You are on page 1of 19

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.

HCM
KHOA: CHÍNH TRỊ VÀ LUẬT


TIỂU LUẬN
MÔN HỌC: PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG
QUYỀN NHÂN THÂN VỀ HÌNH ẢNH TRONG LUẬT DÂN SỰ

NHÓM SVTH MSSV


Nguyễn Lê Gia Mẫn 21131142
Đinh Khánh Phương 21131085
Vũ Minh Nghĩa 21131193
Nguyễn Tiểu Ngọc 21131195
Nguyễn Đức An 22144233
Đinh Hữu Bằng 20143082

GVHD: ThS. Nguyễn Thị Tuyết Nga


MÃ LHP: GELA220405_22_2_28

Tp.Hồ Chí Minh, tháng 5 năm 2023

1
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU.......................................................................................................................3

1. Lí do chọn đề tài............................................................................................................3

2. Mục tiêu nghiên cứu......................................................................................................3

3. Phương pháp nghiên cứu...............................................................................................3

4. Bố cục đề tài..................................................................................................................3

PHẦN NỘI DUNG...................................................................................................................4

CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN HÌNH ẢNH.........................................4

1.1. Khái niệm, đặc điểm của quyền nhân thân:................................................................4

1.2. Khái niệm, đặc điểm của hình ảnh của cá nhân:.........................................................7

1.3. Quy định của pháp luật về quyền hình ảnh của cá nhân:............................................8

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG QUY ĐỊNH VỀ QUYỀN HÌNH ẢNH CÁ


NHÂN CỦA VIỆT NAM....................................................................................................11

2.1 Thực trạng việc áp dụng các quy định của pháp luật việt nam về quyền nhân thân
đối với hình ảnh cá nhân hiện nay...................................................................................11

2.2. Các vụ việc thực tế xâm phạm quyền hình ảnh........................................................13

2.3. Một số kiến nghị để hoàn thiện pháp luật về quyền nhân thân của cá nhân đối với
hình ảnh...........................................................................................................................16

PHẦN KẾT LUẬN.................................................................................................................18

TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................................19

2
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Con người luôn là trung tâm, là mục tiêu hướng đến đầu tiên của quá trình phát triển, do đó,
song song với việc phát triển về mọi mặt của xã hội thì vấn đề con người cũng ngày càng
được tôn trọng và bảo vệ. Quyền nhân thân là một nhóm quyền cơ bản và quan trọng của
công dân trong quan hệ dân sự. Đặc biệt trong xã hội ngày nay, khi mà cuộc sống đã no đủ,
khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển thì nhu cầu được bảo vệ các quyền nhân thân của cá
nhân ngày càng trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Trong đó, quyền nhân thân về hình ảnh là
một trong những vấn đề nổi bật và được quan tâm nhiều nhất.
Các quyền nhân thân của cá nhân không phải là vấn đề mới mẻ trong pháp luật cũng như
trong lĩnh vực nghiên cứu. Với sự bùng nổ của công nghệ, Internet, các thiết bị điện tử, các
vi phạm về quyền nhân thân về hình ảnh ngày càng diễn ra thường xuyên và phổ biến. Bất kì
ai cũng có thể trở thành nạn nhân của việc xâm phạm hình ảnh cá nhân. Chính vì vai trò to
lớn của quyền nhân thân về hình ảnh trong xã hội Việt Nam hiện nay, nhóm em đã chọn đề
tài: “Quyền nhân thân về hình ảnh trong luật Dân sự Việt Nam”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của tiểu luận là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, thực trạng quy định
pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật về quyền nhân thân về hình ảnh trong luật
Dân sự Việt Nam. Trên cơ sở đó, rút ra các bài học và đề xuất giải pháp về quyền nhân thân
về hình ảnh trong thực tiễn.
3. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin. Trong quá trình thực hiện đề tài,
chúng em cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như sau: phương pháp logic,
phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp điều tra
xã hội học.
4. Bố cục đề tài
Tiểu luận được trình bày với nội dung gồm 3 chương chính:
Chương 1: Khái quát chung về quyền hình ảnh của cá nhân.
Chương 2: Thực trạng áp dụng quy định về quyền hình ảnh cá nhân của Việt Nam.
Chương 3: Một số kiến nghị để hoàn thiện pháp luật về quyền nhân thân của cá nhân đối với
hình ảnh.

3
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN HÌNH ẢNH
1.1. Khái niệm, đặc điểm của quyền nhân thân:
1.1.1. Khái niệm của quyền nhân thân:
Quyền nhân thân của cá nhân gắn liền với khía cạnh tinh thần của đời sống ngày nay đã
được pháp luật ghi nhận và bảo vệ như quyền công dân. Mặc dù thuật ngữ “quyền nhân
thân” được đưa ra tương đối gần đây trong lịch sử lập pháp của nước ta, nhưng Bộ luật Dân
sự Việt Nam năm 1995 đã đánh dấu một thời điểm quan trọng trong sự tiến bộ của quyền
con người bằng cách xác định các quyền nhân thân. Nó quy định rằng các quyền nhân thân
của một cá nhân không thể được chuyển giao cho người khác, trừ khi được quy định bởi
pháp luật. Ngoài ra, không ai được lạmt dụng quyền nhân thân của mình xâm phạm lợi ích
của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.
Một thành tựu chưa từng có đã đạt được trong việc quy định các quyền nhân thân của một cá
nhân thông qua một hệ thống toàn diện gồm 20 điều luật. Bộ luật Dân sự năm 1995 đã góp
phần to lớn vào việc ổn định các quan hệ dân sự, đặc biệt là các quan hệ nhân thân. Điều này
đã trao quyền cho các cá nhân với các phương tiện pháp lý hiệu quả để bảo vệ các quyền và
lợi ích hợp pháp của họ. Tuy nhiên, trước bối cảnh xã hội phát triển nhanh chóng, các quan
hệ dân sự ngày càng trở nên phức tạp, đặc biệt trong thế giới ngày nay, nơi các giá trị tinh
thần ngày càng có ý nghĩa quan trọng hơn trong cuộc sống cá nhân.
Quyền nhân thân được quy định trong BLDS 1995 là chưa đầy đủ so với thực tiễn dẫn đến
sự cần thiết phải sửa đổi, bổ sung. Sự ra đời của BLDS 2005 đã tiếp thu các quy định về
nhân thân từ các bộ luật trước, với Điều 24 quy định cụ thể quyền nhân thân là “quyền dân
sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao nếu pháp luật không quy định”. Nghị
quyết 03/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao nêu rõ tổ chức
cũng có thể bị tổn hại về uy tín, uy tín và phải bồi thường. Điều này cho thấy quyền nhân
thân không chỉ giới hạn đối với cá nhân mà có thể mở rộng đối với pháp nhân và các chủ thể
khác. Mặc dù có nhiều văn bản pháp luật khác nhau nhưng khái niệm quyền nhân thân vẫn
chưa được thừa nhận một cách đầy đủ.
Cho đến nay, khái niệm này mới chỉ được trình bày trong các nghiên cứu khoa học như:
Một là, trong bài viết “Khái niệm quyền nhân thân” là tâm điểm trong bài viết của TS Bùi
Đăng Hiếu, giảng viên trường Đại học Luật Hà Nội, đăng trên tạp chí luật học số 7 năm

