Professional Documents
Culture Documents
18E11 Group 4 Project 2 Draft 2
18E11 Group 4 Project 2 Draft 2
145
Quyền riêng tư là trọng tâm của khái niệm của quyền tự do và tự chủ cá nhân. Nhiều
vấn đề gây tranh cãi nảy sinh trong bối cảnh tranh tụng về quyền riêng tư, chẳng hạn
như quy định của Nhà nước về các mối quan hệ đồng giới, người chuyển giới và người
liên giới tính, mại dâm, phá thai, tự tử, trở tử, quy tắc ăn mặc và các quy tắc ứng xử
tương tự, trò chuyện riêng tư, hôn nhân và ly hôn, quyền tình dục và sinh sản, kỹ thuật di
truyền, nhân bản và việc tách trẻ khỏi cha mẹ của chúng, liên quan đến các vấn đề đạo
đức và luân lý cơ bản được nhìn nhận theo những cách khác nhau trong các xã hội khác
nhau.
Quyền riêng tư: quyền con người phức tạp và đa chiều
Quyền riêng tư, đôi khi còn được gọi là “quyền được một mình”, đảm bảo:
● tôn trọng sự tồn tại cá nhân của con người, tức các đặc điểm đặc trưng, ngoại hình,
danh dự và uy tín;
● bảo vệ quyền tự chủ của cá nhân, cho phép mỗi người ngừng tham gia cuộc sống
cộng đồng, trở về cuộc sống riêng tư của chính mình để định hình cuộc sống theo
mong muốn và kỳ vọng cá nhân của mỗi người. Một số đảm bảo nhất định về thể chế
ủng hộ khía cạnh này của quyền riêng tư, chẳng hạn như bảo vệ nhà ở, gia đình, hôn
nhân và bí mật thư tín;
● quyền được khác biệt và công khai thể hiện sự khác biệt bằng hành vi trái với những
tiêu chuẩn đạo đức trong một xã hội và môi trường nhất định. Do đó, các cơ quan
chính phủ và các tổ chức nhân quyền quốc tế phải đối mặt với một nhiệm vụ tế nhị và
khó khăn đó là phải cân bằng giữa quyền riêng tư và lợi ích chung hợp pháp, chẳng
hạn như bảo vệ trật tự công cộng, sức khỏe, đạo đức, các quyền và tự do của người
khác.
Các đoạn tiếp theo đề cập đến các vấn đề nảy sinh liên quan đến quyền riêng tư. Xét về
bản chất gây tranh cãi của hầu hết các vấn đề liên quan, thường không thể đưa ra câu
trả lời khái quát, vì kết luận thường chỉ được đưa ra bằng cách cân nhắc cẩn thận các
lợi ích đối kháng trong từng trường hợp cụ thể, có tính đến các trường hợp đặc biệt
chiếm ưu thế trong một xã hội nhất định.
Quyền riêng tư trước hết phải dựa trên sự tôn trọng bản sắc cá nhân, bao gồm tên,
ngoại hình, trang phục, kiểu tóc, giới tính, cảm xúc, suy nghĩ, tôn giáo và những niềm tin
khác. Các quy tắc bắt buộc về trang phục, kiểu tóc hoặc thay đổi tên của một người hay
việc không công nhận thay đổi tên, tôn giáo hoặc giới tính (ví dụ: Nhà nước từ chối thay
đổi đăng ký khai sinh cho người chuyển giới) hoặc bất kỳ hình thức tuyên truyền nào
(“tẩy não”) hay cưỡng chế thay đổi tính cách đều can thiệp vào quyền riêng tư. Sự riêng
tư của một người phải được bảo vệ bằng cách tôn trọng các nghĩa vụ bảo mật được
thừa nhận chung (ví dụ, nghĩa vụ bảo mật của các bác sĩ và linh mục) và đảm bảo bí
mật (ví dụ, trong bỏ phiếu) và bằng cách ban hành luật bảo vệ dữ liệu phù hợp với các
quyền có thể thực thi, cho phép tiếp cận, chỉnh sửa và xóa bỏ dữ liệu cá nhân.
