
sản đã nhận thức được sự cần thiết và cấp bách phải thành lập một đảng cộng sản thống
nhất, chấm dứt sự chia rẽ trong phong trào cộng sản ở Việt Nam.

Ngày 27-10-1929, Quốc tế Cộng sản gửi những người Cộng sản Đông Dương tài
liệu về việc thành lập một Đảng Cộng sản ở Đông Dương, yêu cầu những người cộng
sản Đông Dương phải khắc phục ngay sự chia rẽ giữa các nhóm cộng sản và thành lập
một đảng của giai cấp vô sản.

Nhận được tin về sự chia rẽ của những người cộng sản ở Đông Dương, Nguyễn
Ái Quốc rời Xiêm đến Trung Quốc. Người chủ trì Hội nghị hợp nhất Đảng, tại Hương
Cảng, Trung Quốc với sự tham dự chính thức của hai đại biểu Đông Dương Cộng sản
Đảng (6-1929); hai đại biểu của An Nam Cộng sản Đảng (10-1929) và một số đồng
chí Việt Nam hoạt động ngoài nước. Hội nghị họp bí mật ở nhiều địa điểm khác nhau
trên bán đảo Cửu Long (Hương Cảng), từ ngày 6-1 đến ngày 7 tháng 2 năm 1930, đã
thảo luận quyết định thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và nhất trí thông qua 7 tài
liệu, văn kiện, trong đó có 4 văn bản hợp thành nội dung Cương lĩnh chính trị của
Đảng:

+ Chính cương vắn tắt của Đảng;

+ Sách lược vắn tắt của Đảng;

+ Chương trình tóm tắt của Đảng;

+ Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Tất cả các tài liệu, văn kiện nói trên đều do Nguyễn Ái Quốc khởi thảo dựa trên
cơ sở vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin, đường lối Đại hội VI (1928) của Quốc tế Cộng
9
sản; nghiên cứu các Cương lĩnh chính trị của những tổ chức cộng sản trong nước, tình
hình cách mạng thế giới và Đông Dương. Dù là vắn tắt, tóm tắt, song nội dung các tài
liệu, văn kiện chủ yếu của Hội nghị được sắp xếp theo một logic hợp lý của một Cương
lĩnh chính trị của Đảng.

2.1.2 Nội dung Cương lĩnh


2.1.2.1 Phương hướng chiến lược của Cách mạng

Phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là “Làm tư sản dân quyền
cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Tư sản dân quyền cách
mạng: dành quyền độc lập dân tộc, dành quyền tự quyết cho dân tộc.

Thổ địa cách mạng: giải quyết mâu thuẫn về giai cấp.

Việc giải phóng dân tộc, dành độc lập dân tộc, dành quyền tự chủ cho đất nước là
ưu tiên trên tất cả. Việc giải quyết mâu thuẫn giai cấp xếp sau giải phóng dân tộc, vì
mâu thuẫn giữa toàn dân tộc Việt Nam và thực dân Pháp là chủ yếu còn mâu thuẫn
giữa địa chủ và nông dân hay tư sản và công nhân chỉ là phụ.

2.1.2.2 Nhiệm vụ của Cách mạng

Về chính trị:

+ Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và phong kiến.

+ Làm cho nuớc Việt Nam được hoàn toàn độc lập.

+ Lập chính phủ công nông binh, tổ chức quân đội công nông.

+ Xóa bỏ chế độ phong kiến về mặt chính trị.

Về kinh tế:

+ Thủ tiêu hết các thứ quốc trái; tịch thu toàn bộ sản nghiệp lớn (như công nghiệp,
vận tải, ngân hàng v.v.) của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho Chính phủ
công nông binh quản lý.

10
+ Tịch thu toàn bộ ruộng đất của bọn đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho
dân cày nghèo.

+ Bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo; mở mang công nghiệp và nông nghiệp.

+ Thi hành luật ngày làm 8 giờ.

Về văn hóa - xã hội:

Dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, v.v; phổ thông giáo dục theo huớng
công nông hóa. Người cho rằng chính dốt nát đã gây ra đói nghèo và cũng chính dốt
nát đã đẩy cả một dân tộc rơi vào vòng nô lệ, đã làm cho một quốc gia có bề dày lịch
sử hàng nghìn năm, có truyền thống quật cường, bất khuất phải chịu thất bại vì không
nhận thức được thời đại.

Chống đế quốc về mặt kinh tế, chính trị. Chống PK về mặt chính trị. Do PK hiện tại
chỉ là bù nhìn về mặt chính trị, tất cả quyền hành đối nội đối ngoại đều nằm trong tay
toàn quyền Đông Dương đứng đầu là người Pháp.

2.1.2.3 Lực lượng tham gia Cách mạng

- Đảng phải tập hợp được Giai Cấp Công Nhân,Giai Cấp Nông Dân phải thu phục
cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ địa cách
mạng, đánh đổ bọn đại địa chủ và phong kiến.

- Phải làm cho các đoàn thể thợ thuyền và dân cày (công hội, hợp tác xã) khỏi ở
dưới quyền lực và ảnh hưởng của bọn tư bản quốc gia.

- Phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt,
v.v. để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp.

- Đối với phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản
cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra
mặt phản cách mạng (như Đảng lập hiến, v.v.) thì phải đánh đổ

11
Như vậy lực lượng tham gia là toàn thể dân tộc. Các giai cấp, tầng lớp trong xã
hội Việt Nam lúc này đều mang thân phận người dân mất nước và ở mức độ khác nhau
đều bị thực dân Pháp áp bức, bóc lột.

2.1.2.4 Lãnh đạo Cách mạng

Giai cấp vô sản là lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Đảng là đội tiên
phong của giai cấp vô sản, phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm
cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng; trong khi liên lạc với các giai cấp, phải rất
cẩn thận, không khi nào nhượng bộ một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào con
đường thỏa hiệp. Lợi ích dân tộc phải đặt lên trên hết, lợi ích giai cấp phải đặt dưới lợi
ích dân tộc. Chừng nào lợi ích dân tộc được xử lí thì chừng đó lợi ích của các giai cấp
cùng sẽ từng bước được xử lí

Vậy, Đảng không phải chỉ là Đảng của giai cấp công nhân mà là Đảng của cả
dân tộc. Do sự kết hợp giữa tư tưởng Hồ Chí Minh kết hợp với Chủ Nghĩa Mác Lenin,
trong đó còn có phong trao công nhân và phong trào yêu nước.

2.1.3 Nhận xét và đánh giá Cương lĩnh đầu tiên


2.1.3.1 Nhận xét

Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã đáp ứng đúng yêu cầu khách quan của lịch
sử, phù hợp với nguyện vọng độc lập tự do của quần chúng nhân dân, làm cho Đảng
nắm quyền lãnh đạo duy nhất đối với cách mạng Việt Nam và phát động được một
phong trào cách mạng rộng lớn ngay từ đầu năm 1930

2.1.3.2 Hạn chế

– Luận cương đã không vạch ra được đâu là mâu thuẫn chủ yếu của xã hội thuộc
địa coi trọng vấn đề chống phong kiến không phù hợp với cách mạng Việt Nam.

12
– Không đề ra được mối liên minh dân tộc và giai cấp rộng rãi trong cuộc đấu
tranh dân tộc và bọn tay sai.

– Đánh giá không đúng vai trò vị trí của các giai cấp tầng lớp khác do đó không
lôi kéo được bộ phận có tinh thần yêu nước.

2.2 Bối cảnh lịch sử và chủ trương của Đảng từ tháng 10/1930 đến tháng 5/1941

2.2.1 Luận cương chính trị tháng 10/1930

2.2.1.1 Hoàn cảnh ra đời của Luận cương chính trị tháng 10-1930

Dựa theo tình hình bối cảnh hiện tại lúc bấy giờ, Cương lĩnh chính trị đầu tiên
của Đảng Cộng sản Việt Nam được Hội nghị thành lập Đảng tháng 2/1930 thông qua
chỉ mới đáp ứng những yêu cầu cơ bản nhất về đường lối cách mạng Việt Nam. Yêu
cầu cấp thiết lúc này là đòi hỏi Đảng phải đưa ra được một cương lĩnh hoàn chỉnh, toàn
diện hơn. Đảng Cộng sản Việt Nam vừa mới ra đời với đường lối cách mạng đúng đắn,
đã lãnh đạo quần chúng dấy lên phong trào cách mạng rộng lớn chưa từng có trước
đó. Đang lúc phong trào cách mạng phát triển đến đỉnh cao, Ban chấp hành Trung ương
lâm thời của Đảng họp Hội nghị lần thứ nhất tại Hương Cảng-Trung Quốc (từ ngày 14
đến ngày 31-10-1930).

Tháng 4/1930, đồng chí Trần Phú sau một thời gian học ở Liên Xô, được Quốc
tế cộng sản cử về nước hoạt động và được bổ sung vào Ban Chấp hành Trung ương
Đảng, được giao nhiệm vụ soạn thảo Luận cương chính trị. Hội nghị đã thông qua Nghị
quyết về tình hình và nhiệm vụ cần kíp của Đảng, thông qua Điều lệ Đảng và Điều lệ
các tổ chức quần chúng. Hội nghị đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng
sản Đông Dương. Hội nghị cử ra Ban thường vụ Trung ương và cử đồng chí Trần Phú
làm Tổng bí thư. Hội nghị thảo luận và thông qua bản Luận cương chính trị của Đảng.

2.2.1.2 Nội dung cơ bản của Luận cương chính trị.

13
Bản luận cương chính trị gồm 13 mục, xác định những vấn đề cơ bản của cách
mạng Việt Nam:

- Phương hướng cách mạng: đánh giá tính chất xã hội của 3 nước Đông Dương
(xã hội thuộc địa là xứ thuộc Pháp), chỉ ra mâu thuẫn cơ bản chủ yếu là thợ thuyền,
dân cày và các phần tử lao khổ với địa chủ phong kiến và tư bản đế quốc. Lúc đầu là
làm cuộc “cách mạng tư sản dân quyền” có “tính chất thổ địa và phản đế”, lấy đây làm
thời kỳ dự bị để làm cách mạng xã hội. Sau khi cách mạng tư sản dân quyền thắng lợi
sẽ tiếp tục phát triển bỏ qua thời kỳ tư bản mà đấu tranh thẳng lên con đường xã hội
chủ nghĩa.

- Nhiệm vụ cách mạng: Nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền là
“phải tranh đấu để đánh đổ các di tích phong kiến, đánh đổ các cách bóc lột theo lối
tiền tư bản và để thực hành thổ địa cách mạng cho triệt để” và “đánh đổ đế quốc chủ
nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập”. Hai nhiệm vụ chiến lược đó có
quan hệ khăng khít với nhau: “… có đánh đổ đế quốc chủ nghĩa mới phá được cái giai
cấp địa chủ và làm cách mạng thổ địa được thắng lợi; mà có phá tan chế độ phong kiến
thì mới đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa”. Luận cương nhấn mạnh: Vấn đề thổ địa là
cái cốt của cách mạng tư sản dân quyền, là cơ sở để Đảng giành quyền lãnh đạo dân
cày.

- Lực lượng cách mạng: Giai cấp vô sản và nông dân là hai lực lượng chính
của cách mạng tư sản dân quyền, trong đó giai cấp vô sản là động lực chính và mạnh
nhất, là giai cấp lãnh đạo cách mạng. Bỏ qua, phủ nhận vai trò của tư sản, tiểu tư sản,
địa chủ và phú nông. Luận cương khẳng định: “điều kiện cốt yếu cho sự thắng lợi của
cách mạng ở Đông Dương là cần phải có một Đảng Cộng sản có một đường lối chính
trị đúng có kỷ luật tập trung, mật thiết liên lạc với quần chúng, và từng trải tranh đấu
mà trưởng thành”.

- Phương pháp cách mạng: Luận cương nêu rõ phải ra sức chuẩn bị cho quần
chúng về con đường “võ trang bạo động”. Đến lúc có tình thế cách mạng, “Đảng phải
lập tức lãnh đạo quần chúng để đánh đổ chính phủ của địch nhân và giành lấy chính
14
quyền cho công nông”. Võ trang bạo động để giành chính quyền là một nghệ thuật,
“phải tuân theo khuôn phép nhà binh”.

- Quan hệ quốc tế: Cách mạng Đông Dương là một bộ phận của cách mạng vô
sản thế giới, vì thế giai cấp vô sản Đông Dương phải đoàn kết gắn bó với giai cấp vô
sản thế giới, trước hết là giai cấp vô sản Pháp, và phải mật thiết liên hệ với phong trào
cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa.

2.2.1.3 Hạn chế của Luận cương chính trị.

– Chưa xác định rõ mâu thuẫn chủ yếu của một xã hội thuộc địa nên không nêu
được vấn đề dân tộc lên hàng đầu mà nặng về đấu tranh giai cấp, về vấn đề cách mạng
ruộng đất.

– Đánh giá không đúng khả năng cách mạng, mặt tích cực, tinh thần yêu nước
của các giai cấp, tầng lớp khác ngoài công nông trong cách mạng giải phóng dân tộc,
do đó không lôi kéo được bộ phận có tinh thần yêu nước.

– Chưa thấy được sự phân hoá trong giai cấp địa chủ phong kiến, nên không
đề ra được vấn đề lôi kéo một bộ phận giai cấp đia chủ trong cách mạng giải phóng
dân tộc .

Nguyên nhân dẫn đến hạn chế của Luận cương:

– Do những người lãnh đạo nhận thức máy móc, giáo điều về mối quan hệ giữa
vấn đề dân tộc và giai cấp trong xã hội thuộc địa nửa phong kiến Việt Nam.

– Không nắm được đầy đủ đặc điểm tình hình xã hội và giai cấp ở Việt Nam.

– Chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi khuynh hướng “tả” trong Quốc tế Cộng sản.

Những hạn chế trên được Đảng khắc phục dần trong quá trình lãnh đạo cách mạng.

2.2.1.4 Nhận xét.

15
Luận cương chính trị tháng 10-1930 của Đảng đã vận dụng những nguyên lý
của chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Đông Dương, vạch ra
con đường cách mạng chống đế quốc và chống phong kiến , đáp ứng những đòi hỏi
của phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam

2.2.2 Tính thống nhất và sự khác nhau giữa Cương lĩnh chính trị đầu tiên và
luận cương lĩnh chính trị tháng 10/1930

2.2.2.1 Tính thống nhất

- Cùng xác định phương hướng chiến lược cơ bản của cách mạng là làm cách
mạng tư sản dân quyển và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản.

- Xác định nhiệm vụ và mục tiêu của cách mạng là: chống đế quốc và phong
kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập.

- Tính chất của cách mạng lúc đầu là cuộc cách mạng tư sản dân quyền sau đó
liếp tục phát triển bỏ qua thời kỳ tư bản tiến thắng lên con đường xã hội chủ nghĩa (độc
lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội).

- Về lực lượng lãnh dạo cách mạng là giai cấp vô sản thông qua đội tiền phong
của mình là Đảng Cộng sản.

- Phương pháp cách mạng: sử dụng bạo lực cách nạng của quần chúng. Tuyệt
đối không đi vào con đường thoả hiệp.

- Về mối quan hệ cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới: cách mạng Việt
Nam với cách mạng Đông Dương là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới.