4
2009.1 Theo bài viết, quyền nhân thân thuộc về dân sự. các quyền được liên kết với khía
cạnh tinh thần của cuộc sống của một cá nhân. Các quyền này không thể được ấn định giá trị
bằng tiền và không thể chuyển nhượng cho một thực thể khác, trừ trường hợp luật pháp quy
định việc chuyển nhượng đó.
Hai là, dự án nghiên cứu tại trường đại học của Tiến sĩ Lê Đình Nghị, với tựa đề "Bảo vệ
quyền nhân thân và tuân thủ các quy định của pháp luật" khám phá khái niệm quyền con
người từ hai góc độ. 2 Xét từ góc độ khách quan, quyền nhân thân là tập hợp các quyền được
nhà nước bảo hộ và cá nhân có quyền thực hiện. Nói cách khác, những quyền này là vốn có
của cá nhân và tạo cơ sở cho việc thực hiện chúng. Xét về mặt chủ quan, quyền nhân thân là
quyền dân sự của cá nhân được nhà nước trao cho cá nhân, không thể chuyển giao cho người
khác. Nghiên cứu của Tiến sĩ Lê Đình Nghị đi sâu tìm hiểu các sắc thái của hai quan điểm
này và mối quan hệ của chúng với việc bảo vệ quyền con người.
Ba là, Lê Thị Hoa, trong luận văn thạc sĩ luật học “Quyền nhân thân liên quan đến thân thể
theo quy định của Bộ luật dân sự 2005” đã trình bày quan niệm quyền nhân thân của cá nhân
là quyền dân sự gắn liền với đời sống của họ và được pháp luật bảo vệ. 3 Các quyền này gắn
liền với các giá trị tinh thần, bản chất của cá nhân và không thể lượng hóa bằng tiền cũng
như không thể chuyển giao, trừ trường hợp pháp luật có quy định. Qua phân tích và đối
chiếu với khái niệm này, chúng ta có thể hiểu quyền nhân thân là một phạm trù quyền công
dân gắn bó mật thiết với tinh thần của mỗi cá nhân và không thể dễ dàng trở thành hàng hóa,
chuyển giao.
1.1.2. Đặc điểm quyền nhân thân:
Quyền nhân thân là một quyền dân sự nên mang đầy đủ các đặc điểm của quyền dân sự như:
Lĩnh vực dân sự được đánh dấu bằng các nguyên tắc bình đẳng, tự do và tự nguyện, cho
phép các cá nhân xác định và sửa đổi mối quan hệ của họ với những người khác khi họ thấy
phù hợp.

1
Bùi Đăng Hiếu (2009), Khái niệm và phân loại quyền nhân thân, Trường Đại học Luật Hà Nội, Tạp chí Luật học số
tháng 7, tr.40. https://fdocuments.net/document/quyen-ca-nhan-doi-voi-hinh-anh-theo-phap-luat-viet-phuong.html?
page=8
2
Lê Đình Nghị (2008), Quyền nhân thân của con người và bảo vệ quyền nhân thân của con người và bảo vệ quyền nhân
thân theo quy định của pháp luật, Đề tài nghiên cứu cấp trường, tr. 9, 10, Trường Đại học Luật, Hà Nội, Việt Nam.
https://repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/5633/1/00050002329.pdf
3
Lê Thị Hoa (2006), Quyền nhân thân liên quan đến thân thể của cá nhân theo quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2005,
Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật, Hà Nội.
https://tailieu.vn/doc/tom-tat-luan-van-thac-si-luat-hoc-quyen-ca-nhan-doi-voi-hinh-anh-theo-phap-luat-viet-nam-
1786269.html
5
Theo quy định của pháp luật dân sự hoặc theo thỏa thuận chung giữa các bên liên quan, việc
thực hiện nhiệm vụ hoặc nghĩa vụ được thực hiện một cách tự nguyện mà không chịu bất kỳ
sự ép buộc hoặc tác động nào từ chính quyền.
Bên cạnh đó, quyền nhân thân do luật Dân sự điều chỉnh có những đặc điểm riêng sau:
Thứ nhất, quyền nhân thân gắn bó chặt chẽ với một cá nhân cụ thể và không thể chuyển giao
cho người khác trừ khi được pháp luật quy định, chẳng hạn như trong trường hợp xuất bản
tác phẩm hoặc sở hữu công nghiệp. Mặc dù các quyền nhân thân thường là bất động sản
nhưng chúng vẫn có thể được thi hành và bảo vệ bởi các bên thứ ba. Chẳng hạn, đại diện của
những cá nhân đáng chú ý có thể khởi kiện để bảo vệ danh tiếng và lòng tự trọng của trẻ vị
thành niên.
Thứ hai, khái niệm quyền nhân thân không thể đo lường bằng tiền vì giá trị của đạo đức và
tiền tệ không thể thay thế cho nhau. Quyền nhân thân chỉ mang lại lợi ích tinh thần chứ
không mang lại lợi ích vật chất. Phần thưởng vật chất đi kèm với quyền tinh thần là kết quả
của giá trị tinh thần của chúng, được cung cấp bởi một quyền lực cao hơn. Luật quy định
rằng tất cả các cá nhân đều có quyền bình đẳng khi nói đến các vấn đề cá nhân.
Thứ ba, quyền nhân thân không chỉ đơn thuần được xác định bởi các sự kiện pháp lý, mà
được thiết lập trực tiếp thông qua các quy định của pháp luật. Cách tiếp cận này không chỉ đề
cao các nguyên tắc đạo đức mà còn đảm bảo đối xử công bằng và chính đáng với các cá
nhân.
Thứ tư, quyền nhân thân là một quyền cơ bản và không thể thay đổi, theo đó những cá nhân
có nghĩa vụ duy trì chúng phải thể hiện sự tôn trọng đối với sự tôn nghiêm của cá nhân được
bảo vệ. Điều này ngụ ý rằng các quyền nhân thân được thừa nhận và điều chỉnh bởi luật dân
sự là vốn có của tất cả các cá nhân, được ban cho họ ngay từ khi mới thành lập hoặc theo
quy định của hệ thống pháp luật.
1.1.3 Ý nghĩa quyền nhân thân:
Luật dân sự thừa nhận các giá trị cá nhân là quyền nhân thân và thực hiện các biện pháp để
bảo vệ các giá trị đó. Mỗi cá nhân sở hữu một tập hợp các giá trị duy nhất được pháp luật
bảo vệ như nhau. Các quyền nhân thân này gắn liền với nhu cầu chung sống của con người
trong xã hội và không ai được xâm phạm. Nếu có người vi phạm các quyền nhân thân này
thì bên bị vi phạm có quyền yêu cầu khắc phục hoặc nhờ đến sự trợ giúp của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền để chấm dứt hành vi xâm phạm. Các biện pháp khắc phục đó có thể bao
gồm xin lỗi công khai, cải chính, tự đính chính thông qua các phương tiện thông tin đại

