You are on page 1of 41

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BÀI TẬP LỚN

MÔN HỌC: PHÁP LUẬT VIỆT NAM ĐẠI CƯƠNG

CHỦ ĐỀ 2: BÀN VỀ THỪA KẾ THẾ VỊ


THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015

Giảng viên hướng dẫn: Thầy Cao Hồng Quân

Lớp: L05

Nhóm thực hiện: Nhóm 14

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 17 tháng 03 năm 2023


BÁO CÁO PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ VÀ KẾT QUẢ
THỰC HIỆN ĐỀ TÀI CỦA TỪNG THÀNH VIÊN NHÓM 14

Kết
ST
Họ và tên MSSV Nhiệm vụ quả Chữ ký
T
(%)

1 Trịnh Trí Văn 2012406 Chương 1 100%

Kiến nghị và bất


2 Thạch Đinh Hoàng Việt 2115287 100%
cập (chương 2)

Hỗ trợ chương 1,
3 Nguyễn Thanh Việt 2115283 100%
mở đầu, kết luận

Quan điểm của


nhóm tác giả
4 Nguyễn Thành Vinh 1912447 100%
(chương 2), định
dạng tập tin

5 Nguyễn Duy Vũ 1915976 “Không có mặt” 0%

Thông tin liên hệ nhóm trưởng: Nguyễn Thành Vinh


Số điện thoại: 0908134548
Email: vinh.nguyenthanh@hcmut.edu.vn

NHÓM TRƯỞNG
MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỪA KẾ THẾ VỊ THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ


LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015 3

1.1. Một số vấn đề lý luận về thừa kế thế vị_______________________________________3

1.1.1. Khái niệm thừa kế và quyền thừa kế_______________________________________3

1.1.2. Khái niệm về thừa kế thế vị______________________________________________7

1.2. Quy định của pháp luật dân sự về thừa kế thế vị_______________________________9

1.2.1. Điều kiện phát sinh thừa kế thế vị________________________________________9

1.2.2. Chủ thể của quan hệ thừa kế thế vị______________________________________12

1.2.2.1. Cháu được thừa kế thế vị di sản của ông bà 13

1.2.2.2. Chắt được thừa kế thế vị di sản của các cụ 14

1.2.3. Những điểm cần lưu ý khi giải quyết thừa kế thế vị_________________________15

1.3. Ý nghĩa của việc quy định thừa kế thế vị_____________________________________16

CHƯƠNG II. THỪA KẾ THẾ VỊ – TỪ THỰC TIỄN ĐẾN KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT 17

2.1. Vấn đề thừa kế thế vị liên quan đến yếu tố con nuôi___________________________17

2.1.1 Quan điểm của các cấp Tòa án xét xử vụ việc______________________________19

2.1.2. Quan điểm của nhóm nghiên cứu về tranh chấp____________________________20

2.2. Vấn đề thừa kế thế vị liên quan đến yếu tố con riêng___________________________24

2.2.1 Quan điểm của các cấp Tòa án xét xử vụ việc______________________________25

2.2.2. Quan điểm của nhóm nghiên cứu về tranh chấp____________________________26

2.3. Bất cập và kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật hiện hành__________________27

2.3.1. Bất cập và kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật hiện hành liên quan đến vấn
đề thừa kế thế vị giữa con nuôi, cha nuôi, mẹ nuôi_______________________________28

2.3.1.1. Bất cập 28

2.3.1.2. Kiến nghị 28


2.3.2. Bất cập và kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật hiện hành liên quan đến vấn
đề thừa kế kế vị giữa con riêng đối với bố dượng, mẹ kế.__________________________30

2.3.1.1. Bất cập 30

2.3.1.2. Kiến nghị 31

PHẦN KẾT LUẬN 33

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 34


PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Trong sự phát triển của kinh tế - xã hội, tài sản thuộc sở hữu tư nhân ngày càng có
giá trị lớn, pháp luật càng ngày càng chú trọng đến việc bảo vệ quyền sở hữu cá nhân.
Cùng với đó, thừa kế tài sản cùng tồn tại và phát triển với sự phát triển của xã hội, tùy
vào từng nhà nước mà có những chỉnh sửa đối với các điều luật để phù hợp hơn với xã
hội. Theo thông thường “thừa” và “kế” đều mang ý nghĩa nối tiếp, với ý nghĩa kinh tế
thừa kế là một hình thức dịch chuyển di sản dựa trên mối quan hệ huyết thống hay phong
tục tập quán riêng của bộ lạc thị tộc thời sơ khai. Thừa kế là quá trình dịch chuyển tài sản
của người chết sang cho người còn sống, là quyền cơ bản của mỗi công dân được pháp
luật bảo hộ. Chế định thừa kế luôn là chế định lớn và quan trọng. Qua các thời kì, những
tranh chấp, xung đột giữa các bên tham gia thừa kế càng trở nên phức tạp và có nhiều tình
tiết vẫn chưa được giải quyết một cách ổn thoả.
Theo Điều 32 Hiến pháp năm 2013 thì mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp
pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh
nghiệp hoặc các tổ chức kinh tế khác; Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp
luật bảo hộ. Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế đuợc pháp luật bảo hộ. Trên tinh
thần của Hiến pháp 2013 và BLDS 2015, quyền thừa kế của công dân vẫn được quy định
trong hệ thống pháp luật, mặt khác, quan hệ pháp luật về thừa kế thế vị cũng được quy
định nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi của cháu, chắt sẽ được hưởng di sản của ông, bà
hoặc cụ trong trường hợp bố, mẹ cháu, chắt đã chết trước hoặc chết cùng thời điểm với
ông, bà là người để lại di sản. Với tình hình xã hội ngày càng phát triển như hiện nay việc
hoàn thiện hệ thống pháp luật là nhiệm vụ vô cùng quan trọng và cấp thiết. Tuy nhiên,
kinh tế xã hội ngày càng phát triển phát sinh nhiều mối quan hệ dân sự nhưng pháp luật
lại chưa kịp điều chỉnh được quan hệ dân sự đó hoặc điều chỉnh nhưng chưa phù hợp, gây
khó khăn trong quá trình giải quyết. Ngày nay, lượng tài sản càng tăng không chỉ về số
lượng mà còn rất đa dạng và phong phú nên cũng xảy ra nhiều tranh chấp về thừa kế di
sản do người chết để lại. Mặc dù các quy định về thừa kế thế vị tại bộ luật dân sự 2015
được xây dựng trên cơ sở kế thừa và phát triển các quy định trong bộ luật thời kì trước
nhưng nó vẫn còn nhiều hạn chế. Trong thực tiễn, tòa vẫn gặp khó khăn trong các vụ án

1
liên quan đến thừa kế thế vị, ví dụ như: xác định không đúng hoặc không chính xác, xác
định quan hệ thừa kế thế vị chưa đúng, nhiều điều luật còn chung chung chưa cụ thể...
Tuy sử đổi liên tục nhưng pháp luật Việt Nam nói chung hay quy định trong bộ luật dân
sự 2015 nói riêng đều không thể tránh khỏi sai sót. Vậy nên, nhóm tác giả thực hiện
nghiên cứu đề tài “bàn về thừa kế thế vị theo quy định của bộ luật dân sự năm 2015” cho
bài tập lớn trong chương trình học môn pháp luật Việt Nam đại cương nhằm làm rõ các
trường hợp đặc biệt.
2. Nhiệm vụ của đề tài
Một là, làm rõ những vấn đề lý luận chung về thừa kế, quyền thừa kế và thừa kế thế
vị theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015.
Hai là, phân tích và làm sáng tỏ các quy định của pháp luật hiện hành về xác định
các điều kiện làm phát sinh thừa kế thế vị, chủ thể của quan hệ thừa kế thế vị và một số
loại trừ về thừa kế thế vị.
Ba là, nhận biết ý nghĩa của chế định thừa kế thế vị trong thực tiễn đời sống xã hội.
Bốn là, nhận xét vấn đề từ góc độ thực tiễn, phát hiện những bất cập và đưa ra kiến
nghị hoàn thiện pháp luật dân sự về chế định thừa kế thế vị.
3. Bố cục tổng quát của đề tài
Đề tài gồm 2 chương:
Chương I: Lý luận chung về thừa kế thế vị theo quy định của bộ luật dân sự năm
2015. Trong chương này, nhóm nghiên cứu sẽ trình bày các cơ sở pháp lý, các văn bản có
giá trị đang được hiện hành và trình bày được nhận định của nhóm về từng trường hợp cụ
thể,
Chương II: Thừa kế thế vị – từ thực tiễn đến kiến nghị hoàn thiện quy định pháp
luật. Trong chương này, nhóm nghiên cứu sẽ phân tích hai bản án có liên quan đến thừa
kế thế vị có yếu tố con nuôi và yếu tố con riêng. Tại chương này, nhóm sẽ phân tích cụ
thể bản án, trình bày lập luận theo quan điểm của nhóm và nêu ra các bất cập cũng như
kiến nghị trong việc sửa đổi, bổ sung những điều cần làm rõ trong các Luật và các Bộ
Luật hiện hành.

2
PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỪA KẾ THẾ VỊ THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ


LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015

1.1. Một số vấn đề lý luận về thừa kế thế vị

1.1.1. Khái niệm thừa kế và quyền thừa kế

Trong pháp luật và đời sống xã hội, khái niệm thừa kế mang trong mình tầm quan
trọng và tính chất phức tạp để trở thành một trong những đề tài được quan tâm đặc biệt.
Dưới góc độ phạm trù lịch sử xã hội, có khả năng thừa kế đã xuất hiện từ trước khi có nhà
nước, giai cấp. Theo phạm trù kinh tế, có thể hiểu rằng thừa kế là quá trình nhận tài sản
hoặc quyền lợi mà người đã qua đời để lại cho người thừa kế và tiếp tục đưa khối tài sản
ấy vào quá trình lưu thông và sử dụng. Trong phạm trù pháp lý, nội dung của thừa kế
chính là xác định những cái quyền và nghĩa vụ của các chủ thể bên cho và bên nhận, có
thể nói nó liên quan đến pháp lý rất nhiều. Tuy vậy, thừa kế vẫn chưa được định nghĩa
trong pháp luật, mà chỉ có trong văn bản khoa học pháp lý. Để có thể có cái nhìn tổng
quan hơn về khái niệm thừa kế, ta cần nghiên cứu và phân tích dưới góc độ Từ điển Tiếng
Việt và Từ điển Luật học.
Với từ điển tiếng Việt, ta sẽ có cái nhìn tổng quan hơn về nguồn gốc và lịch sử của
khái niệm thừa kế trong tiếng Việt. Trong cách sử dụng hàng ngày, có thể hiểu đơn giản
như từ "thừa" trong thừa kế có nghĩa là thừa nhận, thừa hưởng, tiếp nhận, đón nhận hoặc
giữ lại cái gì từ một nguồn gốc trước đó. Từ "kế" có nghĩa là "kế tiếp" hoặc "kế vị".
Ngoài ra, từ "thừa" trước "kế" sau trong thuật ngữ thừa kế được sử dụng để chỉ rõ thứ tự
của quá trình này. Trong lịch sử trước khi có thừa kế, người đã qua đời để lại tài sản và
quyền lợi của mình không có chủ, đây là tài sản trống rỗng và được đưa lại cho người
thừa kế được xác định hoặc thế hệ sau. Khái niệm thừa kế trong từ điển tiếng Việt của
Viện Ngôn ngữ học được định nghĩa như sau: “là việc dịch chuyển tài sản của người đã
chết cho người còn sống”. Theo đó, thừa kế là quá trình nhận tài sản hoặc quyền lợi mà
người đã qua đời để lại cho người thừa kế.
Với từ điển Luật học, sẽ giúp ta có sự hiểu biết về khái niệm thừa kế trong lĩnh vực
pháp luật, các quy định, nguyên tắc và quy trình liên quan đến thừa kế cũng như các khái

3
niệm liên quan như di chúc, người thừa kế, tài sản thừa kế, quyền thừa kế,… Khái niệm
thừa kế theo Từ điển Luật học của Viện Khoa học Pháp lý – Bộ Tư pháp thì thừa kế là
“sự dịch chuyển tài sản của người chết cho người còn sống. Thừa kế luôn gắn với sở hữu.
Sở hữu là yếu tố quyết định thừa kế và thừa kế là phương tiện để duy trì, củng cố quan hệ
sở hữu”1. Có thể hiểu đơn giản như sau thừa kế là quá trình truyền nhận tài sản của người
đã mất cho những người còn sống lại theo quy định của pháp luật. Thừa kế là một trong
những lĩnh vực quan trọng trong luật học, liên quan đến việc quản lý và chia sẻ tài sản
của người chết cho người còn sống. Theo đó, người chết có thể để lại di chúc để quy định
việc phân chia tài sản của mình cho những người thừa kế. Nếu không có di chúc, tài sản
sẽ được phân chia theo quy định của pháp luật. Việc quản lý và chia sẻ tài sản của người
chết là một vấn đề nhạy cảm và phức tạp, đòi hỏi sự tôn trọng đến nguyện vọng của người
đã mất và đảm bảo quyền lợi của những người thừa kế. Do đó, luật pháp có các quy định
cụ thể để đảm bảo tính minh bạch, công bằng và tránh tranh chấp trong quá trình thừa kế.
Theo quan điểm của nhóm, nhóm cho rằng khái niệm thừa kế là một phần quan
trọng trong hệ thống pháp luật của một quốc gia, nó đóng vai trò quan trọng trong việc
bảo vệ quyền lợi của người thừa kế và đảm bảo tính công bằng và minh bạch trong quá
trình chuyển nhượng tài sản. Điều này rất quan trọng vì nếu không có quy định rõ ràng và
minh bạch, các tranh chấp và mâu thuẫn có thể xảy ra, gây ảnh hưởng không tốt đến mối
quan hệ gia đình và cộng đồng.
Bên cạnh đó, nhóm cũng nhận thấy rằng việc hiểu rõ khái niệm thừa kế không chỉ là
vấn đề của các chuyên gia pháp lý mà còn cần được đưa vào thực tế của cuộc sống.
Những người thừa kế cần được tư vấn và hướng dẫn để hiểu rõ quyền và nghĩa vụ của
mình trong quá trình thừa kế, đồng thời các bên liên quan cần đối xử với nhau một cách
tôn trọng và công bằng.
Ngoài ra, nhóm cảm thấy rằng khái niệm thừa kế không chỉ đơn thuần là việc
chuyển nhượng tài sản từ người chết cho người sống, mà còn có liên quan đến nhiều khía
cạnh khác như quyền và nghĩa vụ của người thừa kế, quyền lực của luật pháp và nền tảng
văn hóa của từng quốc gia. Ngoài ra còn liên quan đến việc thể hiện quan hệ tình cảm và
trách nhiệm giữa các thành viên trong gia đình.