2.2.2.2 Sự khác nhau

Sự khác nhau giữa cương lĩnh chính trị đầu tiên và luận cương tháng 10 năm 1930
được thể hiện qua những ý sau:

16
Tính chất xã hội

Cương lĩnh chính trị đầu tiên: xã hội Việt Nam là xã hội thuộc địa nửa phong
kiến, bao gồm 2 mâu thuẫn. Mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với đế quốc
Pháp xâm lược và mâu thuẫn giữa nhân dân lao động (chủ yếu là nông dân) với địa chủ
phong kiến.

Trong đó, mâu thuẫn cơ bản nhất, gay gắt nhất là mâu thuẫn giữa toàn thể dân
tộc Việt Nam với đế quốc Pháp và bọn tay sai.

Luận cương chính trị tháng 10-1930: Xã hội Đông Dương gồm 2 mâu thuẫn
dân tộc và giai cấp, trong đó mâu thuẫn giai cấp là cơ bản nhất.

Tính chất cách mạng

Cương lĩnh chính trị đầu tiên: cách mạng trải qua 2 giai đoạn. Cách mạng tư sản
dân quyền và cách mạng thổ địa để tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Hai giai đoạn kế tiếp
nhau, không bức tường nào ngăn cách.

Luận cương chính trị tháng 10-1930: cách mạng Đông Dương lúc đầu là cách
mạng tư sản dân quyền. Sau khi thắng lợi tiến thẳng lên XHCN không qua giai đoạn
phát triển TBCN. Hoàn thành thắng lợi của giai đoạn này mới làm tiếp giai đoạn khác.

Kẻ thù cách mạng

Cương lĩnh chính trị đầu tiên: Đế quốc Pháp, vua quan phong kiến và tư sản
phản cách mạng. Cương lĩnh đã xác định rõ kẻ thù không phải toàn bộ là phong kiến
và tư sản.

Luận cương chính trị 10/1930: Đế quốc và phong kiến, luận cương không phân
biệt rõ trong hàng ngũ giai cấp phong kiến còn có bộ phận tiến bộ. Luận cương cũng
không đề cập đến bộ phận tư sản mại bản.

Nhiệm vụ cách mạng

Cương lĩnh chính trị đầu tiên: Đánh đổ đế quốc Pháp, bọn phong kiến và tư sản
phản cách mạng, giành độc lập dân tộc.
17
Luận cương chính trị tháng 10-1930: Đánh đổ thế lực phong kiến, đánh đổ ách
áp bức bóc lột tư bản, chống phong kiến giành ruộng đất cho dân cày.

Vai trò lãnh đạo

Cương lĩnh chính trị đầu tiên: Giai cấp công nhân thông qua đội tiên phong là
Đảng Cộng Sản Việt Nam.

Luận cương chính trị tháng 10-1930: Giai cấp vô sản với đội tiên phong là Đảng
Cộng sản Đông Dương

Lực lượng cách mạng

Cương lĩnh chính trị đầu tiên: chủ yếu là công nhân, nông dân, trí thức; lôi kéo,
lợi dụng phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư sản

Luận cương chính trị tháng 10-1930: Giai cấp vô sản và nông dân là hai động
lực chính của cách mạng mạng tư sản dân quyền, trong đó giai cấp vô sản là giai cấp
lãnh đạo cách mạng, nông dân có số lượng đông đảo nhất.

Nhận xét

Nhìn chung, cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đúng đắn và hoàn thiện hơn
so với luận cương chính trịn tháng 10-1930. Nguyễn Ái Quốc có cái nhìn liền mạch
hơn khi chỉ rõ được mâu thuẫn cấp thiết nhất. Còn Trần Phú tuy khởi thảo chi tiết hơn
nhưng chỉ tập trung vào vấn đề giai cấp. Hai cương lĩnh trên cùng với sự thống nhất về
tổ chức có ý nghĩa hết sức to lớn cùng với sự ra đời của Đảng ta. Hai cương lĩnh đều
là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên có tính chất quyết định cho những bước phát triển nhảy
vọt trong tiến trình lịch sử của dân tộc ta. Chúng là nền tảng cho những văn kiện nhằm
xây dựng, phát triển và hoàn thiện hệ thống lý luận, tư tưởng.

2.2.2.3 Quá trình Đảng từng bước khắc phục hạn chế và hoàn chỉnh đường lối cách
mạng giải phóng dân tộc từ tháng 3-1935 đến tháng 5-1941

18
2.2.2.3.1 Cuộc đấu tranh khôi phục tổ chức và phong trào cách mạng, Đại
hội Đảng lần thứ nhất (3-1935)

a. Bối cảnh lịch sử.

Do bị tổn thất nặng nề, cách mạng Việt Nam bước vào một giai đoạn đấu tranh
cực kỳ gian khổ. Tháng 1-1931, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Thông cáo về
việc đế quốc Pháp buộc dân cày ra đầu thú, vạch rõ thủ đoạn của kẻ thù và đề ra các
biện pháp hướng dẫn quần chúng đấu tranh. Hội nghị Trung ương (3-1931) quyết định
nhiều vấn đề thúc đẩy đấu tranh. Năm 1931, các đồng chí Trung ương bị địch bắt. Trần
Phú bị địch bắt ngày 18-4-1931 tại Sài Gòn.

Ngày 11-4-1931, Quốc tế Cộng sản ra Nghị quyết công nhận Đảng Cộng sản
Đông Dương là chi bộ độc lập. Đó là sự khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng. Trong
nhà tù đế quốc, các đảng viên của Đảng nêu cao khí tiết người cộng sản. Tổng Bí thư
Trần Phú hy sinh ngày 6-9-1931 tại Nhà thương Chợ Quán (Sài Gòn). Trước lúc hy
sinh còn căn dặn các đồng chí của mình “Hãy giữ vững chí khí chiến đấu!”. Những
đảng viên cộng sản trong các nhà tù Hỏa Lò (Hà Nội), Khám Lớn (Sài Gòn), Vinh, Hải
Phòng, Côn Đảo… bí mật thành lập nhiều chi bộ để lãnh đạo đấu tranh chống khủng
bố, chống chế độ nhà tù hà khắc, đòi cải thiện sinh hoạt…

Nhiều chi bộ nhà tù tổ chức huấn luyện, bồi dưỡng cho đảng viên về lý luận
Mác-Lênin, đường lối chính trị của Đảng, kinh nghiệm vận động cách mạng; tổ chức
học văn hóa, ngoại ngữ… Nhiều tài liệu huấn luyện đảng viên được biên soạn ngay
trong tù như: Chủ nghĩa duy vật lịch sử , Gia đình và Tổ quốc, Lịch sử tóm tắt ba tổ
chức quốc tế (chủ yếu là Quốc tế Cộng sản), Những vấn đề cơ bản của cách mạng Đông
Dương…

Ngày 6-6-1931, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc bị chính quyền Anh ở Hồng Kông bắt
giam. Đầu năm 1934, sau khi ra tù, trở lại làm việc ở Quốc tế Cộng sản (Mátxcơva-
Liên Xô).

19
Đầu năm 1932, theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, Lê Hồng Phong cùng một số
đồng chí công bố Chương trình hành động của Đảng Cộng sản Đông Dương và các
chương trình hành động của Công hội, Nông hội, Thanh niên cộng sản đoàn…

Khi Đảng và phong trào cách mạng còn gặp nhiều khó khăn, tháng 3-1933, đồng
chí Hà Huy Tập đã xuất bản Sơ thảo lịch sử phong trào cộng sản Đông Dương, bước
đầu tổng kết kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng, khẳng định công lao và sáng kiến của
đồng chí Nguyễn Ái Quốc, người sáng lập Đảng.

Đầu năm 1934, theo sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản, Ban Chỉ huy ở ngoài của
Đảng Cộng sản Đông Dương được thành lập lãnh đạo, chỉ đạo phong trào trong nước
như chức năng, trách nhiệm của Ban Chấp hành Trung ương.

Đến đầu năm 1935, hệ thống tổ chức của Đảng được phục hồi. Đó là cơ sở để
tiến tới Đại hội lần thứ nhất của Đảng.

b. Đại hội Đảng lần thứ nhất

Tháng 3-1935, Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng họp ở Ma Cao (Trung
Quốc), đề ra ba nhiệm vụ trước mắt: 1- Củng cố và phát triển Đảng, 2- Đẩy mạnh cuộc
vận động tập hợp quần chúng, 3- Mở rộng tuyên truyền chống đế quốc, chống chiến
tranh, ủng hộ Liên Xô và ủng hộ cách mạng Trung Quốc…

Đại hội thông qua Nghị quyết chính trị, Điều lệ Đảng và các nghị quyết về vận
động quần chúng. Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương mới do Lê Hồng Phong làm
Tổng Bí thư, bầu đoàn đại biểu đi dự Đại hội VII Quốc tế Cộng sản. Nguyễn Ái Quốc
được cử làm đại diện của Đảng bên cạnh Quốc tế Cộng sản. Đại hội lần thứ nhất của
Đảng (3-1935) vẫn chưa đề ra một chủ trương chiến lược phù hợp với thực tiễn cách
mạng Việt Nam, chưa đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu và tập hợp lực
lượng toàn dân tộc.

Đại hội lần thứ nhất đánh dấu sự phục hồi hệ thống tổ chức của Đảng và phong
trào cách mạng quần chúng, tạo điều kiện để bước vào một cao trào cách mạng mới.

20
2.2.2.3.2 Phong trào dân chủ 1936-1939

a. Điều kiện lịch sử và chủ trương của Đảng

Quốc tế Cộng sản họp Đại hội VII tại Mátxcơva (Liên Xô) (7-1935), xác định
kẻ thù nguy hiểm trước mắt của nhân dân thế giới là chủ nghĩa phát xít. Nhiệm vụ trước
mắt của giai cấp công nhân và nhân dân lao động thế giới là chống chủ nghĩa phát xít,
chống chiến tranh bảo vệ dân chủ và hòa bình. Để thực hiện nhiệm vụ đó, giai cấp công
nhân các nước trên thế giới phải thống nhất hàng ngũ, lập mặt trận nhân dân rộng rãi.

Ở Việt Nam, mọi tầng lớp xã hội đều mong muốn có những cải cách dân chủ
nhằm thoát khỏi tình trạng ngột ngạt do khủng hoảng kinh tế và chính sách khủng bố
trắng do thực dân Pháp gây ra. Đảng Cộng sản Đông Dương đã phục hồi hệ thống tổ
chức sau một thời gian đấu tranh cực kỳ gian khổ và tranh thủ cơ hội thuận lợi để xây
dựng, phát triển tổ chức đảng và các tổ chức quần chúng rộng rãi.

Ngày 26-7-1936, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị tại Thượng
Hải (Trung Quốc), do Lê Hồng Phong chủ trì, có Hà Huy Tập, Phùng Chí Kiên dự. Hội
nghị xác định nhiệm vụ trước mắt là chống phát xít, chống chiến tranh đế quốc, chống
phản động thuộc địa và tay sai, đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hòa bình. Hội nghị chủ
trương chuyển hình thức tổ chức bí mật, không hợp pháp sang các hình thức tổ chức
và đấu tranh công khai, nửa công khai, hợp pháp, nửa hợp pháp, kết hợp với bí mật,
bất hợp pháp.

Các Hội nghị lần thứ ba (3-1937) và lần thứ tư (9-1937) Ban Chấp hành Trung
ương Đảng bàn sâu hơn về công tác tổ chức của Đảng, quyết định chuyển mạnh hơn
nữa về phương pháp tổ chức và hoạt động để tập hợp đông đảo quần chúng trong mặt
trận chống phản động thuộc địa, đòi tự do, dân chủ, cơm áo, hòa bình. Hội nghị Ban
Chấp hành Trung ương Đảng tháng 3-1938 nhấn mạnh “lập Mặt trận dân chủ thống
nhất là một nhiệm vụ trung tâm của Đảng trong giai đoạn hiện tại .

Trong văn kiện Chung quanh vấn đề chiến sách mới (tháng 10-1936), Đảng
nêu quan điểm: “Cuộc dân tộc giải phóng không nhất thiết phải kết chặt với cuộc cách

21
mạng điền địa. Nghĩa là không thể nói rằng: muốn đánh đổ đế quốc cần phải phát triển
cách mạng điền địa, muốn giải quyết vấn đề điền địa thì cần phải đánh đổ đế quốc. Lý
thuyết ấy có chỗ không xác đáng”. “Nói tóm lại, nếu phát triển cuộc tranh đấu chia đất
mà ngăn trở cuộc tranh đấu phản đế thì phải lựa chọn vấn đề nào quan trọng hơn mà
giải quyết trước. Nghĩa là chọn địch nhân chính, nguy hiểm nhất, để tập trung lực lượng
của một dân tộc mà đánh cho được toàn thắng”. Với văn kiện này, Trung ương Đảng
đã nêu cao tinh thần đấu tranh, thẳng thắn phê phán quan điểm chưa đúng và bước đầu
khắc phục hạn chế trong Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương tháng
10-1930. Đó cũng là nhận thức mới, phù hợp với tinh thần trong Cương lĩnh chính trị
đầu tiên của Đảng tại Hội nghị thành lập Đảng (2-1930) và lý luận cách mạng giải
phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc.

b. Phong trào đấu tranh đòi tự do, dân chủ, cơm áo, hòa bình.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cuộc vận động dân chủ diễn ra trên quy mô rộng
lớn, lôi cuốn đông đảo quần chúng tham gia với những hình thức đấu tranh phong phú.

Đảng phát động một phong trào đấu tranh công khai của quần chúng nhằm thu
thập nguyện vọng quần chúng, tiến tới triệu tập Đại hội đại biểu nhân dân Đông Dương.
Hưởng ứng chủ trương của Đảng, quần chúng sôi nổi tổ chức các cuộc mít tinh, hội
họp để tập hợp “dân nguyện”.

Đầu năm 1937, nhân dịp phái viên của chính phủ Pháp là Gôđa sang nhận chức
toàn quyền Đông Dương, Đảng vận động hai cuộc biểu dương lực lượng quần chúng
dưới danh nghĩa “đón rước”, mít tinh, biểu tình, đưa đơn “dân nguyện”.

Ngày 5-5-1937, Tổng Bí thư Hà Huy Tập xuất bản cuốn Tờrốtxky và phản cách
mạng phê phán những luận điệu “tả” khuynh của các phần tử Tờrốtkít ở Việt Nam, góp
phần xây dựng Đảng về tư tưởng, chính trị và tổ chức. Từ cuối năm 1937, phong trào
truyền bá quốc ngữ phát triển mạnh.

Hội nghị Trung ương Đảng (29 - 30-3-1938) quyết định lập Mặt trận Dân chủ
Đông Dương để tập hợp rộng rãi lực lượng, phát triển phong trào. Hội nghị bầu đồng

22
chí Nguyễn Văn Cừ làm Tổng Bí thư của Đảng. Năm 1939, Tổng Bí thư Nguyễn Văn
Cừ xuất bản cuốn sách Tự chỉ trích thẳng thắn chỉ rõ những sai lầm, khuyết điểm, nêu
rõ những bài học cần thiết trong lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng.

Khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ (9-1939), thực dân Pháp đàn áp cách
mạng. Đảng rút vào hoạt động bí mật. Cuộc vận động dân chủ kết thúc. Đó thực sự là
một phong trào cách mạng sôi nổi, có tính quần chúng rộng rãi, nhằm thực hiện mục
tiêu trước mắt là chống phản động thuộc địa và tay sai, đòi tự do, dân chủ, cơm áo và
hòa bình.

Cuộc vận động dân chủ 1936-1939 đã làm cho trận địa và lực lượng cách mạng
được mở rộng ở cả nông thôn và thành thị, thực sự là một bước chuẩn bị cho thắng lợi
của Cách mạng Tháng Tám sau này.