6
chúng hoặc yêu cầu bồi thường tài chính để bù đắp bất kỳ tổn thất tinh thần nào do hành vi
vi phạm gây ra.4
Khung pháp lý bảo vệ quyền nhân thân tạo điều kiện cho cá nhân thực hiện các quyền của
mình trước pháp luật và sự bảo hộ của Nhà nước. Điều này nhấn mạnh tầm quan trọng cốt
yếu của các quyền nhân thân đối với sức khỏe tinh thần của một cá nhân. Bất kỳ sự vi phạm
nào đối với các quyền này đều có thể tác động sâu sắc đến đời sống nội tâm của người đó.
Điều quan trọng là phải bảo vệ các quyền cá nhân và ngăn chặn kịp thời các hành động trái
pháp luật để duy trì công bằng, luật pháp và trật tự xã hội, đồng thời nâng cao nhận thức
pháp luật của người dân.
1.2. Khái niệm, đặc điểm của hình ảnh của cá nhân:
1.2.1. Khái niệm của hình ảnh cá nhân:
Định nghĩa về 'hình ảnh cá nhân' bao gồm tất cả các hình thức nghệ thuật thị giác mô tả một
con người cụ thể, bao gồm nhiếp ảnh, tranh vẽ và điêu khắc. Những tác phẩm này tuân theo
luật sở hữu trí tuệ, có nghĩa là bất kỳ ai muốn sử dụng chúng trước tiên phải xin phép chủ sở
hữu bản quyền và đền bù tương ứng cho họ. Ngoài ra, tiền bồi thường cũng phải được cung
cấp cho những người tạo ra những tác phẩm này, chẳng hạn như nhiếp ảnh gia và nhà điêu
khắc. Hơn nữa, cũng phải có sự đồng ý của cá nhân được miêu tả trong tác phẩm nghệ thuật
để bảo vệ quyền con người của họ.
Khái niệm hình ảnh của một cá nhân đề cập đến cách hình ảnh ngoại hình của họ được ghi
lại và có thể tạo ra tác động trực quan đối với người khác. Có thể dễ dàng nhận ra hình ảnh
được tái tạo này chính là người mà nó đại diện. Do đó, luật đã được thiết lập để bảo vệ
quyền của một cá nhân đối với hình ảnh của chính họ.
1.2.2. Đặc điểm của hình ảnh của cá nhân:
Ảnh cá nhân đề cập đến những bức ảnh riêng tư không được chụp ở những nơi công cộng
hoặc đông người. Những bức ảnh này được dành cho mục đích sử dụng cá nhân và không
được chia sẻ với công chúng. Ngược lại, những bức ảnh ở những nơi công cộng, chẳng hạn
như điểm du lịch hoặc đường phố đông đúc, được chụp với mục đích chụp phong cảnh và
con người trong khu vực. Những bức ảnh này có thể được chia sẻ trên phương tiện truyền
thông xã hội hoặc được sử dụng cho mục đích thương mại. Tuy nhiên, điều quan trọng là
phải tôn trọng quyền riêng tư của những cá nhân có thể xuất hiện trong những bức ảnh này

4
Phùng Thị Bích Ngọc (2011), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về lý luận và thực tiễn về quyền nhân thân của cá
nhân đối với hình ảnh theo quy định trong pháp luật Dân sự Việt Nam, Luận văn Thạc sỹ, Trường Đại học Luật, Hà Nội.
https://123docz.net/document/4836441-mot-so-van-de-ly-luan-va-thuc-tien-ve-quyen-nhan-than-cua-ca-nhan-doi-voi-
hinh-anh-trong-phap-luat-dan-su-viet-nam.htm
7
và đảm bảo rằng đã có sự đồng ý của họ trước khi chia sẻ. Nhìn chung, ảnh cá nhân và ảnh
chụp ở những nơi công cộng phục vụ các mục đích khác nhau và cần được xử lý phù hợp.
Có nhiều hình thức nghệ thuật khác nhau, chẳng hạn như ảnh và tượng, cần có sự cho phép
của chủ sở hữu bản quyền trước khi sử dụng. Ngoài ra, cá nhân sử dụng tác phẩm nghệ thuật
phải trả thù lao, chẳng hạn như tiền bản quyền hoặc thù lao, cho người tạo ra tác phẩm nghệ
thuật. Điều này đảm bảo rằng chủ sở hữu hợp pháp của bản quyền được đền bù xứng đáng
cho tác phẩm của họ.
Trước khi sử dụng ảnh của người khác, điều quan trọng là phải xin phép cá nhân được miêu
tả trong ảnh. Điều này có nghĩa là cá nhân là đối tượng của ảnh phải đồng ý trước khi ảnh
của họ có thể được người khác sử dụng.
Nghiêm cấm sử dụng hình ảnh với mục đích xúc phạm nhân phẩm, uy tín, danh dự của cá
nhân. Những hành động như vậy được coi là không thể chấp nhận được và phải tránh bằng
mọi giá.
1.3. Quy định của pháp luật về quyền hình ảnh của cá nhân:
1.3.1. Nội dung của quyền của nhân thân đối với hình ảnh của cá nhân:
Quyền nhân thân đối với hình ảnh được quy định tại Điều 32, Bộ luật Dân sự năm 2015
Theo nguyên tắc cơ bản, mọi người đều có quyền kiểm soát việc sử dụng hình ảnh và hình
ảnh giống mình.
Việc sử dụng hình ảnh cá nhân cần có sự đồng ý của người được mô tả trừ khi hình ảnh được
sử dụng vì lợi ích quốc gia hoặc lợi ích công cộng, chẳng hạn như trong các hội nghị, hoạt
động thể thao và các sự kiện biểu diễn nghệ thuật. Trong những trường hợp này không cần
sự đồng ý miễn là danh dự, nhân phẩm, uy tín của người đó không bị xâm phạm. Tuy nhiên,
nếu hình ảnh được sử dụng cho mục đích thương mại thì người được mô tả phải bồi thường
thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Nếu ai đó sử dụng hình ảnh vi phạm các quy
định này, người được mô tả có quyền thực hiện hành động pháp lý chống lại người vi phạm
và yêu cầu họ thu hồi, tiêu hủy và ngừng sử dụng hình ảnh. Người vi phạm còn phải bồi
thường thiệt hại gây ra và chịu các hậu quả pháp lý khác theo quy định của pháp luật.
Quy định này vạch ra các thành tố cấu thành nên quyền nhân thân của một cá nhân đối với
hình ảnh của họ. Các quyền này bao gồm khả năng kiểm soát và đưa ra quyết định về hình
ảnh của một người, khả năng cấp hoặc từ chối cho phép người khác sử dụng hình ảnh của họ
và quyền được pháp luật bảo vệ trong trường hợp các quyền này bị vi phạm. Về cơ bản, quy
định này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc các cá nhân có quyền sở hữu và quyền tự quyết

