You are on page 1of 32

PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CON NGƯỜI

1. Quyền không bị phân biệt đối xử, được thừa nhân và bình đẳng trước pháp
luật

- Không bị phân biệt đối xử

- được thừa nhận với tư cách con người trước PL

- có vị thế bình đẳng trước PL và được PL bảo về một cách bình đẳng

- (điều 1,2,6,7,8 của UDHR và trong điều 2,3,16,26 cua ICCPR)

“đảm bảo bình đẳng giữa nam và nữ trong việc thực hiện tất cả các quyền về dân sự
và chính trị” (điều 3 ICCPR)

- Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận trong Điều 16 nguyên tắc bình đẳng, không phân
biệt đối xử

- Điều 35 Hiến pháp năm 2013 nghiêm cấm phân biệt đối xử, cưỡng bức lao động, sử
dụng nhân công dưới độ tuổi lao động tối thiểu.

- Không chỉ được quy định trong hiến pháp mà còn được cụ thể hóa trong các ngành
luật như hình sự, dân sự, …

2. Quyền sống

“Mọi người đều có quyền được sống. Quyền này phải được PL bảo vệ. Không ai có
thể bị tước mạng sống một cách tùy tiện” (điều 6 ICCPR)

“Chỉ được phép áp dụng hình phạt tử hình đối với những tội ác nghiêm trọng nhất, căn
cứ vào pháp luật hiện hành tại thời điểm tội phạm được thực hiện”

“ Hình phạt tử hình chỉ được thi hành trên cở sở bản án có hiệu lực pháp luật, do tòa
án có thẩm quyền phán quyết”

- đây là quyền thiêng liêng nhất

- quyền sống – cấm các hoạt động tuyên truyền chiến tranh, kích động hận thù, bạo
lực
- hình phạt tử hình “chỉ được áp dụng đối với những tội ác nghiêm trọng nhất”

- Cũng như nhiều khía cạnh phức tạp khác của quyền sống, luật nhân quyền quốc tế
chưa đề cập cụ thể đến các vấn đề an tử. Song ở cấp châu lục, Nghị viện của Hội đồng
châu Âu, trong một khuyến nghị đưa ra vào năm 1999, đã nêu rằng, các quốc gia
thành viên cần: “Bảo đảm rằng, trừ khi người bệnh tự lựa chọn, tất cả những người
bệnh nan y hoặc sắp chết đều phải được hưởng các biện pháp chăm sóc để làm giảm
sự đau đớn, kể cả khi các biện pháp đó có thể gây ra tác dụng phụ là làm giảm thời
gian sống của họ”. Khuyến nghị này hàm ý rằng việc hỗ trợ ngưng các thiết bị điều trị
duy trì sự sống của bệnh nhân theo ý nguyện của người đó sẽ không bị coi là vi phạm
quyền sống. Mặc dù vậy, nếu việc này được thực hiện với những bệnh nhân không có
khả năng thể hiện ý chí của mình (ví dụ, sống thực vật) thì sẽ bị coi là vi phạm quyền
sống.

- Điều 19 Hiến pháp 2013 quy định: “Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người
được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật”.

- Việt Nam cũng đã tham gia cả hai Công ước quốc tế cơ bản về nhân quyền năm
1966 (ICCPR, ICESCR) và một số điều ước quốc tế khác về quyền của các nhóm xã
hội dễ bị tổn thương như Công ước về quyền trẻ em 1989, Công ước về xóa bỏ các
hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ 1979… Việt Nam cũng đã ký và dự định sớm
phê chuẩn Công ước về quyền của những người khuyết tật 2006. Đây là những cơ sở
pháp lý quốc tế để thúc đẩy các quyền của những nhóm yếu thế, bao gồm quyền sống,
ở Việt Nam.

- Tuy nhiên, Việt Nam vẫn chưa công nhận quyền an tử.