146
Bảo vệ quyền tự chủ của cá nhân
Khái niệm về quyền tự chủ của cá nhân cũng là một phần của quyền riêng tư. Quyền tự
chủ của cá nhân - lĩnh vực đời sống riêng tư trong đó con người cố gắng đạt được sự tự
nhận thức thông qua hành động không can thiệp vào quyền của người khác - là trọng
tâm của khái niệm tự do về quyền riêng tư. Theo nguyên tắc, quyền tự chủ dẫn đến
quyền đối với cơ thể của chính mình, bao gồm sự liên quan đến tình dục và hành vi tình
dục. Các tổ chức nhân quyền quốc tế đã khẳng định rằng hành vi tình dục đồng thuận
của người trưởng thành có trong khái niệm về quyền riêng tư (Xem vụ Toonen, đoạn
8.2, Ủy ban Nhân quyền). Các tổ chức này cũng phát hiện ra hành vi vi phạm quyền
riêng tư khi việc tiếp cận vào các dịch vụ phá thai hợp pháp bị từ chối và quyết định phá
thai hợp pháp của một phụ nữ bị can thiệp (xem vụ KL kiện Peru, VDA kiện Argentina,
Ủy ban Nhân quyền). Trọng tâm của khái niệm về quyền riêng tư là khả năng các cá
nhân đưa ra quyết định về những lĩnh vực riêng tư nhất trong cuộc sống, bao gồm việc
có quan hệ tình dục hay không, với ai và khi nào; có kết hôn hay không, với ai và khi
nào; có sinh con hay không, với ai và khoảng cách giữa các lần sinh như thế nào; và
cách thể hiện giới tính hoặc tình dục của mỗi người. Bảo vệ quyền tự chủ của cá nhân
cũng bao gồm quyền thực hiện hành động gây tổn hại đến sức khỏe của một người,
gồm cả việc lấy đi mạng sống của chính họ. Tuy nhiên, một số xã hội coi hành vi như
vậy là có hại và nghiêm cấm các biểu hiện của hành vi này (ví dụ: tự tử, an tử thụ động,
sử dụng ma túy, rượu và nicotin).
Sự phát triển nhanh chóng của công nghệ truyền thông đã mở ra cơ hội mới cho
các cá nhân, bao gồm các nghị sĩ, những người bảo vệ nhân quyền và các tổ chức
xã hội dân sự, tham gia vào truyền thông trực tuyến. Tuy nhiên, Internet cũng đã
cho phép các Quốc gia, tập đoàn và những đối tượng khác xâm phạm vào các vấn
đề riêng tư, bao gồm cả việc giám sát hàng loạt và tận dụng nguồn dữ liệu cá nhân
khổng lồ hiện được chuyển giao cho mục đích thương mại và các mục đích khác.
Việc bảo vệ dữ liệu cá nhân rất quan trọng đối với các nghị sĩ trên toàn thế giới -
những người sử dụng mạng kỹ thuật số để nhận và chia sẻ thông tin ngày càng
nhiều.
Trong báo cáo gửi tới Khóa họp lần thứ 27 của Hội đồng Nhân quyền, OHCHR đã
đề cập “bất kỳ việc thu thập dữ liệu liên lạc nào đều có khả năng can thiệp vào
quyền riêng tư và hơn nữa, việc thu thập và lưu giữ dữ liệu liên lạc có thể dẫn đến
sự can thiệp vào quyền riêng tư dù sau đó những dữ liệu này có được tham khảo
hoặc sử dụng hay không. Ngay cả khả năng thông tin liên lạc đơn thuần bị thu thập
cũng can thiệp vào quyền riêng tư, có nguy cơ gây ảnh hưởng xấu đến các quyền,
bao gồm cả quyền tự do biểu đạt và lập hội. Chính sự tồn tại của chương trình
giám sát hàng loạt đã là một sự can thiệp vào quyền riêng tư. Nhà nước sẽ có
trách nhiệm chứng minh rằng sự can thiệp đó không phải là tùy tiện cũng không trái
pháp luật ”(A/HRC/27/37, đoạn 20).
“Chương trình giám sát hàng loạt liên quan đến
các phương tiện truyền thông kỹ thuật số và
nhiều hình thức biểu đạt công nghệ số khác cấu
147
thành những vi phạm về quyền riêng tư, bao gồm
cả khi việc theo dõi được tiến hành từ ngoài
nước, gây nguy hiểm cho quyền tự do ngôn luận
và thông tin, cũng như các quyền cơ bản khác
của con người, bao gồm cả quyền tự do hội họp
hòa bình và lập hội, từ đó làm suy yếu nền dân
chủ tham gia.”