1
Phạm Kim Oanh, Quy định thừa kế theo pháp luật như thế nào?, [https://luathoangphi.vn/quy-dinh-thua-ke-theo-
phap-luat-nhu-the-nao/#:~:text=Theo%20từ%20điển%20Tiếng%20Việt,luôn%20gắn%20với%20sở%20hữu], truy
cập ngày 17/03/2023.
4
Cuối cùng, nhóm khuyến khích việc thực hiện các biện pháp cải tiến để nâng cao
tính hiệu quả của quy định thừa kế, nhằm đảm bảo quyền lợi của các bên liên quan và giữ
gìn mối quan hệ gia đình. Các biện pháp này có thể bao gồm việc cải tiến quy trình giải
quyết tranh chấp thừa kế, đẩy mạnh giáo dục và tư vấn để người dân hiểu rõ hơn về
quyền lợi của mình trong quá trình thừa kế, tăng cường sự minh bạch và công bằng trong
quá trình chuyển nhượng tài sản.
Theo điều 609 Bộ Luật Dân sự năm 2015 quy định: “Cá nhân có quyền lập di chúc
để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật;
hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật. Người thừa kế không là cá nhân có quyền
hưởng di sản theo di chúc.”
Dưới góc nhìn của nhóm tác giả, quyền thừa kế là quyền xuất phát từ một bên đó là
cá nhân chứ không phải tổ chức hoặc pháp nhân. Theo đó, các cá nhân có quyền lập di
chúc để định đoạt tài sản hợp pháp của mình và có quyền để lại tài sản cho người thừa kế
theo pháp luật hoặc để lại tài sản theo di chúc, theo mong muốn hoặc nguyện vọng của họ
sau khi họ qua đời. Và những cá nhân được hưởng thừa kế dựa trên ý chí của những
người đã mất, cho đi hoặc dựa theo pháp luật là liên quan đến huyết thống, người trong
nhà hoặc trong hôn nhân.
Đối với những cá nhân được trao tài sản theo di chúc hoặc theo pháp luật nếu có đủ
điều kiện quy định, họ có quyền sở hữu và quyền sử dụng tài sản đó theo quy định của
pháp luật. Và đối với người được lập di chúc không phải là người thừa kế theo quy định
của pháp luật. Tức là, nếu trong di chúc, người lập di chúc chọn người khác để thừa kế tài
sản thay vì người thừa kế theo pháp luật, thì người được lập di chúc đó sẽ không được coi
là người thừa kế.
Điều này nhằm bảo đảm tính công bằng và tránh các tranh chấp trong quá trình giải
quyết vấn đề liên quan đến tài sản và di sản của người đã qua đời. Bằng cách quy định rõ
ràng các quyền lợi và trách nhiệm của cá nhân và người thừa kế, pháp luật giúp cho quá
trình giải quyết tranh chấp di sản diễn ra một cách minh bạch, công bằng, tránh những
tranh chấp, mâu thuẫn không đáng có và đảm bảo tôn trọng quyền lợi của các bên liên
quan.
Tuy nhiên, đối với người được lập di chúc, việc không được coi là người thừa kế
cũng không có nghĩa là họ sẽ không được hưởng tài sản theo di chúc. Người được lập di
chúc vẫn có quyền được hưởng tài sản theo di chúc mà mình được chỉ định, nếu di chúc

5
đó được thực hiện đúng quy định của pháp luật và không vi phạm quyền lợi của người
thừa kế theo pháp luật.
Một ví dụ về Điều 609 Bộ Luật Dân sự năm 2015: Anh A đã lập di chúc và quyết
định để lại toàn bộ tài sản của mình cho chị B. Sau khi anh A qua đời, người thừa kế bao
gồm con cái và vợ của anh A không có quyền hưởng di sản theo di chúc của anh A, mà
phải tuân thủ quy định của pháp luật về thừa kế để phân chia tài sản. Trong đó anh A là cá
nhân lập di chúc, chị B không là người thừa kế nhưng được anh A để lại toàn bộ tài sản.
Các người thừa kế bao gồm con cái và vợ của Anh A không có quyền hưởng di sản theo
di chúc của anh A mà phải tuân thủ quy định của pháp luật về thừa kế để phân chia tài
sản. Sau phân chia tài sản, chị B và vợ anh A có quyền sở hữu và quyền sử dụng tài sản
theo quy định của pháp luật.2
Điều 649 Bộ Luật Dân sự năm 2015 quy định: “Cá nhân có quyền sở hữu với tài sản
của mình, sau khi chết, số tài sản được chia đều cho những người thừa kế. Người được
thừa kế theo pháp luật là những người có quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân, quan hệ
nuôi dưỡng.”
Theo nhóm tác giả, điều 649 quy định rõ quyền của cá nhân đối với tài sản của mình
sau khi qua đời. Theo đó, người đã mất có quyền sở hữu với tài sản của mình và số tài sản
đó sẽ được chia đều cho các người thừa kế theo quy định của pháp luật. Những người
được xem là người thừa kế theo pháp luật bao gồm những người có quan hệ huyết thống
(như con, cha, mẹ, anh chị em ruột), quan hệ hôn nhân (vợ/chồng) và quan hệ nuôi dưỡng
(người nuôi dưỡng trong trường hợp không có người thừa kế khác). Điều này nhằm đảm
bảo tính công bằng cho người được thừa kế theo pháp luật trong việc phân chia tài sản
của người đã mất cho những người có quan hệ thân thiết với người mất.
Ví dụ về Điều 649 Bộ Luật Dân sự năm 2015 là khi ông A qua đời, ông để lại tài
sản bao gồm một căn nhà và một số tiền trong tài khoản ngân hàng. Trước khi mất ông
còn vợ và con cái. Theo quy định của pháp luật, tài sản của ông A sẽ được chia đều cho
người thừa kế, bao gồm con cái và vợ của ông. Nếu ông A không có di chúc, tài sản sẽ
được phân chia theo quy định của pháp luật về thừa kế. Trong đó ông A là người có
quyền sở hữu với tài sản của mình, sau khi mất, số tài sản được chia đều cho những người

2
Thừa kế thế vị và vấn đề chia di sản thừa kế thế vị, Sở Tư pháp Thừa Thiên Huế, [https://stp.thuathienhue.gov.vn/?
gd=12&cn=82&tc=7139], truy cập ngày 17/03/2023.
6
thừa kế có cùng quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân, quan hệ nuôi dưỡng là vợ và con
cái ông A.3
Dưới góc độ của tác giả, nhóm xin nhận định Điều 32 Hiến pháp năm 2013 gồm 3
khoản quy định về quyền sở hữu tài sản của người dân và vai trò bảo vệ của pháp luật
như sau:
Khoản 1, khẳng định quyền sở hữu tài sản là quyền cơ bản của con người và được
bảo đảm bởi pháp luật. Người dân có quyền sở hữu và quản lý tài sản của mình một cách
hợp pháp, bao gồm thu nhập, nhà ở, tư liệu sinh hoạt và sản xuất, và các khoản đầu tư vào
các doanh nghiệp hoặc tổ chức kinh tế khác.
Ví dụ: Một người lao động đã có một công việc ổn định và thu nhập hợp pháp từ
công việc đó. Anh ta sử dụng thu nhập của mình để tích lũy tiền để mua một căn nhà. Khi
anh ta mua được căn nhà đó, đó là tài sản của anh ta và anh ta có quyền sở hữu về tài sản
này.
Khoản 2, nhấn mạnh việc bảo vệ quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế của người
dân, bảo đảm quyền này được thực hiện một cách hợp pháp và công bằng. Pháp luật sẽ
bảo vệ quyền sở hữu của người dân trước những hành vi vi phạm quyền sở hữu này.
Ví dụ: Anh B là chủ một doanh nghiệp thành công, sau khi qua đời, anh để lại tài
sản cho vợ và hai con. Tuy nhiên, người thừa kế khác của anh, chẳng hạn như anh trai
hay chị gái, muốn tranh chấp quyền thừa kế của vợ và con của anh. Tuy nhiên, pháp luật
bảo vệ quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế của vợ và con của anh B, do đó, vợ và con
của anh B sẽ được bảo vệ và giữ lại quyền sở hữu tài sản của anh B theo quy định của
pháp luật.4
Khoản 3, quy định rằng trong một số trường hợp đặc biệt, Nhà nước có thể trưng
mua hoặc trưng dụng tài sản của người dân vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc lợi ích
quốc gia. Tuy nhiên, Nhà nước phải bồi thường cho người sở hữu tài sản bị trưng mua
hoặc trưng dụng theo giá thị trường. Điều này bảo đảm rằng người dân không bị mất tài
sản của mình một cách vô lý, đồng thời bảo vệ quyền sở hữu tư nhân.
Ví dụ: Trong trường hợp có một dịch bệnh tràn lan và cần phải xây dựng một bệnh
viện cấp cứu để chăm sóc và điều trị các bệnh nhân, Nhà nước có thể tiến hành trưng mua
một mảnh đất đang thuộc sở hữu của một cá nhân hoặc tổ chức để xây dựng bệnh viện đó.
3
Hoàng Lê Khánh Linh, Chia thừa kế theo quy định Bộ luật dân sự 2015? Thủ tục khởi kiện đòi chia thừa kế?,
[https://luatminhkhue.vn/chia-thua-ke-theo-quy-dinh-bo-luat-dan-su-2015.aspx], truy cập ngày 17/03/2023.
4
Quy định về sở hữu chung và sở hữu chung trong thừa kế, Sở Tư pháp Thừa Thiên Huế,
[https://stp.thuathienhue.gov.vn/?gd=12&cn=82&tc=6602], truy cập ngày 17/03/2023.
7
Sau khi trưng mua, Nhà nước sẽ bồi thường tài sản cho cá nhân hoặc tổ chức đó theo giá
thị trường để đảm bảo quyền lợi cho bên bị thu hồi tài sản.

1.1.2. Khái niệm về thừa kế thế vị

Thừa kế thế vị là một khái niệm pháp lý quan trọng trong lĩnh vực di truyền tài sản.
Đây là quy định về việc chuyển nhượng tài sản của người đã qua đời cho người thừa kế.
Thừa kế thế vị được quy định rõ ràng trong pháp luật và có vai trò quan trọng trong việc
bảo vệ quyền và lợi ích của người thừa kế. Trong bối cảnh xã hội hiện đại ngày nay, khi
quyền sở hữu tài sản trở nên phức tạp hơn, hiểu rõ khái niệm thừa kế thế vị là rất cần thiết
để có thể giải quyết các tranh chấp pháp lý liên quan đến di sản. Chúng ta sẽ cùng tìm
hiểu về khái niệm này và các quy định liên quan trong pháp luật Việt Nam để có thể hiểu
rõ hơn về thừa kế thế vị dưới góc độ của từ điển tiếng Việt và từ điển Hán-Việt.
Theo từ điển tiếng Việt, thừa kế thế vị có nghĩa là việc thay thế người được thừa kế
khi họ chết để những người thừa kế tiếp theo có thể hưởng di sản. Thừa kế thế vị thường
được áp dụng trong trường hợp người được thừa kế chết hoặc từ chối di sản, hoặc trong
trường hợp không có người thừa kế nào được xác định rõ ràng. Trong pháp lý, thừa kế thế
vị được quy định bởi các quy định pháp luật về di sản của mỗi quốc gia.
Theo từ điển Hán- Việt, thế vị trong thừa kế thế vị bao gồm từ “Thế” có nghĩa là
“thay vào” và từ “Vị” nghĩa là “ngôi thứ” hoặc “vị trí”. Như vậy, thừa kế thế vị có nghĩa
là thừa kế bằng việc thay thế vị trí để hưởng thừa kế. Với cách dịch theo từ điển Hán-
Việt cho ta hình dung cơ bản về khái niệm thừa kế thế vị là gì. Mặt khác, ta có thể hiểu
đây là một trường hợp quan trọng của thừa kế xuất phát từ rất sớm trong lịch sử và tồn tại
trong từ điển Hán- Việt.
Điều 652 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “Trường hợp con của người để lại di
sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần
di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước
hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha
hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống”.
Theo nhóm tác giả, Điều 652 của bộ luật dân sự năm 2015 quy định về trường hợp
thừa kế thế vị của con cháu khi người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm
với con cháu. Theo đó, nếu con cháu chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại
di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn

8
sống. Tương tự, nếu cả người để lại và con cháu đều chết trước hoặc cùng một thời điểm
thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống.
Điều này đảm bảo quyền lợi thừa kế của con cháu và đồng thời giữ vững nguyên tắc
thừa kế theo trình tự thế tục. Nếu không có quy định này, trong trường hợp con cháu đã
chết thì sẽ xảy ra tình trạng người thừa kế được hưởng di sản theo quy định của pháp luật,
trong khi đó quyền lợi thừa kế của con cháu sẽ bị bỏ qua. Việc quy định rõ trường hợp
thừa kế thế vị của con cháu là cần thiết để đảm bảo sự công bằng trong phân chia di sản
và tránh tranh chấp khi có sự mâu thuẫn trong quyền lợi thừa kế.
Ví dụ về thừa kế thế vị: Một người có 2 con trai, khi mất thì chỉ để lại di sản trị giá 1
tỷ đồng. Nếu theo quy định về thừa kế pháp luật, thì hai con trai đều được chia đôi số tiền
đó, tức mỗi người nhận được 500 triệu đồng. Tuy nhiên, nếu một trong hai con trai đã mất
trước khi người cha mất, thì cháu của người đó sẽ thừa kế vị trí của cha mình và được
hưởng phần thừa kế của người đó, thay vì người cha chia đôi cho cả hai con.
Tuy nhiên hiện nay vẫn còn nhiều tranh cãi khi áp dụng quy định về thừa kế thế vị,
bao gồm các trường hợp như sau:
Trường hợp 1: con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng thời điểm với người
để lại di sản nhưng người con đó khi còn sống lại bị kết án về một trong những hành vi
quy định tại khoản 1 Điều 621 thì cháu (tức là con của người con đã bị kết án đó) có được
thừa kế thế vị không? Đây là trường hợp pháp luật chưa có quy định cụ thể nên khi giải
quyết những tranh chấp trong trường hợp này tòa án vẫn còn gặp nhiều khó khăn.
Trường hợp 2: xác định tư cách người thừa kế thế vị trong trường hợp con của
người để lại di sản chết trước người để lại di sản là cha dượng, mẹ kế. Ngoài ra còn liên
quan đến quy định tại Điều 654 Bộ luật Dân sự năm 2015, “có quan hệ chăm sóc, nuôi
dưỡng nhau như cha con, mẹ con”. Chính vì thế, khi áp dụng thực tế trong việc giải quyết
tranh chấp thừa kế theo pháp luật thì còn nhiều vướng mắc.
Bản chất của thừa kế thế vị phát sinh trên cơ sở là thừa kế theo pháp luật, không
phát sinh từ căn cứ di chúc. Trường hợp người thừa kế theo di chúc đã chết trước hoặc
chết cùng thời điểm với người để lại di sản thì phần di chúc đó vô hiệu và phải thực hiện
chia di sản theo pháp luật.