8
đối với hình ảnh của chính họ, cũng như các cơ chế pháp lý được áp dụng để bảo vệ các
quyền này.
Hơn nữa, cá nhân có quyền cho phép người khác sử dụng hình ảnh giống mình. Đặc quyền
này cần được công nhận và tôn trọng với sự thuyết phục tối đa.
Các cá nhân có quyền cho phép người khác sử dụng hình ảnh của họ bằng cách đồng ý. Sự
đồng ý này dựa trên thỏa thuận giữa người dùng và cá nhân với hình ảnh. Tuy nhiên, có sự
mơ hồ xung quanh những gì chính xác cấu thành sự đồng ý. Điều đó có thể có nghĩa là cá
nhân đó đã cho phép rõ ràng để hình ảnh của họ được sử dụng hoặc điều đó có thể đơn giản
có nghĩa là họ không phản đối việc sử dụng hình ảnh đó. Trong trường hợp sau, người ta cho
rằng người đó đã đưa ra thỏa thuận ngầm của họ.
Các cá nhân có quyền bảo vệ hình ảnh của họ theo luật hiện hành. Mọi hành vi xâm phạm
quyền nhân thân sẽ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. Hiện nay, pháp luật dân sự đã có
nhiều hướng dẫn rõ ràng hơn về việc thực hiện các biện pháp bảo lưu và khôi phục quyền
nhân thân đối với hình ảnh. Hơn nữa, trong nhiều trường hợp, gây thiệt hại không phải là
điều kiện tiên quyết để xác định hành vi vi phạm quyền nhân thân. Điều này áp dụng cho các
trường hợp hình ảnh của một cá nhân được sử dụng mà không có sự đồng ý của họ.
1.3.2. Giới hạn quyền của cá nhân đối với hình ảnh:
Quyền của một cá nhân trong việc kiểm soát hình ảnh của chính họ có thể bị hạn chế nếu có
xung đột với lợi ích lớn hơn, quyền của người khác hoặc nếu cá nhân đó tự nguyện từ bỏ
quyền đối với hình ảnh của mình do thủ tục pháp lý.
Trong trường hợp xung đột với quyền lợi chung:
Trọng tâm của mối quan tâm trong kịch bản này là lợi ích của nhà nước hoặc lợi ích công
cộng, giới hạn quyền của một cá nhân đối với hình ảnh của họ. Các trường hợp ngoại lệ đối
với giới hạn này bao gồm các tình huống trong đó hình ảnh tội phạm được đăng để hỗ trợ bắt
tội phạm bị truy nã. Trong trường hợp cơ quan nhà nước cần công bố hình ảnh của một cá
nhân mà không cần sự đồng ý của họ, họ được phép làm như vậy vì lý do bảo mật nhằm bảo
vệ pháp luật hoặc cảnh báo công chúng về kẻ gian ở nơi công cộng để ngăn chặn hành vi
trộm cắp và lừa đảo. Quy định về việc đăng ảnh truy nã đối với tội phạm chỉ thuộc thẩm
quyền của cơ quan có thẩm quyền ra quyết định đối với tội phạm nguy hiểm cho xã hội. Luật
pháp của mọi quốc gia đều cho phép công bố hình ảnh của tội phạm bị kết án đang bị truy
nã.
Trong trường hợp xung đột đối với quyền lợi của bên thứ ba hoặc cá nhân từ bỏ quyền
đối với hình ảnh của mình:
9
Khi một người bán hình ảnh của họ cho bên thứ ba, quyền của họ đối với hình ảnh sẽ chấm
dứt. Điều này được áp dụng cho các cá nhân như diễn viên, người mẫu ký hợp đồng quảng
cáo. Các bên thứ ba được phép sử dụng hình ảnh của người đó một cách hợp pháp mà không
cần xin phép.
Từ bỏ quyền của mình đối với hình ảnh: Pháp luật đảm bảo quyền công dân của mọi người
được tôn trọng và bảo vệ. Trong trường hợp vi phạm, cả hai bên có thể thương lượng để giải
quyết. Khiếu nại không chỉ của người bị hại, mà còn của các cơ quan điều tra. Mọi tranh
chấp đều được giải quyết thông qua quan hệ dân sự và các bên tự thỏa thuận. Trường hợp vụ
việc cần được giải quyết thông qua hệ thống tòa án thì cá nhân có quyền yêu cầu người được
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Quyền của một cá nhân đối với hình ảnh của họ
được coi là quyền cơ bản của con người, có nghĩa là họ có toàn quyền hành động trong
trường hợp có hành vi xâm phạm. Tuy nhiên, nếu một cá nhân từ bỏ quyền đối với hình ảnh
của mình thì quyền nhân thân của họ đối với hình ảnh đó cũng bị tước bỏ.

