Professional Documents
Culture Documents
Nhóm 1
Nhóm 1
Mục Lục:
I: Mở Đầu .............................................................................................
Khái quát nội dung
B, Thực Tế
1, Hiểu thế nào về ‘ Quyền riêng tư ’ và ‘ Bí mật đời tư của cá nhân’ liên
quan tác nghiệp báo chí
2, Các vụ việc liên quan đến ‘ Quyền riêng tư ’ và ‘ Bí mật đời tư của cá
nhân’
1
I : Phần Mở Đầu
Trong đời sống xã hội, mỗi người đều có một số quyền của bản thân mà
trong đó quyền nhân thân là bộ phận quyền ngày càng trở nên quan trọng đối với
mỗi người. Đó là những quyền liên quan mật thiết đến danh dự, nhân phẩm, uy
tín..... Pháp luật đang ngày càng chú trọng đến việc bảo vệ sự riêng tư, quyền nhân
thân của mỗi cá nhân
Nói chung, quyền nhân thân còn là thứ quyền để bảo vệ cái ‘ danh’ của
con người. Khi nói đến quyền nhân thân người ta thường quan tâm đến
những quyền cụ thể như quyền đối với họ tên , quyền đối với hình ảnh của
mình, quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín ; quyền được bảo vệ bí
mật đời tư.....
Một xã hội tiến bộ bao nhiêu, quyền tự do dân chủ càng được mở rộng
bao nhiêu thì con người càng được tôn trọng bấy nhiêu. Do đó các quyền
nhân thân càng được pháp luật quy định đầy đủ, rõ ràng hơn, đi theo đó là
các biện pháp bảo vệ quyền này càng có hiệu quả rõ rệt.
Ví dụ điển hình chúng ta có thể thấy được là : ở nước ta trước đây các
quyền bảo vệ đời tư cá nhân, bí mật đời tư chưa được quy định nhiều. Và hệ
quả là trong cuộc sống thường ngày thì hình ảnh, tên họ, đời tư của cá nhân
dễ bị đưa lên và bêu rếu trên những mặt báo với nhiều động cơ khác nhau.
Người bị xúc phạm dù chịu rất nhiều khó khăn, khổ sở nhục nhã mà không
biết dùng cách nào để bảo vệ chính bản thân mình. Cũng không có cách gì
để buộc người vi phạm chấm dứt hành vi xúc phạm đến bản thân mình, gia
đình mình. Thường thì người xâm phạm chỉ đền bù tượng trưng bằng cách
xin lỗi chứ không hề có biện pháp đền bù thỏa đáng về vật chất lẫn tinh thần
cho người bị xúc phạm
2
Gần 10 năm nay, cùng với những thành quả cảu công cuộc đổi mới, sự
ra đời của bộ Luật Dân Sự ( có hiệu lực thi hành từ ngày 01-07-1996 ) nhiều
quyền nhân thân của công dân đã được nhà nước công nhận và thực hiện
nhiều biện pháp để bảo vệ. Cụ thể như vấn đề về họ tên, hình ảnh, bí mật đời
tư, uy tín, danh dự, nhân phẩm của cá nhân đã được pháp luật quy định ở
nhiều văn bản, nhiều ngành luật khác nhau.
Nhiều vụ án đã được Tòa án thụ lí xét xử, buộc người vi phạm là cá
nhân hay tổ chức, dù là tư nhân hay Nhà nước đều phải có nghĩa vụ xin lỗi
và bồi thường bằng tiền cho người bị xâm phạm. Từ các cơ quan Nhà nước
tiến hành tố tụng gây oan sai, từ báo chí thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu
khống. Từ việc cá nhân, tổ chức đạo văn, ăn cắp nhạc, xâm phạm bản quyền.