Dân chủ trong kỷ nguyên công nghệ số và sự đe dọa quyền
riêng tư và các quyền tự do cá nhân. Nghị quyết đã được
Hội đồng IPU lần thứ 133 nhất trí thông qua (Geneva, ngày
21 tháng 10 năm 2015).
Số 62 Trong luật nhân quyền quốc tế, “gia đình” có nghĩa là gì?
Tuyên ngôn Quốc Tế Nhân quyền công nhận gia đình là “đơn vị tự nhiên và căn
bản của xã hội”. Gia đình cũng được bảo vệ theo Điều 23 của ICCPR, Điều 10 của
ICESCR, Điều 16 của Hiến chương xã hội châu Âu, Điều 8 của ECHR, Điều 17 của
ACHR và Điều 18 của Hiến chương châu Phi về Con người và Quyền của con
người. Các văn kiện nhân quyền công nhận việc có thể có nhiều loại hình gia đình.
Ngoài quan hệ huyết thống và quan hệ pháp lý (kết hôn, nhận con nuôi, đăng ký
148
quan hệ đồng giới, v.v.), sống thử trước hôn nhân, các mối quan hệ kinh tế, các giá
trị văn hóa và xã hội cụ thể của một xã hội nhất định là những tiêu chí chính được
các cơ chế bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền sử dụng để xác định việc một nhóm tạo
thành một gia đình.
Số 63 Giới hạn về sự can thiệp Nhà nước vào cuộc sống gia đình liên quan
đến luật và chính sách nhập cư, trục xuất và dẫn độ
Mặc dù không có một quyền chung nào dành cho những người không quốc tịch
nhập cảnh và cư trú tại một quốc gia, các chính sách về việc tùy tiện nhập cư và
phân biệt đối xử có thể vi phạm quyền đoàn tụ và bảo vệ gia đình. Khi một người
không quốc tịch sống ở một quốc gia càng lâu, đặc biệt là sau khi họ đã lập gia
đình ở đó, thì các lý lẽ của chính phủ càng phải mạnh mẽ hơn để chứng minh cho
việc trục xuất người đó là xác đáng. Ủy ban Nhân quyền nhấn mạnh rằng ICCPR
bảo vệ quyền được sống chung của các gia đình trong Bình luận chung Số 15
(1986) về vị trí của người ngoại quốc theo Công ước. Hơn nữa, trong đoạn 5 của
Bình luận chung Số 19 (1990) về quyền bảo vệ gia đình, quyền được kết hôn và
bình đẳng giữa vợ và chồng, Uỷ ban đã nêu rằng “việc có thể sống chung bao hàm
sự áp dụng các biện pháp thích hợp ở cả cấp độ nội bộ và tuỳ vào từng trường
hợp mà có thể hợp tác với các Quốc gia khác, để đảm bảo sự đoàn kết hoặc đoàn
tụ của các gia đình, đặc biệt là khi các thành viên trong gia đình bị chia cắt do các
vấn đề chính trị, kinh tế và các nguyên nhân tương tự.”
149
Trong phán quyết của vụ Francesco Madafferi kiện Australia (Thông báo số
1011/2001), Ủy ban Nhân quyền cho rằng “Trong trường hợp hiện tại, Uỷ ban xem
xét thấy rằng quyết định của quốc gia thành viên nhằm trục xuất người cha trong
một gia đình có bốn đứa trẻ vị thành niên và việc buộc gia đình của họ đưa ra lựa
chọn xem những đứa trẻ này nên đi cùng người cha hay ở lại quốc gia đó được coi
là hành vi ‘can thiệp’ gia đình, ít nhất là trong cả hai trường hợp nêu trên sẽ có
những thay đổi đáng kể đối với cuộc sống gia đình ổn định lâu dài.”
Luật được thi hành trong những năm gần đây ở một số quốc gia nhằm mở rộng
quyền hạn của cảnh sát và dịch vụ an ninh để chống tội phạm, bao gồm cả khủng
bố, đặc biệt gây ảnh hưởng đến quyền riêng tư. Thế nhưng, ngay cả những khuôn
khổ pháp lý này cũng đã bị suy yếu do việc các mạng lưới cơ quan tình báo xuyên
quốc gia phối hợp với các hoạt động giám sát nhằm vượt mặt các biện pháp bảo
vệ do các chế độ pháp lý trong nước cung cấp. Ngoài việc mở rộng quyền hạn cơ
bản của cảnh sát như khám xét, bắt giữ và giám sát mục tiêu (thường không có sự
cho phép trước của tòa án), các mối quan tâm về nhân quyền đã phát sinh, đặc
biệt liên quan đến việc sàng lọc hàng loạt, quét, xử lý, kết hợp, đối sánh, lưu trữ và
giám sát dữ liệu cá nhân, chẳng hạn như các phương pháp tự động lấy dấu vân
tay, mẫu máu và DNA từ các nhóm đối tượng, mà điều này có thể được lựa chọn
thông qua việc lập hồ sơ cũng như mức độ minh bạch tối thiểu liên quan đến các
chính sách, luật và các hoạt động này.