10
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG QUY ĐỊNH VỀ QUYỀN HÌNH ẢNH CÁ
NHÂN CỦA VIỆT NAM
2.1 Thực trạng việc áp dụng các quy định của pháp luật việt nam về quyền nhân thân
đối với hình ảnh cá nhân hiện nay
2.1.1. Khái quát chung
Trên thực tế những hình ảnh của mỗi người thuộc về lĩnh vực riêng tư của từng cá nhân. Tuy
là không có gì cấm, hay giới hạn sử dụng những cá nhân muốn lấy đi hình ảnh riêng tư của
ai đó, thậm chí là khai thác nó cho mục đích thương mại như: in lịch, đóng bìa sách, làm
bảng hiệu quảng cáo,… Tất cả cũng cần xin phép “người chủ sở hữu” hình ảnh đó. Bởi về
nguyên tắc thì mỗi cá nhân cũng có quyền sử dụng hình ảnh của mình đã được pháp luật bảo
hộ. Bất kỳ mỗi cá nhân cũng có quyền ngăn cản không để người ta dùng hình ảnh của mình.
Nếu như không được sự cho phép mà lại tự tiện dùng thì đã là xâm phạm quyền sở hữu của
cá nhân với tài sản. Trên thực tế hiện nay thì việc dùng “chùa” hình ảnh của người nổi tiếng
vì mục đích thương mại là rất phổ biến. Rải rác trên khắp mọi con đường chúng ta không hề
lạ gì với nhiều biển hiệu kinh doanh của những cửa hàng thời trang, mỹ phẩm đặc biệt là
tiệm chăm sóc tóc, dầu gội đầu... sử dụng chính hình ảnh của hoa hậu, siêu mẫu, ca sĩ, diễn
viên tên tuổi đề làm hình. Rõ ràng là những người chủ của thương hiệu ấy không hề hay biết
đến điều này, không có bất cứ liên hệ nào khác với chính ông chủ cơ sở kinh doanh kia và
ngược lại cũng không hề được người chủ kinh doanh đó hỏi thăm hoặc xin giấy phép. Hình
ảnh của một số ca sĩ, diễn viên tên tuổi đã bị xâm hại và chính sau đấy họ sơn sửa lại cho nó
lung linh để biển hiệu trông sáng chói, bắt mắt khiến việc làm ăn thuận tiện hơn nữa. Ngày
nay, xã hội phát triển nhu cầu bức thiết của doanh nghiệp là để thu lợi nhuận nhưng việc sử
dụng hình ảnh của người nổi tiếng mà trái pháp luật như thế thì cũng không nên tha thứ.
Dựa vào thời gian bảo hộ các quyền nhân thân được phân loại thành:
Nhóm các quyền nhân thân được bảo hộ vô thời hạn: quyền đối với họ tên; quyền đối với
hình ảnh; quyền được bảo vệ danh dự, uy tín; quyền bí mật đời tư; quyền đứng tên thật hoặc
bút danh trên tác phẩm, được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử
dụng; quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén,
xuyên tạc tác phẩm.
Nhóm các quyền nhân thân được bảo hộ có thời hạn: quyền thay đổi họ tên; quyền xác định
dân tộc; quyền được khai sinh, khai tử; quyền được đảm bảo an toàn về tính mạng, sức khoẻ,
thân thể; quyền được bảo vệ nhân phẩm; quyền hiến bộ phận cơ thể; quyền nhận bộ phận cơ
thể người; quyền xác định lại giới tính; quyền kết hôn, quyền bình đẳng vợ chồng; quyền
11
được hưởng sự chăm sóc giữa các thành viên trong gia đình; quyền ly hôn; quyền nhận,
không nhận cha, mẹ, con; quyền được nuôi con nuôi và quyền được nhận làm con nuôi;
quyền đối với quốc tịch; quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở; quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo; quyền tự do đi lại, tự do cư trú; quyền lao động, quyền tự do kinh doanh; quyền tự do
nghiên cứu, sáng tạo; quyền đặt tên cho tác phẩm; quyền công bố hoặc cho phép người khác
công bố tác phẩm.
2.1.2. Các dạng hành vi vi phạm
Các dạng hành vi xâm phạm quyền về hình ảnh của cá nhân điển hình:
Sử dụng hình ảnh của người khác với mục đích thương mại không được sự chấp thuận của
chủ thể có hình ảnh trong hoạt động thương mại, ví dụ dưới hình thức dùng hình ảnh của
một số nhân vật nổi tiếng nhằm quảng bá cho sản phẩm của họ, nhưng việc sử dụng hình ảnh
của họ đã không xin phép người có thẩm quyền. Những vụ việc xâm phạm quyền hình ảnh
của cá nhân như thế trên thục tế diễn ra khá phổ biến.
Phát tán hình ảnh của cá nhân xâm phạm vào danh dự, nhân phẩm và uy tín của người đó.
Hành vi này thực hiện theo cách là khi có được hình ảnh của một người, mà hình ảnh đó
thuộc về cuộc sống riêng của mình, hình ảnh thuộc dạng “nhạy cảm” vì vụ lợi hay bất cứ lý
do nào đó họ đã đưa lên mạng hoặc các phương tiện truyền thông khác những hình ảnh bị
pháp luật cấm phổ biến, nhằm mục đích bôi bẩn danh dự và uy tín của một người những
hành vi tương tự cũng thường diễn ra với những người nổi tiếng. Hoạt động này đã xâm
phạm quyền riêng tư về thông tin của công dân. Sử dụng thông tin vi phạm bí mật đời tư.
Hành vi này trên thực tiễn được thể hiện qua việc cá nhân tự đăng tải những tấm hình hoặc
đoạn phim nhạy cảm, nó phản ánh cuộc sống sinh hoạt riêng tư của một người mặc dù là các
thông tin bình thường tuy nhiên cá nhân không mã hoá những nội dung đó bằng việc phát tán
những bức ảnh hay cảnh quay đó, hành vi này đã xâm hại vào bí mật đời tư của cá nhân
được công khai và được pháp luật bảo hộ. Nhũng hình ảnh mang tính chất bí mật riêng của
công dân và việc giữ kín thông tin hình ảnh cá nhân đã có pháp luật bảo hộ thì việc đăng tải
các hình ảnh đó khi không được sự đồng ý của chủ hình ảnh cũng là hành vi xâm hại đến đời
tư. Hiện nay việc sử dụng hình ảnh cá nhân với sự trợ giúp của các công cụ hiện đại hơn: các
loại máy quay, máy chụp ảnh kỹ thuật số cho phép người dùng xem trộm hoặc chụp ảnh từ
các góc khác nhau đã ghi được những khoảnh khắc “không đẹp mắt” của nhiều người. Chính
điều này làm gia tăng tính nguy hại của việc sử dụng hình ảnh đối với xã hội và hiện nay
những hành vi xâm phạm hình ảnh của cá nhân đã không đơn thuần là xâm phạm vào quan
hệ dân sự hay đối tượng điều chỉnh của luật dân sự nữa mà chuyển sang xâm phạm các vấn
12
đề được pháp luật hình sự điều chỉnh, có thể là một số tội sau: tội truyền bá văn hoá phẩm
đồi truỵ, tội làm nhục người khác theo.
Trong số quyền thuộc luật dân sự, quyền nhân thân về hình ảnh có vai trò đặc biệt quan
trọng trong việc ghi nhận và bảo vệ các giá trị nhân thân về hình ảnh của mỗi cá nhân.
Quyền nhân thân về hình ảnh trong luật dân sự là một nội dung cần được sự quan tâm trong
thực tế và bối cảnh xã hội của nước ta hiện nay. Việc giải quyết triệt để những sai phạm
trong quyền hình ảnh cũng như vấn đề bảo vệ quyền hình ảnh của cá nhân không những bảo
vệ quyền nhân thân và quyền tài sản liên quan mà còn ngăn chặn kịp thời những hành vi cố ý
xâm phạm hình ảnh người khác để đảm bảo cho những quy định của pháp luật được thực
hiện có hiệu quả trong đời sống xã hội hiện đại. Thông qua việc quy định những giá trị nhân
thân về hình ảnh, từ đó ghi nhận và tôn trọng quyền nhân thân của cá nhân, nâng cao hiệu
quả công tác bảo vệ quyền nhân thân, góp phần bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật
trong Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
2.2. Các vụ việc thực tế xâm phạm quyền hình ảnh
Vụ việc 1: NSƯT Hoài Linh bức xúc khi bị kẻ gian lợi dụng hình ảnh để lừa đảo
*Nội dung của sự việc:
Sự ra đi của cố nghệ sĩ Chí Tài gần đây khiến cho NSƯT Hoài Linh không khỏi đau buồn.
Trang cá nhân của anh hầu như chỉ cập nhật những thông tin về tang lễ người bạn thân, lời
tri ân gửi đến người hâm mộ, bạn bè đồng nghiệp, hay những dòng trạng thái tưởng nhớ đến
người bạn diễn thân thiết. Nam danh hài hiếm khi cập nhật về cuộc sống vườn tược bình yên
như trước. Vậy mà, mới đây NSƯT đã phải bức xúc đăng đàn, tố kẻ xấu lợi dụng tên tuổi và
hình ảnh của mình để lừa đảo khán giả và người hâm mộ. Trong bài viết mới nhất của mình,
NSƯT Hoài Linh nói thẳng: "Nè mấy anh, mấy chị ơi. Thời gian vừa rồi em bận công việc
nên em không lên tiếng thôi, chứ không phải em không biết. Nhiều người gửi clip này cho
em lắm. Mấy anh, chị làm ăn buôn bán thì thiệt thà chút đi, có tâm chút đi. Nếu hàng của các
anh, chị đẹp và tốt thì đâu cần lấy hình ảnh của em để đi lừa gạt khách hàng? mấy anh, chị
bán pha lê mà sao tâm các anh chị đục như nước cống vậy?" Qua cách dùng từ ngữ so sánh
của nam danh hài cũng có thể hiểu anh đã bức xúc đến độ nào. Từ trước đến nay NSƯT Hoài
Linh đã từng gặp phải nhiều trường hợp tương tự, nhưng đây là lần đầu tiên anh có động thái
phản ứng quyết liệt và có phần gay gắt như vậy.5
*Nhận xét của nhóm:
5
Yan.vn (2021), Hoài Linh bức xúc khi bị kẻ gian lợi dụng hình ảnh nam nghệ sĩ lừa đảo. Truy cập ngày: 5/1/2023.
Đường đẫn: https://www.yan.vn/hoai-linh-buc-xuc-khi-bi-ke-gian-loi-dung-hinh-anh-nam-nghe-si-lua-dao-
254716.html45
13
Các trang bán hàng online đã xâm phạm quyền hình ảnh của NSƯT Hoài Linh . VIệc sử
dụng hình ảnh nghệ sĩ hài Hoài Linh nhầm mục đích thương mại nhưng chưa có sự đồng ý là
hành vi vi phạm pháp luật. . Cụ thể, tại Khoản 1, Điều 32, Bộ luật dân sự 2015 quy định: "Cá
nhân có quyền đối với hình ảnh của mình. Việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được
người đó đồng ý".
Ngoài ra, theo quy định tại Bộ luật Dân sự, việc sử dụng hình ảnh của người khác vì mục
đích thương mại thì phải trả thù lao cho hình ảnh đó. Như vậy, việc nam danh hài yêu cầu
các nhãn hàng phải trả thù lao hoặc gỡ bỏ hình ảnh của mình xuống là điều hoàn toàn hợp lý
và mức thù lao đó có thể dựa trên lợi nhuận mà nhãn hàng thu được sau khi đăng tải hình
ảnh.
Có lẽ nghệ sĩ Hoài Linh không phải là trường hợp đầu tiên bị những kẻ gian lợi dụng để bán
hàng online mà showbiz Việt cũng đã có rất nhiều người bức xúc về hiện trạng trên.
Nếu muốn khởi kiện, Trương Thế Vinh có thể gửi đơn đến tòa án nơi đặt trụ sở công ty của
nhãn hàng. Hoặc nếu nhãn hàng tồn tại dưới dạng hộ kinh doanh thì cũng là tòa án nơi đăng
ký hộ kinh doanh. Sau 8 ngày, nếu đơn khởi kiện đủ điều kiện theo pháp luật, tòa án sẽ chính
thức thụ lý vụ việc.
*Giải pháp cho sự việc:
Đó là khi nam danh hài có thể yêu cầu các trang bán hàng online đã xử dụng hình ảnh của
mình cho mục đích thương mại mà không có sự đồng ý của anh phải lặp tức gỡ bỏ và xin lỗi
công khai, đồng thời hoàn trả lại số tiền cho những khách hàng bị lợi dụng lòng tin đã mua
sẩn phẩm.
Vụ việc 2: Trấn Thành giận dữ khi bị cắt ghép hình ảnh là đã qua đời vì Covid 19
*Nội dung của sự việc:
Vừa qua, Trấn Thành khiến người hâm mộ lo lắng vì thông báo mắc Covid-19. Tuy nhiên,
nam MC vẫn rất lạc quan, vui vẻ và điều trị bệnh. Sau một thời gian, anh chính thức chia sẻ
niềm vui đến khán giả rằng đã âm tính trở lại. Không những vậy, Trấn Thành còn đăng lại
nhật ký những ngày cách ly và gửi những lời ngọt ngào đến bà xã Hari Won vì đang chăm
sóc anh tận tình trong những ngày đau ốm, mệt mỏi. Tuy nhiên ngay sau khi Trấn Thành
thông báo tình trạng sức khỏe hồi phục trở lại, trên mạng xã hội xuất hiện một tài khoản tên
M.C bất ngờ đăng tin vào hội nhóm ở Cà Mau với nội dung: "Tin sốc chiều 22-3: Hồng Vân,
Việt Hương xót xa thông báo về việc Trấn Thành ra đi mãi mãi ở tuổi 35 vì Covid-19". Chỉ