2.2.2.3.3 Phong trào giải phóng dân tộc 1939-5/1941

a. Bối cảnh lịch sử.

Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ và ngày càng lan rộng: ngày 1-9-1939,
phát xít Đức tiến công Ba Lan. Hai ngày sau, Anh, Pháp tuyên chiến với Đức. Tháng
6/1940, nước Pháp bị phát xít Đức chiếm đóng, chính phủ phản động Pê-tanh lên cầm
quyền. Tháng 6-1941, Đức tấn công Liên Xô, tính chất chiến tranh thay đổi. Ở Châu
Á – Thái Bình Dương, Nhật mở rộng xâm lược Trung Quốc, tién sát biên giới Việt –
Trung. Tháng 9-1940, Nhật vào Đông Dương.

Ở Đông Dương, thế lực phản động thuộc địa ngóc đầu dậy, thủ tiêu các quyền
tự do, dân chủ; thi hành chính sách “Kinh tế chỉ huy”. Khi Nhật vào Đông Dương,
Pháp đầu hàng Nhật và cấu kết với Nhật để thống trị và bóc lột nhân dân Đông Dương,
làm cho nhân dân Đông Dương phải chịu hai tầng áp bức.

Mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với đế quốc xâm lược và tay sai
phát triển vô cùng gâu gắt. Nhiệm vụ giải phóng dân tộc được đặt ra cấp thiết.

b. Chủ trương chiến lược mới của Đảng.

23
Sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài, ngày 28-1-1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc
về nước và làm việc ở Cao Bằng. Tháng 5-1941, Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị lần
thứ tám Ban chấp hành Trung ương Đảng. Trung ương bầu đồng chí Trường Chinh
làm Tổng Bí thư. Hội nghị Trung ương nêu rõ những nội dung quan trọng:

Thứ nhất: Hết sức nhấn mạnh mâu thuẫn chủ yếu đòi hỏi phải được giải quyết
cấp bách là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc phát xít Pháp-Nhật.

Thứ hai: Khẳng định dứt khoát chủ trương “phải thay đổi chiến lược” và giải
thích: “Cuộc cách mạng ở Đông Dương hiện tại không phải là một cuộc cách mạng tư
sản dân quyền, cuộc cách mạng phải giải quyết hai vấn đề: phản đế và điền địa nữa,
mà là một cuộc cách mạng chỉ phải giải quyết một vấn đề cần kíp “dân tộc giải phóng”.

Thứ ba: Giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước ở Đông Dương,
thi hành chính sách “dân tộc tự quyết”.

Thứ tư: Tập hợp rộng rãi mọi lực lượng dân tộc, “không phân biệt thợ thuyền,
dân cày, phú nông, địa chủ, tư bản bản xứ, ai có lòng yêu nước thương nòi sẽ cùng
nhau thống nhất mặt trận, thu góp toàn lực đem tất cả ra giành quyền độc lập, tự do cho
dân tộc”.

Thứ năm: Chủ trương sau khi cách mạng thành công sẽ thành lập nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa theo tinh thần tân dân chủ, một hình thức nhà nước “của chung
cả toàn thể dân tộc”

Thứ sáu: Hội nghị xác định chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung
tâm của Đảng và nhân dân, “phải luôn luôn chuẩn bị một lực lượng sẵn sàng, nhằm
vào cơ hội thuận tiện hơn cả mà đánh lại quân thù”.

Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã hoàn chỉnh chủ
trương chiến lược được đề ra từ Hội nghị tháng 11-1939, khắc phục triệt để những hạn
chế của Luận cương chính trị tháng 10-1930, khẳng định lại đường lối cách mạng giải
phóng dân tộc đúng đắn trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng và lý luận cách
mạng giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc.

24
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2

Luận cương chính trị tháng 10-1930 được nhìn từ hôm nay nhưng phải đặt
mình vào bối cảnh ra đời của Luận cương, thì chúng ta mới đánh giá được một cách
khách quan và đúng đắn giá trị, ý nghĩa to lớn cũng như những hạn chế lịch sử của nó.
Có hiểu đầy đủ tình hình quốc tế, đặc biệt là hoạt động của Quốc tế Cộng sản và tình
hình trong nước là sự cấu kết giữa thực dân Pháp và tay sai để đàn áp cách mạng, thì
mới thấy hết cái được và chưa được của Luận cương trong bước ngoặt lịch sử giải
phóng dân tộc khi Đảng vừa ra đời nắm ngọn cờ lãnh đạo cách mạng.

Tám mươi tư năm qua, chúng ta thấy thành tựu lớn nhất mà cách mạng Việt
Nam đã đạt được dưới ánh sáng của Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt và Luận
cương chính trị là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đã trở thành lẽ sống chi
phối tình cảm, ý nghĩ và hành động của nhân dân ta. Đó cũng là quan điểm có tính
nguyên tắc của Đảng ta trong công cuộc đổi mới.

25
CHƯƠNG 3: CHÍNH CƯƠNG ĐẢNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM THÁNG 2/1951
VÀ SỰ HOÀN CHỈNH CÁCH MẠNG DÂN CHỦ NHÂN DÂN

3.1 Bối cảnh lịch sử và nội dung Chính cương Đảng Lao động Việt Nam

Từ ngày thành lập đến nay, Đảng cộng sản Việt Nam đã trải qua 13 kỳ Đại
hội. Mỗi giai đoạn lịch sử, Đảng ta lại có một sứ mệnh với những chiến lược cách mạng
khác nhau. Tinh thần của chủ nghĩa Mác Lê-nin và tư tưởng Hồ chí Minh đã được vận
dụng sáng tạo và kết tinh qua các bản cương lĩnh, chính cương của Đảng. Mỗi văn kiện
đó đều chứa đựng những giá trị nội dung, ý nghĩa lớn lao riêng và có vai trị lịch sử
trọng đại đối với vận mệnh của quốc gia dân tộc.

Từ năm 1950, phong trào cách mạng trên thế giới phát triển mạnh mẽ. Hệ
thống xã hội chủ nghĩa đã được củng cố và tăng cường về mọi mặt. Phong trào giải
phóng dân tộc vẫn tiếp tục phát triển làm rung chuyển hậu phương của chủ nghĩa đế
quốc. Phong trào bảo vệ hồ bình thế giới trở thành phong trào quần chúng rộng rãi.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam, đã đưa nhân dân ta từ
người mất nước lên người làm chủ đất nước. Nhưng dã tâm xâm lược của thực dân
Pháp không dừng lại ở đó, một lần nữa nhân dân ta lại phải tiếp tục cầm súng đứng lên
đánh giặc để bảo vệ nền tự do, độc lập. Cuộc kháng chiến dần bước sang giai đoạn mới
với những yêu cầu mới, đòi hỏi Đảng ta phải giải quyết những vấn đề lý luận và thực
tiễn cấp bách để đưa cách mạng tiến lên.

Bên cạnh đó, từ sau năm 1930, Đảng Cộng sản Đơng Dương đã làm tròn vai
trò và sử mệnh lịch sử của mình với tu cách là Đảng duy nhất lãnh đạo cách mạng của
và nước Đông Dương. Tuy nhiên, tình thế lịch sử đã có những bước phát triển riêng
biệt. Đòi hỏi mỗi nước cần phải thành lập một chính đảng cách mạng theo Chủ nghĩa
Mác-Lênin, trực tiếp đảm nhiệm sứ mệnh lịch sử trước dân tộc mình và chủ động góp
phần vào sự nghiệp cách mạng chung của nhân dân ba dân tộc.

3.1.1 Bối cảnh lịch sử ra đời Cương lĩnh chính trị của Đảng Lao động Việt Nam
(2/1951)

26
3.1.1.1. Tình hình thế giới.

Sau khi chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc, hệ thống các nước xã hội
chủ nghĩa ra đời với trụ cột là Liên Xô. Đây là một nhân tố mới làm thay đổi tương
quan lực lượng toàn cầu, có lợi cho phong trào cách mạng thế giới, trong đó có cách
mạng Việt Nam. Tuy nhiên, trong những năm mới hình thành, Liên Xô và các nước xã
hội chủ nghĩa Đông Âu tập trung khắc phục hậu quả chiến tranh và tiến hành các nhiệm
vụ cách mạng của nước mình nên chưa quan tâm nhiều tới khu vực Đông Nam Á nói
chung và Việt Nam nói riêng.

Đến năm 1950, tình hình kinh tế- xã hội của Liên Xô và các nước xã hội chủ
nghĩa Đông Âu đã dần đi vào ổn định và phát triển. Liên Xô đã đi vào thực hiện kế
hoạch 5 năm 1946-1950 và chế tạo thành công vũ khí nguyên tử (1949), phá thế độc
tôn của Mỹ về loại vũ khí này. Sự vững mạnh của Liên Xô là chỗ dựa vững chắc cho
hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, nguồn cổ vũ lớn lao cho các dân tộc đang bị áp
bức bóc lột của chủ nghĩa thực dân, đế quốc.

Bên cạnh đó, tháng 10-1949, cách mạng Trung Quốc thành công, nước Cộng
hòa Dân chủ Nhân dân Trung Hoa ra đời đã giáng một đòn mạnh vào chủ nghĩa đế
quốc, đánh đổ một bộ phận quan trọng trong hệ thống thuộc địa của chúng, góp phần
cổ vũ cho phong trào giải phóng dân tộc toàn thế giới và tăng cường sức mạnh của hệ
thống xã hội chủ nghĩa. Thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ ở Trung Quốc và sự
ra đời của nhà nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa theo đường lối xã hội chủ nghĩa
đã làm cho hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa được mở rộng từ Tây sang Đông, một
hậu phương bao la ở phía Bắc đã mở ra đối với nước ta. Đó là điều kiện vô cùng thuận
lợi đối với cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam.

3.1.1.2. Tình hình trong nước

Sau 5 năm thực hiện đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ
dựa vào sức mình là chính, dưới sự lãnh đạo của Đảng sự nghiệp kháng chiến, kiến
quốc của Nhân dân Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng.

27
Trên lĩnh vực quân sự, thắng lợi của cuộc phản cơng lớn ở Việt Bắc là thắng
lợi có ý nghĩa chiến lược quan trọng trong những năm đầu toàn quốc kháng chiến, làm
phá sản chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh” của thực dân Pháp; giữ vững căn cứ địa
kháng chiến của cả nước; bảo toàn và phát triển lực lượng kháng chiến. Qua chiến dịch
phản công đầu tiên nảy, Đảng ta có thêm nhiều kinh nghiệm chỉ đạo chiến tranh. Nhìn
toàn cục, chiến thắng Việt Bắc tạo ra sự biến đổi đáng kể trong so sánh lực lượng giữa
ta và địch, tạo ra thế chiến lược mới có lợi cho ta. Thực dân Pháp buộc phải chuyển
hướng sang “đánh lâu dài” với âm mưu “lẫy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người
Việt trị người Việt".

Để đập tan âm mưu của địch và xuất phát từ yêu cầu phát triển lực lượng,
mở rộng chiến tranh nhân dân, làm nồng cốt cho tòan dân đánh giặc, từ giữa năm 1948,
Trung ương Đảng đã để ra chủ trương phân tán hai phần ba bộ đội chủ lực thành các
đại đội độc lập, kết hợp tác chiến với vận động quần chúng đẩy mạnh phong trào chiến
tranh du kích phá tể, trừ gian; kết hợp chiến tranh du kích với sự nổi dậy của quần
chúng phá tề, xây dựng chính quyền cách mạng ở nông thôn, xây dựng làng chiến đấu
và các căn cứ du kích là một chủ trương quan trọng trong hai năm 1948-1949.

Thực hiện chủ trương của Đảng, hàng nghìn cán bộ, hàng trăm đại đội độc
lập và đội xung phong công tác, đội vũ trang tuyên truyền đã được tăng cường vào
vùng tạm bị chiếm. Phong trào chống thuế, chống bắt phu, bắt lính, trừ gian... nổi dậy
đồng loạt ở nhiều nơi vùng sau lưng địch phát triển thành phong trào tổng phá tề rầm
rộ. Chính quyền bù nhìn bị tan vỡ từng mảng.

Chính quyền cách mạng được lập lại ở nhiều nơi với những hình thức thích
hợp. Nhiều làng chiến đấu được thành lập và đương đầu có hiệu quả với các cuộc tàn
phá ác liệt của địch. Để tăng cường xây dựng bộ đội chủ lực, tháng 11-1949, Chủ tịch
Hồ Chí Minh ra sắc lệnh về nghĩa vụ quân sự. Hàng vạn thanh niên náo nức

28
tòng quân, đưa quân số lên 23 vạn. Đầu năm 1950, hai đại đoàn chủ lực và nhiều trung
đoàn chủ lực của Bộ Tổng Tư lệnh và của các quân khu ra đời. Dân quân tự vệ phát
triển lên tới ba triệu người.

Trên mặt trận kinh tế, thực hiện nhiệm vụ xây dựng kinh tế kháng chiến và
đấu tranh kinh tế với địch, Đảng và Chính phủ kháng chiến chủ trương xây dựng nền
kinh tế dân chủ nhân dân, vữa tự cấp, tự túc, đáp ứng những nhu cầu thiết yếu của cuộc
kháng chiến, đồng thời tích cực đấu tranh chống lại những hành động phá hoại của
địch. Về nông nghiệp, tháng 2 năm 1949, Chính phủ ra sắc lệnh tịch thu ruộng đất của
thực dân và Việt gian phản động, tạm chia cho dân cày. Thực hiện xóa nợ cũ, giảm tô
giảm tức cho nông dân. Đẩy mạnh công tác thủy lợi, hướng dẫn nông dân đi vào làm
ăn tập thể với nhiều hình thức thích hợp, khuyến khích nhân dân khai hoang, phục hóa.
Đến đầu năm 1950, cả nước có 1.562 hợp tác xã và 25.491 tỗ đối cộng. Sản lượng
lương thực ngày càng tăng

Năm 1950 từ Liên khu IV trở ra, sản lượng lúa đạt xấp xỉ 2,4 triệu tấn. Lương
thực cho cuộc kháng chiến đã được đáp ứng. Về sản xuất công nghiệp và tiểu thủ cơng
nghiệp có những bước phát triển mạnh mẽ. Ngành công nghiệp quốc phòng đến năm
1949 có 130 xưởng sản xuất vũ khí nhằm phục vụ cho quốc phịng và dân sinh. Nhà
máy cơ khi Trần Hưng Đạo và một số xưởng chế tạo đã sản xuất được các loại máy
như: máy in, máy khoan, máy tiện, máy cưa. Các mỏ than trong vùng tự do như Tân
Trào (Tuyên Quang), Quán Triều (Thái Nguyên) được phục hồi và khai thác phục vụ
sản xuất công nghiệp. Nghề làm giấy, dệt vải, làm muối, xà phòng, thuốc lá, đường,
phát triển mạnh tại nhiều nơi trong cả nước.

Trên mặt trận văn hóa, giáo dục, y tể nhân dẫn ta đã thu được những thắng
lợi quan trọng. Tháng 7 năm 1948, Đại hội Văn hóa toàn quốc lần thứ hai được triệu
tập tại Việt Bắc. Tại Đại hội, Tổng Bí thư Trường Chinh đã đọc báo cáo Chủ nghĩa
Mác và văn hóa Việt Nam, nêu rõ lập trưởng, tính chất, nhiệm vụ của văn hóa kháng
chiến. Hội Văn hóa Việt Nam được thành lập, các hoạt động văn hóa, văn nghệ trong

29
vùng tự do được đẩy mạnh. Đội ngũ văn nghệ sỹ hăng hái hội nhập vào cuộc sống sôi
động của dân tộc. Đời sống văn hóa kháng chiến được nâng cao, phát triển.