Từ việc tự ý sử dụng họ tên hay hình ảnh của công dân trên các mẫu quảng
cáo, in lịch mà không hỏi ý kiến hoặc không có sự đồng ý của người đó hoặc
người thân của họ ( hỏi ý kiến thân nhân trong trường hợp họ đã chết hoặc
mất năng lực hành vi dân sự )
Hành vi xâm phạm quyền nhân thân cảu công dân không nhất thiết phải
gây thiệt hại cho cá nhân đó mà kể cả là trường hợp người bị xâm phạm
không bị thiệt hại gì, thậm chí là có lợi cho họ, nhưng về nguyên tắc nếu
không có sự đồng ý của người đó thì sẽ bị coi là vi phạm
Hiện nay pháp luật đã quy định các biện pháp để bảo vệ và khôi phục
các quyền nhân thân của công dân. Theo đó, người xâm phạm nhân thân của
người khác thì dù cố ý hay vô ý thì đều có nghĩa vụ chấm dứt hành vi vi
phạm, xin lỗi và phải cải chính công khai. Nếu đã xâm phạm danh dự nhân
phẩm, uy tín thì bồi thường thiệt hại tinh thần tối đa bằng 10 tháng lương tối
thiểu ( do Chính phủ quy định trong thời kỳ, hiện nay là 290.000
đồng/tháng)
3
Nếu việc xâm phạm gây ảnh hưởng đến sức khỏe, thiệt hại tính mạng,
người bị xúc phạm lo lắng, buồn phiền sinh ra bệnh tật, tự tử...thì riêng mức
bồi thường thiệt hại tinh thần có thể tối đa là 60 tháng lương tối thiểu.
Đó là trách nhiệm pháp lí giữa người với người – giữa người vi phạm
với người bị xâm phạm. Còn đối với xã hội nói chung thì Nhà nước đại diện
cho xã hội xử phạt họ. Việc xâm phạm nhân thân của người khác là hành vi
nguy hiểm cho xã hội, nếu ở mức độ thấp, tính nguy hiểm chưa đáng kể thì
có thể bị Nhà nước xử lý hành chính, nếu nguy hiểm ở mức độ đáng kể thì
người thực hiện hành vi có thể bị xử lý hình sự.
Tóm lại, Quyền nhân thân của con người đã được pháp luật quan tâm
ngày càng nhiều. Tuy nhiên, ở một vài lĩnh vực thì vẫn chưa được quy định
một cách thích đáng, còn nhiều bất cập.
4
II : Nội Dung
A : Phần Lý Luận
5
Hiện nay Bộ Luật Dân Sự nước ta có những quy định về quyền bảo vệ đối với
Bí mật đời tư. Theo đó, việc thu thập, công bố thông tin, tư liệu về đời tư của cá
nhân phải được người đó đồng ý, trong trường hợp người đó đã chết, mất năng lực
hành vi dân sự, chưa đủ 15 tuổi thì phải được cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành
niên hoặc người đại diện của người đó đồng ý, trừ trường hợp thu thập, công bố
thông tin, tư liệu theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền.
Quy định là vậy nhưng xem ra để xác định thế nào là ‘ đời tư’ và “ bí mật đời
tư” thì còn tồn tại nhiều vấn đề chưa được làm rõ. Pháp luật Việt Nam hiện nay
chưa có quy định rõ ràng về phạm vi khái niệm “ Bí mật đời tư” , đồng thời cũng
chưa có văn bản pháp luật nào giải thích khái niệm “ bía mật đời tư” một cách rõ
ràng. “ Bí mật đời tư” là cụm từ Hán Việt, có nguồn gốc chữ Hán và được Việt
hóa. Do đó có thể hiểu ‘ bí mật’ là những chuyện kín đáo, chuyện muốn che giấu,
không cho ai biết. ‘ Tư’ có nghĩa là riêng, việc riêng, của riêng. Như vậy “ bí mật
đời tư” là chuyện thầm kín của cá nhân nào đó.
Theo như Tiến Sĩ Lê Thu Hà ( Học Viện Tư Pháp ), hiện nay Việt Nam chưa có
định nghĩa về bí mật đời tư. Và Tiến Sĩ cũng cho rằng tất cả những điều về cá nhân
người đó như nhân thân, tài sản, kể cả tài sản riêng tư mà người đó có được do
hoạt động hợp pháp, pháp luật không bắt họ phải công khai thì đó được xác định là
bí mật đời tư của họ.
Theo quan điểm của một số người làm công tác pháp luật, bí mật đời tư có thể
hiểu là những gì gắn với nhân thân con người, là quyền cơ bản. Đó có thể là những
thông tin về hình ảnh, cuộc sống gia đình, tên gọi, con cái, các mối quan hệ gắn
liền với một cá nhân mà người không muốn cho người khác biết. Những bí mật đời
tư này chỉ có bản thân người đó biết và họ chưa từng công bố ra ngoài với bất kì ai.
