You are on page 1of 31

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP.

HCM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA

BÀI TẬP LỚN MÔN HỌC


PHÁP LUẬT VIỆT NAM ĐẠI CƯƠNG

ĐỀ TÀI
BÀN VỀ GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU DO LỪA DỐI

THEO Bộ luật Dân sự năm 2015

LỚP: L15 - NHÓM 21

HK222

GVHD: Ths. LÊ MỘNG THƠ

SINH VIÊN THỰC HIỆN


% ĐIỂM ĐIỂM GHI
STT MSSV HỌ TÊN
BTL BTL CHÚ
1 1915577 Lê Huyền Trang
2 2115133 Nguyễn Hoàng Trúc
3 1431141 Nguyễn Đạt Bửu Trung
4 2112600 Hà Võ Thiên Tú
5 1912350 Lê Nguyên Tuân

Tp. Hồ Chí Minh


BÁO CÁO KẾT QUẢ LÀM VIỆC NHÓM

Tổng
STT Họ và tên Mã số SV Nhiệm vụ Ký tên
điểm 30%
1 Lê Huyền Trang 1915577 Chương 1
2 Nguyễn Hoàng Trúc 2115133 Chương 2
Nguyễn Đạt Bửu
3 1431141 Chương 2
Trung
4 Hà Võ Thiên Tú 2112600 Word + Chương 1
5 Lê Nguyên Tuân 1912350 Chương 2
Họ và tên nhóm trưởng: Hà Võ Thiên Tú
Số ĐT: 0819767209 Email: tu.ha2402@hcmut.edu.vn
Nhận xét của GV:
............................................................................................................................................................
............................................................................................................................................................
............................................................................................................................................................
............................................................................................................................................................

GIẢNG VIÊN NHÓM TRƯỞNG


(Ký và ghi rõ họ, tên) (Ký và ghi rõ họ, tên)

Lê Mộng Thơ Hà Võ Thiên Tú


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU..................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài.............................................................................................1
2. Nhiệm vụ của đề tài.........................................................................................2
3. Bố cục tổng quát của đề tài.............................................................................2
PHẦN NỘI DUNG..............................................................................................3
CHƯƠNG I. KHÁI QUÁT VỀ GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU DO LỪA
DỐI.......................................................................................................................3
1.1. Khái niệm về giao dịch dân sự vô hiệu theo pháp luật dân sự.............3
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của giao dịch dân sự....................................3
1.1.1.1. Loại hình giao dịch dân sự thường gặp.....................................3
1.1.1.2. Đặc điểm chung của giao dịch dân sự.......................................5
1.1.2. Khái niệm giao dịch dân sự vô hiệu..................................................6
1.2. Quy định của pháp luật dân sự về giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối
theo pháp luật dân sự....................................................................................12
1.2.1. Khái niệm lừa dối.............................................................................12
1.2.2. Quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối............................12
1.3. Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối theo pháp
luật dân sự......................................................................................................14
CHƯƠNG II. GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU DO LỪA DỐI - THỰC
TIỄN XÉT XỬ ĐẾN KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT................16
2.1. Quan điểm của các cấp Tòa án xét xử vụ việc.........................................20
2.2. Quan điểm của nhóm nghiên cứu về tranh chấp.................................21
2.3. Bất cập và kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật hiện hành........23
PHẦN KẾT LUẬN............................................................................................24
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................25
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Giao dịch dân sự là một khái niệm then chốt trong lĩnh vực pháp luật và kinh tế.
Thông qua các giao dịch dân sự, các bên trong xã hội trao đổi với nhau và điều này
đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế và xã hội. Trước tiên,
giao dịch dân sự giúp cân bằng cung và cầu trong xã hội. Mặc dù các bên có mục đích
và lợi ích riêng, họ đồng ý với các điều kiện và thỏa thuận để thỏa mãn nhu cầu của
nhau. Do đó, giao dịch dân sự giúp đáp ứng nhu cầu và tạo ra giá trị cho tất cả các bên
tham gia. Tiếp theo đó, giao dịch dân sự đóng vai trò then chốt trong việc thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế. Thông qua mua bán, trao đổi và chuyển nhượng tài sản, các bên
tạo ra giá trị thương mại và khuyến khích tăng trưởng kinh tế. Giao dịch dân sự cũng
thúc đẩy sự phát triển của các ngành công nghiệp và dịch vụ, tạo ra nhiều cơ hội việc
làm. Ngoài ra giao dịch dân sự còn bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các bên.
Các bên có thể sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, đồng
thời giải quyết các tranh chấp có thể phát sinh trong quá trình giao dịch.

Giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối là trường hợp khi một trong các bên trong
giao dịch đã sử dụng các hành vi lừa dối để khiến bên kia ký vào hợp đồng hoặc thực
hiện các giao dịch không đúng ý chí của mình. Trong trường hợp này, giao dịch đó sẽ
được xem như không có giá trị pháp lý và các bên không phải tuân thủ các điều khoản
của hợp đồng. Về góc độ lý luận, đề tài này giúp tăng cường hiểu biết và đánh giá
đúng về các quy định pháp lý liên quan đến giao dịch dân sự và trách nhiệm của các
bên. Về góc độ thực tiễn, nó có ý nghĩa quan trọng vì liên quan đến bảo vệ quyền lợi
của các bên tham gia giao dịch và đảm bảo tính minh bạch và trung thực. Nếu các giao
dịch bị vô hiệu do lừa dối, sẽ gây ra các vấn đề kinh tế và xã hội. Do đó, việc nghiên
cứu và đề xuất giải pháp giải quyết vấn đề này là rất cần thiết và có ý nghĩa quan trọng
đối với sự phát triển của xã hội.

Vậy nên, nhóm tác giả thực hiện nghiên cứu đề tài “Giao dịch dân sự vô hiệu do
lừa dối theo Bộ luật Dân sự năm 2015” cho Bài tập lớn trong chương trình học môn
Pháp luật Việt Nam Đại cương.

1
2. Nhiệm vụ của đề tài

Một là, làm rõ cơ sở lý luận cơ bản về giao dịch dân sự, giao dịch dân sự vô hiệu
do lừa dối trong pháp luật dân sự Việt Nam.

Hai là, phân tích quy định của pháp luật về giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối,

Ba là, làm sáng tỏ hậu quả pháp lý khi tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu do lừa
dối.

Bốn là, nhận xét vấn đề từ góc độ thực tiễn, phát hiện những bất cập của quy định
hiện hành về giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối.

Năm là, kiến nghị hoàn thiện những quy định của pháp luật về giao dịch dân sự do
lừa dối theo Bộ luật Dân sự 2015.

3. Bố cục tổng quát của đề tài

Gồm 2 chương

Chương 1: Khái quát về giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối

Chương 2: Giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối - thực tiễn xét xử đến kiến nghị
hoàn thiện pháp luật

2
PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG I. KHÁI QUÁT VỀ GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU DO LỪA DỐI

1.1. Khái niệm về giao dịch dân sự vô hiệu theo pháp luật dân sự

1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của giao dịch dân sự

Giao dịch dân sự là việc trao đổi, chuyển nhượng quyền và nghĩa vụ giữa các cá
nhân, tổ chức, doanh nghiệp hoặc cộng đồng dân cư khác nhau trong xã hội, theo quy
định của pháp luật dân sự. Theo điều 116 Bộ luật Dân sự năm 2015, “Giao dịch dân sự
là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt
quyền, nghĩa vụ dân sự.”1. Trong đó, theo Điều 385 Bộ Luật Dân sự 2015 “Hợp đồng
là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ
dân sự.”2. Hành vi pháp lý đơn phương là sự thể hiện ý chí của một bên làm phát sinh,
thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự.

Các giao dịch dân sự thường liên quan đến việc mua bán, cho thuê, cầm cố,
chuyển nhượng tài sản, ký kết hợp đồng, thanh toán công nợ, và các quyền và nghĩa vụ
pháp lý khác. Các bên tham gia giao dịch dân sự phải tuân thủ các quy định và điều
kiện của pháp luật dân sự, bảo đảm tính minh bạch, công bằng, và hợp lý của giao
dịch.

Việc thực hiện giao dịch dân sự đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự
phát triển kinh tế và xã hội, tạo ra các giá trị kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống,
đảm bảo quyền và lợi ích của các bên tham gia giao dịch.

1.1.1.1. Loại hình giao dịch dân sự thường gặp

Theo luật pháp dân sự, có rất nhiều loại hình giao dịch dân sự khác nhau, tuy
nhiên, chúng ta có thể phân loại chúng thành các nhóm chính dựa trên tính chất của
giao dịch. Dưới đây là một số nhóm giao dịch dân sự phổ biến:

Giao dịch bất động sản: Giao dịch mua bán, cho thuê, chuyển nhượng đất, nhà và
tài sản khác.

Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Bộ luật Dân sự (Luật số: 91/2015/QH13) ngày 24 tháng
1 2

11 năm 2015, Hà Nội.


2

3
Giao dịch về tài sản: Giao dịch mua bán, cho thuê, cầm cố và chuyển nhượng các
loại tài sản khác nhau, bao gồm tiền, chứng khoán, xe hơi, tàu thuyền, máy móc, thiết
bị văn phòng, tài sản trí tuệ và các loại tài sản khác.

Giao dịch thương mại: Giao dịch mua bán hàng hóa và dịch vụ giữa các doanh
nghiệp và cá nhân, bao gồm cả bán lẻ và bán buôn.

Giao dịch hợp đồng: Giao dịch ký kết hợp đồng về các nghĩa vụ và quyền lợi của
các bên, bao gồm hợp đồng mua bán, hợp đồng cung cấp dịch vụ, hợp đồng lao động
và các loại hợp đồng khác.

Giao dịch thừa kế: Giao dịch liên quan đến quyền kế thừa, bao gồm việc di chúc,
phân chia tài sản và các vấn đề pháp lý khác liên quan đến thừa kế.

Giao dịch pháp lý: Giao dịch liên quan đến việc giải quyết tranh chấp pháp lý,
bao gồm các vấn đề như tố tụng, pháp lý hóa hợp đồng và giải quyết tranh chấp liên
quan đến tài sản.

Một số ví dụ về giao dịch dân sự:

Mua bán nhà đất: Giao dịch mua bán nhà đất là một trong những giao dịch dân
sự phổ biến nhất. Trong giao dịch này, một người mua sẽ mua một mảnh đất hoặc một
căn nhà từ một người bán, thông qua việc ký kết hợp đồng và thanh toán tiền mua bán;

Cho thuê nhà: Giao dịch cho thuê nhà cũng là một giao dịch dân sự phổ biến.
Trong giao dịch này, chủ nhà sẽ cho phép người thuê sử dụng một căn nhà hoặc một
phòng trong căn nhà của mình, trong một khoảng thời gian nhất định và với một khoản
tiền thuê cụ thể;

Mua bán xe hơi: Giao dịch mua bán xe hơi cũng là một giao dịch dân sự. Trong
giao dịch này, người mua sẽ mua một chiếc xe từ người bán thông qua việc ký kết hợp
đồng và thanh toán tiền mua bán;

Ký kết hợp đồng lao động: Giao dịch ký kết hợp đồng lao động là một giao dịch
dân sự giữa một nhà tuyển dụng và một nhân viên. Trong giao dịch này, hai bên sẽ
đồng ý với các điều kiện của hợp đồng, bao gồm mức lương, thời gian làm việc, các
quyền lợi và nghĩa vụ của nhân viên;

4
Thanh toán công nợ: Giao dịch thanh toán công nợ là một giao dịch dân sự giữa
một người nợ và một người chủ nợ. Trong giao dịch này, người nợ sẽ thanh toán tiền
nợ của mình cho người chủ nợ, thông qua các phương tiện thanh toán như tiền mặt,
chuyển khoản hoặc séc;

1.1.1.2. Đặc điểm chung của giao dịch dân sự

Tính tự nguyện: Giao dịch dân sự được thực hiện dựa trên sự đồng ý tự nguyện
của các bên tham gia mà không bị ép buộc bởi bất kỳ yếu tố nào. Ví dụ cho tính tự
nguyện của giao dịch dân sự là khi hai bên ký kết một hợp đồng mua bán bất động sản
mà không bị ép buộc bởi bất kỳ yếu tố nào khác;

Tính hợp pháp: Giao dịch dân sự phải tuân thủ các quy định và luật pháp hiện
hành của địa phương và quốc gia. Tính hợp pháp: Một ví dụ cho tính hợp pháp của
giao dịch dân sự là khi các bên ký kết hợp đồng phải tuân thủ các quy định pháp luật
hiện hành của địa phương và quốc gia;

Tính đầy đủ và rõ ràng: Giao dịch dân sự phải được thực hiện đầy đủ và rõ ràng
các quyền và nghĩa vụ của các bên, thông qua việc ký kết hợp đồng hoặc các tài liệu
pháp lý khác. Tính đầy đủ và rõ ràng: Một ví dụ cho tính đầy đủ và rõ ràng của giao
dịch dân sự là khi các bên ký kết hợp đồng mua bán bất động sản thì phải nêu rõ các
điều khoản của hợp đồng, bao gồm giá bán, phương thức thanh toán và thời hạn giao
dịch;

Tính đa dạng: Giao dịch dân sự có thể liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau,
bao gồm bất động sản, tài sản, thương mại, hợp đồng và các vấn đề pháp lý khác. Tính
đa dạng: Một ví dụ cho tính đa dạng của giao dịch dân sự là khi hai bên ký kết một
hợp đồng lao động để thiết lập quyền và nghĩa vụ của nhân viên và nhà tuyển dụng;

Tính phù hợp với nhu cầu của bên tham gia: Giao dịch dân sự thường được thiết
kế để đáp ứng nhu cầu của các bên tham gia, bao gồm quyền và nghĩa vụ của họ và
mục đích của giao dịch. Tính phù hợp với nhu cầu của bên tham gia: Một ví dụ cho
tính phù hợp với nhu cầu của bên tham gia là khi hai bên ký kết một hợp đồng vay
tiền, trong đó bên cho vay được bảo đảm về mức độ rủi ro và bên vay nhận được số
tiền vay theo nhu cầu của mình;

5
Tính ổn định: Giao dịch dân sự có tính ổn định cao, vì nó được thực hiện dựa
trên các thỏa thuận giữa các bên và các quy định pháp lý. Tính ổn định: Một ví dụ cho
tính ổn định của giao dịch dân sự là khi hai bên ký kết một hợp đồng thuê nhà, họ
đồng ý trên các điều khoản và điều kiện, và các thỏa thuận được thực hiện trong suốt
thời gian thuê nhà;

Theo ý kiến riêng của nhóm, khái niệm về giao dịch dân sự trong Bộ Luât Dân sự
năm 2015 đã đầy đủ nhưng không chi tiết. Định nghĩa giao dịch dân sự có thể hiểu là
hành vi pháp lý của các bên tham gia trong quá trình mua bán, trao đổi, cho thuê, tặng,
vay tiền, làm bảo hiểm, thừa kế và các hình thức giao dịch khác. Do khái niệm chỉ gói
gọn trong một câu nên không cụ thể, chi tiết khiến người ít có kiến thức về pháp luật
khó hiểu;

1.1.2. Khái niệm giao dịch dân sự vô hiệu

Theo Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2015, giao dịch dân sự vô hiệu là giao dịch
mà pháp luật xác định là không có giá trị pháp lý từ ban đầu, hoặc bị huỷ bỏ về sau do
không đáp ứng đủ các điều kiện và quy định của pháp luật. Giao dịch dân sự vô hiệu là
giao dịch không có hiệu lực pháp luật và không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ dân
sự cho các chủ thể trong giao dịch.

Cụ thể, giao dịch dân sự vô hiệu khi không đáp ứng được một trong các điều kiện
như sau:

a. Điều kiện về năng lực của chủ thể.

Năng lực chủ thể của cá nhân là khả năng đề cá nhân có thể tham gia vào quan hệ
pháp luật với tư cách là một chủ thể và tự mình thực hiện các quyền, nghĩa vụ phát
sinh từ mối quan hệ pháp luật đã tham gia. Gồm năng lực pháp luật dân sự và năng lực
hành vi dân sự.

Bản chất của giao dịch dân sự là sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí về chủ
thể tham gia giao dịch. Chỉ những người có năng lực hành vi mới có ý chí riêng và
nhận thức được hành vi của họ để có thể tự mình xác lập, thực hiện các quyền, nghĩa
vụ phát sinh từ giao dịch đồng thời phải tự chịu trách nhiệm trong giao dịch. Cho nên,
giao dịch dân sự do cá nhân xác lập chỉ có hiệu lực nếu phù hợp với mức độ năng lực

6
pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự của cá nhân (từ Điều 16 đến Điều 24 Bộ
luật Dân sự 2015).