Về giáo dục, phong trào xóa nạn mù chữ và phát triển các loại trường lớp
được đẩy mạnh. Năm 1948 có thêm bốn triệu người biết chữ. Hà Tĩnh là địa phương
đầu tiên xóa nạn mù chữ. Năm 1950, Bộ Giáo dục thực hiện chương trình cải cách giáo
dục. Từ Liên khu IV ra đến Việt Bắc đã có gần 1.000 trường tiểu học và trung học. Ở
Liên khu V, phần lớn các huyện có trường cấp II và tỉnh có trường cấp III. Ở Nam Bộ,
tình hình có khó khăn hơn. Các tỉnh mới lập được trường tiểu học, tồn miễn mới có hai
trường trung học là trưởng Nguyễn Văn Tổ và trường Thái Văn Lung. Đến năm 1949,
chúng ta cũng đã có các trường đại học Y khoa, Sư phạm, Mỹ thuật tại Việt Bắc. Về y
tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân đã có những thành công rất cơ bản. Phong trảo “ăn
sạch, uống sạch, ở sạch" phát triển rộng rãi trong cả nước. Việc chữa bệnh đi liền với
phòng bệnh. Chúng ta đã xây dựng được một hệ thống cơ sở y tế từ Trung ương đến
liên khu, tỉnh, huyện và xã. Các trường đại học, viện nghiên cứu và các bệnh viện đã
sản xuất được một số loại thuốc cơ bản như Pênixilin, Steptômixin

Trên mặt trận chính trị, công tác xây dựng chính quyền cũng đã thu được
nhiều thắng lợi quan trọng. Uy tín chính trị của Chính phủ kháng chiến ngày càng được
khẳng định. Bộ máy nhà nước từng bước được kiện toàn. Công tác xây dựng Đảng
được chú trọng. Hàng chục vạn cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang, công nhân, nông
dân, trí thức ưu tú qua thử thách được kết nạp vào Đảng. Qua cuộc vận động xây dựng
“chi bộ tự động công tác”, tổ chức cơ sở đảng được tôi luyện, trưởng thành và thực sự
là hạt nhân lãnh đạo kháng chiến ở các địa phương.

Về đối ngoại, đầu năm 1950 cùng với việc Trung Quốc, Liên Xô, Triều Tiên
và các nước dân chủ nhân dân Đông Âu công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với Chính
phủ ta, nhân dân nhiều nước châu Á, châu Phi đã dành cho nhân dân Việt Nam tình
cảm đặc biệt và sự ủng hộ tích cực. Phong trào phản chiến của nhân dân Pháp phát
triển rầm rộ. Mối quan hệ truyền thống, liên minh chiến đấu của ba nước Đông Dương
được tăng cường. Với sự giúp đỡ, phối hợp của quân và dân ta, các khu căn cử kháng
30
chiến ở Trung Lào, Hạ Lão được thành lập; Uỷ ban Dân tộc giải phóng Khơme ra đời.
Thể liên minh chiến đấu ba nước Đông Dương càng thêm vững chắc.

Để tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đẩy mạnh kháng chiến đến
thắng lợi hoàn toàn là một nhiệm vụ hết sức quan trọng. Để đáp ứng yêu cầu bức thiết
của cuộc kháng chiến, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng đã được triệu tập.

Đại hội đã nghiên cứu và thơng qua Chính cương Đảng Lao động Việt Nam
do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Tổng Bí thư Trường Chinh chỉ đạo soạn thảo. Qua đó đã
hoạch định ra đường hướng phát triển của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới. Đại
hội quyết định đưa Đảng ra hoạt động công khai lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam.
Có thể nói, Đại hội lần thứ II của Đảng là một cột mốc quan trọng đánh dấu sự trưởng
thành của Đảng về mọi mặt và Chính cương Đảng lao động Việt Nam đã trở thành một
vũ khi lý luận sắc bén, quyết định cho sự thành công của cách mạng Việt Nam giai
đoạn sau này.

3.1.2 Nội dung Chính cương Đảng Lao động Việt Nam

Chính cương Đảng lao động Việt Nam tháng 2 năm 1951 có bố cục gồm ba
chương.

Chương I: Thế giới và Việt Nam;

Chương II: Xã hội Việt Nam và cách mạng Việt Nam;

Chương III: Chính sách của Đảng Lao động Việt Nam;

Nội dung chính của Chính cương được thể hiện trên các phương diện sau

* Tính chất của Cách mạng Việt Nam

Giai đoạn này, Cách mạng Việt Nam có ba tính chất

Dân chủ, nhân dân và một phần thuộc địa nửa phong kiến. Ba tính chất đó đang
đấu tranh lẫn nhau, nhưng mâu thuẫn chủ yếu lúc này là mâu thuẫn giữa tính chất
dân chủ nhân dân và tính chất thuộc địa. Mâu thuẫn đó đang được giải quyết trong
31
quá trình kháng chiến của dân tộc Việt Nam chống thực dân Pháp và can thiệp
Mỹ .Đảng ta căn cứ vào 3 loại hình cách mạng của Lênin (cách mạng giải phóng
dân tộc, cách mạng tư sản kiểu mới và cách mạng vô sản) gọi cách mạng Việt
Nam là cách mạng dân tộc, dân chủ, nhân dân. Đồng chí Trường Chinh giải thích:
Gọi là cách mạng dân tộc vì nó đánh đổ đế quốc giành độc lập cho dân tộc. Gọi
là cách mạng dân chủ vì nó đánh đổ giai cấp phong kiến giành lại ruộng đất cho
nông dân. Gọi là cách mạng nhân dân vì nó do nhân dân tiến hành cuộc cách
mạng ấy. Đồng thời, Chính cương cũng khẳng định: Cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân nhất định sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đây là một quá trình lâu dài và
đại thể trải qua ba giai đoạn:

Giai đoạn thứ nhất, nhiệm vụ chủ yếu là hồn thành giải phóng dân tộc.

Giai đoạn thứ hai, nhiệm vụ chủ yếu là xoá bỏ những di tích phong kiến và
nửa phong kiến, thực hiện triệt để người cảy có ruộng, phát triển kỹ nghệ,
hỗn chỉnh chế độ dân chủ nhân dân.

Giai đoạn thứ ba, nhiệm vụ chủ yếu là xây dựng cơ sở cho chủ nghĩa xã hội,
tiến lên thực hiện chủ nghĩa xã hội

Ba giai đoạn ấy không tách rời nhau, mà mật thiết liên hệ, xen kẽ với nhau. Và
đường lối, chính sách của Đảng sẽ được bổ sung, phát triển qua các hội nghị trung
ương tiếp theo dựa trên thực tiễn lịch sử cách mạng.

* Đối tượng của Cách mạng Việt Nam

Đối tượng chính là chủ nghĩa đế quốc xâm lược cụ thể lúc này là đế quốc được
đánh dấu bằng sự ra đời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Tuy nhiên, chúng ta
vẫn phải đương đầu với kẻ thù chính thực dân đế quốc. Tiêu diệt được kẻ thủ này
chúng ta mới có được độc lập dân tộc.

32
Trong nước, tàn dư của chế độ cũ vẫn còn, chúng biến tưởng thành tay sai phản
động. Đó là bè lũ phong kiến tay sai sẵn sàng bắt tay với giặc ngoại xâm mà ra
sức chống phá cách mạng. Chính vì thế, chúng ta phải sáng suốt nhận định kẻ thù
của cách mạng để đưa ra được những sách lược phủ hợp.

* Nhiệm vụ của Cách mạng Việt Nam

Trên cơ sở nhận định kẻ thù và mục tiêu của cuộc cách mạng, Đảng ta xác định
rõ ba nhiệm vụ cụ thể như sau:

Thứ nhất, Đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược, giành độc lập và thống nhất cho quốc
gia, dân tộc.

Thứ hai, Xoá bỏ những tàn tích phong kiến và nửa phong kiến, làm cho người
cày có ruộng.

Thứ ba, Phát triển chế độ dân chủ nhân dân gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội.

Ba nhiệm vụ đó khăng khít với nhau. Song nhiệm vụ chính trước mắt là hoàn
thành giải phóng dân tộc. Vì có giải phịng dân tộc thì mới chặt đứt được tay sai
phong kiến. Có độc lập dân tộc thì mới có thể đi lên xây dựng xã hội chủ nghĩa
đẻ đem lại cuộc sống ấm no cho nhân dân. Và hơn lúc nào hết, chúng ta phải tập
trung lực lượng vào cuộc kháng chiến để hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân
tộc.

* Lực lượng của Cách mạng Việt Nam

Đó là tập hợp cách lực lượng bao gồm các giai - tầng yêu nước. Họ là những
người công nhân bị bóc lột trong xưởng máy, là người nông dân bị cướp mất
ruộng, là tiểu tư sản, tư sản dân tộc yêu nước, sẵn sàng vì cuộc chiến tranh chính
nghĩa. Ngoài ra còn phải quy tụ những thân sĩ (địa chủ) yêu nước và tiến bộ.
Những giai cấp, tầng lớp và phần tử đó họp lại thành nhân dân, mà nền tảng là
công nhân, lao động trí óc. Giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng.
Điều này được Chính cương nêu rất rõ: "Người lãnh đạo cách mạng là giai cấp

33
công nhân. Đảng lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và của nhân
dân lao động Việt Nam. Mục đích của Đảng là phát triển chế độ dân chủ nhân
dân, tiến lên chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để thực hiện tự do, hạnh phúc
cho giai cấp công nhân, nhân dân lao động và tất cả các dân tộc đa số, thiểu số ở
Việt Nam”.

* Chính sách của Đảng

Đảng Lao động nhằm hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, xoá bỏ di tích
phong kiến và nửa phong kiến, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, làm cho nước
Việt Nam độc lập và thống nhất, dân chủ tự do, phú cường và tiến lên chủ nghĩa
xã hội. Trong kháng chiến và ngay sau kháng chiến, Đảng Lao động Việt Nam
chủ trương thi hành những chính sách sau đây đặng đẩy mạnh kháng chiến đến
thắng lợi và đặt cơ sở kiến thiết quốc gia.

1. Kháng chiến

1- Nhân dân Việt Nam kiên quyết kháng chiến đến cùng chống thực dân Pháp và
bọn can thiệp Mỹ để giành độc lập và thống nhất thật sự cho Tổ quốc.

2- Cuộc kháng chiến của ta là một cuộc chiến tranh nhân dân. Đặc điểm của nó
là : toàn dân, toàn diện, trường kỳ. Nó phải trải qua ba giai đoạn: phòng ngự, cầm
cự và tổng phản công.

3- Nhiệm vụ trọng tâm của cuộc kháng chiến từ nay đến thắng lợi là: hoàn thành
việc chuẩn bị tổng phản công và tổng phản công thắng lợi. Muốn vậy phải tổng
động viên nhân lực, vật lực, tài lực vào việc kháng chiến theo khẩu hiệu "Tất cả
cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng". Đồng thời phải luôn luôn bồi dưỡng lực
lượng kháng chiến về mọi mặt.

4- Phải nắm vững phương châm chiến lược của chiến tranh nhân dân là

34
- Các mặt công tác chính trị, kinh tế, vǎn hoá đều nhằm mục đích làm cho quân
sự thắng lợi. Đồng thời, đấu tranh quân sự phải phối hợp với đấu tranh chính trị,
kinh tế, v.v..

- Phối hợp với việc tác chiến trước mặt địch với việc đánh du kích quấy rối phá
hoại sau lưng địch.

2. Chính quyền nhân dân

1- Chính quyền của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là chính quyền dân chủ
của nhân dân nghĩa là của công nhân, nông dân, tiểu tư sản thành thị, tiểu tư sản
trí thức, tư sản dân tộc và các thân sĩ (địa chủ) yêu nước và tiến bộ. Những tầng
lớp nhân dân ấy chuyên chính đối với đế quốc xâm lược và bọn phản quốc. Cho
nên nội dung chính quyền đó là nhân dân dân chủ chuyên chính.

2- Chính quyền đó dựa vào Mặt trận dân tộc thống nhất, lấy liên minh công nhân,
nông dân và lao động trí thức làm nền tảng và do giai cấp công nhân lãnh đạo.

3- Nguyên tắc tổ chức của chính quyền đó là dân chủ tập trung. Cơ quan chính
quyền ở địa phương là Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính (hiện nay là Uỷ
ban kháng chiến hành chính). Cơ quan chính quyền tối cao toàn quốc là Quốc hội
và Hội đồng Chính phủ.

3. Mặt trận dân tộc thống nhất

1- Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam đoàn kết tất cả mọi đảng phái, mọi đoàn
thể và mọi thân sĩ yêu nước, không phân biệt giai cấp, chủng tộc, tôn giáo, nam
nữ để cùng nhau kháng chiến kiến quốc. Nó ủng hộ chính quyền bằng cách động
viên và giáo dục nhân dân thi hành mệnh lệnh chính quyền cũng như bằng cách
đề đạt ý kiến, nguyện vọng của nhân dân lên chính quyền.

2- Mặt trận dân tộc thống nhất lấy liên minh công nông và lao động trí thức làm
nòng cốt và do giai cấp công nhân lãnh đạo.
35
3- Đảng Lao động Việt Nam đoàn kết với các đảng phái, các đoàn thể, các thân
sĩ trong Mặt trận dân tộc thống nhất theo nguyên tắc:

- Đoàn kết thành thực: các bộ phận của Mặt trận giúp đỡ lẫn nhau và phê bình lẫn
nhau một cách thân ái để cùng nhau tiến bộ.

- Thống nhất hành động: các bộ phận của Mặt trận thương lượng, thoả thuận với
nhau để thống nhất mọi hành động theo một chương trình chung. Song mỗi đoàn
thể của Mặt trận vẫn độc lập về tổ chức và có chương trình hoạt động tối đa của
mình.

- Hợp tác lâu dài: các bộ phận trong Mặt trận đoàn kết nhau trong trường kỳ kháng
chiến và trong công cuộc kiến quốc sau khi kháng chiến thắng lợi.

4. Quân đội

1- Quân đội Việt Nam là quân đội nhân dân, do nhân dân tổ chức và vì nhân dân
mà chiến đấu. Nó có tính chất: dân tộc, dân chủ và hiện đại.

2- Trong kháng chiến, nguồn bổ sung chủ yếu của nó là bộ đội địa phương và dân
quân du kích và nguồn trang bị chủ yếu của nó là tiền tuyến.

Kỷ luật của nó rất nghiêm, nhưng là kỷ luật tự giác và dân chủ. Vừa tác chiến, nó
vừa tiến hành công tác chính trị rộng rãi làm cho trên dưới một lòng, quân dân
nhất trí và tinh thần lính địch tan rã.

5. Kinh tế tài chính

1- Những nguyên tắc lớn của chính sách kinh tế hiện nay là đảm bảo quyền lợi
của công và tư, của tư bản và lao động, tǎng gia sản xuất mọi mặt để cung cấp
cho nhu cầu kháng chiến và cải thiện dân sinh, đặc biệt là cải thiện đời sống của
nhân dân lao động.