6
“ Bí mật đời tư” có thể hiểu là “ chuyện trong nhà” của cá nhân nào đó.Ví dụ điển
hình là con ngoài giá thú, di chúc, hình ảnh cá nhân, tình trạng sức khỏe, bệnh tật,
các loại thư tín, điện thoại điện tín. V.v....
7
Khoản 2 Điều 46 Luật giao dịch điện tử năm 2005 quy định: “Cơ quan, tổ
chức, cá nhân không được sử dụng, cung cấp hoặc tiết lộ thông tin về bí mật đời tư
hoặc thông tin của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác mà mình tiếp cận hoặc kiểm soát
được trong giao dịch điện tử nếu không được sự đồng ý của họ, trừ trường hợp
pháp luật có quy định khác”.
Điều 16 Luật an toàn thông tin mạng năm 2015 quy định nguyên tắc bảo vệ thông
tin cá nhân trên mạng, theo đó: “1. Cá nhân tự bảo vệ thông tin cá nhân của mình
và tuân thủ quy định của pháp luật về cung cấp thông tin cá nhân khi sử dụng dịch
vụ trên mạng.
2. Cơ quan, tổ chức, cá nhân xử lý thông tin cá nhân có trách nhiệm bảo đảm an
toàn thông tin mạng đối với thông tin do mình xử lý.”
Điều 159 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định: “1. Người nào thực hiện một trong
các hành vi sau đây, đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành
vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến
50.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm:
a) Chiếm đoạt thư tín, điện báo, telex, fax hoặc văn bản khác của người khác
được truyền đưa bằng mạng bưu chính, viễn thông dưới bất kỳ hình thức nào;
b) Cố ý làm hư hỏng, thất lạc hoặc cố ý lấy các thông tin, nội dung của thư
tín, điện báo, telex, fax hoặc văn bản khác của người khác được truyền đưa bằng
mạng bưu chính, viễn thông;
c) Nghe, ghi âm cuộc đàm thoại trái pháp luật;
d) Khám xét, thu giữ thư tín, điện tín trái pháp luật;
đ) Hành vi khác xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín,
telex, fax hoặc hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác…”
8
Thứ hai, cần có những nghiên cứu chuyên sâu góp phần xác định nội hàm và
đặc trưng của quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình với tư
cách các quyền con người nói chung và quyền nhân thân của cá nhân nói riêng.
Qua rà soát cho thấy mặc dù nước ta đã có những quy định về công nhận và bảo hộ
quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình nằm rải rác tại nhiều
văn bản pháp luật, tuy nhiên nhiều quy định còn quá chung chung, khó triển khai
trên thực tế mang tính chất là nêu ra quyền mà chưa có sự định hướng hành vi và
chế tài đối với hành vi vi phạm. Điều này xuất phát từ lý do, pháp luật hiện nay
chưa có định nghĩa rõ ràng và xác định phạm vi thế nào là đời sống riêng tư, bí mật
cá nhân, bí mật gia đình gây ra sự lúng túng và vướng mắc trong thực thi các quy
định pháp luật từ phía cơ quan nhà nước và người dân.
Thứ ba, pháp luật của các quốc gia trên thế giới về bảo vệ quyền về đến đời
sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình khá phát triển. Quyền về đến đời
sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình đã được ghi nhận và hướng dẫn cụ
thể trong hiến pháp hoặc một đạo luật riêng hoặc thể hiện thông qua việc vận dụng
các án lệ của thẩm phán khi xét xử.