Người đủ 18 trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp họ bị tòa
án tuyên bố mất năng lực hành vi, tuyên bố hạn chế năng lực hành vi. Người có năng
lực hành vi dân sự đầy đủ được toàn quyền xác lập mọi giao dịch nhân sự. Người đủ từ
6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có năng lực hành vi dân sự chưa đầy đủ khi xác lập, thực
hiện giao dịch dân sự phải có sự đồng ý của người đại diện thep pháp luật trừ khi giao
dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hằng ngày phù hợp với lứa tuổi. Người từ đủ 15
tuổi đến chưa đủ 18 tuổi được xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự trong phạm vi tài
sản riêng mà họ có, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác (lập di chúc phải được
cha mẹ, hoặc người giám hộ đồng ý…). Những người chưa đủ 6 tuổi, người mất năng
lực hành vi không được phép xác lập giao dịch. Mọi giao dịch dân sự của những người
này đều do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện;

Nếu người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế
năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện giao dịch thì nó không có hiệu lực (Điều
125 Bộ luật Dân sự năm 2015). Người không có năng lực hành vi hoặc có năng lực
hành vi không đầy đủ không thể có đủ điều kiện để tự do thể hiện ý chí. Vì vậy, giao
dịch của họ phải được xác lập, thực hiện dưới sự kiểm soát của người khác hoặc do
người khác xác lập, thực hiện. Tuy nhiên, giao dịch do những người này xác lập không
mặc nhiên bị coi là vô hiệu mà chỉ vô hiệu khi có yêu cầu của những người đại diện
cho họ. Người đã xác lập giao dịch với những người này không có quyền yêu cầu đó.
Nếu người đại diện của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự,
người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự không khởi kiện yêu cầu Toà án tuyên bố
giao dịch vô hiệu thì giao dịch đó vẫn có hiệu lực pháp luật.

Giao dịch dân sự có thể bị vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ
được hành vi của mình (Điều 133 Bộ luật Dân sự năm 2015). Trường hợp này chỉ áp
dụng cho những người có năng lực hành vi dân sự. Tại thời điểm giao kết nếu người
đó bị rơi vào tình trạng không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình (ví dụ: say
rượu...) thì sau đó chính người đó có quyền yêu cầu toà án tuyên bố giao dịch vô hiệu.

7
Việc phân định trách nhiệm bồi thường thiệt hại phụ thuộc vào lỗi của các bên tham
gia giao dịch.

b. Điều kiện về tính tự nguyện

 Bản chất của giao dịch dân sự là sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí, cho
nên “tự nguyện” bao gồm các yếu tố cấu thành là tự do ý chí và bày tỏ ý chí. Theo
quan điểm của Toà án nhân dân tối cao thì “người tham gia giao dịch (hợp đồng) hoàn
toàn tự nguyện được hiểu là: các bên tham gia giao dịch hoàn toàn tự do bày tỏ ý chí,
nguyện vọng của mình, tự nguyện thoả thuận với nhau về các nội dung của giao dịch
mà không bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép từ phía bên kia hoặc của người khác; các bên tự
nguyện thỏa thuận các vấn đề nhằm làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ
dân sự của mình”3. Không có tự do ý chí và bày tỏ ý chí không thể có tự nguyện, nếu
một trong hai yếu tố này không có hoặc không thống nhất cũng không thể có tự
nguyện. Sự tự nguyện của một bên (hành vi pháp lý đơn phương) hoặc sự tự nguyện
của các bên trong một quan hệ dân sự (hợp đồng) là một trong các nguyên tắc được
quy định tại khoản 2 Điều 3 Bộ luật Dân sự năm 2015: “Cá nhân, pháp nhân xác lập,
thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam
kết, thỏa thuận…”4. Vì vậy, giao dịch thiếu sự tự nguyện không làm phát sinh hậu quả
pháp lý.

c. Nội dung và mục đích của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của
luật, không trái đạo đức xã hội

Nội dung của giao dịch dân sự bao gồm những thỏa thuận giữa các bên trong một
mối quan hệ pháp lý. Giao dịch dân sự có thể là việc mua bán, cho thuê, đặt cọc,
chuyển nhượng quyền sử dụng đất, ký hợp đồng lao động, hợp đồng cung cấp dịch vụ,
hợp đồng thầu, hợp đồng kinh doanh, hợp đồng mua bán thương mại, và các hình thức
giao dịch khác.

3
Quy định về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, http://hangluatanhbang.vn/blogs/tu-van-hop-dong/quy-dinh-
ve-dieu-kien-co-hieu-luc-cua-hop-dong#:~:text=Theo%20quan%20%C4%91i%E1%BB%83m%20c%E1%BB
%A7a%20To%C3%A0,ph%C3%ADa%20b%C3%AAn%20kia%20ho%E1%BA%B7c%20c%E1%BB%A7a,
Truy cập ngày 09/03/2023
4
Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Bộ luật Dân sự (Luật số: 91/2015/QH13) ngày 24 tháng
11 năm 2015, Hà Nội.
8
Các giao dịch dân sự phải được thực hiện theo quy định của pháp luật và bảo
đảm tính hợp pháp, tính minh bạch, tính trung thực và tính đúng đắn trong quyết định.
Nội dung của giao dịch dân sự phải được ghi lại và xác định rõ ràng trong các tài liệu
pháp lý, như hợp đồng, biên bản giao nhận, giấy chứng nhận và các loại tài liệu khác.

Việc xác định rõ nội dung của giao dịch dân sự là rất quan trọng để tránh những
tranh chấp và khiếu nại trong tương lai. Do đó, các bên tham gia giao dịch dân sự cần
phải đọc kỹ và hiểu rõ các điều khoản và điều kiện của hợp đồng, tránh các điều khoản
mơ hồ, giả dối hoặc không rõ ràng, và luôn tuân thủ quy định của pháp luật để đảm
bảo quyền lợi của mình.

Theo Điều 118 Bộ luật Dân sự năm 2015, mục đích của giao dịch dân sự là lợi
ích mà chủ thể mong muốn đạt được khi xác lập giao dịch đó. Mục đích của giao dịch
dân sự là để thỏa mãn nhu cầu của các bên tham gia trong một mối quan hệ pháp lý.
Các giao dịch dân sự được thực hiện nhằm đáp ứng các mục đích khác nhau, bao gồm:

Mục đích kinh doanh: Giao dịch dân sự được thực hiện để đầu tư, sản xuất, kinh
doanh, thương mại hoặc các hoạt động kinh tế khác;

Mục đích sử dụng tài sản: Giao dịch dân sự có thể liên quan đến việc sử dụng tài
sản, bao gồm mua bán tài sản, cho thuê tài sản, hoặc các hình thức khác liên quan đến
quyền sử dụng tài sản;

Mục đích văn hóa, giáo dục, y tế: Các giao dịch dân sự có thể liên quan đến việc
cung cấp các dịch vụ văn hóa, giáo dục, y tế và các dịch vụ khác cho cộng đồng;

Mục đích cá nhân: Giao dịch dân sự cũng có thể liên quan đến các mục đích cá
nhân, bao gồm việc mua sắm, mua bán tài sản cá nhân, cho thuê nhà ở hoặc đặt cọc để
thuê nhà ở;

Mục đích hợp tác và phát triển: Các giao dịch dân sự có thể được thực hiện để
hợp tác giữa các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân với nhau, nhằm mục đích phát triển
kinh tế, xã hội, văn hoá và khoa học kỹ thuật;

Tóm lại, mục đích của giao dịch dân sự là đáp ứng nhu cầu của các bên tham gia
trong một mối quan hệ pháp lý và các mục đích khác nhau như kinh doanh, sử dụng tài
sản, văn hóa, giáo dục, cá nhân, hợp tác và phát triển.

9
Để giao dịch dân sự có hiệu lực pháp luật thì mục đích và nội dung của giao dịch
không trái pháp luật, đạo đức xã hội. Điều cấm của pháp luật là những quy định của
pháp luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định. Chỉ những tài
sản được phép giao dịch, những công việc được phép thực hiện không vi phạm điều
cấm của pháp luật, không trái với đạo đức xã hội mới là đối tượng của giao dịch dân
sự. Những giao dịch xác lập nhằm trốn tránh pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội là
những giao dịch có mục đích và nội dung không hợp pháp, không làm phát sinh hiệu
lực pháp luật của giao dịch đó.

Điều 123 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định giao dịch dân sự vô hiệu do vi
phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội cùng những hậu quả pháp lý của giao
dịch vô hiệu.

d. Điều kiện về hình thức của giao dịch dân sự

Hình thức của giao dịch dân sự là phương tiện thể hiện nội dung của giao dịch.
Thông qua phương tiện này bên đối tác cũng như người thứ ba có thể biết được nội
dung của giao dịch đã xác lập. Hình thức của giao dịch có ý nghĩa đặc biệt quan trọng
trong tố tụng dân sự. Nó là chứng cứ xác nhận các quan hệ đã, đang tồn tại giữa các
bên, qua đó xác định trách nhiệm dân sự khi có hành vi vi phạm xảy ra.

Giao dịch dân sự có thể được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành
vi cụ thể. Người xác lập giao dịch có quyền lựa chọn hình thức của giao dịch đó. Chỉ
trong một số trường hợp đặc biệt thì pháp luật mới có yêu cầu buộc các chủ thể phải
tuân thủ theo (yêu cầu phải lập thành văn bản, phải có chứng nhận, chứng thực, đăng
ký, xin phép).