1.2. Quy định của pháp luật dân sự về thừa kế thế vị

1.2.1. Điều kiện phát sinh thừa kế thế vị

9
Theo quy định tại Điều 652 Bộ luật dân sự năm 2015: “Trường hợp con của người
để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được
hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng
chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di
sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống”.
Và theo quy định tại Điều 690 Bộ luật dân sự năm 1995: “Trong trường hợp con của
người để lại di sản chết trước người để lại di sản, thì cháu được hưởng phần di sản mà cha
hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng đã chết trước người để lại di
sản, thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn
sống.”
Dựa trên hai quy định của pháp luật dân sự hiện hành kể trên, dưới góc độ của tác
giả đã cho chúng ta thấy được để phát sinh thừa kế thế vị thì cần phải có các điều kiện sau
đây:
Điều kiện thứ nhất, phải xảy ra sự kiện cha hoặc mẹ của cháu hoặc của chắt chết
trước hoặc chết cùng lúc với ông bà (nội, ngoại) hoặc các cụ (nội, ngoại). Ta hiểu được sự
kiện chết của cha hoặc mẹ của cháu hoặc của chắt phải xảy ra trước hoặc cùng lúc với
ông bà (nội, ngoại) hoặc các cụ (nội, ngoại) khi thừa kế được mở.
Điều kiện thứ hai, cháu hoặc chắt phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế, ta mới
cho hưởng thừa kế thế vị được. Có nghĩa là cháu hoặc chắt còn sống đến thời điểm mà
pháp luật quy định về việc mở thừa kế. Thời điểm này phụ thuộc vào từng trường hợp cụ
thể và được quy định tại Luật Thừa kế và các quy định liên quan.
Ví dụ: A và B kết hôn và có hai người con là C, D. C kết hôn với H và có một người
con là G. C chết năm 2010, năm 2018 A chết và không để lại di chúc, như vậy sẽ chia tài
sản thừa kế theo pháp luật, những người thừa kế của A là C và D. Tuy nhiên, C đã chết
trước A nên tài sản mà đáng lẽ ra C được hưởng sẽ do G là con của C thừa kế thế vị tài
sản này.
Phân tích ví dụ lần lượt với điều kiện thứ nhất, ta thấy được cha của G là C đã chết
vào năm 2010, tức chết trước A 8 năm (2018). Dò xét điều kiện thứ hai, con của C là G
cũng là cháu của A còn sống đến lúc thừa kế được mở. Như vậy, hai điều kiện được đáp
ứng đủ nên G được thừa hưởng tài sản thế vị từ cha mình là C.5

5
Bài tập tham khảo về thừa kế của môn Pháp luật Việt Nam đại cương, Studocu,
[https://www.studocu.com/vn/document/truong-dai-hoc-su-pham-thanh-pho-ho-chi-minh/phap-luat/bai-tap-thua-ke-
grade-10/21386447], truy cập ngày 17/03/2023.
10
Thừa kế chuyển tiếp bao gồm 2 loại là thừa kế chuyển tiếp về di sản và thừa kế
chuyển tiếp về quyền thừa kế giữa các hàng thừa kế.6
Thừa kế chuyển tiếp về di sản là trường hợp người chết để lại di sản mà phần di sản
đó chưa được chia cho những người thừa kế, sau đó một trong số những người thừa kế
của người này cũng chết đi thì di sản của người chết sau bao gồm cả phần di sản mà
người này được hưởng (nhưng chưa chia) trong khối di sản của người chết trước.
Điều kiện của thừa kế chuyển tiếp di sản là khi người để lại di sản đã chết, những
người thừa kế vẫn còn sống. Nhưng trước khi di sản người chết được chia, thì một trong
những người thừa kế qua đời. Điều kiện thứ hai là phải có di sản để thừa kế, nếu không có
di sản để thừa kế thì không thể có thừa kế chuyển tiếp. Khi đó tổng di sản của người chết
sau sẽ bằng di sản của người đó cộng với di sản được hưởng từ người chết trước để lại.
Ví dụ: ông A và bà B có 03 người con chung là anh C, anh D và chị E. Ông A chết
năm 1985 và Bà B chết năm 1992. Cả ông A và bà B đều chết mà không để lại di chúc.
Khi còn sống, ông A và bà B có tạo lập được khối tài sản chung là một mảnh đất 300 m 2
và 01 căn nhà cấp 4 trên đất. Sau khi ông A và bà B chết, anh C vẫn tiếp tục quản lý và sử
dụng nhà đất của cha mẹ. Đến năm 2015, anh C chết mà không để lại di chúc, anh C có
vợ và 02 người con. Năm 2017 các con của anh C yêu cầu Tòa án chia di sản thừa kế của
anh C. Lúc này, vì cả ông A và bà B và anh C đều chết mà không để lại di chúc, nên di
sản được chia theo pháp luật. Như vậy, vợ và 02 người con của anh C được nhận di sản
thừa kế của anh C bao gồm cả phần di sản thừa kế mà anh C được nhận từ ông A và bà B
(đây gọi là phần thừa kế chuyển tiếp về di sản).7
Thừa kế chuyển tiếp về quyền thừa kế giữa các hàng thừa kế là trường hợp những
người ở hàng thừa kế trước đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng
di sản hoặc từ chối nhận di sản. Khi đó những người ở hàng thừa kế tiếp theo sẽ được
hưởng di sản thừa kế (khoản 3, Điều 651, Bộ luật dân sự năm 2015).
Điều kiện của thừa kế chuyển tiếp về quyền thừa kế giữa các hàng thừa kế là khi
người đã chết để lại di sản (phải có di sản để lại), những người thừa kế vẫn còn sống.
Nhưng trước khi di sản người chết được chia, những người thừa kế ở các hàng thừa kế
trước đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối

6
Công ty Luật Quốc tế DSP, Thừa kế chuyển tiếp là gì? Phân biệt thừa kế chuyển tiếp và thừa kế thế vị,
[https://dsplawfirm.vn/thua-ke-chuyen-tiep-la-gi-phan-biet-thua-ke-chuyen-tiep-va-thua-ke-the-vi/], truy cập ngày
17/03/2023.
7
Bài tập thừa kế, Studocu, [https://www.studocu.com/vn/document/truong-dai-hoc-duy-tan/phap-luat-dai-cuong/
bai-tap-thua-ke-bai-tap/50643537], truy cập ngày 17/03/2023.
11
nhận di sản. Các người thừa kế ở hàng thừa kế sau phải được quy định rõ ràng trong di
chúc hoặc luật pháp liên quan, và phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện để thừa kế. Di sản
của người chết sẽ được chia đều cho các người thừa kế còn lại trong hàng thừa kế tiếp
theo theo tỷ lệ quy định bởi luật pháp liên quan. Nếu không có điều kiện trên, thì quyền
thừa kế sẽ được giải quyết theo các quy định khác trong Luật pháp liên quan.
Ví dụ: Ông A và bà B có 03 người con chung là anh C, anh D và chị E (cha mẹ của
ông A và bà B đã mất trước đó). Ông A chết năm 1985 và Bà B chết năm 1992. Cả ông A
và bà B đều chết mà không để lại di chúc. Khi còn sống, ông A và bà B có tạo lập được
khối tài sản chung là một mảnh đất 300 m 2 và 01 căn nhà cấp 4 trên đất. Sau khi ông A và
bà B chết, anh C vẫn tiếp tục quản lý và sử dụng nhà đất của cha mẹ. Đến năm 2015, anh
C chết mà không để lại di chúc, anh C có vợ và 02 người con. Năm 2016, anh D và chị E
chết do tai nạn lao động, anh D và chị E chưa lập gia đình. Năm 2017 các con của anh C
yêu cầu Tòa án chia di sản thừa kế. Lúc này, vì cả ông A và bà B, anh C, anh D và chị E
đều chết mà không để lại di chúc, nên di sản được chia theo pháp luật. Như vậy, vợ và 02
người con của anh C được nhận di sản thừa kế của anh C bao gồm cả phần di sản thừa kế
mà anh C được nhận từ ông A và bà B (đây gọi là phần thừa kế chuyển tiếp về di sản);
đồng thời vì hàng thừa kế thứ nhất và thứ hai của anh D và chị E không còn ai cả nên 02
người con của anh C là cháu ruột của anh D và chị E sẽ được hưởng phần di sản thừa kế
mà anh D và chị E nhận từ ông A và bà B (đây gọi là phần thừa kế chuyển tiếp giữa các
hàng thừa kế).8
Từ những nhận định trên, nhóm phân biệt được sự khác nhau của thừa kế thế vị và
thừa kế chuyển tiếp như sau: Thứ nhất, thừa kế thế vị là thừa kế theo pháp luật, trong khi
đó thừa kế chuyển tiếp có thể là thừa kế theo pháp luật hoặc thừa kế theo di chúc. Thứ
hai, đối với thừa kế thế vị thì con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời
điểm với người để lại di sản, còn với thừa kế chuyển tiếp thì con của người để lại di sản
chết sau người để lại di sản. Cuối cùng, đối với thừa kế thế vị thì người được hưởng thừa
kế là cháu/chắt của người để lại di sản, trong khi thừa kế chuyển tiếp thì người được
hưởng thừa kế chuyển tiếp có thể là bất kỳ ai còn sống trong hàng thừa kế chuyển tiếp (có
thể là cháu nội, cháu ngoại, con dâu, con rể, … của người để lại di sản) trừ những người
không được quyền hưởng di sản theo quy định tại Điều 621 Bộ luật Dân sự năm 2015.

8
Bài tập thừa kế, Studocu, [https://www.studocu.com/vn/document/truong-dai-hoc-duy-tan/phap-luat-dai-cuong/
bai-tap-thua-ke-bai-tap/50643537], truy cập ngày 17/03/2023.
12
1.2.2. Chủ thể của quan hệ thừa kế thế vị

Với Nghị quyết 02/HĐTP ngày 19/10/1990, tại Điều 652 Bộ luật dân sự năm 2015
quy định: “Trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm
với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được
hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại
di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn
sống”.
Tại Điều 653 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi
được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 651, 652
của Bộ luật này”.
Tại Điều 654 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “Con riêng và bố dượng, mẹ kế
nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản
của nhau và còn được chia thừa kế theo quy định tại Điều 652 và Điều 653 của Bộ luật
này”.

1.2.2.1. Cháu được thừa kế thế vị di sản của ông bà

Các trường hợp liên quan đến cháu được thừa kế thế vị di sản của ông bà theo điều
652, 653, 654 của Bộ luật dân sự năm 2015 (Mặc định các trường hợp cha nuôi, mẹ nuôi,
bố dượng, mẹ kế đều là cha mẹ, là con của ông bà, người để lại di sản):

Trường hợp 1, Nếu ông hoặc bà chưa có di chúc thì di sản của ông hoặc bà sau khi
qua đời sẽ được chia theo quy định của pháp luật và cha hoặc mẹ của cháu đã mất trước
hoặc cùng lúc với ông bà: Nếu cháu còn sống đến khi chia di sản thì cháu sẽ được thừa kế
thế vị di sản của ông bà; nếu cháu không còn sống đến khi chia di sản thì các chắt của ông
bà là con của cháu sẽ được thừa kế thế vị di sản; nếu chỉ có một cháu duy nhất, cháu sẽ
được thừa kế toàn bộ tài sản của ông hoặc bà; nếu có nhiều cháu là con một cặp cha mẹ
hoặc nhiều cặp cha mẹ và những cha hoặc mẹ đó đều là con của ông bà, tài sản của cha
hoặc mẹ đã mất sẽ được chia đều giữa các cháu.