3. Quyền được bảo vệ không bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân
đạo

“Không ai có thể bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt một cách tàn ác, vô nhân đạo hoặc
hạ thấp nhân phẩm. Đặc biệt, không ai có thể bị sử dụng để làm thí nghiệm y học hoặc
khoa học mà không có sự đồng ý tự nguyện của người đó”. Điều 7 ICCPR

- bảo vệ phẩm giá của mỗi cá nhân;


- cấm tra tấn và cấm áp dụng các hình thức đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo và
hạ nhục phải được duy trì trong mọi tình huống.

- đề cập cụ thể trong Công ước CAT – 1984

- VN đã tham gia công ước chống tra tấn như Quốc hội Việt Nam thông qua Nghị
quyết số 83/2014/QH13 phê chuẩn Công ước chống tra tấn của LHQ.

Việc tham gia Công ước chống tra tấn là bước đi cụ thể trong quá trình chủ động và
tích cực hội nhập quốc tế của Việt Nam, khẳng định Việt Nam là thành viên tích cực
và có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, nâng cao đáng kể uy tín quốc tế của Việt
Nam trên lĩnh vực nhân quyền và tạo ra những động lực, cơ sở mới để thúc đẩy hoạt
động phòng, chống tra tấn ở nước ta hiện nay.

4. Quyền được bảo vệ để khỏi bị bắt làm nô lệ hay nô dịch

“Không ai có thể bị bắt làm nô lệ hay nô dịch; chế độ nô lệ và sự mua bán nô lệ dưới
mọi hình thức đều bị cấm chỉ.” Điều 4 UDHR

- các công ước ILO cũng đề cập đến nội dung chống cưỡng bức

Công ước số 29 về xóa bỏ lao động cưỡng bức và lao động bắt buộc của ILO

- một số ngoại lệ về hình thức lao động cưỡng bức: nghĩa vụ quân sự, chấp hành cải
tạo

Công ước số 105 về xóa bỏ lao đông cưỡng bức

+ mọi quốc gia thành viên… cam kết bãi bỏ LĐ cưỡng bức hoặc bắt buộc. Cam kết
không sử dụng bất kỳ hình thức nào của LĐ đó:

Như là 1 biện pháp cưỡng chế, giáo dục chính trị, hoặc như 1 sự trừng phạt đối với
những ai phát biểu chính kiến…;

Như là 1 biện pháp về xử lý vi phạm KLLĐ;

Như 1 sự trừng phạt đối vì đã tham gia đình công;

Như là 1 biện pháp phân biệt đối xử về chủng tộc, xã hội, dân tộc hoặc tôn giáo.

5. Quyền được bảo vệ khỏi bị bắt, giam giữ tùy tiện


"Mọi người đều có quyền hưởng tự do và an toàn cả nhân. Không ai bị bắt hoặc bị
giam giữ vô cở. Không ai bị tước quyền tự do trừ TH việc tước quyền đó có lý do và
theo đúng những thủ tục mà PL quy định".

Đồng thời, "Bất cứ người nào bị bắt giữ đều phải được thông bảo vào lúc bị bắt về
những lý do họ bị bắt và phải được thông bảo không chậm trễ về sự buộc tội đối với
họ" (Diều 9 - ICCPR).

"Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể. Không ai bị băt nêu không có
quyêt định của Tòa ản, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát, trừ trường hợp
phạm tội quả tang (Điều 10 - BLTTHS).

6. Quyền được đối xử nhân đạo và tôn trọng nhân phẩm của những người bị
tước tự do

"Những người bị tước tự do phải được đối xử nhân đạo với sự tôn trọng nhân phẩm
vốn có của con người" và " ...việc đối xử với tù nhân trong trại giam nhằm mục đích
chính yếu là cải tạo và đưa họ trở lại xã hội, chứ không phải nhằm mục đích là trừng
phạt hay hành hạ họ "(Điều 10 - ICCPR).

"Nghiêm cẩm tra tấn, bức cung, dùng nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác
xâm phạm thân thể, tính mạng, sức khỏe của con người" (đoạn 2, Điều 10 - BLTTHS
Việt Nam).