2- Trong các ngành sản xuất, hiện nay phải chú trọng nhất việc phát triển nông
nghiệp. Về công nghiệp chú trọng phát triển tiểu công nghệ và thủ công nghiệp,

36
đồng thời xây dựng kỹ nghệ, phát triển thương nghiệp. Phát triển nền tài chính
theo nguyên tắc: tài chính dựa vào sản xuất và đẩy mạnh sản xuất. Chính sách tài
chính là:

- Tǎng thu bằng cách tǎng gia sản xuất, giảm chi bằng cách tiết kiệm.

- Thực hiện chế độ đóng góp dân chủ.

Chú trọng gây cơ sở kinh tế nhà nước và phát triển kinh tế hợp tác xã. Đồng thời
giúp đỡ tư nhân trong việc sản xuất. Đặc biệt đối với tư sản dân tộc, khuyến khích,
giúp đỡ và hướng dẫn họ kinh doanh.

3- Trong kháng chiến đi đôi với việc mở mang kinh tế quốc dân, phải tuỳ nơi, tuỳ
lúc mà phá hoại và bao vây kinh tế địch một cách có kế hoạch, có hại cho địch
mà không hại cho ta. Giải phóng đến đâu thì tịch thu tài sản của địch đến đó, thủ
tiêu kinh tế thực dân của chúng.

6. Cải cách ruộng đất

1- Trong kháng chiến chính sách ruộng đất chủ yếu là giảm tô, giảm tức. Ngoài
ra thi hành những cải cách khác như: quy định chế độ lĩnh canh, tạm cấp ruộng
đất của thực dân Pháp và Việt gian cho dân cày nghèo, chia lại công điền, sử dụng
hợp lý ruộng vắng chủ và ruộng bỏ hoang, v.v..

2- Mục đích của những cải cách đó là cải thiện đời sống nông dân, đồng thời xúc
tiến tǎng gia sản xuất, bảo đảm cung cấp và đoàn kết toàn dân để kháng chiến.

7. Vǎn hoá giáo dục

1- Để đào tạo con người mới và cán bộ mới và để đẩy mạnh kháng chiến kiến
quốc phải bài trừ những di tích vǎn hoá giáo dục thực dân và phong kiến, phát
triển nền vǎn hoá giáo dục có tính chất: về hình thức thì dân tộc, về nội dung thì
khoa học, về đối tượng thì đại chúng.

37
2- Chính sách vǎn hoá giáo dục hiện nay là:

- Thủ tiêu nạn mù chữ, cải cách chế độ giáo dục, mở mang các trường chuyên
nghiệp.

- Phát triển khoa học, kỹ thuật và vǎn nghệ nhân dân.

- Phát triển tinh hoa của vǎn hoá dân tộc đồng thời học tập vǎn hoá Liên Xô,
Trung Quốc và các nước dân chủ nhân dân khác.

- Phát triển vǎn hoá dân tộc thiểu số.

8. Đối với tôn giáo

Tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng. Đồng thời nghiêm trị những kẻ lợi
dụng tôn giáo mà phản quốc.

9. Chính sách dân tộc

1- Các dân tộc sống trên đất Việt Nam đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ,
đoàn kết giúp đỡ nhau để kháng chiến và kiến quốc; chống chủ nghĩa dân tộc hẹp
hòi, bài trừ mọi hành động gây hằn thù, chia rẽ giữa các dân tộc.

2- Không xúc phạm đến tín ngưỡng, phong tục, tập quán của các dân tộc thiểu số
làm cho các dân tộc ấy tự giác cải cách tuỳ theo điều kiện của họ.

3- Giúp đỡ các dân tộc thiểu số tiến bộ về mọi mặt chính trị, kinh tế, xã hội, vǎn
hoá.

10. Đối với vùng tạm bị chiếm

1- Vùng tạm bị chiếm là hậu phương của địch. Công tác vùng đó là một phần
trọng yếu của toàn bộ công tác kháng chiến.

38
2- Chính sách đối với vùng tạm bị chiếm là: đoàn kết rộng rãi mọi tầng lớp nhân
dân, đẩy mạnh chiến tranh du kích, củng cố chính quyền cách mạng, phá nguỵ
quyền, nguỵ quân, phối hợp đấu tranh với vùng tự do.

3- Đối với các hạng người trong hàng ngũ của địch thì trừng trị bọn cầm đầu nếu
chúng không hối cải, khoan hồng đối với những kẻ lầm lỡ đã biết ǎn nǎn.

4- Khu mới giải phóng đoàn kết, an dân.

11. Ngoại giao

1- Những nguyên tắc của chính sách ngoại giao là nước ta và các nước tôn trọng
độc lập dân tộc, chủ quyền lãnh thổ, thống nhất quốc gia của nhau và cùng nhau
bảo vệ hoà bình dân chủ thế giới, chống bọn gây chiến.

2- Đoàn kết chặt chẽ với Liên Xô, Trung Quốc và các nước dân chủ nhân dân
khác và tích cực ủng hộ phong trào giải phóng thuộc địa và nửa thuộc địa. Mở
rộng ngoại giao nhân dân; giao thiệp thân thiện với chính phủ nước nào tôn trọng
chủ quyền của Việt Nam, đặt quan hệ ngoại giao với các nước đó theo nguyên
tắc tự do, bình đẳng và có lợi cho cả hai bên.

12. Đối với Miên, Lào

1- Dân tộc Việt Nam đoàn kết chặt chẽ với hai dân tộc Miên, Lào và hết sức giúp
đỡ hai dân tộc ấy cùng nhau kháng chiến chống đế quốc xâm lược, giải phóng
cho tất cả các dân tộc Đông Dương.

2- Nhân dân Việt Nam đứng trên lập trường lợi ích chung mà hợp tác lâu dài với
hai dân tộc Miên, Lào trong kháng chiến và sau kháng chiến ...

13. Đối với ngoại kiều

1- Tất cả mọi ngoại kiều tôn trọng pháp luật nước Việt Nam đều được quyền cư
trú, được bảo đảm sinh mệnh, tài sản và được làm ǎn tự do trên đất nước Việt
Nam.

39
2- Các kiều dân thuộc quốc tịch các nước dân chủ nhân dân được hưởng quyền
lợi và làm nghĩa vụ như công dân Việt Nam, nếu họ muốn và Chính phủ nước họ
thoả thuận với Chính phủ nước ta.

Đặc biệt đối với Hoa kiều:

- Hoa kiều vùng tự do được hưởng tất cả quyền lợi của công dân Việt Nam, đồng
thời ta vận động họ tình nguyện làm nghĩa vụ của công dân Việt Nam.

- Đối với Hoa kiều vùng tạm bị chiếm, vận động họ ủng hộ, tham gia kháng chiến
chống đế quốc xâm lược Pháp, Mỹ.

3- Các người ngoại quốc vì đấu tranh cho độc lập, dân chủ hoà bình, bị các chính
phủ phản động truy nã mà lánh nạn vào nước ta thì được ta nhiệt liệt bảo vệ và
giúp đỡ.

14. Đấu tranh cho hoà bình và dân chủ thế giới

1- Đấu tranh cho hoà bình thế giới là nhiệm vụ quốc tế của nhân dân Việt Nam.
Kháng chiến chống đế quốc xâm lược là một phương pháp triệt để nhất của dân
ta để làm nhiệm vụ ấy.

2- Phối hợp cuộc kháng chiến của ta với các cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới,
nhất là của nhân dân Liên Xô, Trung Quốc và các nước dân chủ nhân dân khác,
của các dân tộc bị áp bức, của nhân dân Pháp.

15. Thi đua ái quốc

1- Thi đua ái quốc là một điệu làm việc mới. Phong trào thi đua là một phong trào
quần chúng. Thi đua là thực hiện kế hoạch đã định.

2- Lúc này kế hoạch thi đua nhằm giết giặc ngoại xâm, tǎng gia sản xuất và diệt
giặc dốt. Bộ đội, nông dân, công xưởng và lớp học là những nơi thi đua chính.

40
Như vậy, Chính cương đã xác định đối tượng của cách mạng Việt Nam là chủ
nghĩa đế quốc xâm lược, cụ thể lúc này là đế quốc Pháp và bọn can thiệp Mỹ, bọn
phong kiến phản động. Kẻ thù chính là chủ nghĩa đế quốc xâm lược.

Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ là đánh đuổi đế quốc xâm lược,
giành độc lập và thống nhất thật sự cho dân tộc; xóa bỏ những tàn tích phong kiến và
nửa phong kiến, làm cho người cày có ruộng, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây
dựng cơ sở cho chủ nghĩa xã hội. Ba nhiệm vụ đó quan hệ khăng khít với nhau, song
nhiệm vụ chính trước mắt lúc đó là hỗn thành giải phóng dân tộc. Động lực của cách
mạng là nhân dân, bao gồm: công nhân, nông dân, tiểu tư sản thành thị, tri thức, tư sản
dân tộc và những thân sĩ (địa chủ) yêu nước và tiến bộ. Nền tảng của nhân dân là công
nhân, nông dân và tri thức. Người lãnh đạo là giai cấp công nhân. Đó là một cuộc cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân và tiến lên chủ nghĩa xã hội, là một quá trình đấu tranh
lâu dài, trải qau nhiều giai đoạn, các giai đoạn ấy không tách rời nhau mà mật thiết liên
hệ xen kẽ với nhau. Nhưng mỗi giai đoạn có một nhiệm vụ trung tâm, phải tập trung
lực lượng để thực hiện nhiệm vụ trung tâm đó. Chính cương cũng đã đề ra các chính
sách lớn để đẩy mạnh kháng chiến đến thắng lợi và đặt cơ sở để kiến thiết quốc gia.

3.2 Sự hoàn chỉnh đường lối Cách mạng Dân tộc Dân chủ Nhân dân

3.2.1 Nội dung và hoàn cảnh

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ
cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thắng lợi vĩ đại, là mốc
son chói lọi của lịch sử cách mạng Việt Nam. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám
1945, gắn liền với sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh -
lãnh tụ thiên tài của Đảng và dân tộc ta.

Đường lối cách mạng giải phóng dân tộc là nhân tố hàng đầu quyết định thắng
lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám. Quá trình hình thành đường lối chiến lược giải
phóng dân tộc là quá trình vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ
thể của xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX - một xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Dưới
41
ách thống trị tàn bạo của thực dân Pháp, Việt Nam từ một xã hội phong kiến thuần túy
biến thành một xã hội thuộc địa, dù tính chất phong kiến còn được duy trì một phần
nhưng các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội đều chuyển động trong quỹ đạo của
xã hội thuộc địa. Trong lòng xã hội Việt Nam thời kỳ này đã hình thành nên những
mâu thuẫn giai cấp, dân tộc đan xen rất phức tạp.

Để hình thành đường lối cách mạng đúng đắn nghĩa là phải vận dụng lý luận
cách mạng vào điều kiện lịch sử cụ thể của xã hội thuộc địa Việt Nam để nhận thức
đúng mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu của xã hội Việt Nam, xác định đúng kẻ thù, quyết
định nhiệm vụ chiến lược, các chủ trương chính sách để tập hợp lực lượng và phương
pháp cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn. Do đó, quá trình hình thành đường lối
cách mạng giải phóng dân tộc giai đoạn 1930 – 1945, Đảng ta đã trải qua quá trình đấu
tranh cách mạng kiên cường vừa trực tiếp tuyên truyền, giáo dục, vận động tổ chức
quần chúng đấu tranh chống đế quốc thực dân, chống sưu cao thuế nặng, chống khủng
bố dã man, vừa phát triển lực lượng bổ sung, tăng cường lãnh đạo các cấp của Đảng
nhất là phải nhiều lần lập mới, bổ sung Ban chấp hành Trung ương của Đảng, vừa phải
đẩy mạnh hoạt động “tự chỉ trích”, đấu tranh với tinh thần Bônsêvích để khắc phục
những quan niệm cho rằng: Những nguyên lý về “giai cấp cách mạng” được coi như
những giáo lý phải được tiếp thu vô điều kiện như chân lý bất biến khi vận dụng lý
luận cách mạng vào điều kiện lịch sử cụ thể của xã hội thuộc địa Việt Nam. Đây là
cuộc đấu tranh rất quyết liệt và phức tạp chống chủ nghĩa giáo điều, dập khuôn máy
móc, chống chủ nghĩa chủ quan tách rời thực tiễn.

Sự lãnh đạo của Đảng ta đối với xã hội trước hết là bằng cương lĩnh, đường lối
chính trị, mà theo nguyên tắc hoạt động của Đảng Cộng sản thì cương lĩnh, đường lối
chính trị của Đảng phải do Đại hội – cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng quyết định.
Trong thời kỳ 1930 – 1945 - thời kỳ đấu tranh giành chính quyền, Đảng phải hoạt động
bí mật là chủ yếu, chính quyền thực dân liên tục, điên cuồng đàn áp khủng bố các tổ
chức của Đảng nhất là Ban chấp hành Trung ương phải lập đi lập lại nhiều lần, giao
thông liên lạc thường bị gián đoạn cho nên trong thời kỳ này Đảng ta không thể tiến

42
hành Đại hội thường kỳ như quy định của Điều lệ Đảng để có thể phát huy trí tuệ của
toàn Đảng trong việc hình thành cương lĩnh, đường lối chính trị. Sau hội nghị hợp nhất
thành lập Đảng 3/2/1930, trong thời kỳ này, Đảng ta chỉ tiến hành duy nhất Đại hội lần
thứ I vào tháng 3/1935. Trong hoàn cảnh đó, Ban Chấp hành Trung ương có trọng trách
vận dụng sáng tạo lý luận cách mạng vào thực tiễn để hình thành, phát triển, hoàn thiện
đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc.

Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo
và được Hội nghị thành lập Đảng 3/2/1930 thông qua đã xác định: Đường lối chiến
lược của cách mạng Việt Nam là: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách
mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Đây là quá trình phát triển lâu dài trải qua những thời
kỳ, giai đoạn chiến lược khác nhau trong tiến trình cách mạng dân tộc, dân chủ và xã
hội chủ nghĩa mà trước tiên là đấu tranh giành độc lập dân tộc. Do đó, trong chánh
cương vắn tắt, sách lược vắn tắt xác định nhiệm vụ chiến lược là “Đánh đổ đế quốc
chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập; dựng ra chính
phủ công nông binh, tổ chức quân đội công nông; thu hết sản nghiệp lớn (như công
nghiệp vận tải, ngân hàng…) của tư bản chủ nghĩa đế quốc Pháp để giao cho chính phủ
công nông quản lý; giao hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho
dân cày nghèo…; bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo, thi hành luật ngày làm 8 giờ; dân
chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, phổ thông giáo dục theo công nông hóa.

Những nội dung chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa của cương lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng ta đã đáp ứng đúng yêu cầu khách quan của lịch sử, đáp ứng khát vọng
độc lập tự do của toàn đân tộc, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới mở ra
sau thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga (1917), đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã nhận định, thời đại mới là: “Thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng
dân tộc”1. Cương lĩnh chính trị đầu tiên này đã xử lý đúng đắn vấn đề dân tộc và giai
cấp trong chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc. Vì mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu

1
Hồ Chí Minh toàn tập. NXB chính trị quốc gia Hà Nội.2009. Tập 8. Tr562
43
của xã hội Việt Nam thời kỳ này là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân
Pháp và tay sai phản động.