Trong trường hợp pháp luật có quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện
bằng văn bản, phải được công chứng nhà nước chứng nhận, được chứng thực, đăng ký
hoặc theo xin phép thì phải tuân theo các quy định đó (khoảng 2 Điều 117 và khoản 2
Điều 119 Bộ luật Dân sự năm 2015). Khi các bên không tuân thủ các quy định này và
có yêu cầu của một hoặc các bên thì toà án xem xét và "buộc các bên thực hiện quy
định về hình thức của giao dịch trong một thời hạn nhất định". Việc ấn định thời hạn
do toà án quyết định căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể. Việc buộc các bên phải thực hiện và
đưa ra thời hạn thực hiện quy định về hình thức của giao dịch thuộc thẩm quyền và là
10
nghĩa vụ của toà án. Chỉ khi các bên không thực hiện và hoàn tất các quy định về hình
thức của giao dịch trong thời hạn do toà án quyết định thì giao dịch mới vô hiệu. Bên
có lỗi làm cho giao dịch vô hiệu phải bồi thường thiệt hại
Theo điều 126 Bộ luật Dân sự năm 2015, khi các yêu cầu về hình thức của giao
dịch dân sự không được đáp ứng đầy đủ, thì giao dịch đó không bị vô hiệu theo quy
định của pháp luật, trừ trường hợp luật có quy định khác. Tuy nhiên, trong một số
trường hợp cụ thể, luật có thể quy định về việc giao dịch vẫn được xem là có hiệu lực
mặc dù chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu về hình thức.
Ví dụ, theo điều 127 Bộ luật Dân sự năm 2015, khi một bên đối với giao dịch bất
động sản chưa đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về hình thức, nhưng bên kia đã nhận được
tài sản thì giao dịch đó vẫn có hiệu lực. Một trường hợp khác, khi hợp đồng kinh
doanh giữa hai bên không được ký kết bằng bút ký hay chữ ký điện tử như quy định tại
pháp luật, mà chỉ được thể hiện thông qua trao đổi email giữa hai bên, thì nếu trong
nội dung email đã thể hiện rõ ràng ý đồ của hai bên tham gia vào giao dịch kinh doanh
và đã thực hiện các hành vi thể hiện sự đồng ý của hai bên, thì giao dịch kinh doanh đó
vẫn được xem là có hiệu lực mặc dù không đáp ứng đầy đủ yêu cầu về hình thức.

1.2. Quy định của pháp luật dân sự về giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối theo
pháp luật dân sự

1.2.1. Khái niệm lừa dối


Theo Điều 127 Bộ luật Dân sự năm 2015, lừa dối theo pháp luật dân sự là hành
vi của một hoặc nhiều bên trong một giao dịch dân sự, khiến bên kia bị thiệt hại về
quyền lợi và/hoặc tài sản của mình, bằng cách sử dụng các cách thức giả mạo, che giấu
sự thật, thông tin sai lệch, hoặc dùng cách nói, hành động, viết lách, điện tử khác nhằm
đánh lừa bên kia về tính chất, hậu quả, đặc điểm của giao dịch.

Cụ thể, nó có thể là hành vi lừa dối về điều kiện kinh tế, trình độ chuyên môn hay
kinh nghiệm của chủ thể giao dịch, lừa dối về chất lượng, giá trị của đối tượng giao
dịch… Hành vi lừa dối có thể đến từ một bên giao dịch hoặc bên thứ ba, làm cho bên
bị lừa dối bị thiệt hại.

Theo Điều 296 của Bộ luật Dân sự năm 2015, nếu một bên trong giao dịch dân
sự lừa dối bên kia, giao dịch đó sẽ bị coi là bất hợp pháp và vô hiệu từ ban đầu. Sự lừa

11
dối là căn cứ làm cho giao dịch bị vô hiệu khi các thủ đoạn do một bên đã thực hiện;
mà nếu không có các thủ đoạn đó thì bên kia đã không tham gia giao dịch. Lừa dối
trong giao dịch dân sự là một hành vi vi phạm đạo đức, nguyên tắc của pháp luật và
được xem là hành vi phạm tội. Đồng thời, giao dịch này sẽ vô hiệu theo Điều 117 Bộ
luật Dân sự năm 2015.

Ví dụ, một người bán hàng giả mạo thông tin về sản phẩm để bán cho người mua
với giá cao hơn giá trị thực tế của sản phẩm đó. Người mua, tin tưởng vào thông tin
mà người bán cung cấp, đã mua sản phẩm với giá cao hơn nhưng không có giá trị thực
tế. Trong trường hợp này, người bán đã lừa dối người mua và giao dịch sẽ bị coi là bất
hợp pháp và vô hiệu từ ban đầu.

1.2.2. Quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối

Một giao dịch dân sự có thể bị vô hiệu do lừa dối khi một trong hai bên trong
giao dịch dân sự đã sử dụng các hành vi lừa dối để khiến bên kia đồng ý với điều kiện
mà họ không muốn chấp nhận. Sau đây là những đặc điểm chính của một giao dịch
dân sự vô hiệu do lừa dối:

Sự thiếu trung thực và minh bạch: Đây là đặc điểm quan trọng của một giao dịch
dân sự bị vô hiệu do lừa dối. Khi một trong hai bên sử dụng lời nói hoặc hành động lừa
dối để khiến bên kia đồng ý với điều kiện mà họ không muốn chấp nhận, thì giao dịch
đó không còn được coi là trung thực và minh bạch;

Sự thiếu hiểu biết: Nếu bên kia không có đầy đủ thông tin hoặc không hiểu rõ về
điều kiện của giao dịch dân sự, thì họ có thể bị lừa dối và đồng ý với điều kiện mà họ
không muốn chấp nhận;

Sự thiếu tính tự do, độc lập: Nếu bên kia trong giao dịch không được tự do, độc
lập trong quyết định hoặc bị áp lực để đồng ý với điều kiện không phù hợp, thì giao
dịch đó có thể bị vô hiệu do lừa dối;

Sự mất niềm tin: Một giao dịch dân sự bị vô hiệu do lừa dối có thể gây ra mất
niềm tin và thiệt hại cho một trong hai bên hoặc cả hai bên tham gia giao dịch. Nếu
một trong hai bên cảm thấy họ đã bị lừa dối, họ có thể tìm cách yêu cầu bồi thường
hoặc đưa ra các biện pháp pháp lý để bảo vệ quyền lợi của mình;

12
Sự không hợp pháp: Nếu một trong hai bên sử dụng các hành vi lừa dối để khiến
bên kia đồng ý với điều kiện mà họ không muốn chấp nhận, thì hành vi đó là không
hợp pháp và giao dịch đó sẽ không có giá trị pháp lý;

Tóm lại, giao dịch dân sự do lừa dối là một hành vi phi đạo đức và bất hợp pháp,
vì nó vi phạm nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự về tính trung thực, minh bạch và
sự độc lập trong quyết định. Những giao dịch như vậy không chỉ thiếu tính hợp pháp
mà còn gây ra thiệt hại cho các bên tham gia, gây mất niềm tin và động lực cho các
giao dịch tương lai.

Giao dịch dân sự do lừa dối thường là một trong những hành vi độc hại của bên
nào có ý định chiếm đoạt tài sản, chấp nhận điều kiện mà bên kia không đồng ý, hoặc
tạo ra một tình huống mà bên kia không có lựa chọn khác ngoài việc đồng ý với điều
kiện không thích hợp. Nếu giao dịch dân sự bị xác định là vô hiệu do lừa dối, bên lừa
dối phải chịu trách nhiệm bồi thường cho bên bị thiệt hại và có thể đối mặt với hậu quả
pháp lý.

Do đó, việc đưa ra các biện pháp phòng ngừa và kiểm soát rủi ro trong giao dịch
dân sự là rất quan trọng, đặc biệt là để bảo vệ quyền và lợi ích của bên yếu thế trong
giao dịch. Các biện pháp này có thể bao gồm sự thận trọng khi ký kết hợp đồng, tìm
hiểu kỹ điều kiện giao dịch, sử dụng các phương tiện chứng minh về giao dịch và sự
độc lập trong quyết định.

1.3. Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối theo pháp luật dân
sự

Theo Điều 117 Bộ luật Dân sự năm 2015, để giao dịch dân sự có hiệu lực thì phải
thỏa được điều kiện chủ thể tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện. Như vậy, nếu có
yếu tố không tự nguyện hay hành vi gian dối trong việc thực hiện giao dịch dân sự thì
giao dịch này không có hiệu lực.

Tại Điều 127 Bộ luật Dân sự năm 2015 có quy định: “Khi một bên tham gia giao
dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa, cưỡng ép thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên
bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.”. Do vậy, nếu bị lừa dối trong giao dịch dân sự thì
bên bị lừa có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu.

13
Các hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự bị vô hiệu được quy định trong Điều
131 Bộ luật Dân sự năm 2015 gồm:

Giao dịch bị vô hiệu: “Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi,
chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập.”.
Điều đầu tiên là giao dịch bị vô hiệu có nghĩa là nó không tồn tại trong pháp lý, tức là
không phải đối tượng của các tranh chấp pháp lý hay các thỏa thuận pháp lý.