14
sau 1 giờ đăng tải, bài viết nhận được nhiều sự quan tâm, chia sẻ với tốc độ chóng mặt. Bên
cạnh đó, không ít người tỏ ra hoang mang.6
*Nhận xét của nhóm:
Trong vụ việc này, Trấn Thành đã bị xâm phạm quyền hình ảnh một cách nghiêm trọng khi
bị tung tin đồn thất thiệt rằng mình qua đời.
Tại khoản 3 điều 31 Bộ luật dân sự năm 2005 đã quy định: “Nghiêm cấm việc sử dụng hình
ảnh của người khác mà xâm hại tới danh dự, nhân phẩm, uy tín của người có hình ảnh.”
Theo quy định này thì việc sử dụng hình ảnh của cá nhân, mặc dù hợp pháp là có sự đồng ý
của người đó, nhưng việc sử dụng hình ảnh này lại xâm phạm tới danh dự, nhân phẩm, uy tín
của cá nhân. Căn cứ vào Điều 32 Bộ luật dân sự năm 2015, Trấn Thành hoàn toàn có quyền
khởi kiện đòi bồi đối với chủ tài khoản tên M.C về việc xử dụng hình ảnh cá nhân trái phép
nhầm mục đích bôi nhọ, xâm hại tới danh dự, nhân phẩm nam diễn viên.
*Giải pháp cho sự việc:
Trấn Thành yêu cầu chủ tài khoản tên M.C gỡ bỏ hình ảnh anh từ các trang MXH xuống và
chấm dứt hình vi vi phạm, xin lỗi, và yêu cầu bồi thường thiệt hại. Nếu chủ tài khoản tên
M.C không chấp nhận, anh có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền can thiệp và xử lý.
*Nội dung của sự việc:
Bốn năm trước, Ca sĩ Nancy thuộc nhóm nhạc thần tượng Momoland sang Việt Nam để
tham dự sự kiện Asia Artist Awards 2019. Trong đêm đó nữ ca sĩ đã bị quay lén khi thay
trang phục với sự trợ giúp của nhân viên hậu trường và stylist. Đoạn clip đã bị phát tán lên
mạng xã hội bởi một tài khoản Twitter. Tài khoản Twitter này khẳng định rằng đoạn clip ban
đầu xuất hiện trong fanclub của nhóm nhạc khác trên ứng dụng Discord và đã có hơn 500
người xem khoảnh khắc nhạy cảm của Nancy. Chỉ sau thời gian ngắn, đoạn clip truyền khắp
các mạng xã hội.7
*Nhận xét của nhóm:
Tài khoản Twitter này đã xâm phạm đến quyền hình ảnh của ca sĩ Nancy. Việc sử dụng hình
ảnh ca sĩ, diễn viên Nancy dù trước đó được đăng tải lên bất cứ phương tiện truyền thông
nào khác, để đăng tải lên mạng xã hội nhằm mục địch thương mại nhưng chưa được sự đồng
ý là hành vi vi phạm pháp luật. Cụ thể, tại Khoản 1, Điều 32, Bộ luật dân sự 2015 quy định:

6
2Sao.vn (2022),Trấn Thành giận dữ khi bị rủa chết. Truy cập ngày: 5/1/2023. Đường dẫn: https://2sao.vn/tran-thanh-
gian-du-khi-bi-rua-chet-n-300812.html
7
thanhnien.vn (2019) Nữ ca sĩ Nancy nhóm Momoland bị chụp ảnh nhạy cảm ở Việt Nam https://thanhnien.vn/bao-han-
nu-ca-si-nancy-nhom-momoland-bi-chup-anh-nhay-cam-o-viet-nam-1851028025.htm
15
"Cá nhân có quyền đối với hình ảnh của mình. Việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được
người đó đồng ý".
*Giải pháp cho sự việc:
Ca sĩ Nancy yêu cầu chủ tài khoản Twitter gỡ bỏ đoạn clip từ các trang MXH xuống và
chấm dứt hình vi vi phạm, xin lỗi, và yêu cầu bồi thường thiệt hại. Nếu chủ tài khoản không
chấp nhận, Nancy có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền can thiệp và xử lý.
2.3. Một số kiến nghị để hoàn thiện pháp luật về quyền nhân thân của cá nhân đối với
hình ảnh.
Nhà nước cần có những quy định rõ ràng hơn về khái niệm “hình ảnh cá nhân”. Bên cạnh đó,
nhà nước cũng cần có sự sửa đổi bổ sung điều 31 Bộ luật Dân sự năm 2005 về khái niệm
cách hiểu về quyền nhân thân đối với hình ảnh: “là quyền nhân thân gắn liền với cá nhân liên
quan đến việc tạo dựng sử dụng cho phép sử dụng hình ảnh theo ý chỉ của chính cá nhân
đó.” Cần sửa đổi những quy định việc sử dụng hình ảnh của cá nhân theo hướng mở: tổ chức
cá nhân không cần sự đồng ý của chủ thể nếu như đáp ứng đủ những yêu cầu: không ảnh
hưởng tới những quan hệ của người có mặt trong ảnh, không cản trở việc phát triển nhân
cách của họ; không sử dụng vào mục đích thương mại. bên cạnh đó cần quy định rõ ràng hơn
nữa trong vấn đề như thế nào gọi là sử dụng hình ảnh của cá nhân nhằm “lợi ích của Nhà
nước, lợi ích công cộng hoặc pháp luật có quy định khác”.
Cho phép những người có liên quan, người đại diện cũng có quyền yêu cầu bảo vệ. Điều 25,
31 Bộ luật Dân sự 2005 cần quy định rõ ràng hơn cơ quan tổ chức có thẩm quyền trong việc
bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân để tạo thuận lợi cho cá nhân có quyền nhân thân bị xâm
phạm kịp thời thực hiện được việc bảo vệ quyền nhân thân của mình.
Cần quy định rõ ràng những trường hợp nào là sử dụng trái phép hình ảnh cá nhân. Cần phải
quy định rõ quyền hạn khi tác nghiệp của nhà báo liên quan đến việc đăng ảnh bị can khi bị
bắt và chụp ảnh bị cáo tại phiên toà. Pháp luật cần quy định cụ thể hơn như thế nào thì được
coi là “có sự đồng ý” của chủ sở hữu trong việc sử dụng hình ảnh. Hơn nữa trong các văn
bản hiện hành chưa có quy định cụ thể về bảo vệ quyền nhân thân của người có quyền nhân
thân trong trường hợp họ đã chết. Cần bổ sung thêm những quy định về việc đăng tải nội
dung hình ảnh lên các trang web, việc phát tán những bức ảnh công khai của cá nhân lên các
trang mạng xã hội khác và việc bình phẩm, đánh giá hình ảnh cá nhân bằng những lời lẽ
thiếu lịch sự. Cần quy định mức bồi thường cụ thể và hợp lí hơn để ngăn chặn, răn đe không
tái phạm hành vi xâm phạm của những người có dụng ý xấu. Hiện nay mức quy định bồi
thường thiệt hại là không quá mười tháng lương tối thiểu (mức tối thiểu chung hiện nay là
16
1.150.000 đồng/tháng) còn khá khiêm tốn so với mức độ nghiêm trọng của một số hành vi
xâm phạm quyền nhân thân đối với hình ảnh.
Bên cạnh đó cần quy định cụ thể rõ ràng hơn về chế tài đăng bài đính chính của cơ quan báo
chí khi có hành vi xâm phạm quyền nhân thân đối với hình ảnh. Vì trên thực tế việc đính
chính của các cơ quan báo chí chỉ nhằm hợp thức hóa chứ thực sự không có ý nghĩa cơ quan
báo chí xin lỗi, đăng bài của báo chí thường đăng trên những mục mà ít người đọc, với khổ
bé, bởi vậy, pháp luật cần quy định rõ các hình thức cải chính xin lỗi của cơ quan báo chí.