Một số ít quốc gia không quy định về quyền này trong Hiến pháp mà quy
định trong các văn bản luật như Hoa Kỳ, Ireland và Ấn Độ. Nhiều quốc gia phát
triển khác đã bắt đầu xây dựng luật về vấn đề này kể từ đầu thập kỷ 1970. Các luật
bảo vệ dữ liệu cá nhân đầu tiên trên thế giới được ban hành tại bang Hessen, Cộng
hòa Liên bang Đức (năm 1970), Thụy Điển (năm 1973), Đức (toàn liên bang năm
1977), Pháp (năm 1978) và sau đó lan ra nhiều quốc gia khác trên toàn thế giới, ví
dụ như: Bộ luật dân sự Pháp ghi nhận mọi người đều có quyền được tôn trọng đời
tư của mình và quyền riêng tư này được pháp luật bảo vệ bằng nhiều hình thức
khác nhau. Tuy nhiên, giống như Bộ luật dân sự Việt Nam, Bộ luật dân sự Pháp
không có quy định hướng dẫn cụ thể về khái niệm cũng như phạm vi những quyền
riêng tư này như thế nào. Ngày 13/4/1988, Tòa án tối cao Pháp đã có phán quyết
giải thích về phạm vi của quyền riêng tư, theo đó thì đời sống riêng tư của một
người bao gồm: Đời sống tình cảm, bạn bè, gia đình, sinh hoạt hằng ngày, quan
điểm chính trị, công việc làm ăn hay tư tưởng tôn giáo và tình trạng sức khỏe. Hiểu
một cách chung nhất quyền riêng tư cho phép mọi người không phân biệt giai cấp,
độ tuổi hay tài chính chống lại hành vi xâm phạm mà không được sự cho phép của
họ.
9
Trong khi đó, Hiến pháp Nhật tại Điều 13 ghi nhận rằng công dân có quyền
sống, tự do và theo đuổi hạnh phúc và được tôn trọng với tư cách là một công dân.
Đây là quy định làm nền tảng cho những quy định của pháp luật chuyên ngành về
quyền bí mật đời tư như: Công dân không được phép xây nhà có thể nhìn vào nhà
của người khác, nghiêm cấm nhìn ngó nơi cư ngụ của người khác hay đọc thư cá
nhân của người khác. Hội đồng Calcutt ở Vương quốc Anh cho rằng: “không nơi
nào chúng ta có thể tìm thấy một định nghĩa hoàn toàn thỏa đáng về quyền riêng
tư”. Nhưng Hội đồng này đã hài lòng với định nghĩa sau: Quyền riêng tư là các
quyền của cá nhân được bảo vệ để chống lại sự xâm nhập vào đời sống cá nhân
hay công việc của mình (hoặc những người trong gia đình) bằng các phương tiện
vật lý trực tiếp hoặc bằng cách công bố thông tin.
Thứ tư, việc nghiên cứu giúp xác định các giải pháp tổng thể, căn bản nhằm
tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật, cũng như nâng cao hiệu quả tổ chức
thi hành các quy định của pháp luật bảo vệ quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá
nhân, bí mật gia đình ở Việt Nam.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng thực thi pháp luật và đối chiếu, so
sánh với thực tiễn và kinh nghiệm quốc tế, Đề tài xây dựng hệ thống các giải pháp
nhằm xây dựng và hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo vệ quyền về đời sống riêng tư, bí
mật cá nhân, bí mật gia đình ở Việt Nam.
Thời gian vừa qua, qua nghiên cứu và rà soát pháp luật trên thế giới có thể
có ba hệ thống giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo vệ quyền về đời sống
riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình ở Việt Nam và giải quyết các vụ việc phát
sinh, đó là:
(1) Hệ thống các giải pháp hoàn thiện và xây dựng pháp luật: Một là, ban
hành một đạo luật về quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình
(Luật Bí mật đời tư); Hai là trường hợp không ban hành một đạo luật về quyền về
đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình thì cần sửa đổi các văn bản pháp
luật có liên quan (các Nghị định, Thông tư hướng dẫn Luật, Nghị quyết của Hội
đồng thẩm phán TANDTC) để lấp đầy “khoảng trống pháp lý” nhằm bảo vệ quyền
về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình;
10
(2) Hệ thống các giải pháp góp phần giải quyết tranh chấp tại Tòa án và giải
quyết tranh chấp ngoài Tòa án ví dụ như vận dụng các án lệ của Tòa án trong việc
xét xử các vụ việc cụ thể đã có để giải quyết các vụ việc tương tự;
(3) Hệ thống các giải pháp hoàn thiện các thiết chế bảo vệ ví dụ như xây
dựng một cơ quan chuyên trách chịu trách nhiệm giám sát thi hành pháp luật và
giải quyết các vụ việc xâm phạm đến quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân,
bí mật gia đình.