Trách nhiệm bồi thường: “Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại
tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; Bên ngay tình trong việc thu
hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó; Bên có lỗi gây thiệt hại thì
phải bồi thường.”5. Nếu bên nào đã lừa dối bên kia thì bên đó phải chịu trách nhiệm
bồi thường thiệt hại do giao dịch vô hiệu gây ra cho bên kia. Bên bị lừa dối có quyền
yêu cầu bên lừa dối bồi thường tất cả các thiệt hại do giao dịch vô hiệu gây ra, bao
gồm cả thiệt hại về tài sản và danh tiếng. “Trường hợp không thể hoàn trả được bằng
hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả.”6.

Trách nhiệm hình sự: “Việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu liên
quan đến quyền nhân thân do Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định.” 7. Nếu lừa
dối là hành vi vi phạm luật thì người lừa dối sẽ chịu trách nhiệm hình sự. Theo quy
định của pháp luật, hành vi lừa dối trong giao dịch dân sự có thể bị xem là tội danh lừa
đảo và bị xử lý theo luật.

Như vậy, khi một giao dịch dân sự được Tòa án tuyên bố vô hiệu, các bên không
có nghĩa vụ phải thực hiện quyền và nghĩa vụ xác lập từ giao dịch. Nếu chưa thực hiện
thì không được thực hiện, còn nếu đang thực hiện thì phải dừng lại và khôi phục lại
tình trạng ban đầu. Hoàn trả tài sản là một trong những cách để khôi phục tình trạng
bạn đầu khi giao dịch dân sự vô hiệu. Tuy nhiên, tại thời điểm thực hiện hoàn trả, giá
trị của đối tượng giao dịch có thể đã thay đổi (tăng, giảm giá trị, hao mòn…) nên việc
xác định giá trị tài sản để hoàn trả phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Ví dụ, trong hợp đồng
mua bán xe ô tô vô hiệu. Sau khi sử dụng thời gian ngắn ô tô không còn giữ được
5
Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Bộ luật Dân sự (Luật số: 91/2015/QH13) ngày 24 tháng
11 năm 2015, Hà Nội.
6
Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Bộ luật Dân sự (Luật số: 91/2015/QH13) ngày 24 tháng
11 năm 2015, Hà Nội.
7
Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Bộ luật Dân sự (Luật số: 91/2015/QH13) ngày 24 tháng
11 năm 2015, Hà Nội.
14
nguyên giá trị của nó (trầy xước, va đập…). Trong trường hợp này, chỉ cần buộc bên
mua hoàn lại giá trị của nó theo giá thị trường tại thời điểm tuyên bố giao dịch vô hiệu.

15
CHƯƠNG II. GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU DO LỪA DỐI - THỰC TIỄN
XÉT XỬ ĐẾN KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT

Theo Bản án 71/2020/DS-PT ngày 18/02/2020 của Toà án Nhân dân Thành phố


Hồ Chí Minh về yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu

Phía nguyên đơn Bà Lâm Thị S trình bày: Căn nhà số 17 NL, phường PT, quận
TP thuộc quyền sở hữu của vợ chồng ông Lương Văn M (chết năm 2013) và Bà Lâm
Thị S theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 4612/2004
do Ủy ban nhân dân quận Tân Phú cấp ngày 01/9/2004. Ông M và bà S chung sống có
các con chung là Bà Lương Ngọc Thu M, ông Lương Thành Đ, bà Lương Thị S1, ông
Lương Thành L, bà Lương Thị V1, ông Lương Thành M, ông Lương Thanh H (chết
trước ông M) và Ông Lương Thành V. Vào năm 2007, Ông Lương Thành V do cần
tiền để làm ăn nên mượn căn nhà của ông M, bà S để thế chấp vay tiền ngân hàng và
vợ chồng ông M, bà S đồng ý. Ông V bảo bà S, ông M ra công chứng ủy quyền cho
ông V để ông V đi giao dịch với ngân hàng. Bà S, ông M có ra Phòng Công chứng để
làm thủ tục ủy quyền căn nhà cho ông V vay tiền, toàn bộ giấy tờ ủy quyền do ông V
giữ. Hiện nay, ông V đang thế chấp căn nhà trên cho Ngân hàng Phương Đông, địa chỉ
419 – 421 An Dương Vương, Phường 3, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh. Vừa qua,
tình cờ bà S phát hiện hồ sơ ông V đưa vợ chồng bà làm tại Phòng Công chứng B
Thành phố Hồ Chí Minh không phải hồ sơ ủy quyền căn nhà để thế chấp mà là Hợp
đồng tặng cho nhà số 10332/HĐ-TCN do Phòng Công chứng B Thành phố Hồ Chí
Minh chứng nhận ngày 26/3/2007. Bà S nhờ người xem lại hợp đồng thì mới biết là
hợp đồng tặng cho nhà chứ không phải hợp đồng ủy quyền nhà, trong hợp đồng này có
dòng chữ viết tay “đã đọc và đồng ý cho nhà” ở phần bên tặng cho không phải chữ viết
của ông M, còn bà S thì nhầm lẫn khi viết và ký tên vào hợp đồng tặng cho nhà mà
không ý thức được đó là việc tặng cho nhà. Vì ông M không biết chữ, còn bà S thì biết
chữ rất ít chỉ có thể viết theo sự hướng dẫn của người khác mà không biết đủ ý nghĩa
của chữ viết. Bà S rất bất ngờ và ngạc nhiên hỏi lại V thì V im lặng không trả lời. Như
vậy, Ông Lương Thành V đã lừa dối vợ chồng bà từ việc ủy quyền nhà để cho V thế
chấp trở thành tặng nhà cho V. Trước khi bà S khởi kiện ra Tòa án, tại buổi hòa giải
ngày 25/3/2016, sau khi bà S trình bày yêu cầu V trả nhà cho vợ chồng bà. Ông V

16
trình bày và xác nhận căn nhà trên ông V mượn của vợ chồng bà để thế chấp vay tiền
ngân hàng. 3 Sau khi nghe lời trình bày của V, tổ hòa giải có khuyên V trả lại nhà cho
ông M, bà S thì V có nói “Tôi có mượn căn nhà này của cha mẹ nhưng bây giờ tôi
không trả”. Trong biên bản hòa giải này, tổ hòa giải không ghi nhận việc V xác nhận
căn nhà trên V mượn của vợ chồng bà S là do hai bên hòa giải không thành nên
chuyển Tòa án có thẩm quyền giải quyết. Việc ông V nói có bỏ tiền ra mua thêm phần
đất nhập vào phần đất của vợ chồng bà S là hoàn toàn không có, không đúng sự thật,
bởi vì thời điểm vợ chồng bà S mua toàn bộ căn nhà nêu trên thì ông V còn rất nhỏ,
không có tiền để mua thêm đất phía sau như ông V trình bày. Toàn bộ nhà, đất nêu
trên do vợ chồng bà S mua một lần không liên quan gì đến ông V ũ. Nay bà S yêu cầu
hủy hợp đồng tặng cho nhà số 10332/HĐ-TCN do Phòng Công chứng B Thành phố
Hồ Chí Minh chứng nhận ngày 26/3/2007 để trả lại quyền sở hữu đối với căn nhà số
17 NL, phường PT, quận TP cho vợ chồng bà S, với lý do bị ông V lừa dối, để sau này
bà S để lại căn nhà cho các người con của bà S sau khi bà qua đời.