Ở lĩnh vực này (trong mối liên hệ với các quyền con người khác như quyền tự do
cá nhân và quyền được xét xử công bằng), các thành viên của quốc hội là người
chịu trách nhiệm chính: họ phải đảm bảo rằng mọi sự mở rộng quyền hạn của cảnh
sát và năng lực tình báo, nếu thực sự cần thiết, cần phải diễn ra:
● một cách minh bạch và dân chủ;
● có thái độ tôn trọng với các quy tắc và tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế;
● không làm giảm sút các giá trị của một xã hội tự do, dân chủ: quyền tự
do cá nhân, quyền riêng tư và pháp quyền.
150
Các thành viên của quốc hội cũng đảm nhiệm vai trò quan trọng trong việc đảm bảo
công việc giám sát cảnh sát và các cơ quan tình báo được thực hiện đầy đủ và độc lập,
đặc biệt trong bối cảnh đang xảy ra các cuộc giám sát hàng loạt và việc thi hành luật,
chính sách và biện pháp có liên quan tới những tổ chức này.
Quyền tự do đi lại
Điều 13 của UDHR quy định
“1. Mọi người có quyền tự do đi lại và cư trú trong
phạm vi lãnh thổ Quốc gia.
2. Mọi người đều có quyền rời khỏi bất cứ nước nào, kể
cả nước mình, cũng như có quyền trở về nước mình.”
Điều 12 của ICCPR quy định
“1. Bất cứ ai cư trú hợp pháp trên lãnh thổ của một Quốc
gia đều có quyền tự do đi lại và tự do lựa chọn nơi cư trú
trong phạm vi lãnh thổ Quốc gia đó.
2. Mọi người đều có quyền tự do rời khỏi bất kỳ nước
nào, kể cả nước mình.
3. Những quyền đề cập trên đây sẽ không phải chịu bất
kỳ hạn chế nào, trừ những hạn chế do luật định và là cần
thiết để bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng, sức
khoẻ hoặc các giá trị đạo đức xã hội hay các quyền tự do
của người khác, và phải phù hợp với những quyền khác
được Công ước này công nhận.
4. Không ai bị tước đoạt một cách tuỳ tiện quyền được
trở về mình.”
Điều 13 của ICCPR quy định
“Một người nước ngoài cư trú hợp pháp trên lãnh thổ
một quốc gia thành viên Công ước chỉ có thể bị trục
xuất khỏi nước đó theo quyết định phù hợp với pháp
luật, và trừ trường hợp có yêu cầu khác xuất phát từ lý
do chính đáng về an ninh quốc gia; người bị trục xuất
phải được phép đệ trình những lý lẽ phản đối việc trục
xuất, được yêu cầu nhà chức trách có thẩm quyền, hay
một hoặc những người mà nhà chức trách có thẩm
quyền đặc biệt cử ra, xem xét lại trường hợp của mình,
và được có đại diện khi trường hợp của mình được xem
xét lại.”
151
Tuyên ngôn Thế giới về Quyền con người và ICCPR bảo vệ quyền của bất cứ ai cư trú
hợp pháp trên lãnh thổ của một quốc gia đều được tự do đi lại và tự do lựa chọn nơi cư
trú trong phạm vi lãnh thổ quốc gia đó. Quyền này cần được bảo vệ khỏi sự can thiệp
của nhà nước và tư nhân.
Quyền tự do đi lại của người không quốc tịch cư trú ở một Quốc gia
Với việc quyền tự do đi lại chỉ áp dụng với những ai cư trú hợp pháp trên lãnh thổ của
một Quốc gia, chính phủ có thể áp đặt các giới hạn đối với việc nhập cảnh của người
không quốc tịch. Việc cư trú của người không quốc tịch trên lãnh thổ của một Quốc gia
có được coi là “hợp pháp” hay không còn phụ thuộc vào luật của Quốc gia đó, luật này
có thể nêu rõ những giới hạn đối với việc nhập cảnh. Một người không có quốc tịch
được coi là cư trú hợp pháp khi họ đáp ứng đủ nghĩa vụ quốc tế của Quốc gia đó.