Thứ năm, việc nghiên cứu cần chú trọng hoạt động khảo sát, đánh giá trên
quy mô lớn trên các đối tượng chịu tác động trực tiếp và nhóm đối tượng dễ bị tổn
thương như trẻ em, phụ nữ, người cao tuổi, LGBT,… và trong từng lĩnh vực cụ thể
như bảo vệ bí mật cá nhân trên Internet, lĩnh vực y tế, báo chí, tín dụng hoặc khi
tham gia tố tụng,… để tìm ra những khoảng trống pháp lý, nhằm nhận diện đúng
bản chất và nội hàm của đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình và đóng
góp trong quá trình đánh giá tác động của chính sách góp phần vào quá trình hoàn
thiện và xây dựng pháp luật.
2, Các vụ việc liên quan đến ‘ Quyền riêng tư ’ và ‘ Bí mật đời tư của cá nhân
Thời gian vừa qua có một số vụ việc còn có nhiều quan điểm tranh luận xoay
quanh như:
+ Các thông tin liên quan đến tổng tài sản của cá nhân và hành vi công khai
thông tin có bị coi là xâm phạm bí mật cá nhân, đời sống riêng tư hay không còn
có tranh cãi. Xuất phát từ việc ngày 03/01/2007, Báo Đại Đoàn Kết có đưa tin về
‘‘Những người giàu nhất Việt Nam’’. Có quan điểm cho rằng pháp luật không
buộc cá nhân phải công khai tài sản của mình trừ khi được sự đồng ý của họ, ngoại
trừ một số trường hợp cá nhân phải công khai tài sản theo quy định của pháp luật
hoặc buộc chứng minh nguồn gốc tài chính; quan điểm khác cho rằng tổng tài sản
của những người giàu nhất Việt Nam đã được thể hiện công khai thông qua những
thông tin dữ liệu được công khai ví dụ như tổng số cổ phiếu niêm yết tại sàn chứng
khoán, hay tổng số bất động sản góp vốn vào công ty… do đó tổng tài sản của
những người này được phép công khai mà không cần xin phép họ.
Quyền của cá nhân đối với hình ảnh đặc biệt là hình ảnh liên quan đến đời sống
riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình cũng được đưa ra tranh luận bởi lẽ sự phân
định giữa quyền của cá nhân đối với hình ảnh và quyền tự do báo chí còn chưa có
quy định rõ ràng. Hoặc thậm chí việc đăng tải hình ảnh của cá nhân phạm tội lên
trên báo chí hoặc mạng xã hội cũng là một vấn đề còn tranh cãi.
- Đồng thời, thực tiễn pháp lý còn thể hiện qua việc ra đời các án lệ sau:Vụ
việc diễn ra tại thành phố Dortmund Cộng hòa Liên bang Đức liên quan đến việc
xác định hành vi có xâm phạm đời sống riêng tư của cá nhân như sau:
14
- Ông Robert xây một khu xông hơi sau vườn, mỗi lần tới đây, ông quyết định
không mặc quần áo mà khỏa thân đi vào phòng xông hơi. Hàng xóm nhiều lần
chứng kiến hành động này và họ cảm thấy không hài lòng và họ quyết định khởi
kiện lên Tòa án thành phố Dortmund vì “không thể chịu nổi hình ảnh khỏa thân”
của Robert. Thẩm phán nói rằng mỗi tuần ông Robert sử dụng phòng xông hơi 2
lần và việc khỏa thân theo tần suất này là “chấp nhận được”. Thẩm phán nói rằng
không hề thấy dấu hiệu vi phạm hình sự trong trường hợp này và ông Robert hoàn
toàn có quyền được khỏa thân đi lại tự do trong vườn nhà mình. Tuy nhiên hàng
xóm nói Robert thường xuyên say xỉn, không chịu xây toilet và thường đi vệ sinh
vào những bụi việt quất ông trồng. Thẩm phán đáp lời rằng luật pháp không cấm
việc một người đi vệ sinh trong vườn nhà của ông ta. Vụ việc kết thúc và luật sư
của ông Hans nói rằng “đây là một trải nghiệm đau buồn”.[1]
- Vụ việc tại thành phố Ottawa vào tháng 10/2017, một viên chức thành phố