Trường hợp 2, Nếu ông bà có di chúc thì di sản sẽ được chia theo di chúc của ông
bà và cha hoặc mẹ của cháu đã mất trước hoặc cùng lúc với ông bà: Trong di chúc của
ông bà không có chỉ định rõ ràng về việc thừa kế đối với cha hoặc mẹ của cháu, thì cháu
có thể được thừa kế thế vị di sản của ông bà. Con cháu ruột của ông bà (cháu trực tiếp) sẽ
được thừa kế trước. Nếu cháu không còn sống đến khi chia di sản thì các chắt của ông bà
13
là con của cháu sẽ được thừa kế thế vị di sản trong di chúc; trường hợp di chúc xác định
phân chia di sản theo hiện vật thì người thừa kế được nhận hiện vật kèm theo hoa lợi, lợi
tức thu được từ hiện vật đó hoặc phải chịu phần giá trị của hiện vật bị giảm sút tính đến
thời điểm phân chia di sản; nếu hiện vật bị tiêu hủy do lỗi của người khác thì người thừa
kế có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại; trường hợp di chúc chỉ xác định phân chia di
sản theo tỷ lệ đối với tổng giá trị khối di sản thì tỷ lệ này được tính trên giá trị khối di sản
đang còn vào thời điểm phân chia di sản, theo đó, việc phân chia di sản được thực hiện
theo nội dung của di chúc, nếu như nội dung của di chúc không chỉ định rõ phần di sản
được hưởng của từng người thừa kế thì di sản sẽ được chia đều cho tất cả những người
thừa kế được nhắc đến trong nội dung của di chúc.

1.2.2.2. Chắt được thừa kế thế vị di sản của các cụ

Để hình dung ta có thể hình thành một sơ đồ sau: A…B…C…D, trong đó giữa các
chữ được nối liền với nhau bằng nét gạch ngang giữa là chỉ mối quan hệ giữa cha, mẹ và
con; (A và B, B và C, C và D); giữa các chữ cách nhau một chữ là chỉ mối quan hệ giữa
ông, bà với cháu (A và C; B và D); Giữa các chữ cách nhau hai chữ là chỉ mối quan hệ
giữa cụ với chắt (A và D). Theo quy ước trên thì ta có các trường hợp sau:9

Một là, ông nội/bà nội/ông ngoại/bà ngoại (B) chết trước người để lại di sản là cụ
(A); cha/mẹ (C) cũng đã chết trước người để lại di sản nhưng chết sau ông nội/bà nội/ông
ngoại/bà ngoại thì chắt (D) được hưởng phần di sản mà cha/mẹ mình được hưởng nếu còn
sống vào thời điểm người để lại di sản chết (C thế vị B để hưởng thừa kế di sản của A đối
với phần di sản mà B được hưởng nếu còn sống và D lại thế vị C để hưởng di sản của A
đối với phần di sản mà C được hưởng nếu còn sống).

Hai là, ông nội/bà nội/ông ngoại/bà ngoại (B) chết trước người để lại di sản (A);
cha/mẹ (C) chết sau ông/bà nhưng chết cùng thời điểm với người để lại di sản (A) thì
chắt (D) được hưởng phần di sản mà cha/mẹ mình được hưởng nếu còn sống vào thời
điểm mở thừa kế.

Ba là, ông nội/bà nội/ông ngoại/bà ngoại (B) chết trước người để lại di sản (A);
cha/mẹ (C) chết sau ông/bà nhưng chết cùng thời điểm với người để lại di sản thì chắt (D)

9
Thừa kế thế vị theo quy định của pháp luật dân sự, Tạp chí Toà án nhân dân điện tử, [https://tapchitoaan.vn/thua-
ke-the-vi-theo-quy-dinh-cua-phap-luat-dan-su], truy cập ngày 17/03/2023.
14
được hưởng phần di sản mà cha/mẹ mình được hưởng nếu còn sống vào thời điểm mở
thừa kế.

Bốn là, trường hợp B không được hưởng di sản của A, nếu C chết trước A thì D
cũng được thế vị C để hưởng thừa kế đối với di sản của A.

Năm là, trường hợp nếu có sự đan xen cả huyết thống lẫn nuôi dưỡng giữa các đời
thì việc thừa kế thế vị của chắt được xét các trường hợp sau:

Trường hợp con nuôi chết trước người để lại di sản là cha/mẹ nuôi, đồng thời con
đẻ của người con nuôi cũng đã chết trước người để lại di sản (nhưng chết sau cha hoặc
mẹ) thì cháu của người con nuôi đó (tức là chắt của người để lại di sản) được hưởng phần
di sản mà cha mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống vào thời điểm người để lại di sản
chết.

Trong các trường hợp nếu xét về tính đan xen giữa huyết thống và nuôi dưỡng mà
thấy rằng con của một người không đương nhiên trở thành cháu của cha/mẹ người đó thì
thừa kế thế vị không được đặt ra. Ví dụ: quan hệ giữa A, B, C, trong đó B là con đẻ của
A, nhưng nếu C là con nuôi của B thì C không đương nhiên là cháu của A. Theo logic
trên thì con của con nuôi của một người không đương nhiên trở thành chắt của cha, mẹ
người đó. Hoặc, quan hệ giữa A, B, C, D, trong đó B là con của A nhưng C là con nuôi
của B và D là con của C (kể cả con đẻ hoặc con nuôi) thì D không đương nhiên trở thành
chắt của A.

1.2.3. Những điểm cần lưu ý khi giải quyết thừa kế thế vị

Khi xác định thừa kế thế vị cần lưu ý các mối quan hệ:

Một là, nếu quan hệ giữa đời thứ nhất và đời thứ hai là nuôi dưỡng nhưng quan hệ
giữa đời thứ hai và đời thứ ba lại là huyết thống (A nhận nuôi C, C sinh ra E) thì được
thừa kế thế vị.

Hai là, nếu quan hệ giữa đời thứ nhất và đời thứ hai là huyết thống nhưng quan hệ
giữa đời thứ hai và đời thứ ba lại là nuôi dưỡng (A sinh ra C, C nhận nuôi E) thì không
đương nhiên được thừa kế thế vị (E không đương nhiên là cháu của A).

Ba là, nếu quan hệ giữa đời thứ nhất và đời thứ tư đan xen về quan hệ huyết thống,
nuôi dưỡng thì không đặt ra thừa kế thế vị vì các mối quan hệ là không đương nhiên (A
nhận nuôi C, C sinh ra E, E nhận nuôi H thì H không đương nhiên là chắt của A).
15
Bốn là, con riêng của bố dượng, mẹ kế được thừa nhận là có quan hệ chăm sóc, nuôi
dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì cũng được thừa kế thế vị.

Như vậy, quan hệ thừa kế thế vị không phải là thừa kế theo trình tự hàng nhưng
hàng thừa kế lại là căn cứ để xác định quan hệ thừa kế thế vị. Thừa kế thế vị là một chết
định của pháp luật nhằm bảo vệ quyền lợi cho những người thân thích nhất của người để
lại di sản, tránh trường hợp di sản của ông, bà, cụ mà cháu, chắt không được hưởng lại để
cho người khác hưởng. Thừa kế thế vị chỉ phát sinh từ thừa kế theo pháp luật mà không
phát sinh từ thừa kế theo di chúc. Nếu cha, mẹ chết trước hoặc chết cùng thời điểm với
ông, bà hoặc cụ thì phần di chúc định đoạt tài sản cho cha, mẹ (nếu có di chúc) sẽ vô
hiệu. Phần di sản đó được chia theo pháp luật và lúc này cháu (chắt) mới được hưởng
thừa kế thế vị.

1.3. Ý nghĩa của việc quy định thừa kế thế vị

Thừa kế thế vị chỉ phát sinh trên cơ sở thừa kế theo pháp luật, không phát sinh từ
căn cứ di chúc. Người thừa kế theo di chúc đã chết trước hoặc chết cùng vào một thời
điểm với người để lại di sản theo di chúc thì phần di chúc đó sẽ bị tuyên bố vô hiệu theo
quy định tại điểm a khoản 2 Điều 667 Bộ luật dân sự 2005.
Thừa kế thế vị theo quy định của pháp luật còn nhằm bảo vệ những lợi ích chính
đáng của những người thân thuộc nhất của người để lại di sản, nhằm bảo vệ quyền được
hưởng di sản của các cháu, chắt của người để lại di sản một cách trực tiếp nhất, tránh
được tình trạng di sản của ông bà, các cụ mà các cháu, chắt không được hưởng lại để cho
người khác. Đây là vấn đề nhân đạo của pháp luật Việt Nam nhằm bảo vệ quyền dân sự
hợp pháp của những người có quan hệ huyết thống gần nhất với người để lại di sản.
Mặt khác, những quy định của pháp luật về thừa kế thế vị đã phát huy được đạo lí
tốt đẹp của cha ông về việc hưởng di sản của các cụ, các ông, bà nội, ngoại sau khi chết
để lại di sản cho cháu, chắt mình. Pháp luật quy định về thừa kế thế vị đã trực tiếp bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của các cháu, các chắt trong việc hưởng di sản thừa kế của ông
bà và các cụ trong trường hợp cha mẹ của cháu, của chắt chết trước ông, bà nội, ngoại và
các cụ nội, cụ ngoại.
Xác định quyền của những người được thừa kế thế vị theo quy định tại Điều 677 Bộ
luật dân sự 2005 đã bảo đảm được quyền hưởng di sản thừa kế chính đáng của các cháu,
các chắt góp phần tìm hiểu triệt để và đúng nguyên tắc về thừa kế thế vị. Quyền được

16
thừa kế thế vị của các cháu, các chắt đã giúp cho những người thừa kế hiểu được quyền
của mình và cũng tạo ra sự hiểu biết pháp luật về thừa kế cho những người khác, giúp họ
hành xử đúng mực trong quan hệ thừa kế để tránh những mâu thuẫn không nên có giữa
những người được hưởng thừa kế và những người không có quyền hưởng di sản thừa kế.
Như vậy, có thể khẳng định, thừa kế thế vị đã bảo tồn được truyền thống và đạo lí trong
quan hệ giữa những người thân thuộc nhất của người để lại di sản đã và đang được thừa
nhận ở Việt Nam.

17
CHƯƠNG II. THỪA KẾ THẾ VỊ – TỪ THỰC TIỄN ĐẾN KIẾN NGHỊ HOÀN
THIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT

Thừa kế thế vị là một chế định pháp luật có vai trò quan trọng về việc dịch chuyển
tài sản của người chết cho những người thừa kế của họ. Hiện nay, các tranh chấp về
quyền thừa kế, trong đó có thừa kế thế vị xảy ra ngày càng phức tạp. Việc giải quyết các
tranh chấp liên quan đến việc xác định quan hệ về thừa kế và xác định người thừa kế thế
vị có yếu tố con nuôi, con riêng còn vướng mắc, bất cập trong thực tiễn. Pháp luật dân sự
hiện hành vẫn còn nhiều bất cập trong việc chứng minh điều kiện hưởng thừa kế thế vị
khi áp dụng vào thực tiễn. Chính vì vậy nhóm tác giả nghiên cứu về thực tiễn tranh chấp
liên quan đến thừa kế thế vị, đưa ra một số bất cập trong chế định thừa kế thế vị và kiến
nghị hoàn thiện quy định pháp luật.

2.1. Vấn đề thừa kế thế vị liên quan đến yếu tố con nuôi

Theo bản án 18/2018/DS-PT ngày 18/07/2018 của Toà án nhân dân tỉnh Hưng Yên,
cụ Nguyễn Văn Đàm và Phạm Thị Sen sinh được 4 người con là Nguyễn Thị Tấn,
Nguyễn Văn Bút, Nguyễn Thị Nhẫn, Nguyễn Văn Chính. Bà Nhẫn (chết năm 2015) có 4
người con là Phạm Thị Tuyết (bị bệnh tâm thần từ nhỏ, chết năm 2016, không có chồng
con), Phạm Văn C, Phạm Thị Kh, Phạm Thị H. Ông Bút hy sinh năm 1950, không có vợ
con. Bà Tấn (chết năm 2003) có 7 người con là Nguyễn Văn K, Nguyễn Thị T, Nguyễn
Thị V, Nguyễn Thị N, Nguyễn Văn G, Nguyễn Văn B, Nguyễn Thị Nh. Ông Chính (hy
sinh năm 1972) có vợ là Phạm Thị D, ông Chính và bà D không có con đẻ nhưng có con
nuôi là chị Nguyễn Thị N (con gái bà Tấn). Tuy nhiên Bà D lại không thừa nhận chị
Nguyễn Thị N là con nuôi của bà D, ông Chính. Ngoài ra năm 1999 bà D có nhận anh
Nguyễn Văn E (con trai ông Bình - em rể bà D) làm con nuôi.
Năm 1945 cụ Đàm chết và không để lại di chúc. Năm 1994 cụ Sen đã lập di chúc có
nội dung cho hai con gái là Tấn và Nhẫn được thừa kế 538 m 2 đất và cho bà D được thừa
kế 538 m2. Ngày 25/6/2007 cụ Sen chết. Sau khi cụ Sen chết giữa bà Tấn, các con bà
Nhẫn và bà D phát sinh tranh chấp.
Về nguồn gốc đất tranh chấp là của bố mẹ đẻ của cụ Đàm để lại. Tại sổ mục kê và
bản đồ 299 thể hiện cụ Sen là người đứng tên 1076 m2 đất (bao gồm đất thổ cư, đất vườn
và đất ao). Tại đơn xin xác nhận quyền sở hữu nhà và quyền sở hữu đất của cụ Sen kèm
18
theo bản di chúc cụ Sen lập năm 1994, phần nguồn gốc đất có ghi: “của cha ông để lại từ
trước năm 1945”. Bà Nguyễn Thị Dũng là con cụ Giảng (em gái cụ Đàm) cũng xác định:
đất là của bố mẹ cụ Đàm để lại cho cụ Đàm. Ông Phạm Văn Vinh (là cháu ruột cụ Sen)
khẳng định: nguồn gốc đất là của các cụ để lại cho cụ Đàm, cụ Sen kết hôn với cụ Đàm
và về ở trên đất. (Do một số biến động nên tổng di sản được xác định là 1.136,8 m2 đất).
Đại diện theo ủy quyền của bị đơn, nguyên đơn và những người có quyền lợi liên
quan có mặt tại phiên tòa đều xác định từ năm 2000 cụ Sen bị ốm, đau chân phải ngồi
một chỗ không thể tự đi lại được. Theo ông Vinh (là cháu ruột cụ Sen) xác định: Trước
khi mất khoảng 10 năm tình trạng sức khỏe của cụ Sen yếu, lẩm cẩm, trí óc không còn
minh mẫn phù hợp với lời khai của nguyên đơn và những người có quyền lợi liên quan.
Toà án cho rằng di chúc năm 1994 được lập thành văn bản, có chứng thực của
Phòng công chứng nhà nước số 2 nhưng vị trí và tài sản theo nội dung di chúc đến nay
không còn tồn tại, nội dung di chúc không rõ ràng.
Sau đó, các bên có cung cấp thêm bản di chúc ngày 01/9/2004 của cụ Sen. Xét về
hình thức di chúc thấy: cụ Sen là người không biết chữ, di chúc được lập thành văn bản,
có chữ ký của hai người làm chứng là ông Thuật và ông Minh, có xác nhận của trưởng
thôn, cán bộ địa chính phường và đại diện UBND phường Lam Sơn. Trong di chúc có ghi
tên con gái của cụ Sen là Nguyễn Thị Quỳ nhưng cụ Sen không có người con nào tên
Quỳ. Bà D xác định: cụ Sen nhờ cháu viết hộ bản di chúc (nhưng không biết người viết
hộ là ai). Sau khi bản di chúc được viết bà cùng cụ Sen lên UBND phường xin xác nhận
(BL 374). Ông Thuật xác định không chứng kiến việc cụ Sen lập di chúc và không ra
UBND phường để xác nhận vào di chúc, không biết di chúc do ai viết và viết trong hoàn
cảnh nào, không có cán bộ UBND phường đến thẩm tra lại việc ký làm chứng trong bản
di chúc (BL 269,378); Còn ông Minh xác định di chúc được lập tại UBND phường Lam
Sơn có sự chứng kiến của ông, ông Thuật, ông Quang (trưởng thôn), ông Tuyến (cán bộ
phụ trách địa chính). Tại (BL 313)  bà Hải xác định: cụ Sen và bà D mang 1 bản di chúc
đến UBND phường xin xác nhận, khi đó di chúc đã được lập sẵn có chữ ký của ông
Thuật, ông Minh, ông Quang và cán bộ địa chính phường. Bà đã xuống nhà cụ Sen để hỏi
nguyện vọng của cụ và xuống nhà ông Quang để xác thực việc ông Quang ký vào bản di
chúc. Tại UBND phường có mặt cụ Sen, bà D bà đã viết mẫu lời chứng được có sẵn vào
bản di chúc. Ông Nguyễn Đức Tuyến cung cấp: Bà D đưa cụ Sen đến UBND phường
mang theo bản di chúc. Khi đó UBND phường có: tôi, bà Hải (Phó chủ tịch UBND