Phía bị đơn Ông Lương Thành V trình bày: Căn nhà số 17 NL, phường PT,
quận TP, Thành phố Hồ Chí Minh thuộc thửa đất số 55, tờ bản đồ số 178 (BĐĐ) được
Ủy ban nhân dân quận Tân Phú cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử
dụng đất ở số 4612/2004 ngày 01/9/2004, có diện tích đất ở là 142m2 , diện tích sàn
xây dựng là 120m2 do Ông Lương Thành V là chủ sở hữu theo Hợp đồng tặng cho nhà
số 10332/HĐTCN do Phòng Công chứng B Thành phố Hồ Chí Minh chứng nhận ngày
26/3/2007 do ông Lương Văn M và Bà Lâm Thị S tặng cho. Tại thời điểm tặng cho
quyền sở hữu căn nhà nêu trên thì ông M, bà S có đầy đủ năng lực hành vi, trạng thái
hoàn toàn sáng suốt, minh mẫn và tự chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi của
mình. Sau đó, ông V tiến hành lập hồ sơ đăng ký quyền sở hữu và được Ủy ban nhân
dân quận Tân Phú xác lập quyền sở hữu nhà ngày 03/4/2007. Nguyên đơn cho rằng
dòng chữ “Đã đọc và đồng ý cho nhà” phía trên chữ ký và phần ghi tên ông Lương
Văn M không phải ông M viết ra theo kết luận giám định số 2334/C54B ngày
30/8/2017 của Phân Viện Khoa học hình sự để kết luận ông M không biết gì về việc
tặng cho nhà ông V là không đúng. Tuy ông M không được đi học bài bản nhưng trong
thời gian đi lính có tự học và đọc viết các nội dung đơn giản. Dòng chữ: Đã đọc và
đồng ý cho nhà” không phải do ông M viết ra nhưng trong hợp đồng tặng cho nhà số
17
10332/HĐ-TCN ngày 26/3/2007, ông M vẫn tự ký, ghi rõ họ tên vào hợp đồng thể
hiện ông M có biết chữ, nghe được, hiểu được, ký được và bà S là vợ ông M đi chung
cũng biết đọc, biết viết tiếng Việt. Như vậy không thuộc trường hợp bắt buộc phải có
người làm chứng. Đồng thời, trước khi tiến hành công chứng tặng cho nhà, Công
chứng viên đã đọc và giải thích cho ông M, bà S hiểu rõ toàn bộ nội dung hợp đồng
tặng cho nhà là sau khi ký hợp đồng này thì toàn bộ căn nhà sẽ hoàn toàn thuộc 4
quyền sở hữu của người được tặng cho. Sau khi nghe Công chứng viên đọc và giải
thích đầy đủ ý nghĩa cũng như hậu quả pháp lý của việc giao kết hợp đồng, cá nhân
ông V ũ, ông M, bà S đã tự nguyện ký và ghi rõ họ tên theo quy định. Thời điểm ký
hợp đồng các bên tham gia ký kết đều tự nguyện thể hiện ý chí của mình mà không bị
lừa dối, ép buộc, cũng như hợp đồng tặng cho nhà được Phòng Công chứng B Thành
phố Hồ Chí Minh chứng nhận theo đúng quy định của pháp luật. Nay bị đơn yêu cầu
Tòa án không chấp nhận yêu cầu của bà S về việc hủy Hợp đồng tặng cho nhà số
10332/HĐ-TCN do Phòng Công chứng B Thành phố Hồ Chí Minh chứng nhận ngày
26/3/2007.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Phòng Công chứng B Thành phố Hồ
Chí Minh do Ông Nguyễn Mạnh C đại diện theo pháp luật trình bày: Qua kiểm tra hồ
sơ công chứng, Phòng Công chứng B nhận thấy việc chứng nhận Hợp đồng tặng cho
nhà, số công chứng 10332/HĐ-TCN ngày 26/3/2007 đã được Công chứng viên thực
hiện theo đúng trình tự, thủ tục được quy định tại chương IV của Luật Công chứng
năm 2006; Điều 658 Bộ luật dân sự năm 2005; Điều 91; 92; 93, 107 Luật Nhà ở năm
2005 và Điều 106 Luật Đất đai năm 2003. Tại thời điểm công chứng, các bên giao kết
hợp đồng và tài sản giao dịch có đủ điều kiện để xác lập, thực hiện giao dịch theo quy
định của pháp luật. Mục đích và nội dung của hợp đồng không Vi phạm điều cấm của
pháp luật, không trái đạo đức xã hội và hợp đồng được giao kết dựa trên cơ sở tự
nguyện của các bên. Chữ ký, chữ viết lưu trong hợp đồng đúng là chữ ký, chữ viết của
ông Lương Thanh M, Bà Lâm Thị S, Ông Lương Thành V. Đối với yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn về việc đề nghị Tòa án hủy hợp đồng tặng cho nhà nêu trên với lý do
ông M, bà S chỉ ký hợp đồng ủy quyền cho ông V thế chấp nhà chứ không phải ký hợp
đồng tặng cho nhà cho ông V và chữ ký, chữ viết trong hợp đồng tặng cho nhà không
phải của ông M, bà S thì Phòng Công chứng B không đồng ý vì trước khi hướng dẫn
18
các bên ký tên, điểm chỉ vào hợp đồng tặng cho nhà, Công chứng viên đã giải thích
cho các bên hiểu rõ quyền và nghĩa vụ của mình, ý nghĩa và hậu quả pháp lý của việc
giao kết hợp đồng. Các bên đã xác nhận trong hợp đồng về việc đã đọc và đồng ý với
nội dung của hợp đồng tặng cho, đồng thời các bên còn tự nguyện ký tên, điểm chỉ vào
hợp đồng. Trong đơn khởi kiện, nguyên đơn khẳng định chữ ký, chữ viết trong hợp
đồng tặng cho không phải chữ ký, chữ viết của bà S và ông M nhưng không đưa ra
được chứng cứ chứng minh. Trong bản hợp đồng tặng cho được lưu tại Phòng Công
chứng B không chỉ có chữ ký, chữ viết của nguyên đơn mà còn có cả dấu vân tay của
họ. Do đó, nếu nguyên đơn không xuất trình được chứng cứ chứng minh cho yêu cầu
của mình là có cơ sở thì đối với tất cả các yêu cầu của nguyên đơn, Phòng Công chứng
B đề nghị Tòa án không chấp nhận. Phòng Công chứng B xin vắng mặt trong tất cả
các phiên thu thập chứng cứ, đối chất, phiên họp kiểm tra giao nộp, tiếp cận công khai
chứng cứ, hòa giải, xét xử sơ thẩm.

Tại bản án sơ thẩm số 381/2019/DS-ST ngày 15/10/2019, Toà án nhân dân


quận Tân Phú đã tuyên xử: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Hợp
đồng tặng cho nhà số 17 NL, phường PT, quận TP, Thành phố Hồ Chí Minh giữa ông
Lương Văn M, Bà Lâm Thị S, Ông Lương Thành V có giá trị pháp lý.

Ngày 28/10/2019, nguyên đơn Bà Lâm Thị S nộp đơn kháng cáo. Tòa án phúc
thẩm xét xử chấp nhận đơn kháng cáo của Bà Lâm Thị S. Hủy bản án số
381/2019/DS-ST ngày 15/10/2019 của Tòa án nhân dân quận Tân Phú, Thành phố Hồ
Chí Minh. Chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án về Tòa án nhân dân quận Tân Phú, Thành phố
Hồ Chí Minh để giải quyết lại theo trình tự thủ tục sơ thẩm. Hội đồng xét xử phúc
thẩm nhận định: Xét, nguồn gốc căn nhà số 17 đường NL, phường PT, quận TP,
Thành phố Hồ Chí Minh thuộc quyền sở hữu của ông Lương Văn M, Bà Lâm Thị S.
Ngày 26/3/2007, ông M, bà S ký Hợp đồng tặng cho Ông Lương Thành V có chứng
nhận của Phòng Công chứng B Thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 24/6/2013, ông Lương
Văn M chết. Ngày 21/4/2016, nguyên đơn Bà Lâm Thị S khởi kiện bị đơn Ông Lương
Thành V yêu cầu hủy hợp đồng tặng cho nhà giữa ông Lương Văn M, Bà Lâm Thị S
với Ông Lương Thành V đối với căn nhà số 17 đường NL, phường PT, quận TP,
Thành phố Hồ Chí Minh. Ông Lương Văn M chết ngày 24/6/2013 nên những người
con của ông M là những người thừa kế có quyền lợi liên quan. Bởi vì, ông Lương Văn
19
M là đồng sở hữu căn nhà số 17 đường NL, phường PT, quận TP, Thành phố Hồ Chí
Minh, là người ký hợp đồng tặng cho nhà, nay tranh chấp hợp đồng tặng cho nhà nên
những người con của ông Lương Văn M gồm Bà Lương Ngọc Thu M, ông Lương
Thành Đ, ông 9 Lương Thanh H, bà Lương Thị S1, ông Lương Thành L, bà Lương
Thị V1, ông Lương Thành M, ông Lương Thành Hiền (chết năm 2009) có vợ và 04
người con gồm các ông bà Lương Phương Thúy Hằng, Lương Phương Thúy Hậu,
Lương Phương Thúy Hiền, Lương Thúy Hiếu là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan theo quy định tại khoản 4 Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự.

2.1. Quan điểm của các cấp Tòa án xét xử vụ việc

Theo bản án 71/2020/DS-PT của Toà án Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh,
phán quyết rằng việc ông Lương Thành V lừa dối vợ chồng bà Lâm Thị S từ việc ủy
quyền nhà để cho ông V thế chấp trở thành tặng nhà cho ông V là trái với pháp luật.
Hợp đồng tặng cho nhà số 10332/HĐ-TCN do Phòng Công chứng B Thành phố Hồ
Chí Minh chứng nhận ngày 26/3/2007 bị tuyên bố vô hiệu. Bà S được trả lại quyền sở
hữu căn nhà số 17 NL, phường PT, quận TP và được hủy bỏ hợp đồng tặng cho nhà số
10332/HĐ-TCN đã được chứng nhận trước đó. Việc ông V thế chấp căn nhà trên cho
Ngân hàng Phương Đông là không có giá trị.