có tên Dunn bị Thành phố Ottawa yêu cầu tiết lộ tất cả các email được gửi hoặc
nhận bởi Rick O'Connor - một Luật Sư Thành Phố, bởi lẽ email này do Thành phố
cấp cho Dunn để làm việc, và có dấu hiệu nghi ngờ Dunn đã tiết lộ một số thông
tin bí mật của Thành phố. Qua nhiều lần tranh luận tại Tòa, thẩm phán đã phán
quyết rằng khó phân biệt giữa "thông tin cá nhân và tài liệu của nhân viên được lưu
trữ dưới hình thức giấy trong tủ hồ sơ của chính phủ và bàn làm việc và các hồ sơ
lưu trữ dưới dạng điện tử trong hệ thống máy tính do chính phủ sở hữu và nội dung
liên lạc qua email giữa O'Connor và Dunn không liên quan gì đến các vấn đề kinh
doanh của thành phố. Do đó, việc tiết lộ nội dung trong email của Dunn sẽ vi phạm
quyền riêng tư của O'Connor và Dunn"
15
- Vụ việc Snowden: Năm 2013, Edward Snowden, một nhân viên của Cơ quan
An ninh Quốc gia Hoa Kỳ, đã tiết lộ hàng loạt thông tin bí mật về các hoạt động
giám sát toàn cầu của chính phủ Hoa Kỳ và các đồng minh. Vụ việc này đã gây ra
tranh cãi về quyền riêng tư và sự an toàn của thông tin cá nhân trên Internet.
- Vụ việc Equifax: Năm 2017, công ty Equifax, một trong những công ty tín
dụng lớn nhất ở Mỹ, đã bị tấn công và thông tin cá nhân của khoảng 147 triệu
người Mỹ đã bị đánh cắp. Vụ việc này đã làm nổi lên những lo ngại về bảo mật
thông tin và quyền riêng tư của người dùng.
- Vụ việc Yahoo: Năm 2013 và 2014, Yahoo đã bị tấn công và thông tin cá
nhân của hơn 3 tỷ người dùng đã bị đánh cắp. Vụ việc này đã gây ra sự quan tâm
lớn về việc bảo vệ thông tin cá nhân và đặc biệt là việc bảo mật mật khẩu của
người dùng.
- Vụ việc Apple-FBI: Năm 2016, FBI đã yêu cầu Apple cung cấp phương tiện
để truy cập vào điện thoại của một tay súng khủng bố, nhưng Apple đã từ chối yêu
cầu này vì lý do bảo vệ quyền riêng tư của người dùng. Vụ việc này đã gây ra tranh
cãi về quyền riêng tư và quyền an toàn của người dùng trên thiết bị di động.
16
III : Kết Luận
Trong cuộc sống ai cũng có ‘ quyền riêng tư’ của mình và những điều được
gọi là ‘ bí mật đời tư’. Đổi lại con người không ai là không có chí tò mò, họ muốn
biết những ‘ bí mật’ vì mục địch này hay mục đích khác, lúc đó những cá nhân cần
vận dụng đúng quyền hạn để bảo vệ sự riêng tư của bản thân. Pháp luật chính là
công cụ vừa đảm bảo quyền lợi cho con người nhưng nó cũng là công cụ kiềm chế
sự tự do của con người. Việc tự bảo vệ ‘bí mật đời tư’ của mình cũng cần được chú
ý, trước khi cần tới sự can thiệp của pháp luật, của ‘ quyền riêng tư’. Mỗi người
nên tự bảo vệ bí mật của mình bằng những cách khác nhau miễn sao hợp pháp, có
thể nói đây là cách tốt nhất. Pháp luật về quyền bí mật đời tư cũng cần sớm hoàn
chỉnh, đưa ra những biện pháp mạnh để răn đe những người xâm phạm vào đời tư
của cá nhân, xâm phạm tới quyền riêng tư của mọi người. Như vậy sẽ tạo được
lòng tin vững chắc cho người dân vào pháp luật. Ngoài ra, mỗi chúng ta cũng cần
rèn luyện cho bản thân lối sống đúng mực, năng động hơn trong việc tìm hiểu pháp
luật vừa là để biết bản thân mình có những quyền gì, đồng thời cũng tôn trọng
quyền của mọi người, tránh những hành động xâm phạm tới đến quyền và lợi ích
hợp pháp của người khác.
‘ Muốn nhận được sự tôn trọng của người khác thì trước hết bạn phải tôn trọng họ’
17