Những người không quốc tịch nhập cảnh trái phép nhưng được hợp thức hoá sau đó thì
được coi là cư trú hợp pháp trong lãnh thổ quốc gia. Khi một người cư trú hợp pháp
trong lãnh thổ một nước, mọi hạn chế và đối xử khác biệt với cá nhân đó so với công
dân nước đó phải được chứng minh dựa trên các nguyên tắc quy định ở khoản 3 Điều
12 của ICCPR.
Một ví dụ của các giới hạn áp đặt lên người không quốc tịch được thể hiện trong trường
hợp của ông Celepli kiện Thụy Điển trước Ủy ban Nhân quyền (1994). Ông Celepli là
một người Thổ Nhĩ Kỳ gốc Kurd hiện đang sinh sống ở Thụy Điển, đã được lệnh yêu cầu
rời khỏi quốc gia này do nghi ngờ có liên quan tới các hoạt động khủng bố. Lệnh yêu
cầu trên đã không được thực hiện bởi các nhà chức trách Thụy Điển cho rằng ông
Celepli có nguy cơ bị ngược đãi ở Thổ Nhĩ Kỳ; cho nên ông ấy được phép tiếp tục ở lại
Thụy Điển với điều kiện là phải sinh sống ở một khu tự trị nhất định và phải báo cáo
thường xuyên với cảnh sát. Ủy ban Nhân quyền khẳng định rằng những hạn chế về
quyền tự do đi lại này không bị coi là vi phạm khoản 3 Điều 12 của ICCPR.
Quyền tự do rời khỏi một quốc gia
Khoản 2 Điều 12 của ICCPR quy định rằng tất cả mọi người (công dân và người không
quốc tịch, và thậm chí những người định cư trái phép tại một nước) đều có quyền tự do
rời khỏi Quốc gia đó. Quyền này áp dụng cho cả những chuyến du lịch nước ngoài ngắn
và dài hạn cũng như di cư (vĩnh viễn và tạm thời). Việc áp dụng quyền này không nên
phụ thuộc vào mục đích và thời gian mà cá nhân dự định ở lại nước ngoài.
Quyền này đặt ra những nghĩa vụ cho cả Quốc gia nơi cư trú và Quốc gia mang quốc
tịch. Chẳng hạn, Quốc gia mang quốc tịch phải cấp giấy thông hành và hộ chiếu cho mọi
công dân đang sinh sống trong và ngoài nước. Việc một Quốc gia từ chối việc cấp hộ
chiếu hay yêu cầu người dân phải có thị thực xuất cảnh thì mới được rời khỏi Quốc gia
đó được coi là hành vi can thiệp vào quyền tự do đi lại, và điều này rất khó để bào chữa.
Hơn nữa, trong Bình luận chung số 27 của Ủy ban Nhân quyền năm 1999 về quyền tự
do đi lại, đã nêu: “Khi kiểm tra các bản báo cáo của Quốc gia, Ủy ban đã nhiều lần phát
hiện ra các biện pháp được áp dụng nhằm cản trở việc phụ nữ đi lại tự do hoặc rời khỏi
đất nước đó bằng việc yêu cầu người phụ nữ phải có sự chấp thuận hoặc hộ tống của
đàn ông. Các biện pháp này được coi là đã vi phạm Điều 12.”
152
Số 65 Các rào cản đối với quyền tự do đi lại: các ví dụ
Trong đoạn số 17 của Bình luận chung số 27 (1999), Ủy ban Nhân quyền lưu ý
rằng quyền tự do đi lại thường phải chịu những rào cản được liệt kê dưới đây,
khiến việc đi lại trong nước hoặc giữa các quốc gia trở nên khó khăn hoặc không
thể thực hiện được. Các nghị sĩ có thể muốn phản đối các biện pháp như vậy.