Theo bản án 71/2020/DS-PT của Toà án Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, phía
bị đơn Ông Lương Thành V không cung cấp đầy đủ bằng chứng để bác bỏ yêu cầu của
nguyên đơn Bà Lâm Thị S. Tuy ông Lương Văn M không được đi học bài bản nhưng
trong thời gian đi lính có tự học và đọc viết các nội dung đơn giản. Dòng chữ "Đã đọc
và đồng ý cho nhà" không phải do ông M viết ra nhưng cũng không có bằng chứng để
thấy là okg M biết về nội dung của hợp đồng tặng cho nhà. Trong khi đó, việc Công
chứng viên giải thích cho ông M, bà S về toàn bộ nội dung hợp đồng tặng cho nhà
trước khi tiến hành công chứng không đủ để chứng minh sự đồng ý của ông M và bà S
về việc tặng nhà cho ông V. Vì vậy, bản án đã tuyên bố Hợp đồng tặng cho nhà số
10332/HĐ-TCN do Phòng Công chứng B Thành phố Hồ Chí Minh chứng nhận ngày
26/3/2007 là vô hiệu và trả lại quyền sở hữu căn nhà số 17 NL, phường PT, quận TP
cho bà Lâm Thị S.

20
Được biết, trong bản án phúc thẩm của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí
Minh, Hội đồng xét xử đã xem xét nguồn gốc của căn nhà số 17 đường NL, phường
PT, quận TP, Thành phố Hồ Chí Minh và đánh giá rằng căn nhà này thuộc quyền sở
hữu của ông Lương Văn M và Bà Lâm Thị S.

Đồng thời, Hội đồng cũng xác định rằng việc ký Hợp đồng tặng cho nhà số 17
đường NL, phường PT, quận TP, Thành phố Hồ Chí Minh giữa ông Lương Văn M, Bà
Lâm Thị S, Ông Lương Thành V là có giá trị pháp lý và đã được chứng nhận bởi
Phòng Công chứng B Thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 26/3/2007.

Trong vụ án tranh chấp hợp đồng tặng cho nhà này, những người con của ông
Lương Văn M gồm Bà Lương Ngọc Thu M, ông Lương Thành Đ, ông 9 Lương Thanh
H, bà Lương Thị S1, ông Lương Thành L, bà Lương Thị V1, ông Lương Thành M,
ông Lương Thành Hiền (chết năm 2009) có vợ và 04 người con gồm các ông bà
Lương Phương Thúy Hằng, Lương Phương Thúy Hậu, Lương Phương Thúy Hiền,
Lương Thúy Hiếu được xác định là những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo
quy định tại khoản 4 Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự.

Từ đây, Tòa án nhân dân quận Tân Phú đã được chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án về
giải quyết lại theo trình tự thủ tục sơ thẩm.

2.2. Quan điểm của nhóm nghiên cứu về tranh chấp

CÁC BẠN CÓ Ý TƯỞNG NHƯNG LÀM RÕ THÊM THEO GỢI Ý SAU:

ĐIỀU 116, ĐIỀU 117 VÀ ĐIỀU 127 BLDS 2015


VỀ CHỦ THỂ: ĐỘ TUỔI, NĂNG LỰC HÀNH VI DÂN SỰ ĐẦY ĐỦ
VỀ SỰ TỰ NGUYỆN, MINH MẪN: có hành vi làm hiểu sai lệch nội dung không?
Hành vi lừa dối hoặc nhầm lẫn ở đây là hành vi gì?
VỀ NỘI DUNG:
VỀ HÌNH THỨC: cần có người làm chứng
Về nội dung của hợp đồng, Bộ Luật Dân sự năm 2015 quy định rằng nội
dung của hợp đồng phải đầy đủ, chính xác và tuân theo quy định của pháp luật.
Điều này đồng nghĩa với việc không được có hành vi làm hiểu sai lệch nội dung
thỏa thuận. Nếu một bên có hành vi làm hiểu sai lệch nội dung thỏa thuận hoặc lừa

21
dối tình trạng và nội dung thỏa thuận, đó sẽ là hành vi vi phạm nguyên tắc minh
mẫn và sự tự nguyện.
Hành vi nhầm lẫn trong việc đưa ra thông tin và tình trạng thực tế có thể xảy
ra, tuy nhiên nếu những hành vi này là không chủ ý và không nhằm vào mục đích
lừa dối tương đối thì được xem như là những nhầm lẫn và vi phạm nguyên tắc
minh mẫn và sự tự nguyện.
Hình thức bảo vệ quyền lợi cho các bên trong hợp đồng, theo quy định của Bộ
Luật Dân sự năm 2015, cần có người làm chứng, đặc biệt là ở các trường hợp đặc
biệt phải cần đến người làm chứng như trong hợp đồng mua bán bất động sản.
Người làm chứng có nhiệm vụ xác thực và chứng thực quá trình ký kết hợp đồng để
đảm bảo tính minh bạch và sự hiệu lực cho hợp đồng.
Có hay không giao dịch dân sự vô hiệu do người hạn chế năng lực hành vi dân
sự/ khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi xác lập?
=> Chứng minh theo Điều 22, 23, 24 BLDS 2015
Có. Theo Bộ Luật Dân sự năm 2015, giao dịch dân sự có thể vô hiệu khi một
trong các bên tham gia giao dịch là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc
khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi xác lập.
Người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự là người từ 15 đến dưới 18 tuổi,
người được tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự hoặc có hạn chế năng lực hành
vi dân sự. Trong trường hợp này, hội đồng giám sát y tế hoặc hội đồng giám sát
giáo dục tại địa phương có trách nhiệm xác định tình trạng sức khỏe và tình trạng
trí tuệ của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự để quyết định xem người đó có
đủ khả năng hành vi dân sự hay không.
Nếu giao dịch dân sự đã được thực hiện và bên tham gia giao dịch là người
hạn chế năng lực hành vi dân sự, người này có quyền yêu cầu vô hiệu hóa giao
dịch đó. Tuy nhiên, nếu bên kia tham gia giao dịch là người tốt faith, đã không biết
hoặc không nên biết về tình trạng hạn chế năng lực hành vi dân sự của người kia,
thì giao dịch có thể được giữ nguyên.
- Hướng giải quyết của tranh chấp này.
=> Điều 131 BLDS 2015

22
Hướng giải quyết của tranh chấp liên quan đến vấn đề này là xác định trình
độ năng lực hành vi dân sự và năng lực nhận thức của người bị hạn chế năng lực
hành vi dân sự. Nếu người đó được xác định không đủ khả năng và hợp lệ để thực
hiện giao dịch, hợp đồng sẽ được vô hiệu hóa.
Theo Điều 131 của Bộ Luật Dân sự năm 2015, khi hợp đồng đã được thực
hiện và bên tham gia giao dịch là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự yêu cầu
vô hiệu hóa, tòa án có thẩm quyền sẽ xem xét và quyết định về tính hiệu lực của hợp
đồng.

Một trong những phương pháp tốt nhất là hội thoại và đàm phán giữa các bên để
tìm ra giải pháp đồng thuận và hợp lý cho cả hai bên. Nếu không thể giải quyết bằng
đàm phán, có thể sử dụng các phương pháp pháp lý như trọng tài hoặc tố tụng tại các
cơ quan tư pháp.

Đối với câu hỏi về hiệu lực của hợp đồng tặng cho, điều kiện làm phát sinh hoặc
không làm phát sinh hiệu lực của hợp đồng tặng cho phụ thuộc vào các yếu tố sau:

Chủ thể của hợp đồng: Các bên trong hợp đồng tặng cho được coi là đối tượng có
năng lực hành vi dân sự. Tuy nhiên, nếu như bên nào trong hợp đồng tặng cho là người
hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi
xác lập, thì hợp đồng sẽ không có hiệu lực.

Sự đồng ý của các bên: Hợp đồng tặng cho phải được lập thành ý muốn tự
nguyện của các bên và được thể hiện rõ ràng thông qua việc ký tên và đóng dấu (nếu
có). Nếu có sự lừa dối hoặc nhầm lẫn trong quá trình xác lập hợp đồng tặng cho, thì
hợp đồng sẽ không có hiệu lực.

Hình thức lập hợp đồng: Hợp đồng tặng cho phải được lập thành văn bản và tuân
thủ các quy định pháp luật về hợp đồng, nếu không sẽ không có hiệu lực.

Nếu chứng tỏ được có sự lừa dối hoặc nhầm lẫn trong quá trình xác lập hợp đồng
tặng cho, cũng như có bất kỳ yếu tố nào dẫn đến việc hợp đồng tặng cho không có
hiệu lực, thì nó sẽ vô hiệu và không có tác dụng pháp lý

Phòng Công chứng B đã kiểm tra và xác nhận rằng Hợp đồng tặng cho nhà số
công chứng 10332/HĐ-TCN ngày 26/3/2007 đã được thực hiện theo đúng trình tự và

23
thủ tục quy định tại chương IV của Luật Công chứng năm 2006; Điều 658 Bộ luật dân
sự năm 2005; Điều 91; 92; 93, 107 Luật Nhà ở năm 2005 và Điều 106 Luật Đất đai
năm 2003. Các bên giao kết hợp đồng và tài sản giao dịch cũng đã đáp ứng đủ các điều
kiện để xác lập và thực hiện giao dịch theo quy định của pháp luật.