7. Quyền về xét xử công bằng

- Bình đẳng trước tòa án

- Được suy đoán vô tội

- Không bị áp dụng hồi tố

Bình đẳng trước Tòa án

"Mọi người đều bình đẳng về quyền được xét xứ công bằng và công khai bởi một tòa
án độc lập và khách quan để xác định các quyền và nghĩa vụ của họ" Điều 10- UDHR
"Mọi người bị cáo buộc về hình sự đều có quyền được coi là vô tội cho đến khi được
chứng minh là tội phạm theo pháp luật tại một phiên tòa xét xử công khai, nơi người
đó được bảo đàm những điều kiện cần thiết để bào chữa cho mình" (Diều11 - UDHR).

Nguyên tắc "suy đoán vô tội" trong BLTTHS

Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đên khi được chứng minh theo trình tự,
thủ tục đo PL quy định và có bản ân kết tội của Tòa án có hiệu lực PL;

Khi không đủ và không thể làm sáng tô căn cứ để buộc tội, kết tội thì cơ quan, người
có thẩm quyền THTT phải kết luận người bị buộc tội không có tội;

8. Quyền tự do đi lại và cư trú

"Mọi người đều có quyền tự do đi lại và tự do cư trú trong phạm vi lãnh thổ của quốc
gia. Mọi người đều có quyền rời khỏi bất kỳ nước nào, kể cả nước mình, cũng như có
quyền trở về nước mình" (Điều 13 - UDHR).

Tại Việt Nam: Điều 23 Hiến pháp năm 2013: "Công dân có quyền tự do đi lại và cư
trú ở trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước".

VN cũng đã ký kết 78 hiệp định và thỏa thuận song phương về miễn thị thực cho công
dân các nước và vùng lãnh thổ, hiệp định biên giới các nước láng giềng, tạo điều kiện
thuận lợi cho công dân qua lại.

Việc hạn chế đi lại, di chuyển trong đợt dịch Covid -19 có xâm phạm đến quyền
tự do đi lại, cư trú hay không?

Khoản 2, Điều 14 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Quyền con người, quyền công dân
chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc
phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng
đồng”.

9. Quyền được bảo vệ đời tư

"Không ai phải chịu sự can thiệp một cách tùy tiện vào cuộc sống riêng tư, gia đình,
nơi ở hoặc thư tín, cũng như bị xúc phạm danh dự hoặc uy tín cả nhân. Mọi người đều
có quyền được pháp luật bảo vệ chống lại sự can thiệp và xâm phạm như vậy" (Điều
12 - UDHR)

10. Quyền tự do bày tỏ ý kiến, niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo

"Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận và bảy tỏ ý kiến; kể cả tự do bảo lưu quan
điêm mà không bị can thiệp; cũng như tự do tìm kiểm, tiếp nhận và truyền bả cúc ý
tưởng và thông tin bằng bất kỳ phương tiện truyền thông nào và không có giới hạn về
biên giới" (Điều 19 - UDHR)

"Mọi người có quyền giữ quan điểm của mình mà không bị ai can thiệp. Mọi người có
quyền tự do ngôn luận" (Điều 19- ICCPR).

"Mọi hình thức tuyên truyền cho chiến tranh, mọi chủ trương gây hẳn thù dân tộc,
chủng tộc hoặc tôn giáo để kích động sự phân biệt đối xứ về chủng tộc, sự thù địch,
hoặc bạo lực đều phải bị pháp luật nghiêm cầm" (Điều 20 - ICCPR).

Tại Việt Nam

1. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo
nào.

2. Mỗi người có quyền bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo; thực hành lễ nghi tín
ngưỡng, tôn giáo; tham gia lễ hội; học tập và thực hành …(điều 6 Luật tín ngưỡng, tôn
giáo)

Thực tiễn bảo đảm quyền này tại VN?

11. Quyền kết hôn, lập gia đình và bình đẳng trong hôn nhân

"Nam và nữ khi đủ tuổi đều có quyên kêt hôn và xây dựng gia đình mà không cỏ bất
kỳ sự hạn chế nào về chủng tộc, quốc lịch hay tôn gião. Nam và nữ có quyên binh
dang trong việc kêt hôn, trong thời gian chung sống và khi ly hôn. Việc kết hôn chỉ
được tiến hành với sự đồng ý hoàn toàn và tự nguyện của vợ chồng" (Điều 16 -
UDHR).
ICCPR khẳng định quyền của nam, nữ đến tuổi kết hôn thì được kết hôn và lập gia
đình một cách tự do, tự nguyện.