Bảy tháng sau, tại Hội nghị lần thứ nhất của Ban Chấp hành Trung ương – thay
cho Ban chấp hành Trung ương lâm thời, luận cương chính trị của Đảng Cộng sản
Đông Dương (Dự án để thảo luận trong Đảng) được thay thế cho cương lĩnh chính trị
đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam lại nhấn mạnh mâu thuẫn giai cấp ngày càng
diễn ra gay gắt ở Việt Nam, Lào và Cao Miên: “một bên là thợ thuyền dân cày và các
phần tử lao khổ, một bên thì địa chủ phong kiến, tư bản và đế quốc chủ nghĩa” 2 .Luận
cương xác định tính chất của cuộc cách mạng Đông Dương lúc đầu là cuộc “cách mạng
tư sản dân quyền” cho đây là: “thời kỳ dự bị để làm xã hội cách mạng”. Luận cương
cho rằng: Nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền là phải: “Tranh đấu để
đánh đổ các di tích phong kiến, đánh đổ các cách bóc lột theo lối tư bản và để thực
hành thổ địa cách mạng cho triệt để” và “Đánh đổ chủ nghĩa đế quốc Pháp làm cho
Đông Dương hoàn toàn độc lập”. Luận cương còn xác định hai nhiệm vụ chiến lược
phản đế và phản phong phải được đặt ngang hàng nhau: “Có đánh đổ được đế quốc chủ
nghĩa mới phá được các giai cấp địa chủ và làm cách mạng thổ địa được thắng lợi, mà
có phá tan được chế độ phong kiến thì mới đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa” 3. Luận
cương đã quá nhấn mạnh cách mạng ruộng đất và đấu tranh giai cấp là điều không phù
hợp với thực tiễn của xã hội thuộc địa.

Đến tháng 12/1930, trong thư của Trung ương gửi các cấp Đảng bộ, lại tiếp tục
nhấn mạnh đấu tranh giai cấp và xác định: Địa chủ là “thù địch của dân cày, không
kém gì đế quốc chủ nghĩa” “liên kết đế quốc chủ nghĩa mà bóc lột dân cày” 4. Giai cấp
tư sản “có một bộ phận đã ra mặt phản cách mạng” một bộ phận khác “kiếm cách thỏa
hiệp với đế quốc” một bộ phận “ra mặt chống đế quốc” nhưng đến khi cách mạng phát
5[5]
triển “chúng sẽ theo phe đế quốc mà chống lại cách mạng” . Trong thư này, Ban

2
Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 2002. Tập2. Tr 90
3
Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 2002. Tập2. Tr 90
4
Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 2002. Tập2. Tr 235
5
Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 2002. Tập2. Tr 236
44
thường vụ Trung ương chủ trương: “Tiêu diệt địa chủ” “tịch ký tất cả ruộng đất của
chúng nó (địa chủ) mà giao cho bần và trung nông” 6[6]. Nhận thức không phù hợp với
thực tiễn của xã hội thuộc địa Việt Nam và không phù hợp với chiến lược cách mạng
giải phóng dân tộc còn kéo dài gần 5 năm cho đến Đại hội đại biểu toàn Đảng lần thứ
nhất (3/1935). Từ đây cùng với sự phát triển của thực tiễn đấu tranh cách mạng, thông
qua thực hành nghiêm túc nguyên tắc “tự chỉ trích” (phê bình và tự phê) với tinh thần
“tự chỉ trích Bônsêvích phải có nguyên tắc có kỷ luật, theo dân chủ tập trung và phải
luôn luôn đặt quyền lợi uy tín Đảng lên trên hết. Không được lợi dụng tự chỉ trích mà
gây mầm bè phái chống Đảng và làm rối loạn hàng ngũ Đảng” phải thông qua tự chỉ
trích để tẩy trừ: “các khuynh hướng hữu khuynh tả khuynh, lối hành động cô độc biệt
phái, quan liêu hủ bại… để Đảng luôn “xứng đáng đội quân tiên phong cách mệnh,
7[7]
lãnh tụ chính trị của giai cấp” . Ban chấp hành Trung ương có bước tiến mạnh mẽ
trong tư duy lý luận cách mạng giải phóng dân tộc. Trong thư gửi các tổ chức Đảng
ngày 26/7/1936, Ban Trung ương đã công khai phê phán những biểu hiện giáo điều
trong phân tích đặc điểm giai cấp trong xã hội thuộc địa và cho rằng: “Ở một xứ thuộc
địa như Đông Dương, trong hoàn cảnh hiện tại, nếu chỉ quan tâm đến cuộc đấu tranh
giai cấp có thể sẽ nẩy sinh những khó khăn để mở rộng phong trào giải phóng dân tộc”
8
. Tháng 10/1936, Ban chỉ huy hải ngoại của Đảng ban hành văn bản: chung quanh vấn
đề chính sách mới đã chỉ rõ: “cuộc dân tộc giải phóng không nhất định phải kết chặt
với cuộc cách mạng điền địa, nghĩa là không thể nói rằng muốn đánh đổ đế quốc cần
phải phát triển cách mạng điền địa; muốn giải quyết vấn đề điền địa cần phải đánh đổ
đế quốc. Lý thuyết ấy có chỗ không xác đáng… Nếu phát triển cuộc đấu tranh chia đất
mà ngăn trở cuộc tranh đấu phản đế thì phải lựa chọn vấn đề nào quan trọng hơn mà
giải quyết trước. Nghĩa là chọn địch nhân (kẻ thù) chính, nguy hiểm nhất để tập trung
lực lượng của một dân tộc mà đánh cho được toàn thắng”.

6
Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 2002. Tập2. Tr299
7
Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 6. Tr567
8
Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 6. Tr74
45
Từ nhận thức đúng đắn về mâu thuẫn cơ bản chủ yếu trong xã hội thuộc địa, về
nhiệm vụ của cách mạng thuộc địa, về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chống đế quốc,
thực dân và chống phong kiến, mối quan hệ giữa chiến lược và sách lược, về mối quan
hệ giữa dân tộc và giai cấp… nên khi chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ, Ban Trung
ương Đảng, trong Hội nghị từ ngày 6, 7, 8 tháng 11 năm 1939 đã xác định: Toàn Đảng
phải “đứng trên lập trường cách mệnh giải phóng dân tộc, sự điều hòa những cuộc đấu
tranh của những giai cấp người bổn xứ đưa nó vào phong trào đấu tranh chung của dân
tộc ta là nhiệm vụ cốt lõi.”. Hội nghị Trung ương tháng 11/1939 đã quyết định: “cuộc
cách mệnh tư sản dân quyền do Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương thực
hiện giải quyết:

1. Đánh đổ đế quốc Pháp, vua chúa bổn xứ và tất cả bọn phản động tay sai
cho đế quốc và phản bội dân tộc.

2. Đông Dương hoàn toàn độc lập (thi hành quyền dân tộc tự quyết).

3. Lập chính phủ cộng hòa dân chủ.

4. Lập quốc dân cách mệnh quân.

5. Quốc hữu hóa những nhà băng, các cơ quan vận tải, giao thông các binh
xưởng, các sản vật trên rừng, dưới biển và dưới đất.

6. Tịch ký và quốc hữu hóa tất cả các xí nghiệp của tư bản ngoại quốc và
bọn đế quốc thực dân và tài sản của bọn phản bội dân tộc, nhà máy giao thợ
thuyền quản lý.

7. Tịch ký và quốc hữu hóa đất ruộng của đế quốc thực dân và bọn phản
bội dân tộc. Lấy đất của bọn phản bội, đất công điền, đất bỏ hoang chia cho quần
chúng nông dân cày cấy.

8. Thi hành luật lao động ngày 8 giờ, 7 giờ cho các hầm mỏ.

9. Bỏ hết các thứ sưu thuế.

46
10. Thủ tiêu tất cả các khế ước cho vay đặt nợ.

11. Ban hành các quyền tự do dân chủ, cả quyền nghiệp đoàn phổ thông
đầu phiếu, những người công dân từ 18 tuổi trở lên, bất cứ đàn ông đàn bà nòi
giống nào đều được quyền bầu cử, ứng cử.

12. Phổ thông giáo dục cường bách.

13. Nam nữ bình quyền về mọi phương diện xã hội, kinh tế và chính trị.

14. Mở rộng các cuộc xã hội, y tế, cứu tế, thể thao.v.v 9[9].

Một điểm rất đặc sắc của quá trình hình thành, phát triển và hoàn thiện đường lối
chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc thời kỳ 1930-1945 là Lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc và Trung ương Đảng ta đã sáng tạo một hình thức tổ chức độc đáo phù hợp với
điều kiện lịch sử của Việt Nam đó là lập mặt trận dân tộc thống nhất để hiện thực hóa
tư tưởng của V.Lênin vĩ đại: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng – Cách mạng
giải phóng dân tộc là sự nghiệp của toàn dân Việt Nam được Đảng tuyên truyền giác
ngộ và được tập hợp tổ chức trong mặt trận dân tộc thống nhất nhằm phát huy sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Chín tháng sau ngày thành lập, ngày 18/11/1930, Ban
thường vụ Trung ương đã ban hành chỉ thị về vấn đề thành lập Hội “Phản đế đồng
minh”. Trên cơ sở phân tích sâu sắc tinh thần yêu nước, ý chí đấu tranh vì độc lập tự
do của dân tộc, bản chỉ thị đã nhận định: “Cuộc cách mệnh tư sản dân quyền ở Đông
Dương mà không tổ chức được toàn dân lại thành một lực lượng thật rộng, thật kín thì
cuộc cách mạng cũng khó thành công (Rộng là toàn dân cùng đứng trong một mặt trận
chống đế quốc và tụi phong kiến tay sai phản động, hèn hạ; Kín là đặt để công nông
trong bức tranh dân tộc phản đế bao la) 10. Bản chỉ thị cũng phê phán những biểu hiện
của quan điểm hẹp hòi, “tả” khuynh trong xây dựng, mở rộng mặt trận dân tộc thống
nhất nên “Tổ chức cách mạng vẫn đơn thuần công nông”, “Do thiếu một tổ chức thật
quảng đại quần chúng hấp thụ các tầng lớp trí thức dân tộc, tư sản dân tộc, họ là tầng

9
Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 6. Trang 544-545
10
Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 6. Trang 231
47
lớp trên hay ở vào tầng lớp giữa và cho tới cả những người địa chủ có đầu óc oán ghét
đế quốc Pháp, mong muốn độc lập quốc gia để đưa tất cả những tầng lớp và cá nhân
đó vào trong hàng ngũ chống đế quốc Pháp, để cần kíp động viên toàn dân nhất tề hành
động.” 11.

Vào năm 1936, trước nguy cơ của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 2, Đại hội
VII, quốc tế cộng sản chủ trương tập hợp mọi lực lượng dân chủ hòa bình chống chế
độ phản động, chống chủ nghĩa phát xít. Nhiều nước trên thế giới đã hình thành mặt
trận dân tộc rộng rãi. Ở Pháp, năm 1935, mặt trận bình dân Pháp được thành lập và
giành được thắng lợi trong cuộc tổng tuyển cử và đứng ra thành lập chính phủ (5/1936).
Thực hiện nghị quyết của quốc tế cộng sản, lợi dụng mặt trận bình dân Pháp giành
thắng lợi ở Pháp, Đảng ta đã chủ trương mở rộng Mặt trận dân chủ thống nhất Đông
Dương nhằm tập hợp các giai cấp, Đảng phái, dân tộc, tổ chức chính trị, xã hội và tôn
giáo khác nhau thực hiện nhiệm vụ chung là: “Mặt trận dân chúng thống nhất phản đế
phải dùng đủ phương pháp mà đánh tan ách thống trị của đế quốc Pháp, chống đế quốc
chiến tranh, chống chủ nghĩa phát xít, bênh vực Xô Viết liên bang” 12.

Đến Hội nghị Trung ương tháng 11/1939, tư duy lý luận về tổ chức lực lượng
cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng đã hoàn toàn thống nhất với tư tưởng của lãnh
tụ Nguyễn Ái Quốc: Nhiệm vụ đánh Pháp đuổi Nhật không phải chỉ của riêng giai cấp
công nhân và nông dân mà là nhiệm vụ chung của toàn dân Việt Nam, khi Trung ương
Đảng xác định: “Thống nhất lực lượng dân tộc là điều kiện cốt yếu để đánh đổ đế quốc
Pháp” 13. Nghị quyết của Hội nghị Trung ương tháng 11/1940 đã đưa ra quan niệm về
“Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế là sự liên minh giữa các lực lượng cách mệnh
phản đế không phân biệt giai cấp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo, mục đích là thực hiện
thống nhất hành động giữa các lực lượng ấy đặng tranh đấu tiến lên vũ trang bạo động
đánh đổ đế quốc Pháp, Nhật và các lực lượng phản động ngoại xâm và các lực lượng

11
Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 6. Trang 232
12
Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia Hà Nội năm 2000. Tập 6. Trang 21
13
Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia Hà Nội năm 2000. Tập 6. Trang 544
48
14
phản bội quyền lợi dân tộc làm cho Đông Dương được hoàn toàn giải phóng” . Tại
Hội nghị này dù Trung ương đã khẳng định: “khẩu hiệu cách mệnh phản đế; cách mạng
giải phóng dân tộc cao hơn và thiết dụng hơn” nhưng lại cho rằng: “cách mạng phản
đế và cách mạng thổ địa phải đồng thời tiến, không thể cái làm trước cái làm sau” 15[15].

Ngày 28/1/1941, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước. Sau một thời gian chuẩn bị,
lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương 8 từ ngày 10 đến
19/5/1941. Hội nghị đã phân tích nguồn gốc, đặc điểm, tính chất của cuộc chiến tranh
thế giới lần thứ 2, dự báo phe phát xít nhất định thất bại, phe Đồng minh chống phát
xít chắc chắn sẽ giành thắng lợi. Chủ nghĩa đế quốc sẽ suy yếu và phong trào cách
mạng thế giới sẽ phát triển mạnh mẽ. Hội nghị dự đoán rằng: “Nếu cuộc chiến tranh
đế quốc lần trước đã đẻ ra Liên Xô, một nước xã hội chủ nghĩa, thì cuộc đế quốc chiến
tranh lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa do đó mà cách mạng nhiều nước
16
thành công” . Hội nghị nhận định: “Đế quốc Pháp – Nhật chẳng những áp bức các
giai cấp thợ thuyền, dân cày mà chúng còn áp bức bóc lột cả các dân tộc, không chừa
một hạng nào…Quyền lợi tất cả các giai cấp bị cướp giật, vận mệnh cách mệnh dân
tộc nguy vong không lúc nào bằng. Pháp – Nhật ngày nay không chỉ là kẻ thù của công
nông mà là kẻ thù của cả dân tộc Đông Dương”… Do đó: “Cuộc cách mạng Đông
Dương hiện tại không phải là cuộc cách mệnh tư sản dân quyền, cuộc cách mệnh phải
giải quyết hai vấn đề phản đế và điền địa nữa, mà là cuộc cách mạng chỉ giải quyết một
vấn đề cần kíp dân tộc giải phóng” 17. Hội nghị khẳng định: “Trong lúc này nếu không
giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi lại được độc lập, tự do cho toàn
dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà
quyền lợi của bộ phận, của giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được.”.

Từ quan điểm chỉ đạo này, Đảng ta đã xác định tính chất của cách mạng Việt
Nam giai đoạn này là cách mạng giải phóng dân tộc, đây là nhiệm vụ cấp bách, quan

14
Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 7. Trang 77
15
Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 7. Trang 68
16
Lịch sử cách mạng tháng 8 -1945. NXB chính trị quốc gia.Hà Nội.1995. Trang 38-40
17
Lịch sử cách mạng tháng 8 -1945. NXB chính trị quốc gia.Hà Nội.1995. Trang 38-40
49
trọng hàng đầu của cách mạng Việt Nam. Vì thế Hội nghị chủ trương tạm gác khẩu
hiệu “Đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày”, thay bằng khẩu hiệu: “Tịch thu
ruộng đất của bọn đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo, chia lại ruộng đất cho
công bằng, giảm địa tô, giảm tức”.