17
PHẦN KẾT LUẬN
Qua bài tiểu luận, vấn đề về quyền của cá nhân đối với hình ảnh phần nào được làm rõ và
tiếp cận với mọi người một cách rộng rãi hơn, Quyền nhân thân về hình ảnh trong luật dân
sự là một nội dung cần được sự quan tâm trong thực tế và bối cảnh xã hội của nước ta hiện
nay. Bài tiểu luận bàn luận về vấn đề, như thế nào là sử dụng hình ảnh của cá nhân khác một
cách đúng đắn nhất và quan trọng hơn góp phần định hướng hoàn thiện luật chặt chẽ và
mang tính nâng cao giá trị của hình ảnh đối với cá nhân. Pháp Luật cần phải mang tính chất
răn đe hơn đối với các trường hợp vi phạm những quyền nhân thân nói chung và quyền cá
nhân đối với hình ảnh nói riêng, nhằm đem lại sự hiệu quả trong việc thực thi pháp luật đối
với những chủ thể xâm phạm đến nhóm quyền cơ bản này của con người.
Trong số quyền thuộc luật dân sự, quyền nhân thân về hình ảnh có vai trò đặc biệt quan
trọng trong việc ghi nhận và bảo vệ các giá trị nhân thân về hình ảnh của mỗi cá nhân. Việc
giải quyết triệt để những sai phạm trong quyền hình ảnh cũng như vấn đề bảo vệ quyền hình
ảnh của cá nhân không những bảo vệ quyền nhân thân và quyền tài sản liên quan mà còn
ngăn chặn kịp thời những hành vi cố ý xâm phạm hình ảnh người khác để đảm bảo cho
những quy định của pháp luật được thực hiện có hiệu quả trong đời sống xã hội hiện đại.
Đồng thời, với mỗi bản thân chúng ta cần lên án, tố cáo những hành vi quy phạm quyền
nhân thân. Mỗi người cần trang bị vốn kiến thức, hiểu biết về pháp luật để có sử dụng hình
ảnh của mình, của người khác một cách đúng đắn, đặt biệt là trên các trang mạng xã hội.

18
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Điều 27, Bộ luật Dân sự năm 1995 số 44-L/CTN
2. Điều 24, Bộ luật Dân sự năm 2005 số 33/2005/QH11
3. Điều 26 đến Điều 39 Bộ luật Dân sự 2015 số 91/2015/QH13
4. Điều 32, Bộ luật Dân sự năm 2015 số 91/2015/QH13
5. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2015), Giáo trình Pháp luật đại cương, NXB. Đại học Sư phạm.
6. Nguyễn Thị Tuyết Nga, Lê Văn Hợp (2022), Những vấn đề cơ bản của pháp luật đại
cương, NXB. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
7. Bùi Đăng Hiếu (2009), Khái niệm và phân loại quyền nhân thân, Trường Đại học Luật Hà
Nội, Tạp chí Luật học số tháng 7, tr.40.
8. Lê Thị Hoa (2006), Quyền nhân thân liên quan đến thân thể của cá nhân theo quy định
trong Bộ luật Dân sự năm 2005, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật, Hà Nội.
9. Lê Đình Nghị (2008), Quyền nhân thân của con người và bảo vệ quyền nhân thân của con
người và bảo vệ quyền nhân thân theo quy định của pháp luật, Đề tài nghiên cứu cấp trường,
tr. 9, 10, Trường Đại học Luật, Hà Nội, Việt Nam.
10. Phùng Thị Bích Ngọc (2011), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về lý luận và thực tiễn
về quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh theo quy định trong pháp luật Dân sự Việt
Nam, Luận văn Thạc sỹ, Trường Đại học Luật, Hà Nội.

19

You might also like