19
phường), bà D và cụ Sen, sức khỏe cụ Sen bình thường. Di chúc khi mang đến phường đã
được lập sẵn và có chữ ký của những người làm chứng, chúng tôi đã đọc lại cho cụ Sen
nghe và cụ Sen đã điểm chỉ vào di chúc trước mặt chúng tôi. Xét về nội dung: Toàn bộ
quyền sử dụng diện tích đất 1.168 m2 đất (theo di chúc) là tài sản chung của cụ Đàm và cụ
Sen. Cụ Sen lập di chúc định đoạt toàn bộ di sản.
Ngoài 2 bản di chúc trên, ngày 20/05/2001 cụ Sen còn có biên bản bàn giao tài sản
nhưng biên bản bàn giao tài sản ngày 20/5/2001 không biết do ai viết, không tuân thủ quy
định của pháp luật về di chúc có người làm chứng nên không có giá trị.
Toà án xác định những di chúc trên là di chúc không hợp pháp. Khối tài sản chung
của cụ Đàm và cụ Sen là 1.136,8 m2. Do Cụ Sen, bà D có công trông nom, tôn tạo nên
trích công sức này ứng với 500 m 2 đất. Suy ra, di sản của cụ Đàm, cụ Sen để lại còn 636,8
m2 đất.
Ngoài ra, Tòa án cho rằng ông Chính và bà D có nhận chị Nguyễn Thị N (con của
bà Tấn) làm con nuôi. Mặc dù việc nhận con nuôi không có văn bản giấy tờ do thời điểm
này Luật chưa quy định việc nhận nuôi con nuôi phải thể hiện bằng văn bản. Căn cứ vào
hồ sơ quân nhân ông Chính khai trước khi nhập ngũ, căn cứ vào giấy báo tử của ông
Nguyễn Văn Chính, lời khai của chị N, vợ chồng bà Dùng, ông Thuật (cô ruột của ông
Chính) và các nguyên đơn đều xác định khi ông Chính đi bộ đội có nhận chị N làm con
nuôi, chị N ở với bà D đến khi đi lấy chồng. Toà án cho rằng chị N là con nuôi hợp pháp
của ông Chính bà D.
Phần di sản của cụ Đàm để lại là 318,4 m 2 đất: hàng thừa kế thứ nhất của cụ Đàm
gồm 5 người: Cụ Sen, bà Tấn, ông Bút, bà Nhẫn, ông Chính.
Phần di sản của cụ Sen được chia cho: bà Nhẫn, con ông Chính (được hưởng thừa
kế thế vị) và các con bà Tấn (được hưởng thừa kế thế vị). Do vậy mỗi kỷ phần được
hưởng 1/3 di sản của cụ Sen bằng 155.66 m2. Trong đó, các con bà Tấn gồm: Anh K, chị
T, chị V, anh G, chị N, chị Nh, anh B sẽ thế vị cho mẹ. Các con bà Nhẫn sẽ thế vị cho mẹ.
Chị N (con nuôi ông Chính) được hưởng: 1/3 di sản của cụ Sen (được thừa kế thế vị).

2.1.1 Quan điểm của các cấp Tòa án xét xử vụ việc

Sau khi xử án, Toà án nhân dân tỉnh Hưng Yên đã đưa ra những quyết định sau:10

10
Bản án số: 18/2018, Toà án Nhân dân Tối cao, Trang Thông tin Điện tử Công bố Bản án, Quyết định của Toà án,
[https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta138625t1cvn/chi-tiet-ban-an], truy cập ngày 13/03/2023.
20
Kháng cáo của Bà D, theo đó xác định toàn bộ diện tích đất tranh chấp là tài sản
riêng của cụ Sen đã để lại cho bà thừa kế, là không có cơ sở chấp nhận.

Cụ Đàm mất năm 1945, không để lại di chúc nên phần di sản thừa kế sẽ được chia theo
pháp luật.

Xét hai bản di chúc lập ngày 19/4/1994 và ngày 01/09/2004 của cụ Sen, do cả hai
đều không đảm bảo về cả mặt hình thức lẫn nội dung nên sẽ không có hiệu lực.

Đối với biên bản giao tài sản ngày 20/05/2001, nhận thấy biên bản không tuân thủ
quy định của pháp luật về di chúc có người làm chứng nên sẽ không có giá trị.

Với các lí do trên, toà tiến hành chia di sản của cụ Đàm và cụ Sen theo pháp luật.

2.1.2. Quan điểm của nhóm nghiên cứu về tranh chấp

Quan điểm nhóm nghiên cứu về hướng giải quyết tranh chấp như sau:

Về di sản người quá cố để lại, cần làm rõ thời điểm mở thừa kế và thời hiệu để
người thừa kế yêu cầu chia di sản. Cụ thể, theo khoản 1 Điều 623 Bộ luật Dân sự 2015 và
theo khoản 4 Điều 36 Pháp lệnh thừa kế của Hội đồng Nhà nước ban hành ngày
30/8/199011 thì thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động
sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản
thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó... Sau khi đối chiếu với bản án trên, xác
định năm cụ Đàm mất là 1945, xác định thời điểm mở thừa kế là năm 2007, nhóm nghiên
cứu nhận thấy rằng phần di sản mà bố mẹ cụ Đàm để lại, tức 1135,8 m2 đất, là thuộc
đồng sở hữu của cả hai vợ chồng. Vậy nên khi tiến hành chia di sản, sau khi tham khảo
quyết định của Toà về việc xem xét phần áng trích công sức bảo quản, trông nom, tôn tạo
tài sản mà bà D đã làm cho cụ Sen tương ứng với 500 m2 đất thì phần còn lại là 636,8 m2
đất được xác định là di sản của cụ Đàm và cụ Sen để lại (khi đó thì mỗi người = ½ =
318,4 m2 theo quy định về tài sản chung của hai vợ chồng), nhóm nghiên cứu nhận thấy
rằng việc xác định di sản ban đầu là hoàn toàn phù hợp.

Sau khi đã xác định cụ thể phần di chúc mà cụ Đàm và cụ Sen để lại, nhóm nghiên
cứu tiến hành xác định hiệu lực của các bản di chúc và các văn bản liên quan để tiến hành
việc phân chia di sản. Theo như bản án đầy đủ được trích từ Toà án Nhân dân Tối cao 12,
11
Nghị quyết 02/HĐTP, Cơ sở Dữ liệu Trung ương, Cơ sở Dữ liệu Quốc gia về Văn bản Pháp luật,
[https://vbpl.vn/TW/Pages/vbpq-toanvan.aspx?ItemID=1891], truy cập ngày 14/03/2023.
12
Bản án số: 18/2018, Toà án Nhân dân Tối cao, Trang Thông tin Điện tử Công bố Bản án, Quyết định của Toà án,
[https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta138625t1cvn/chi-tiet-ban-an], truy cập ngày 13/03/2023.
21
nhóm xác định rằng cụ Đàm mất năm 1945 và không để lại di chúc, cụ Sen mất năm
2007, có để lại hai bản di chúc: bản di chúc đầu tiên vào ngày 19/04/1994 và bản di chúc
sau đó vào ngày 2004, bên cạnh đó, cụ Sen cũng còn có biên bản bàn giao tài sản được
hưởng thừa kế cho bà D vào ngày 20/05/2001. Để nhận định được rằng các bản di chúc
và biên bản bàn giao tài sản của cụ Sen có hiệu lực hay không, nhóm nghiên cứu sẽ xét
từng trường hợp cụ thể dựa trên hai phương diện là về mặt hình thức và về mặt nội dung.

Đầu tiên, căn cứ theo Điều 630 và 631 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì di chúc phải
đảm bảo đầy đủ các điều kiện được quy định mới có thể trở thành di chúc hợp pháp. Xét
bản di chúc của cụ Sen ngày 19/04/2004, bản di chúc này được lập thành văn bản, có
chứng thực của Phòng công chứng nhà nước số 2 tỉnh Hải Hưng, do đó là hoàn toàn phù
hợp với các quy định của pháp luật về mặt hình thức. Tuy nhiên, khi xem xét về mặt nội
dung, cụ Sen đã định đoạt luôn cả phần di sản của cụ Đàm, nhóm nghiên cứu nhận thấy
rằng điều này là hoàn toàn mâu thuẫn với phần di sản đã được xác định trước đó, cụ thể
là phần di sản của cụ Đàm phải được tiến hành chia thừa kế theo pháp luật chứ không thể
được định đoạt bằng di chúc của cụ Sen. Hơn nữa, do sự thay đổi của cơ sở vật chất theo
thời gian (lấp ao, các ngôi nhà không còn niên hạn,…), vị trí và tài sản theo nội dung di
chúc đã không còn phù hợp nên phần nội dung của di chúc này là không rõ ràng, do đó
có thể kết luận rằng bản di chúc này không có hiệu lực ở phần chia di sản của, vì vậy mà
mặt nội dung của bản di chúc này không được đảm bảo.

Kế đến, đối với bản di chúc lập ngày 01/09/2004 của cụ Sen. Theo Điều 634 Bộ
luật Dân sự năm 2015 thì trường hợp người lập di chúc không tự mình viết bản di chúc
thì có thể tự mình đánh máy hoặc nhờ người khác viết hoặc đánh máy bản di chúc, nhưng
phải có ít nhất là hai người làm chứng. Người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản
di chúc trước mặt những người làm chứng; những người làm chứng xác nhận chữ ký,
điểm chỉ của người lập di chúc và ký vào bản di chúc. Cụ Sen là người không biết chữ,
bà D xác nhận rằng bà Sen nhờ cháu viết di chúc, nhưng lại không rõ người cháu ấy là ai,
hơn nữa, mặc dù bản di chúc có chữ ký của hai người làm chứng là ông Phạm Văn Thuật
và ông Phạm Tiến Minh, theo Điều 632 Bộ luật Dân sự năm 2015, hai người này hoàn
toàn đáp ứng đủ các điều kiện để làm chứng cho việc lập di chúc, nhưng khi xác nhận lại
thì lời khai của những người này hoàn toàn mâu thuẫn với nhau và mâu thuẫn với chính
lời khai của những người có liên quan khác. Hơn nữa, theo ông Phạm Văn Vinh (là cháu
ruột của cụ Sen) xác định rằng trước khi mất khoảng 10 năm, tình trạng sức khỏe của cụ
22
Sen yếu, lẩm cẩm, trí óc không còn minh mẫn phù hợp với lời khai của nguyên đơn và
những người có quyền lợi liên quan, mà như vậy thì lại không phù hợp với quy định tại
điểm a khoản 1 Điều 630 Bộ luật Dân sự: “Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong
khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép;”. Với những lý do như trên, nhóm
nghiên cứu xác định rằng, bản di chúc ngày 01/09/2004 không phù hợp về mặt hình thức.
Về mặt nội dung, nhóm nghiên cứu cũng nhận thấy rằng bản di chúc này có nhiều điểm
bất hợp lý, cụ thể là việc giao toàn bộ quyền sử dụng diện tích đất cho bà D, nhưng tại
thời điểm lập di chúc thì ½ diện tích đất nêu trên lại là di sản của cụ Đàm, do vậy việc
định đoạt này của cụ Sen là không hợp lý. Hơn nữa, trong di chúc lại có tên con gái của
cụ Sen là Nguyễn Thị Quỳ, nhưng thực tế thì cụ Sen lại không có người con nào tên là
Quỳ, việc này càng củng cố thêm cho lời khai của ông Vinh, chứng tỏ cụ Sen đã lập di
chúc khi tinh thần không minh mẫn. Từ những nhận xét trên về cả mặt hình thức và nội
dung của bản di chúc ngày 01/09/2004, nhóm nghiên cứu cho rằng bản di chúc này
không có hiệu lực.