Hội nghị đi tới một quyết định cực kỳ quan trọng: giải quyết vấn đề dân tộc trong
khuôn khổ từng nước, cốt làm sao để thức tỉnh được tinh thần dân tộc của mỗi nước
trên bán đảo Đông Dương. Hội nghị chủ trương thành lập ở mỗi nước một mặt trận dân
tộc thống nhất rộng rãi. Ở Việt Nam mặt trận này được lấy tên là: “Việt Nam độc lập
đồng minh (gọi tắt là Việt minh). Các tổ chức quần chúng yêu nước chống đế quốc
được thành lập trước đây đều thống nhất lấy tên là: Hội cứu quốc”, như Hội nông dân
cứu quốc, Hội công nhân cứu quốc, Hội phụ nữ cứu quốc, Hội thanh niên cứu quốc,
Hội phụ lão cứu quốc, Hội nhi đồng cứu quốc… và tất cả các Hội cứu quốc đều tham
gia là thành viên của Việt minh. Đối với Lào, Hội nghị chủ trương thành lập Mặt trận
Ai Lao độc lập đồng minh, và đối với Campuchia thì lập Mặt trận Cao Miên độc lập
đồng minh. Trên cơ sở ra đời mặt trận ở mỗi nước sẽ thành lập mặt trận chung của ba
nước là Đông Dương độc lập đồng minh.

Các dân tộc trên bán đảo Đông Dương đều chịu ách thống trị của đế quốc Pháp,
phát xít Nhật cho nên phải đoàn kết thống nhất lực lượng để đánh đuổi kẻ thù chung.
Vấn đề dân tộc ở bán đảo Đông Dương lúc này là vấn đề tự do độc lập của mỗi dân
tộc. Do đó Hội nghị Trung ương 8 khẳng định hết sức tôn trọng và thi hành đúng quyền
dân tộc tự quyết đối với các dân tộc ở Đông Dương. Sau khi đánh đuổi được Pháp,
Nhật thì: “các dân tộc sống trên cõi Đông Dương sẽ tùy theo ý muốn tổ chức thành
Liên Bang cộng hòa dân chủ hay đứng riêng thành dân tộc quốc gia tùy ý”. “Sự tự do
độc lập của các dân tộc sẽ được thừa nhận và coi trọng” 18. Sau Hội nghị Trung ương
8, ngày 19/5/1941 một Đại hội gồm đại diện các Đảng phái, các tổ chức quần chúng…
tuyên bố thành lập Việt Nam độc lập Đồng minh với tuyên ngôn: “Liên hiệp hết thảy
các tầng lớp nhân dân không phân biệt tôn giáo, đảng phái, xu hướng chính trị nào, giai

18
Lịch sử Cách mạng Tháng 8.1945. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 1995. Trang 41, 42
50
cấp nào; đoàn kết chiến đấu để đánh đuổi Pháp, Nhật, giành quyền độc lập cho xứ sở.
Việt Nam độc lập đồng minh lại còn hết sức giúp đỡ Ai Lao ĐLĐM và Cao Miên
ĐLĐM để cùng thành lập Đông Dương ĐLĐM hay là mặt trận thống nhất dân tộc phản
đế toàn Đông Dương để đánh được kẻ thù chung giành quyền độc lập cho nước nhà.
Sau khi đánh đuổi được đế quốc Pháp, Nhật sẽ thành lập một Chính phủ nhân dân của
Việt Nam dân chủ cộng hòa lấy lá cờ đỏ sao vàng năm cánh làm lá cờ toàn quốc. Chính
phủ ấy do quốc dân đại hội cử ra”.19

Hội nghị quyết định phải xúc tiến công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, và coi
đây là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và của nhân dân ta trong giai đoạn hiện tại. Hội
nghị đã xác định bốn điều kiện cho khởi nghĩa vũ trang thắng lợi và xác định sáu nhiệm
vụ phải thực hiện để củng cố, tăng cường, phát triển mở rộng lực lượng cách mạng
trong cả nước đủ sức để thực hiện và củng cố thắng lợi của cuộc khởi nghĩa vũ trang
20.

Hội nghị Trung ương 8 đã phát triển sáng tạo phương thức khởi nghĩa vũ trang
cách mạng khi đề ra chủ trương tiến hành khởi nghĩa từng phần giành chính quyền từng
địa phương mở đường tiến lên tổng khởi nghĩa. Hội nghị Trung ương 8 đã đề ra nhiệm
vụ xây dựng Đảng làm cho Đảng đủ năng lực lãnh đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng
dân tộc. Đảng là người lãnh đạo người tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Đến Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5/1941) Đảng ta đã hoàn chỉnh sự chuyển
hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng được nêu ra từ Hội nghị Trung ương 6 tháng
11/1939. Đó là sự chuyển hướng chiến lược tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến
lược phản đế và phản phong sang thực hiện chiến lược giải phóng dân tộc, chỉ tập trung
lực lượng toàn dân tộc giải quyết cho được một vấn đề cấp bách và quan trọng hàng
đầu là đánh đổ ách thống trị của đế quốc Pháp-Nhật, giành độc lập hoàn toàn cho Tổ
quốc. Từ xác định đúng mâu thuẫn cơ bản chủ yếu, đến chỉ rõ kẻ thù chủ yếu là đế
quốc Pháp – Nhật, Hội nghị đã xác định rõ tính chất của cuộc cách mạng là cách mạng

19
Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 7. Trang 466-467
20
Cách mạng tháng 8.1945. NXB chính trị quốc gia.Hà Nội 1995. Trang 42-43
51
giải phóng dân tộc, lực lượng tiến hành cuộc cách mạng này là toàn dân Việt Nam bao
gồm mọi tầng lớp, mọi tổ chức chính trị, mọi giai cấp, mọi tôn giáo, dân tộc, mọi lứa
tuổi được tập hợp trong mặt trận dân tộc thống nhất phản đế với tên gọi Mặt trận Việt
Nam độc lập Đồng Minh. Đảng Cộng sản Đông Dương là thành viên của Việt Minh và
là hạt nhân chính trị lãnh đạo Việt Minh. Hội nghị Trung ương 8 đã quyết định phương
pháp cách mạng giải phóng dân tộc là khởi nghĩa vũ trang, từ khởi nghĩa vũ trang từng
phần. Giành chính quyền ở từng địa phương chuẩn bị lực lượng đón thời cơ tiến tới
tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.

Đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc của Hội nghị Trung ương 8
(tháng 5/1941) là sự khẳng định kế thừa, tiếp thu và phát triển sáng tạo tư tưởng cách
mạng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã vạch ra trong tác phẩm “Đường Cách Mệnh”
(1927) và cương lĩnh cách mạng đầu tiên (chánh cương vắn tắt sách lược vắn tắt,
chương trình vắn tắt) của Đảng do chính Người dự thảo và được Hội nghị thành lập
Đảng 3/2/1930 thông qua.

Đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc của Hội nghị Trung ương 8
là sự khẳng định bước trưởng thành vượt bậc của Đảng ta trong lãnh đạo chính trị,
trong đổi mới tư duy về xây dựng đường lối cứu nước, trong việc mài sắc vũ khí tự chỉ
trích Bônsêvích để vượt qua bệnh ấu trĩ “tả” khuynh, bệnh giáo điều dập khuôn máy
móc…

Đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc của Nghị quyết Hội nghị
Trung ương 8 (tháng 5/1941) là ngọn đèn pha soi sáng, là ngọn cờ dẫn đường chỉ lối
cho toàn dân ta giành thắng lợi vĩ đại trong cách mạng tháng 8/1945, lập nên nước Việt
Nam Dân chủ cộng hoà nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

3.2.2 Giá trị của chính cương Đảng lao động Việt Nam trong sự nghiệp lãnh đạo
cách mạng của Đảng ta.

Xuất phát từ bản chất và mục tiêu cao cả của một đảng kiểu mới - Đảng cách mạng,
Đảng cộng sản Việt Nam luôn ý thức một cách tự giác và sâu sắc về vai trò cầm quyền,

52
lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của mình. Từ đó, chú trọng và thường xuyên xây dựng
phương thức cầm quyền phù hợp nhằm lãnh đạo thành công công cuộc đổi mới và xây
dựng chủ nghĩa xã hội của đất nước theo mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh”. Đây là đòi hỏi tất yếu, khách quan được đặt ra từ sự phát triển
của cách mạng cũng như từ chính nhu cầu phát triển nội tại của Đảng cầm quyền trong
thời kỳ mới của cách mạng Việt Nam.

Để nâng cao năng lực cầm quyền, Đảng cộng sản Việt Nam luôn đề cao xây dựng
Đảng một cách toàn diện trên tất cả các mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức cần
bảo đảm các nguyên tắc sau:

Một là, xây dựng lý luận khoa học về Đảng cầm quyền và nội dung cầm quyền của
Đảng một cách khoa học.

Đây là đòi hỏi khách quan, quan trọng hàng đầu đối với Đảng ta trong giai đoạn
hiện nay. Theo đó, lý luận khoa học về Đảng cầm quyền thể hiện trước hết ở sự lựa
chọn nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Thế giới ngày nay đã có nhiều đổi thay, nhưng chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn chứng
tỏ là một học thuyết khoa học về sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và con
người. Dù thực tiễn cách mạng thế giới có những bước thăng trầm, Đảng cộng sản Việt
Nam vẫn luôn kiên trì và vận dụng sáng tạo, bổ sung, phát triển lý luận khoa học, cách
mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào hoàn cảnh lịch sử cụ
thể của đất nước. Vì vậy, bên cạnh việc kiên định những nguyên tắc và phương pháp
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã tiếp thu có chọn
lọc những giá trị tư tưởng của nhân loại, vận dụng phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể
của đất nước. Cùng với quá trình đó, luôn cảnh giác đấu tranh chống lại các quan điểm
sai trái, thù địch, các phần tử cơ hội chính trị nhân danh “đổi mới” để phủ nhận những
giá trị của lý luận khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011) và Hiến pháp năm 2013 khẳng định: Đảng Cộng sản Việt

53
Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đó là một vấn đề có tính
nguyên tắc, góp phần quan trọng trong việc tạo nên sự ổn định và thống nhất trong đời
sống chính trị - xã hội, để vừa đảm bảo sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng, vừa thể hiện
tính khoa học trong phương thức cầm quyền. Đảng có sự phân định rõ ràng chức năng
của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể chính trị - xã hội khác trong hệ thống chính trị.
Do đó, “Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và
chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra,
giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng thống nhất lãnh đạo công
tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực
và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị. Đảng
lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống
chính trị, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu. Đảng thường
xuyên nâng cao năng lực cầm quyền và hiệu quả lãnh đạo, đồng thời phát huy mạnh
mẽ vai trò, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức khác trong hệ thống
chính trị”.

Với tư cách Đảng cầm quyền, Đảng cộng sản Việt Nam thực hiện sự lãnh đạo toàn
diện đối với xã hội thông qua đường lối, chính sách phát triển kinh tế, chính trị, văn
hoá - xã hội, quốc phòng - an ninh, đối ngoại. Do đó, việc xây dựng đường lối, chính
sách đúng đắn, khoa học được Đảng xác định có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, liên quan
trực tiếp đến vận mệnh, tương lai của dân tộc. Đường lối, chính sách xuất phát từ chính
thực tiễn Việt Nam. Bài học mà Đảng cộng sản Việt Nam đúc rút trong công cuộc đổi
mới là phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan
có ý nghĩa rất to lớn và thiết thực trong quá trình lãnh đạo, xây dựng đường lối, chính
sách phát triển kinh tế - xã hội. Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử sau hơn 30
năm đổi mới là kết quả từ nhiều nguyên nhân, nhưng rõ ràng là được khởi nguồn từ
đường lối, chính sách phát triển đúng đắn, sáng tạo và khoa học của Đảng ta.

Trong giai đoạn hiện nay, Đảng cộng sản Việt Nam xác định: “Tiếp tục đổi mới tư
duy lý luận, làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn, hoàn thiện hệ thống các quan điểm về chủ

54
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đẩy mạnh công tác tổng
kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, cung cấp các luận cứ khoa học, lý luận cho việc hoạch
định, phát triển đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Đổi mới mô hình tổ chức, phương thức hoạt động, nâng cao chất lượng và hiệu quả
hoạt động của cơ quan nghiên cứu lý luận của Đảng; đầu tư thích đáng cho việc xây
dựng, phát triển đội ngũ cán bộ lý luận, nhất là những chuyên gia đầu ngành; nâng cao
chất lượng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, đáp ứng yêu cầu mới”. Đây là nhiệm
vụ trọng tâm với mục tiêu xây dựng luận cứ khoa học để Đảng hoạch định đường lối
chiến lược và sách lược trong quá trình lãnh đạo cách mạng trong điều kiện mới.

Hai là, xây dựng Đảng cầm quyền một cách dân chủ.

Đây là một trong những điều kiện cần thiết liên quan đến sự tồn tại và phát triển, là
nhiệm vụ quan trọng của Đảng cầm quyền, đòi hỏi Đảng phải kiên trì phát huy, hoàn
thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa - một thành quả vĩ đại mà sự nghiệp cách mạng đã
mang lại. Đảng phải mở rộng và bảo đảm trên thực tế các quyền dân chủ của nhân dân
nói chung và trong Đảng nói riêng. Với vị thế cầm quyền, Đảng phải gắn bó máu thịt
với nhân dân, quan hệ giữa Đảng với nhân dân phải luôn được củng cố, bởi sức mạnh
của Đảng chính là bắt nguồn từ sức mạnh của nhân dân. Đồng thời, dân chủ còn là một
nguyên tắc trong sự phát triển nội tại của Đảng.

Đảng ta nhận thức rằng: “Để thực hiện dân chủ trong xã hội, trước hết phải bảo đảm
phát huy dân chủ trong Đảng là hạt nhân để phát huy đầy đủ dân chủ trong xã hội”.
Tính chất này được thể hiện tập trung trên hai khía cạnh: dân chủ trong sinh hoạt đảng
và dân chủ trong phương thức hoạt động của Đảng. Nhận thức sâu sắc vai trò của thực
hành dân chủ đối với một Đảng cầm quyền, Đảng ta đã xác định phải phát huy dân chủ
trong sinh hoạt đảng, từ chi bộ, cấp uỷ ở cơ sở đến Ban Chấp hành Trung ương, trong
công tác cán bộ cũng như trong việc xây dựng và hoàn thiện đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng. Dân chủ gắn với kỷ luật, kỷ cương, thực hiện dân chủ không có
nghĩa là tự do vô kỷ luật, vô tổ chức. Chống dân chủ hình thức, dân chủ cực đoan hoặc
mưu toan lợi dụng dân chủ để gây chia rẽ, mất đoàn kết. Dân chủ gắn liền với pháp
55
luật, kỷ cương để đảm bảo sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng, đảm bảo sự đồng thuận xã
hội và mọi hoạt động diễn ra một cách có tổ chức. Vì vậy “Phát huy dân chủ phải đi
liền với tăng cường pháp chế, đề cao trách nhiệm công dân, giữ vững kỷ luật, kỷ cương
và đề cao đạo đức xã hội. Phê phán những biểu hiện dân chủ cực đoan, dân chủ hình
thức. Xử lý nghiêm những hành vi lợi dụng dân chủ để làm mất an ninh chính trị, trật
tự, an toàn xã hội và những hành vi vi phạm quyền dân chủ và quyền làm chủ của nhân
dân”.