Phòng Công chứng B đã giải thích cho các bên hiểu rõ quyền và nghĩa vụ của
mình, ý nghĩa và hậu quả pháp lý của việc giao kết hợp đồng, và các bên đã xác nhận
trong hợp đồng về việc đã đọc và đồng ý với nội dung của hợp đồng tặng cho. Các bên
còn tự nguyện ký tên, điểm chỉ vào hợp đồng.

Nguyên đơn đã khẳng định rằng chữ ký, chữ viết trong hợp đồng tặng cho không
phải của bà S và ông M nhưng không đưa ra được chứng cứ chứng minh. Trong bản
hợp đồng tặng cho được lưu tại Phòng Công chứng B có cả dấu vân tay của nguyên
đơn. Nếu nguyên đơn không xuất trình được chứng cứ để chứng minh yêu cầu của họ,
thì các yêu cầu của họ không có cơ sở.

Vì vậy, theo đánh giá của Phòng Công chứng B, các yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn về việc hủy Hợp đồng tặng cho nhà đều không được chấp nhận. Phòng
Công chứng B đề nghị Tòa án không chấp nhận các yêu cầu này. Ngoài ra, Phòng
Công chứng B cũng xin vắng mặt trong tất cả các phiên thu thập chứng cứ, đối chất,
phiên họp kiểm tra giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ, hòa giải, xét xử sơ thẩm

Đối với hướng giải quyết của tranh chấp này, các bên có thể cân nhắc đàm phán
để tìm ra giải pháp đồng thuận và hợp lý. Nếu không thể giải quyết được qua đàm
phán, bên chiếu theo quy định của pháp luật có thể đưa ra yêu cầu khởi kiện để tòa án
can thiệp giải quyết

2.3. Bất cập và kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật hiện hành

Khái niệm lừa dối


Khái niệm lừa dối:
Lừa dối là hành vi mà một bên cố ý dựa trên tin tưởng của bên kia để sai lệ
chân tình gây ra hậu quả về pháp lý hoặc lợi ích kinh tế cho bản thân hoặc cho
người khác.

24
Cụ thể, lừa dối trong mối quan hệ hợp đồng có thể là khi một bên cung cấp
thông tin không đầy đủ hoặc giả mạo về vật phẩm hoặc dịch vụ được cung cấp,
hoặc khi một bên che giấu thông tin quan trọng hoặc thiếu trung thực trong việc
thực hiện hợp đồng. Khi được bên kia dựa trên lời tuyên bố hoặc hành động của
mình để ký kết hợp đồng và pháp lý của hợp đồng được xác lập dựa trên những
thông tin này, thì hành động của bên lừa dối sẽ là xâm phạm pháp lý và đối tác bị
lừa dối có thể có quyền yêu cầu bồi thường hoặc yêu cầu hợp đồng vô hiệu.
Lừa dối không chỉ gây hậu quả về pháp lý và kinh tế, mà nó còn xâm phạm
đạo đức và đạo lý, ảnh hưởng tiêu cực đến các mối quan hệ giữa các bên tham gia
vào hợp đồng. Do đó, lừa dối là một hành vi bị cấm trong pháp luật và sẽ bị xử lý
nếu bị phát hiện.
Điều 127 Bộ Luật Dân sự năm 2015 quy định rõ ràng về hành vi lừa dối trong
mối quan hệ hợp đồng. Theo đó, nếu một bên tham gia vào hợp đồng cố ý không có
sự thừa nhận hoặc không cung cấp đầy đủ thông tin khi có nghĩa vụ thông tin đến
người cùng giao kết hợp đồng, thì hành động của họ sẽ được coi là lừa dối.
Tuy nhiên, Điều 131 Bộ Luật Dân sự năm 2015 chỉ quy định về việc giải quyết
tranh chấp hợp đồng một cách tổng quát, trong đó không có quy định cụ thể về việc
hoàn trả bằng tiền theo giá trị của hiện vật tại thời điểm giao kết hay thời điểm
hoàn trả.
Ở trong thực tế, việc hoàn trả sẽ phụ thuộc vào mức độ thiệt hại mà bên bị
thiệt hại phải chịu và sự thỏa thuận của các bên tham gia vào hợp đồng. Nếu bên bị
thiệt hại yêu cầu hoàn trả bằng tiền theo giá trị của hiện vật tại thời điểm giao kết
hay thời điểm hoàn trả, thì việc này có thể được thương lượng và thỏa thuận giữa
các bên tham gia vào hợp đồng để giải quyết tranh chấp.

Sau khi nghiên cứu, tổng kết, có thể kết luận về 2 bất cập quy định pháp luật liên
quan đến giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối như sau:

Thứ nhất, quy định về chứng minh sự lừa dối không rõ ràng, làm cho việc chứng
minh trở nên khó khăn và có thể dẫn đến việc không đảm bảo tính công bằng trong xét
xử.

25
Thứ hai, hình phạt áp dụng cho các hành vi giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối
không đủ sức mạnh để ngăn chặn hành vi này.

Từ đó, để khắc phục các bất cập quy định pháp luật, đồng thời đảm bảo công
bằng trong xét xử cũng như ngăn chặn hành vi lừa dối trong giao dịch dân sự, sinh
viên có thể đưa ra các kiến nghị sau:

Thứ nhất, kiến nghị tăng cường quy định về chứng minh sự lừa dối đối với các
hành vi giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối. Cụ thể là cần rõ ràng hơn về cách thức và
tiêu chuẩn chứng minh sự lừa dối trong giao dịch dân sự, để đảm bảo tính công bằng
trong xét xử và tránh các trường hợp bị lạm dụng.

Thứ hai, kiến nghị tăng cường nghiêm khắc hơn về hình phạt cho các hành vi
giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối. Cụ thể là cần xem xét đến việc áp dụng các biện
pháp hình sự trước các hành vi lừa dối chuyên nghiệp, từ đó ngăn chặn một cách triệt
để hành vi này phát sinh trong giao dịch dân sự.

Cơ sở xây dựng cho việc đưa ra kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật của sinh
viên là sự cần thiết của sự phát triển về pháp luật, đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế
thị trường đang phát triển mạnh mẽ. Việc hoàn thiện quy định pháp luật sẽ giúp đảm
bảo tính công bằng trong giao dịch dân sự cũng như tạo ra một môi trường kinh doanh
lành mạnh và bảo đảm quyền lợi của các bên trong giao dịch.

26
PHẦN KẾT LUẬN
Theo Bộ luật Dân sự năm 2015, giao dịch dân sự là hành vi pháp lý của các bên
tham gia trong quá trình mua bán, trao đổi, cho thuê, tặng, vay tiền, làm bảo hiểm,
thừa kế và các hình thức giao dịch khác. Ngoài ra, Bộ Luật Dân sự cũng quy định các
yếu tố cấu thành giao dịch dân sự gồm: đủ năng lực hành vi dân sự, đủ năng lực hợp
đồng, đối tượng hợp pháp, ý chí hợp nhất và hình thức phù hợp.

Vấn đề giao dịch dân sự vô hiệu nói chung và giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối
nói riêng là một vấn đề phức tạp trong xã hội ngày nay. Giao dịch dân sự vô hiệu do
lừa dối được quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2015 có ý nghĩa rất quan trọng, đáp
ứng yêu cầu của thực tiễn, nhằm đảm bảo lợi ích hợp pháp của các chủ thể, lợi ích
chung của xã hội, của Nhà nước. Tuy nhiên, trong thực tế, các quy định về vấn đề này
đã bộc lộ những bất cập, mà ở cuối tiểu luận nhóm tác giả đã đưa ra một số phương
hướng, kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện vấn đề này từ góc độ xây dựng pháp luật.

27
TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT


1. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Bộ luật Dân sự (Luật số:
91/2015/QH13) ngày 24 tháng 11 năm 2015, Hà Nội.
B. TÀI LIỆU THAM KHẢO KHÁC
1. Quy định về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng,
http://hangluatanhbang.vn/blogs/tu-van-hop-dong/quy-dinh-ve-dieu-kien-co-
hieu-luc-cua-hop-dong#:~:text=Theo%20quan%20%C4%91i%E1%BB%83m
%20c%E1%BB%A7a%20To%C3%A0,ph%C3%ADa%20b%C3%AAn%20kia
%20ho%E1%BA%B7c%20c%E1%BB%A7a, Truy cập ngày 09/03/2023

28

You might also like