Về biên bản bàn giao tài sản ngày 20/05/2001 của cụ Sen, các nhân chứng cho
nhiều luồng thông tin không rõ ràng, thời gian lập biên bản không xác định và điều quan
trọng nhất là biên bản đó không biết do ai viết, bởi vì cụ Sen không biết chữ. Với các dữ
kiện trên, nhóm nghiên cứu cũng xác định rằng biên bản này không tuân thủ quy định của
pháp luật về di chúc và có người làm chứng nên không có giá trị.

Sau khi đã xác định tất cả các di chúc và biên bản có giá trị tương đương nhưng
không thoả mãn các quy định của pháp luật, nhóm nghiên cứu quyết định chia di sản của
cụ Đàm và cụ Sen cho các thừa kế theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, khi tiến hành
chia thì nhận thấy có hai trường hợp cần phải làm rõ là trường hợp của anh Nguyễn Văn
E và trường hợp của chị Nguyễn Thị N, nhóm xin được làm rõ như sau:

Đối với trường hợp của anh Nguyễn Văn E, anh là con trai của ông Bình, nhưng
ông Bình chỉ là em rể của bà D. Mặt khác, khi bà D nhận anh E làm con nuôi (năm 1999)
thì ông Chính lúc bấy giờ đã mất (hy sinh năm 1972). Như vậy, nhóm nghiên cứu kết
luận rằng, anh E không được xem là con chung của hai vợ chồng và không thể là con
nuôi hợp pháp của ông Chính. Ngoài ra, do không có đầy đủ dữ kiện và thông tin chứng
minh rằng bà D đã thực hiện đầy đủ thủ tục nhận anh E làm con nuôi cũng như không thể

23
hiện được quan hệ nuôi dưỡng đối với bố mẹ nuôi nên nhóm nghiên cứu không chấp
nhận việc xem anh E là con nuôi hợp pháp đối với cả bà D.

Về trường hợp của chị Nguyễn Thị N, theo Điều 17 Nghị định số 32/2002/NĐ-CP
ngày 27/3/2002 quy định: “Những trường hợp nhận nuôi con nuôi được xác lập trước
ngày 01 tháng 01 năm 2001, ngày Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 có hiệu lực pháp
luật, mà chưa đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhưng có đủ điều kiện theo
quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 và trên thực tế, quan hệ giữa cha mẹ
nuôi và con nuôi đã được xác lập, các bên đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của
mình, thì được pháp luật công nhận và được Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện
thuận lợi cho việc đăng ký nuôi con nuôi…”, tuy đã xác nhận được chị N là con nuôi
nhưng vẫn chưa thể kết luận là con nuôi hợp pháp bởi vì theo quy định của pháp luật,
người nhận con nuôi phải đăng ký theo quy định, nhưng ở trường hợp này thì ông Chính
đã hy sinh, nếu kết luận ngay là con nuôi không hợp pháp thì sẽ gây ảnh hưởng đến
quyền và lợi ích hợp pháp của chị N vì sau đó, chị vẫn sống với bà D đến khi lấy chồng 13.
Đây là một trường hợp phức tạp vì khi nhận nuôi, cả hai bên (cha, mẹ nuôi và con nuôi)
đều không có giấy tờ gì cho việc xác nhận quan hệ nuôi dưỡng. Vì vậy khi tiến hành chia
thừa kế, nhóm nghiên cứu sẽ làm rõ vấn đề dưới các khía cạnh khác, từ đó có thể đưa ra
nhận định chính xác nhất về mối quan hệ này.

Đầu tiên, nhóm nghiên cứu sẽ xác định xem chị N có phải là con nuôi thực tế hay
không với các dữ kiện như ý kiến của những người dân sống lâu năm tại địa phương về
thực chất mối quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi; ý chí của người nhận nuôi trong
việc nuôi dưỡng, chăm sóc; trách nhiệm của con nuôi đối với cha, mẹ nuôi (khi cha mẹ
nuôi còn sống). Đồng thời làm rõ trách nhiệm chăm sóc của con nuôi đối với cha, mẹ
nuôi khi cha, mẹ nuôi đau ốm (nếu có) 14. Theo đó, nhóm nghiên cứu xác định được thông
tin rằng các nguyên đơn (kể cả những người không có trong hàng thừa kế) đều thừa nhận
việc ông Chính đi bộ đội có nhận chị N làm con nuôi, chị N ở với bà D đến khi đi lấy
chồng. Bên cạnh đó, nhóm nghiên cứu cũng đã xác định rằng chị N là con nuôi thực tế
dựa trên chính sự thừa nhận của các hàng thừa kế. Cụ thể thì trong quá trình xử án của
toà, nhận thấy chị N, vợ chồng bà Dùng, ông Thuật (cô ruột của ông Chính), anh Phạm
13
Bản án số: 18/2018, Toà án Nhân dân Tối cao, Trang Thông tin Điện tử Công bố Bản án, Quyết định của Toà án,
[https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta138625t1cvn/chi-tiet-ban-an], truy cập ngày 13/03/2023.
14
Nguyễn Nam Hưng, Vấn đề con nuôi thực tế và thực tiễn giải quyết “Tranh chấp di sản thừa kế” liên quan đến con
nuôi, Thông tin Pháp luật Dân sự, [https://phapluatdansu.edu.vn/2017/11/30/18/01/van-de-con-nui-thuc-te-v-thuc-
tien-giai-quyet-tranh-chap-di-san-thua-ke-lin-quan-den-con-nui/], truy cập ngày 15/03/2SS023.
24
Văn C và anh Nguyễn Văn B đều xác định trùng khớp về mối quan hệ của chị N và ông
Chính. Hơn nữa, căn cứ vào hồ sơ quân nhân ông Chính khai trước khi nhập ngũ, căn cứ
vào giấy báo tử của ông Nguyễn Văn Chính, nhóm cũng có thể xác định rõ ràng mối
quan hệ con nuôi giữa chị N và ông Chính. Ngoài ra, theo khoản 1 Điều 24 Luật Nuôi
con nuôi năm 2010 thì kể từ ngày giao nhận con nuôi, giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có
đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con; giữa con nuôi và các thành viên khác của
gia đình cha mẹ nuôi cũng có các quyền, nghĩa vụ đối với nhau theo quy định của pháp
luật về hôn nhân và gia đình, pháp luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên
quan. Như vậy, sau khi thừa nhận chị N là con nuôi hợp pháp, thì chị N hoàn toàn có đầy
đủ quyền và nghĩa vụ đối với cha nuôi là ông Chính. Chính vì các lí do trên, nhóm nghiên
cứu xác định chị N là con nuôi thực tế và là con nuôi hợp pháp của ông Chính.

Sau khi đã xác nhận được chị N là con nuôi hợp pháp thì lại phát sinh thêm một
vấn đề khác, chị N còn là con ruột của bà Nguyễn Thị Tấn, mà bà Tấn lại là con chung
của cụ Đàm và cụ Sen. Do đó, khi xét hàng thừa kế để chia di sản, chị N vừa là cháu nội
và vừa là cháu ngoại của cụ Đàm và cụ Sen. Theo Điều 653 Bộ luật Dân sự 2015 quy
định về quan hệ thừa kế giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi và cha đẻ, mẹ đẻ thì con nuôi
và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy
định tại Điều 651 và Điều 652 Bộ luật Dân sự 2015. Thêm vào đó, Điều 651 Bộ luật Dân
sự 2015, quy định: “…Hàng thừa kế thứ nhất: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ
nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết; Hàng thừa kế thứ hai: ông nội, bà nội, ông ngoại,
bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người
chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;…”. Mặc dù vừa là cháu nội, vừa là cháu
ngoại, nhưng chị N vẫn đảm bảo được vị trí trong hàng thừa kế và những mối quan hệ
máu mủ ruột thịt là không bị thay đổi. Chính vì vậy, nhóm nghiên cứu xác định rằng chị
N vẫn có thể hưởng thừa kế thế vị từ phần di sản của ông Chính và của bà Tấn.

Sau khi đã xác định được di sản và các hàng thừa kế, nhóm nghiên cứu tiến hành
chia di sản của cụ Đàm và cụ Sen. Nhận thấy cách chia của Toà hoàn toàn phù hợp,
nhóm nghiên cứu không có ý kiến gì thêm.

2.2. Vấn đề thừa kế thế vị liên quan đến yếu tố con riêng

Theo bản án số 126/2018/DS-PT ngày 10/7/2018 về “Tranh chấp về thừa kế tài sản”
của TAND tỉnh Tây Ninh giữa nguyên đơn gồm ông Trần Văn M, ông Trần Văn L, ông
25
Trần Văn H, bà Trần Kim N và bị đơn là Nguyễn Kim T. Nội dung vụ án như sau: Cụ
Trần Văn S (chết năm 2008) và cụ Trần Thị E (chết năm 2005), có 04 người con chung
gồm: ông Trần Văn M, ông Trần Văn L, ông Trần Văn Đ, bà Trần Kim N, và bà NLQ1
(là con riêng của cụ E và bị tâm thần, được cụ Trần Văn S chăm sóc, nuôi dưỡng từ nhỏ).
Bà NLQ1 có con ruột là chị Lâm Ngọc Y. Trong vụ án này, bà NLQ1 là con riêng của cụ
Trần Thị E và từ nhỏ lại được cụ Trần Văn S và cụ Trần Thị E chăm sóc, nuôi dưỡng thì
có xuất hiện “quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế” theo Điều 654 BLDS
hay không? Vì theo Điều 79 Luật Hôn nhân và gia đình thì bố dượng, mẹ kế và con riêng
của vợ hoặc của chồng xuất hiện “quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế khi
bố dượng, mẹ kế chăm sóc nuôi dưỡng và coi như các con của mình; bố dượng, mẹ kế
được xác định là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất để hưởng di sản của người con
đó; khi con riêng chăm sóc nuôi dưỡng và coi bố dượng, mẹ kế như bố mẹ của mình thì
người con riêng được xác định là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất để hưởng di sản
của bố dượng, mẹ kế khi họ chết”. Tuy nhiên, bà NLQ1 bị tâm thần (không thể chăm sóc
được cho cụ Trần Văn S) nên “quyền, nghĩa vụ của bố dượng, mẹ kế và con riêng của vợ
hoặc của chồng” chỉ xuất phát từ một bên15.

2.2.1 Quan điểm của các cấp Tòa án xét xử vụ việc

Sau khi xử án, Toà án nhân dân tỉnh Tây Ninh đã đưa ra những quyết định sau:16
Chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn – bà Nguyễn Kim T và người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan – anh NLQ2.
Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn: ông Trần Văn M, Trần Văn L, Trần
Văn H và bà Trần Kim N.
Sửa một phần bản án sơ thẩm.
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn về việc chia di sản
thừa kế của cụ Trần Văn S (Sông) và cụ Nguyễn Thị Lên.
2. Không chấp nhận yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu theo yêu cầu
khởi kiện ngày 19/10/2016 của ông Trần Văn M.
Tiến hành chia di sản thừa kế theo di chúc và theo pháp luật.

15
Nguyễn Thành Minh Chánh, Trần Quốc Khiết, Thừa kế thế vị có yếu tố con nuôi, con riêng, Nghiên cứu lập pháp,
[http://www.lapphap.vn/Pages/TinTuc/211427/Thua-ke-the-vi-co-yeu-to-con-nuoi--con-rieng.html], truy cập ngày
20/2/2023.
16
Bản án số: 18/2018, Toà án Nhân dân Tối cao, Trang Thông tin Điện tử Công bố Bản án, Quyết định của Toà án,
[https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta138625t1cvn/chi-tiet-ban-an], truy cập ngày 13/03/2023.
26
2.2.2. Quan điểm của nhóm nghiên cứu về tranh chấp

Nhận thấy bản án số 126/2018/DS-PT ngày 10/7/2018 tính chất tương tự như bản
án số 18/2018/DS-PT ngày 18/07/2018 của Toà án nhân dân tỉnh Hưng Yên. Tuy nhiên,
nhóm nghiên cứu cho rằng đối với trường hợp của bà NLQ1 là còn nhiều vướng mắc. Cụ
thể thì bà NLQ1 là con riêng của cụ E nhưng cụ S và cụ E đứng tên đăng ký giấy khai
sinh nên bà được xem là con hợp pháp. Thế nhưng, bà NLQ1 lại được xác định là bị bệnh
tâm thần17, qua đó cho thấy bà không còn năng lực hành vi dân sự, vậy thì bà có thực sự
được xem là con hợp pháp của cụ S và cụ E hay không? Vì các lí do kể trên, nhóm
nghiên cứu xác định rằng, rất có thể quyền và lợi ích hợp pháp của chị Lâm Ngọc Y sẽ bị
ảnh hưởng nếu thực sự bà NLQ1 được xác định là con hợp pháp của cụ S và cụ E. Do đó
nhóm nghiên cứu sẽ tập trung làm rõ mối quan hệ giữa cụ S, cụ E và bà NLQ1.
Đầu tiên, nhóm nghiên cứu sẽ xem xét mối quan hệ giữa cụ S và cụ E, hai cụ được
xác định là vợ chồng, có 4 người con chung. Như vậy, mối quan hệ vợ chồng này hoàn
toàn phù hợp theo pháp luật. Tiếp đến, cụ S và cụ E đã đứng tên trên giấy khai sinh cho
bà NLQ1, theo điểm a khoản 1 Điều 5 của Luật Nuôi con nuôi 1010 thì thứ tự ưu tiên lựa
chọn gia đình thay thế được thực hiện theo quy định sau đây: cha dượng, mẹ kế, cô, cậu,
dì, chú, bác ruột của người được nhận làm con nuôi;… Sau khi cụ S thực hiện việc đăng
ký khai sinh và chấp nhận bà NLQ1 là con với danh nghĩa là cha dượng trên giấy khai
sinh, mối quan hệ giữa bà NLQ1 và cụ S đã trở thành cha con hợp pháp. Bên cạnh đó,
mặc dù bà NLQ1 được xác định là bị bệnh tâm thần từ nhỏ, căn cứ khoản 2 Điều 69 Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì nghĩa vụ và quyền của cha mẹ bao gồm việc trông
nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên, con
đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có
tài sản để tự nuôi mình, thực tế thì cụ S và cụ E đã chăm sóc, nuôi dưỡng bà NLQ1 từ bé,
khi mà bà đã không còn năng lực hành vi dân sự. Thế nhưng, nếu quan hệ nuôi dưỡng chỉ
xuất phát từ một bên thì có xem là cha con, mẹ con không?
Theo Điều 79 Luật Hôn nhân và gia đình thì bố dượng, mẹ kế và con riêng của vợ
hoặc của chồng xuất hiện “quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế khi bố
dượng, mẹ kế chăm sóc nuôi dưỡng và coi như các con của mình; bố dượng, mẹ kế được
xác định là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất để hưởng di sản của người con đó; khi