Trong quá trình lãnh đạo, Đảng cần kịp thời nắm bắt tâm lý, nhu cầu và nguyện
vọng chính đáng của quần chúng nhân dân nhằm xây dựng những chương trình hành
động thiết thực, hợp “ý Đảng - lòng dân”. Từ đó, tập hợp và tổ chức nhân dân thực
hiện, đưa chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng vào cuộc sống,
từng bước biến mục tiêu lý tưởng thành hiện thực sinh động.

Có thể nói, phát huy dân chủ chính là một biện pháp tích cực để Đảng không những
được củng cố và phát triển về mặt tổ chức, mà còn được tăng cường về mặt trí tuệ -
một phẩm chất quan trọng và cần thiết đối với Đảng cầm quyền. Trong giai đoạn hiện
nay, khi tình hình thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, toàn cầu hoá và kinh tế thị
trường vừa có mặt tích cực, vừa tiềm ẩn những mặt tiêu cực, thì nhân tố trí tuệ của
Đảng cầm quyền càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Đảng cộng sản Việt Nam
nhận định: toàn cầu hoá và kinh tế thị trường mang lại những cơ hội thuận lợi, đồng
thời đặt ra nhiều thách thức đối với sự phát triển của mọi quốc gia, trong đó có Việt
Nam. Giữa cơ hội và thách thức sẽ có sự chuyển hóa cho nhau nếu không nắm được
quy luật, thời cơ, vượt qua thách thức. Do đó, việc tận dụng, tranh thủ mặt tích cực,
thuận lợi cũng như tránh được nguy cơ và vượt qua những thách thức mà các quá trình
này đem lại phụ thuộc vào trí tuệ của Đảng. Chính thông qua việc thực hiện dân chủ
rộng rãi và phát huy cao độ quyền làm chủ trong Đảng, trong quần chúng nhân dân mà
sức mạnh của Đảng cộng sản Việt Nam, trong đó có năng lực trí tuệ được nhân lên gấp
bội. Những cuộc trưng cầu ý dân rộng rãi, những thảo luận và đóng góp ý kiến đầy tinh
thần trách nhiệm của nhân dân đối với các vấn đề hệ trọng của quốc gia có một ý nghĩa

56
tích cực, góp phần quan trọng vào việc xây dựng và nâng cao tính đúng đắn trong các
quyết sách lớn của Đảng. Vì vậy, Đảng cộng sản Việt Nam yêu cầu: “Các cấp ủy đảng
và chính quyền phải thường xuyên đối thoại, lắng nghe, học hỏi, tiếp thu ý kiến, giải
quyết các khó khăn, vướng mắc và yêu cầu chính đáng của nhân dân; tin dân, tôn trọng,
lắng nghe những ý kiến khác; có hình thức, cơ chế, biện pháp cụ thể, thích hợp để nhân
dân bày tỏ chính kiến, nguyện vọng và thực hiện quyền làm chủ của mình thông qua
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; trân trọng, tôn vinh những đóng góp, cống
hiến của nhân dân”.

Việc phát huy dân chủ còn có ý nghĩa tạo điều kiện cho việc thực hiện cơ chế phản
biện xã hội với tinh thần lành mạnh, xây dựng và trách nhiệm công dân nhằm bảo đảm
tính đúng đắn, nâng cao chất lượng của các quyết định ở tầm vĩ mô. Đây là một yêu
cầu đặc biệt quan trọng, nhất là trong điều kiện một đảng cầm quyền. Mặt khác, việc
thực hiện phương thức lãnh đạo một cách dân chủ còn là biện pháp tích cực để thiết
lập sự đồng thuận không chỉ trong nội bộ Đảng, mà cả trong toàn xã hội. Vì vậy, Đảng
cộng sản Việt Nam đã nhận thức rằng: “Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước phải xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính
đáng của nhân dân, được nhân dân tham gia ý kiến. Dân chủ phải được thực hiện đầy
đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo đảm để nhân dân tham
gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc
sống của nhân dân, từ nêu sáng kiến, tham gia thảo luận, tranh luận đến giám sát quá
trình thực hiện. Tập trung xây dựng những văn bản pháp luật liên quan trực tiếp đến
quyền làm chủ của nhân dân”.

Thực hiện sứ mệnh cầm quyền một cách dân chủ của Đảng còn giúp ngăn ngừa
những biểu hiện lệch lạc, không phù hợp với bản chất giai cấp công nhân như hiện
tượng chuyên quyền độc đoán, vi phạm dân chủ. Thông qua việc thực hiện dân chủ, cơ
chế kiểm tra, giám sát và phản biện xã hội đối với hoạt động của đảng cầm quyền sẽ
phát huy được tính thực chất và ngày càng có hiệu quả hơn. Chính vì hiểu sâu sắc giá
trị và ý nghĩa to lớn của dân chủ đối với một Đảng giữ trọng trách đảng cầm quyền,

57
nên trong suốt quá trình lãnh đạo công tác xây dựng Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn
nhấn mạnh trong Đảng phải thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh
tự phê bình và phê bình.

Ba là, xây dựng Đảng cầm quyền theo Hiến pháp và pháp luật.

Hiến pháp và pháp luật là thể chế hóa quan điểm chủ trương, đường lối của Đảng
phù hợp với ý chí, nguyện vọng của nhân dân, hướng đến mục tiêu xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Pháp luật xã hội
chủ nghĩa thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân lao động dưới sự
lãnh đạo của Đảng. Pháp luật còn là thước đo trong mối quan hệ giữa các thiết chế
quyền lực. Hiến pháp và pháp luật thể hiện ý chí và quyền lực của nhân dân, mà quyền
lực của nhân dân là tối cao. Nghĩa là không có ai có thể đứng trên pháp luật hoặc đứng
ngoài pháp luật, không thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm theo quy định của pháp luật.
Do vậy, ngoài chức năng lãnh đạo Nhà nước và toàn xã hội trong quá trình xây dựng,
thực thi pháp luật, với tính cách là một bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị, Đảng
cộng sản Việt Nam cũng phải tuân thủ và chấp hành Hiến pháp, pháp luật. Nguyên tắc
này được ghi rõ trong Cương lĩnh của Đảng: “Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng
thời là bộ phận của hệ thống ấy. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát
huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám
sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. Theo đó, các tổ
chức đảng và các đảng viên của Đảng phải đi tiên phong, gương mẫu trong việc tuân
theo và chấp hành Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước. Lãnh đạo theo pháp luật còn là
điều kiện bảo đảm ngăn chặn sự tha hoá quyền lực, bảo đảm cho quyền lực của nhân
dân không bị biến thành quyền lực riêng của cá nhân hoặc một nhóm người có đặc
quyền, đặc lợi.

Có thể nói, cầm quyền một cách khoa học, dân chủ và cầm quyền theo pháp luật có
quan hệ chặt chẽ với nhau. Những phương thức này vừa là tiền đề, điều kiện; vừa bổ
sung, hỗ trợ cho nhau. Việc bảo đảm và thực hiện tốt cả ba phương thức nêu trên sẽ

58
tạo nên sức mạnh tổ chức, tính hiệu quả trong hoạt động của Đảng cộng sản Việt Nam
với tính cách đảng cầm quyền trong kỳ mới.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3

Tháng 2/1951 Đại hội II của Đảng đã thảo luận thông qua bản Cương lĩnh thứ ba.
Đó là Chính cương Đảng Lao động Việt Nam do chủ tịch Hồ Chí Minh và Tổng bí thư
Trường Chinh chỉ đạo soạn thảo. Chính cương chỉ rõ, nhiệm vụ căn bản của cách mạng
Việt Nam là đánh đuổi đế quốc xâm lược, giành độc lập thống nhất thật sự cho đất
nước, xóa bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, làm cho người cày có ruộng,
phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội. Chính cương khẳng
định: cách mạng Việt Nam hiện nay là một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân,
tiến tới chủ nghĩa xã hội. Đây là một cuộc đấu tranh lâu dài, trải qua nhiều giai đoạn,
mỗi giai đoạn có một nhiệm vụ trọng tâm, trước mắt là phải tập trung sức hoàn thành
giải phóng dân tộc. Về chính sách của Đảng, Chính cương chỉ rõ: hoàn thành sự nghiệp
giải phóng dân tộc, xóa bỏ phong kiến, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên chủ
nghĩa xã hội. Chính sách kháng chiến là thực hiện một cuộc chiến tranh nhân dân toàn
dân, toàn diện, trường kỳ, kháng chiến đến cùng để giành độc lập thống nhất cho Tổ
quốc. Xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân dựa vào Mặt trận dân tộc thống nhất
trên cơ sở liên minh công nhân, nông dân, trí thức do giai cấp công nhân lãnh đạo.

59
III. KẾT LUẬN

Dưới chính sách thống trị và khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, nền kinh tế
nước ta bị kìm hãm nặng nề, tiến triển chậm chạp, lệ thuộc vào kinh tế Pháp. Đồng thời
tính chất xã hội Việt Nam chuyển từ xã hội phong kiến sang xã hội thuộc địa nửa phong
kiến, mà hệ quả là việc kéo theo sự phân hóa giai cấp cũ và sự ra đời của các giai cấp
mới. Từ khi Cương lĩnh chính trị ra đời đã xác định rõ phương hướng chiến lược của
cách mạng Việt Nam chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng
để đi tới xã hội cộng sản. Cương lĩnh xác định ba nhiệm vụ lớn trước mắt của Cách
mạng Việt Nam, bao gồm cả hai nội dung dân tộc và dân chủ, chống đế quốc và chống
phong kiến, song song nổi lên hàng đầu là nhiệm vụ chống đế quốc, giành độc lập dân
tộc. Lực lượng cách mạng tập hợp đại bộ phận giai cấp công nhân – nông dân, liên lạc
với các giai cấp khác như tiểu tư sản, trí thức,... Lực lượng lãnh đạo cách mạng là giai
cấp vô sản cùng với Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản phải thu phục cho được
đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng. Cách
mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, liên lạc với các dân tộc bị áp
bức và giai cấp vô sản thế giới nhất là vô sản Pháp. Toàn bộ Cương lĩnh đầu tiên của
Đảng toát lên tư tưởng lớn là cách mạng dân tộc dân chủ Việt Nam tất yếu đi tới cách
mạng xã hội chủ nghĩa, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương (10/1930) được xem là
bản Cương lĩnh thứ hai của Đảng. Ưu điểm của Luận cương chính trị khẳng định lại
nhiều vấn đề căn bản về chiến lược của cách mạng mà Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã
nêu như: phương hướng chiến lược, xác định hai nhiệm vụ chống đế quốc và phong
kiến, lực lượng cách mạng là giai cấp công nhân, nông dân; phương pháp cách mạng,
quan hệ với cách mạng thế giới, lãnh đạo cách mạng. Bên cạnh đó, Luận cương này
cũng có những mặt hạn chế: nhấn mạnh mâu thuẫn giai cấp là mâu thuẫn chủ yếu của
cách mạng, nhấn mạnh nhiệm vụ chống phong kiến hơn nhiệm vụ chống đế quốc, chưa
thấy được khả năng cách mạng của các giai cấp khác, giải quyết vấn đề dân tộc trên
phạm vi toàn Đông Dương thay vì ở Việt Nam. Nhìn chung, Luận cương chính trị chưa

60
tìm ra những đặc điểm của xã hội thuộc địa, nửa phong kiến Việt Nam, bị ảnh hưởng
tư tưởng tả khuynh của Quốc tế Cộng sản và một số Đảng cộng sản trong thời gian đó.

Từ năm 1939 đến năm 1945, cách mạng Đông Dương là cách mạng giải phóng
dân tộc. Hội nghị lần thứ tám Ban chấp hành Trung ương Đảng tháng 5/1941 đã hoàn
chỉnh được chủ trương chiến lược được đề ra từ hội nghị tháng 11/1939 và hội nghị
tháng 10/1940, khắc phục triệt để những hạn chế của Luận cương chính trị tháng
10/1930, đặt nhiệm vụ phản đế lên hàng đầu, tập hợp lực lượng phát huy sức mạnh của
tất cả các giai cấp tầng lớp trong xã hội, giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ
từng nước để phát huy quyền dân tộc tự quyết.

Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam (2/1951) nêu rõ ba tính chất xã hội:
dân chủ nhân dân, một phần thuộc địa, một phần nửa phong kiến. Mâu thuẫn chủ yếu:
tính chất dân chủ nhân dân và tính chất thuộc địa. Đối tượng cách mạng gồm phong
kiến và chủ nghĩa đế quốc xâm lược - cũng là đối tượng chính. Nhiệm vụ cách mạng
là đánh đuổi thực dân Pháp, giành độc lập, thống nhất thật sự cho dân tộc là nhiệm vụ
quan trọng nhất. Về lực lượng cách mạng: công nhân, nông dân, tư sản dân tộc, tiểu tư
sản, thân sĩ yêu nước và tiến bộ. Về đặc điểm: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Giai cấp lãnh đạo là giai cấp công nhân, với mục tiêu của Đảng là phát triển chế độ dân
chủ nhân dân, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh khái quát về ba giai đoạn về con
đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, ba giai đoạn ấy không thể tách rời nhau,
mà phải mật thiết liên hệ xen kẽ với nhau nhưng mỗi giai đoạn có một nhiệm vụ trung
tâm. Chính cương này đã khắc phục những hạn chế của các cương lĩnh trước đó, bám
sát hoàn cảnh, điều kiện lịch sử của đất nước, đồng thời nêu rõ các giai đoạn phát triển
trong tương lai của chủ nghĩa xã hội.

Sự hoàn thiện đường lối lối cách mạng Dân tộc Dân chủ Nhân dân là nhân tố quyết
định thắng lợi của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đường lối đúng đắn giúp xác định tính chất xã hội, kẻ thù, nhiệm vụ cách mạng, các
giai đoạn phát triển của cách mạng Việt Nam, từ Tư sản dân quyền, Thổ địa cách mạng,
xây dựng xã hội Cộng sản. Từ đó, Đảng ta đã đề ra những đường lối chủ trương khác

61
nhau và ngày một được kiện toàn, phù hợp hơn so với giai đoạn trước, vô hình trung
đã tạo niềm tin vững chắc cho nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng.

62
IV. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2018), Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng
Cộng sản Việt Nam (Dành cho sinh viên đại học, cao đẳng khối không chuyên
ngành Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 27, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[3] Đào Thị Bích Hồng (2011), Hồ Chí Minh với sự nghiệp thống nhất quốc gia,
dân tộc, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[4] Hồ Chí Minh (2011), Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

[5] Viện Lịch sử Đảng (1995), Lịch sử cách mạng tháng Tám 1945, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội.

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật.

[7] Cổng thông tin điện tử tỉnh Tiền Giang (2019), Sự thống trị của thực dân Pháp
và cuộc đấu tranh giành chính quyền từ đầu thế kỷ XX đến năm 1945, lấy từ
http://tiengiang.gov.vn/chi-tiet-tin?/su-thong-tri-cua-thuc-dan-phap-va-cuoc-
au-tranh-gianh-chinh-quyen-tu-au-the-ky-xx-en-nam-1945/11245629

[8] Nguyên Hải (2020), Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam - Bước ngoặt
quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam, lấy từ www.bqp.vn

63

You might also like