Di chuyển trong nước
• Có nghĩa vụ xin giấy phép đi lại trong nước
• Có nghĩa vụ xin phép thay đổi nơi cư trú
• Có nghĩa vụ xin chính quyền địa phương nơi đến
• Trì hoãn về mặt hành chính trong việc xử lý các đơn từ
Di chuyển đến một quốc gia khác
• Hạn chế khả năng tiếp cận với các cơ quan có thẩm quyền hoặc thông tin liên
quan đến các yêu cầu
• Yêu cầu nộp các mẫu đơn đặc biệt để có được các mẫu đơn chính thức xin cấp
hộ chiếu
• Yêu cầu cung cấp bản kê khai chi tiết kèm theo của người sử dụng lao động
hoặc người thân
• Đòi hỏi phải mô tả chính xác về lộ trình đi lại
• Phí cấp hộ chiếu cao
• Trì hoãn trong việc cấp các giấy tờ đi lại
• Áp đặt những hạn chế đối với các thành viên gia đình trong việc đi lại với nhau
• Đòi hỏi khoản bảo lãnh hồi hương thông qua đặt cọc hoặc vé khứ hồi
• Đưa ra những đòi hỏi về việc phải có giấy mời từ nước đến
• Gây ra những phiền nhiễu với người nộp đơn
Hạn chế
Quyền tự do đi lại sẽ không phải chịu bất kỳ hạn chế nào, trừ những hạn chế do luật
định và là cần thiết để bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo
đức xã hội hoặc các quyền tự do của người khác (Điều 12, Khoản 3 ICCPR quy định).
Theo Ủy ban Nhân quyền, trong đoạn 16 của Bình luận chung số 27 (1999), các yêu
cầu này sẽ không được đáp ứng, ví dụ: “Không cho phép một người ra nước ngoài vì
cho rằng người này nắm giữ "các bí mật của nhà nước", hoặc ngăn cản một cá nhân đi
lại trong nước với lý do không có giấy phép cụ thể”. Mặt khác, Ủy ban xác định một số
hạn chế được coi là thích đáng, bao gồm giới hạn việc đi lại vào những khu vực quân
sự vì lý do an ninh quốc gia hoặc những giới hạn về quyền tự do cư trú ở những nơi có
cộng đồng thiểu số hoặc bản xứ sinh sống.
153
Số 66 Ban hành và giám sát thực hiện các hạn chế
Xây dựng luật pháp
Khi thông qua những luật đưa ra các hạn chế theo Khoản 3, Điều 12 ICCPR, chính
quyền các quốc gia phải luôn tuân thủ nguyên tắc, theo đó, các hạn chế phải không
làm tổn hại đến bản chất của các quyền. Luật phải quy định các tiêu chí rõ ràng cho
các hạn chế, phải được thực hiện một cách khách quan - và tôn trọng nguyên tắc
cân xứng; các hạn chế phải phù hợp, ít xâm phạm nhất có thể, và phải cân xứng
với lợi ích được bảo vệ.
Thực hiện
Nếu một Quốc gia quyết định áp đặt các hạn chế thì các hạn chế này phải được
quy định trong luật. Các hạn chế không được pháp luật quy định và không phù hợp
với Khoản 3 Điều 12 của ICCPR đều vi phạm quyền tự do đi lại. Hơn nữa, các hạn
chế phải phù hợp với những quyền khác được quy định trong ICCPR và với những
nguyên tắc về bình đẳng và không phân biệt đối xử.
Số 67 Lệnh cấm các biểu tượng tôn giáo công khai trong các trường học ở
Pháp
Tranh cãi về một đạo luật của Pháp được ban hành vào năm 2004 cho thấy mức
độ nhạy cảm về vấn đề đặt giới hạn cho sự bày tỏ về tôn giáo hoặc tín ngưỡng.
Một dự luật đã được đa số thành viên quốc hội thông qua nhằm cấm các biểu
tượng tôn giáo công khai khỏi các trường học công ở Pháp. Luật đã được nhiều
người coi là nhắm vào khăn trùm đầu của người Hồi giáo, mặc dù lệnh cấm cũng
bao gồm mũ đầu lâu của người Do Thái và cây thánh giá lớn của Cơ đốc giáo.
Trong khi Quốc hội và Chính phủ Pháp biện minh cho đạo luật này bằng cách viện
dẫn nguyên tắc thế tục (tách biệt nghiêm ngặt giữa Nhà nước và tôn giáo) và nhu
cầu bảo vệ những phụ nữ Hồi giáo khỏi sự phân biệt giới tính, nhiều nhóm nhân
quyền cho rằng lệnh cấm này vi phạm quyền tự do tôn giáo hoặc tín ngưỡng và coi
lệnh cấm này là sự ép buộc. Và theo Khoản 2 Điều 18 của ICCPR, sự ép buộc này
bị nghiêm cấm.
157