17
Bản án số: 126/2018, Toà án Nhân dân Tối cao, Trang Thông tin Điện tử Công bố Bản án, Quyết định của Toà án,
[https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta217894t1cvn/chi-tiet-ban-an], truy cập ngày 16/03/2023.
27
con riêng chăm sóc nuôi dưỡng và coi bố dượng, mẹ kế như bố mẹ của mình thì người
con riêng được xác định là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất để hưởng di sản của bố
dượng, mẹ kế khi họ chết”. Tuy nhiên, bà NLQ1 bị tâm thần (không thể chăm sóc được
cho cụ Trần Văn S) nên “quyền, nghĩa vụ của bố dượng, mẹ kế và con riêng của vợ hoặc
của chồng” chỉ xuất phát từ một bên18. Ngoài ra, ờ khoản 2 Điều 71 Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2014 cũng đã quy định rằng con có nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng
cha mẹ, đặc biệt khi cha mẹ mất năng lực hành vi dân sự, ốm đau, già yếu, khuyết tật;
trường hợp gia đình có nhiều con thì các con phải cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng cha
mẹ. Theo nhóm nghiên cứu thì vẫn có thể chấp nhận được mối quan hệ đơn phương này,
bởi vì việc không thể thực hiện theo Điều 71 Luật Hôn nhân và đình năm 2010 nêu trên
không bắt nguồn từ sự cố ý của bà NLQ1, bà không thể thực hiện được hoàn toàn là do
nguyên nhân khách quan, do đó không thể kết luận rằng bà có nguyện vọng hay ý chí liên
quan đến việc không thực hiện nghĩa vụ của con đối với cha mẹ, chỉ trừ trường hợp sau
này nếu bà NLQ1 đã được điều trị hết bệnh và toà rút lại quyết định.
Với các lí do trên, có thể xem mối quan hệ giữa bà NLQ1 với cụ S và cụ E là con
hợp pháp. Như vậy, nhóm nghiên cứu nhận định rằng, bà NLQ là con hợp pháp và được
xếp vào hàng thừa kế thứ nhất của cụ S và cụ E, do đó sẽ được hưởng di sản theo di chúc
và theo quy định của pháp luật.
Sau khi đã xác định được bà NLQ1 là con hợp pháp của cụ S và cụ E, chị Lâm
Ngọc Y mặc nhiên cũng sẽ trở thành cháu ngoại của cụ S và cụ E. Do đó, theo ý kiến của
nhóm nghiên cứu, việc bà NLQ1 mất trước hoặc cùng lúc với cụ S và cụ E sẽ không ảnh
hưởng đến tư cách thừa kế thế vị của chị Lâm Ngọc Y.
Sau khi đã xác định được di sản và các hàng thừa kế, nhóm nghiên cứu tiến hành
chia di sản của cụ S và cụ E. Nhận thấy cách chia của Toà hoàn toàn phù hợp, nhóm
nghiên cứu không có ý kiến gì thêm.

2.3. Bất cập và kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật hiện hành

2.3.1. Bất cập và kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật hiện hành liên quan
đến vấn đề thừa kế thế vị giữa con nuôi, cha nuôi, mẹ nuôi

2.3.1.1. Bất cập

18
“Nghiên cứu Lập pháp”, Số 17 (465), Kỳ 1 – Tháng 09/2022, tr.38.
28
Vấn đề thừa kế thế vị liên quan đến con nuôi được quy định tại Điều 653 BLDS
năm 2015: “ Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế di sản của nhau và còn được
thừa kế di sản theo quy định tại điều 651 và 652 của Bộ luật này”. Quy định này còn khá
chung chung dẫn đến còn nhiều vướng mắc khác nhau khi áp dụng vào thực tiễn, cụ thể
có thể thấy được hai vướng mắc chính:

Thứ nhất, về tính hợp pháp của người con nuôi trong thừa kế thế vị. Khi người con
đẻ của người để lại di sản chết trước hoặc chết cùng lúc với người để lại di sản, thì người
con nuôi của người con đẻ của người để lại di sản có được hưởng thừa kế thế vị hay
không? Khi con nuôi của người để lại di sản chết trước hoặc chết cùng lúc với người để
lại di sản, thì con đẻ của người con nuôi đó có được hưởng thừa kế thế vị không? Khi con
nuôi của người để lại di sản chết trước hoặc chết cùng lúc với người để lại di sản, nếu
người con nuôi không có con đẻ, chỉ có con nuôi thì người con đó có được hưởng thừa kế
thế vị hay không? Nếu người con nuôi có cả con đẻ lẫn con nuôi thì việc thế vị như thế
nào?

Thứ hai, về sự không nhất quán giữa nội dung và tiêu đề của Điều luật 653 BLDS
năm 2015. Cụ thể, nội dung Điều 653 BLDS năm 2105 chỉ thể hiện quan hệ thừa kế giữa
“con nuôi, cha nuôi và mẹ nuôi” nhưng không có nội dung đề cập đến “cha đẻ, mẹ đẻ”
trong khi tiêu đề của điều luật lại thể hiện “Quan hệ thừa kế giữa con nuôi và cha nuôi,
mẹ nuôi và cha đẻ, mẹ đẻ”.

2.3.1.2. Kiến nghị

Thứ nhất, về trường hợp thừa kế thế vị có yếu tố con nuôi. Hiện nay, có nhiều ý
kiến khác nhau về yếu tố con nuôi trong thừa kế thế vị. Theo quan điểm của Phạm Văn
Tuyết và Lê Kim Giang, “việc thế vị là mối liên hệ giữa hai bên, một bên được gọi là
người được thế vị (gồm cha hoặc mẹ đẻ), một bên được gọi là người thế vị (gồm các con
đẻ), tức là giữa họ phải có quan hệ huyết thống trực hệ (chỉ có con đẻ thay thế vị trí của
cha, mẹ đẻ)”19. Còn theo quan điểm của Nguyễn Văn Cừ và Trần Thị Huệ cũng cho rằng.
thừa kế thế vị xuất hiện “giữa họ phải có quan hệ huyết thống trực hệ (chỉ có con đẻ thay
thế vị trí của cha, mẹ đẻ)” 20, tức là yếu tố con nuôi trong thừa kế thế vị không xuất hiện
trong thừa kế thế vị vì con nuôi của một người không thể trở thành cháu nuôi của người
19
Phạm Văn Tuyết, Lê Kim Giang (2017), Pháp luật về thừa kế và thực tiễn giải quyết tranh chấp, Nxb. Tư pháp,
Hà Nội, tr. 323.
20
Nguyễn Văn Cừ, Trần Thị Huệ (2017), Bình luận về khoa học Bộ luật Dân sự 2015, Nxb. Công an nhân dân, tr.
1011.
29
khác. Mặt khác, kể từ khi BLDS năm 1995 ra đời đến BLDS năm 2005 và nay là BLDS
năm 2015, vẫn chưa có văn bản nào hướng dẫn cụ thể về trường hợp thừa kế kế vị có yếu
tố con nuôi, nên Nghị quyết 02/HĐPT21 chỉ mang tính chất tham khảo do nghị quyết này
đã ra đời hơn 30 năm và không còn phù hợp với xu thế chung của pháp luật hiện đại để
bảo vệ tốt hơn quyền lời của người dân.

Nhóm nghiên cứu cho rằng, các quan điểm trên về mặt lý luận chưa được thuyết
phục vì khi áp dụng phương pháp phân tích câu chữ để tìm ra ý chí người làm luật, thì
theo Điều 652 BLDS năm 2015: “Trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc
cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc
mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời
điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt
được hưởng nếu còn sống”, quy định này chỉ đề cập đến “cha hoặc mẹ” của cháu chứ
không phân biệt cha đẻ hoặc mẹ đẻ, cha nuôi hoặc mẹ nuôi nên nhóm nghiên cứu suy
luận rằng cả hai đều thuộc diện thừa kế thế vị. Sự suy luận này được củng cố thêm bởi
quy định tại điều 653 BLDS năm 2015: “Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế di
sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 651 và Điều 652 của Bộ
luật này”. Thêm vào đó, khi bàn về “cháu”, nếu các nhà làm luật muốn giới hạn cháu
được hưởng di sản theo quy định tại điểm b và c khoản 1 Điều 651 BLDS năm 2015 về
hàng thừa kế thứ hai và thứ ba thì ở đây họ sẽ nêu rõ là “cháu ruột”, tuy nhiên họ chỉ đề
cập đến “cháu”. Do đó, có thể hiều rằng các nhà làm luật đã không giới hạn trường hợp
thừa kế thế vị của cháu theo hàng thứ hai và thứ ba. Đồng thời, dựa trên cơ sở nguyên tắc
bình đẳng được thừa nhận như một nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam: “Mọi cá
nhân, pháp nhân đều bình đẳng, không được lấy bất kỳ lý do nào để phân biệt đối xử;
được pháp luật bảo hộ như nhau về các quyền nhân thân và tài sản”, có thể áp dụng như
một nguyên tắc cơ bản của pháp luật thừa kế: “Mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền để
lại tài sản của mình cho người khác và quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp
luật”. Cho nên, nhóm nghiên cứu khẳng định thừa kế thế vị phải bao gồm cả con (con đẻ
và con nuôi) của con đẻ và con (con đẻ và con nuôi) của con nuôi của người để lại di sản
được hưởng thừa kế thế vị. Do đó, cần phải có quy định: “Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi
được hưởng di sản thừa kế của nhau theo Điều 651 của BLDS. Trong trường hợp người
21
Nghị Quyết của Hội Đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân tối cao số 02/HĐTP ngày 19 tháng 10 năm 1990 hướng
dẫn áp dụng một số quy định của pháp lệnh thừa kế, [https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Thu-tuc-To-tung/Nghi-
quyet-02-HDTP-Ap-dung-quy-dinh-cua-phap-lenh-thua-ke-42168.aspx], 16/03/2023
30
con nuôi chết trước hoặc chết cùng thời điểm với cha nuôi, mẹ nuôi thì chỉ có con đẻ, con
nuôi của người con nuôi được thừa kế thế vị theo quy định tại Điều 652 BLDS”

Thứ hai, nhóm nghiên cứu đề xuất cần phải chỉnh sửa lại tiêu đề tại Điều 653
BLDS năm 2015 cho phù hợp với nội dung, tạo được sự thống nhất chặt chẽ hoặc cũng
có thể bổ sung thêm nội dung của điều luật có liên quan đến “cha đẻ, mẹ đẻ” để tạo sự
thống nhất với tiêu đề.

2.3.2. Bất cập và kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật hiện hành liên quan
đến vấn đề thừa kế kế vị giữa con riêng đối với bố dượng, mẹ kế.

2.3.1.1. Bất cập

Vấn đề thừa kế thế vị liên quan đến con riêng được quy định tại Điều 654 BLDS
năm 2015: “Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau
như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo
quy định tại Điều 652 và Điều 653 của Bộ luật này”. Dựa vào điều này, để được hưởng
quyền thừa kế di sản giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế thì pháp luật quy định giữa họ
phải có quan hệ chăm sóc nhau như cha con, mẹ con. Tuy nhiên, khi áp dụng vào trong
thực tiễn để giải quyết các trường hợp cụ thể thì có nhiều cách hiểu khác nhau dẫn đến
không có sự thống nhất trong việc xác định được mối quan hệ “chăm sóc nhau như cha
con, mẹ con” như thế nào, cũng như chưa có tiêu chí nào để đánh giá là có sự chăm sóc,
nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con. Cụ thế, có một số bất cập phổ biến và đáng làm rõ
như:

Thứ nhất, thời gian chăm sóc, nuôi dưỡng lẫn nhau giữa con riêng và bố dượng,
mẹ kế là bao lâu để được coi như là có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con,
mẹ con? Giả sử như người con riêng thực sự yêu thương, quan tâm bố dượng, mẹ kế
nhưng chỉ vài tháng trước khi bố dượng, mẹ kế chết thì người con riêng có được hưởng
thừa kế thế vị hay không? Một ví dụ khác, người con riêng đã quan tâm, chăm sóc bố
dượng, mẹ kế trong thời gian dài nhưng vì công việc, cuộc sống cá nhân không còn sống
chung để chăm sóc, phụng dưỡng thì sau khi bố dượng, mẹ kế chết thì người con riêng có
được hưởng thừa kế thế vị hay không?

Thứ hai, việc chăm sóc có nhất thiết phải là quan hệ hai bên, có qua có lại hay chỉ
từ một phía ? Liệu nếu như một bên chỉ thể hiện hành vi chăm sóc, nuôi dưỡng nhưng

31
tình cảm giữa họ không như cha con, mẹ con thì họ có được hưởng thừa kế thế vị hay
không?

Thứ ba, việc xác định hàng thừa kế sau khi đã xác định được quan hệ chăm sóc,
nuôi dưỡng như cha con, mẹ con ? Thuộc hàng thừa kế thứ mấy nếu đối chiếu với Điều
651 Khoản 1 BLDS năm 2015 về người thừa kế theo pháp luật?

2.3.1.2. Kiến nghị

Thứ nhất, về vấn đề làm thế nào để xác định mối quan hệ “chăm sóc như cha con,
mẹ con” và mối quan hệ bắt buộc từ một phía hay hai phía để xác định được quyền thừa
kế hợp pháp của con riêng, cha dượng hay mẹ kế. Quan hệ thừa kế giữa con riêng và cha
dượng, mẹ kế phát sinh dựa trên cơ sở nuôi dưỡng, chăm sóc nhau như cha con, mẹ con.
Tuy nhiên, để hiểu rõ “chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con” là như thế nào
thì chưa có văn bản pháp luật nào hướng dẫn một cách cụ thể. Do đó, nhóm nghiên cứu
cho rằng pháp luật cần phải phải có các điều luật ghi nhận các tiêu chí để đánh giá việc
chăm sóc, nuôi dưỡng giữa con riêng với cha dượng, mẹ kế tương tự như quyền và nghĩa
vụ của con đẻ với cha đẻ, mẹ đẻ hoặc cần ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Điều
654 BLDS năm 2015 về trường hợp thế nào là “chăm sóc như cha con, mẹ con”. Cụ thể,
con riêng và cha dượng, mẹ kế chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con khi giữa
họ thể hiện những hành vi được quy định tại các điều 69, 70, 71 và 72 của Luật Hôn nhân
và gia đình năm 201422. Theo đó, cha dượng, mẹ kế có quyền và nghĩa vụ yêu thương,
chăm sóc, nuôi dưỡng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con riêng, chăm lo cho việc
học tập và giáo dục con phát triển lành mạnh về thế chất, trí tuệ, đạo đức,… cha, mẹ
không được phân biệt đối xử giữa các con, không ngược đãi, hành hạ, xúc phạm con, …;
ngược lại, con riêng có bổn phận yêu quý, kính trọng, hiếu thảo với cha dượng, mẹ kế, có
quyền và nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc cha mẹ, không được ngược đãi, hành hạ, xúc
phạm cha mẹ, …Nếu trường hợp con riêng hoặc cha dượng hoặc mẹ kế mắc các khiếm
khuyết trên cơ thể, khiếm khuyết trí tuệ, không thể tự chăm sóc bản thân được, nếu như
con riêng hoặc cha dượng hoặc mẹ kế vẫn thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ yêu
thương, chăm sóc, nuôi dưỡng với người bị khiếm khuyết thì xác định họ có quan hệ
chăm sóc như cha con, mẹ con dù chỉ xuất phát từ một bên,… Đồng thời, nhóm nghiên
cứu cũng cho rằng pháp luật cũng cần quy định việc chăm sóc, nuôi dưỡng lẫn nhau giữa
22
Chương V, Luật Hôn nhân và gia đình (2014), [https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Quyen-dan-su/Luat-Hon-nhan-
va-gia-dinh-2014-238640.aspx], 16/03/2023
32
con riêng và cha dượng, mẹ kế không phụ thuộc vào nơi cư trú của các thành viên trong
gia đình. Có rất nhiều trường hợp người con riêng ở xa do hoàn cảnh cuộc sống và công
việc nhưng vẫn luôn quan tâm, thế hiện được tình cảm yêu thương lẫn nhau và có những
hành động giúp đỡ cho cha dượng, mẹ kế bằng cách gửi tiền cũng như các loại vật chất
khác, do đó để xác định mối quan hệ như cha con, mẹ con không nhất thiết cần điều kiện
phải sống cùng chung dưới một mái nhà.

Thứ hai, về vấn đề xác định hàng thừa kế sau khi đã xác định được quan hệ chăm
sóc như cha con, mẹ con. Có một quan điểm cho rằng: “thừa kế thế vị có yếu tố con riêng
với cha dượng, mẹ kế là trường hợp đặc thù của đối tượng trong hàng thừa kế, nên xem
xét họ là người thuộc hàng thừa kế thứ nhất, bởi lúc này là họ nhận di sản từ chính cha
dượng, mẹ kế nên chỉ cần họ có chăm sóc, nuôi dưỡng nhau thì việc thừa kế sẽ được thực
hiện như những trường hợp bình thường. Đây cũng là giải pháp trong thực tiễn xét xử và
hoàn toàn hợp lý: nên coi họ như con đẻ, con nuôi của người chết, do đó họ được hưởng
thừa kế của nhau ở hàng thừa kế thứ nhất” 23. Nhóm nghiên cứu hoàn toàn đồng ý với
quan điểm này: thừa nhận quyền thừa kế thế vị ở hàng thừa kế thứ nhất theo khoản 1
Điều 651 BLDS năm 2015 của con riêng, bố dượng, mẹ kế khi đã xác định được quan hệ
chăm sóc, nuôi dưỡng như cha con, mẹ con từ hai phía hoặc từ một phía và con hoặc
cháu của người con riêng cũng được thừa kế tài sản theo quy định tại Điều 652 của
BLDS năm 2015, có như vậy mới nâng tính hợp lí và thuyết phục phù hợp với thực tiễn
xét xử.

23
Đỗ Quang Đại (2016), Luật thừa kế Việt Nam, (Bản án và bình luận bản án) – Tập 1, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật
gia Việt Nam, Hà Nội, tr.465.
33
PHẦN KẾT LUẬN

Quyền để lại di sản và quyền thừa kế là những quyền cơ bản của công dân và được
pháp luật ghi nhận. Trong bất kỳ xã hội nào, vấn đề thừa kế cũng chiếm vị trí quan trọng
trong hệ thống pháp luật và bản thân nó cũng phản ánh phần nào bản chất của chế độ xã
hội đó. Vấn đề này được phát triển từ những thời kì đầu khi hình thành pháp luật và được
tiếp tục kế thừa, xây dựng ngày càng hoàn thiện hơn trong những giai đoạn sau. Tuy
nhiên, trong bối cảnh hiện nay, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra như vũ bão
cùng với tác động của toàn cầu hóa khiến cho nhiều quan hệ xã hội bị xáo trộn hoặc phát
sinh quan hệ mới đòi hỏi phải có quy phạm pháp luật phù hợp để điều chỉnh. Các quy
định về thừa kế theo pháp luật đã phần nào phát huy được hiệu quả điều chỉnh nhưng vẫn
còn có nhiều điểm hạn chế, cần sửa đổi bổ sung để phù hợp với thực tiễn. Đề tài về thừa
kế thế vị là một trong những quyền lợi chính đáng của các thân nhân người chết được
hưởng những di sản mà người đó để lại. Những quy định về thừa kế thế vị nói chung
hoặc trong bất cứ lĩnh vực nào nói riêng việc sai sót và bất cập là không thể tránh khỏi.
Mong rằng sau khi nhóm nghiên cứu tìm ra những điểm bất cập và góp ý bộ luật sẽ ngày
càng hoàn thiện và thực tế hơn.

TP. Hồ Chí Minh, ngày tháng năm

GIẢNG VIÊN PHỤ TRÁCH

Cao Hồng Quân

34
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT


1. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Bộ luật Lao động (Bộ luật
số: 45/2019/QH14) ngày 20 tháng 11 năm 2019, Hà Nội.
2. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Bộ luật Dân sự (Luật số:
91/2015/QH13) ngày 24 tháng 11 năm 2015, Hà Nội.
3. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật Hôn nhân và Gia đình
(Luật số: 52/2014/QH13) ngày 19 tháng 06 năm 2014, Hà Nội.
4. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật Đất đai (Luật số:
45/2013/QH13) ngày 29 tháng 11 năm 2013, Hà Nội.
5. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật Nhà ở (Luật số:
65/2014/QH13) ngày 25 tháng 11 năm 2014, Hà Nội.
6. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật Nuôi con nuôi (Luật
số: 52/2010/QH12) ngày 17 tháng 06 năm 2010, Hà Nội.
7. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật Tiêu chuẩn và Quy
chuẩn kỹ thuật (Luật số: 68/2006/QH11) ngày 29 tháng 06 năm 2006.
8. Hội đồng Thẩm phán Toà án Nhân dân Tối cao, Nghị quyết 02/HĐTP Hướng dẫn
áp dụng một số quy định của pháp lệnh thừa kế
9. Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nghị định 155/2016-NĐ-
CP Quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực môi trường, Hà Nội.
10. Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nghị định
số 180/2007/NĐ-CP Hướng dẫn chi tiết và quy định một số điều liên quan đến
Luật, Hà Nội.
B. TÀI LIỆU THAM KHẢO KHÁC
11. Bài tập tham Bài tập thừa kế, Studocu,
[https://www.studocu.com/vn/document/truong-dai-hoc-duy-tan/phap-luat-dai-
cuong/bai-tap-thua-ke-bai-tap/50643537], truy cập ngày 17/03/2023.
12. Bài tập tham khảo về thừa kế môn Pháp luật Việt Nam đại cương, Studocu,
[https://www.studocu.com/vn/document/truong-dai-hoc-su-pham-thanh-pho-ho-
chi-minh/phap-luat/bai-tap-thua-ke-grade-10/21386447],

35
truy cập ngày 17/03/2023.
13. Bản án số: 126/2018, Toà án Nhân dân Tối cao, Trang Thông tin Điện tử Công bố
Bản án, Quyết định của Toà án,
[https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta217894t1cvn/chi-tiet-ban-an], truy cập ngày
16/03/2023.
14. Bản án số: 18/2018, Toà án Nhân dân Tối cao, Trang Thông tin Điện tử Công bố
Bản án, Quyết định của Toà án,
[https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta138625t1cvn/chi-tiet-ban-an], truy cập ngày
13/03/2023.
15. Nguyễn Ngọc Điện (2001), Bình luận khoa học về tài sản trong luật dân sự Việt
Nam, Nxb. Trẻ.
16. Nguyễn Văn Cừ, Trần Thị Huệ (2017), Bình luận về khoa học Bộ luật Dân sự
2015, Nxb. Công an nhân dân, tr. 1011.
17. Hoàng Lê Khánh Linh, Chia thừa kế theo quy định Bộ luật dân sự 2015? Thủ tục
khởi kiện đòi chia thừa kế?, [https://luatminhkhue.vn/chia-thua-ke-theo-quy-dinh-
bo-luat-dan-su-2015.aspx], truy cập ngày 17/03/2023.
18. Đỗ Quang Đại (2016), Luật thừa kế Việt Nam, (Bản án và bình luận bản án) – Tập
1, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, Hà Nội, tr.465.
19. “Nghiên cứu Lập pháp”, Số 17 (465), Kỳ 1 – Tháng 09/2022, tr.38.
20. Phạm Văn Tuyết, Lê Kim Giang (2017), Pháp luật về thừa kế và thực tiễn giải
quyết tranh chấp, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tr. 323.
21. Phạm Công Lạc (2006), Quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề, Nxb. Tư
pháp.
22. Nguyễn Ngọc Điện (2011), Một số vấn đề bị bỏ quên – liên quan đến chế độ sở
hữu trong BLDS năm 2005, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 5.
23. Quy định về sở hữu chung và sở hữu chung trong thừa kế, Sở Tư pháp Thừa Thiên
Huế, [https://stp.thuathienhue.gov.vn/?gd=12&cn=82&tc=6602], truy cập ngày
17/03/2023.
24. Phạm Kim Oanh, Quy định thừa kế theo pháp luật như thế nào?
[https://luathoangphi.vn/quy-dinh-thua-ke-theo-phap-luat-nhu-the-nao/
#:~:text=Theo%20từ%20điển%20Tiếng%20Việt,luôn%20gắn%20với%20sở
%20hữu], truy cập ngày 17/03/2023.

36
25. Công ty Luật Quốc tế DSP, Thừa kế chuyển tiếp là gì? Phân biệt thừa kế chuyển
tiếp và thừa kế thế vị,
[https://dsplawfirm.vn/thua-ke-chuyen-tiep-la-gi-phan-biet-thua-ke-chuyen-tiep-
va-thua-ke-the-vi/], truy cập ngày 17/03/2023.
26. Nguyễn Thành Minh Chánh, Trần Quốc Khiết, Thừa kế thế vị có yếu tố con nuôi,
con riêng, Nghiên cứu lập pháp,
[http://www.lapphap.vn/Pages/TinTuc/211427/Thua-ke-the-vi-co-yeu-to-con-
nuoi--con-rieng.html], truy cập ngày 20/2/2023.
27. Thừa kế thế vị theo quy định của pháp luật dân sự, Tạp chí Toà án nhân dân điện
tử, [https://tapchitoaan.vn/thua-ke-the-vi-theo-quy-dinh-cua-phap-luat-dan-su],
truy cập ngày 17/03/2023.
28. Thừa kế thế vị và vấn đề chia di sản thừa kế thế vị, Sở Tư pháp Thừa Thiên Huế,
[https://stp.thuathienhue.gov.vn/?gd=12&cn=82&tc=7139], truy cập ngày
17/03/2023.
29. Nguyễn Nam Hưng, Vấn đề con nuôi thực tế và thực tiễn giải quyết “Tranh chấp
di sản thừa kế” liên quan đến con nuôi, Thông tin Pháp luật Dân sự,
[https://phapluatdansu.edu.vn/2017/11/30/18/01/van-de-con-nui-thuc-te-v-thuc-
tien-giai-quyet-tranh-chap-di-san-thua-ke-lin-quan-den-con-nui/], truy cập ngày
15/03/2SS023.

37

You might also like