Việc tự do, tự nguyện bao gồm cả quyền tự do sống cùng nhau và sinh con một cách
tự nguyện, không mang tính chất cưỡng bức hay phân biệt đối xử.

- Điều 36 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “1. Nam, nữ có quyền kết hôn, ly hôn.
Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng,
tôn trọng lẫn nhau. 2. Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình, bảo hộ quyền lợi của
người mẹ và trẻ em”.

Tại Điều 2 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định những nguyên tắc cơ bản
của chế độ hôn nhân và gia đình gồm: “1. Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một
chồng, vợ chồng bình đẳng. 2. Hôn nhân giữa công dân Việt Nam thuộc các dân tộc,
tôn giáo, giữa người theo tôn giáo với người không theo tôn giáo, giữa người có tín
ngưỡng với người không có tín ngưỡng, giữa công dân Việt Nam với người nước
ngoài được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ. 3. Xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ,
hạnh phúc; các thành viên gia đình có nghĩa vụ tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp
đỡ nhau; không phân biệt đối xử giữa các con. 4. Nhà nước, xã hội và gia đình có
trách nhiệm bảo vệ, hỗ trợ trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật thực hiện các
quyền về hôn nhân và gia đình; giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý
của người mẹ; thực hiện kế hoạch hóa gia đình. 5. Kế thừa, phát huy truyền thống văn
hóa, đạo đức tốt đẹp của dân tộc Việt Nam về hôn nhân và gia đình”.

Pháp luật Việt Nam cũng quy định vợ, chồng bình đẳng với nhau, có quyền, nghĩa vụ
ngang nhau về mọi mặt trong gia đình, trong việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ của
công dân được quy định trong Hiến pháp, Luật Hôn nhân và Gia đình và các luật khác
có liên quan. Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm,
chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình.
Việc lựa chọn nơi cư trú của vợ chồng do vợ chồng thỏa thuận, không bị ràng buộc
bởi phong tục, tập quán, địa giới hành chính.

12. Quyền tự do hiệp hội


“ Mọi người đều có quyền tự do hiệp hội và lập hội nhóm 1 cách hòa bình, không ai bị
ép buộc phải tham gia vào bất cứ hiệp hội nào. (điều 20 UDHR)

Được quy định tại điều 25 hiến pháp 2013.

Nhưng thực tế ở VN thì chưa có luật về hội, luật về biểu tình.

Điều 22 ICCPR

Quyền tự do hiệp hội trong các FTA

CPTPP yêu cầu các bên thông qua và duy trì:

+ Tự do liên kết và công nhận thực chất quyền TLTT

+ chấm dứt mọi hình thức lao động cưỡng bức hoặc ép buộc

+ loại bỏ một cách hiệu quả lao đồng trẻ em, cấm các hình thức lao động trẻ em tồi tệ
nhất

+ chấm dứt phân biệt đối xử về việc làm và nghề nghiệp.

Về quyền tự do liên kết

Công ước 87

Công ước 98

VN- quyền tự do hiệp hội

VN chưa phê chuẩn công ước 87

13. Quyền được tham gia đời sống chính trị

- Điều 21 - UDHR – “Mọi người đều có quyền tham gia quản lý đất nước mình, một
cách trực tiếp hoặc thông qua các đại diện mà họ được tự do lựa chọn. Mọi người đều
có quyền được tiếp cận các dịch vụ công cộng ở nước mình một cách bình đẳng”.

- Mọi công dân, không có bất kỳ sự phân biệt nào... và không có bất kỳ sự hạn chế bất
hợp lý nào, đều có quyền và cơ hội để:

+ Tham gia điều hành các công việc xã hội một cách trực tiếp hoặc thông qua những
đại diện do họ tự do lựa chọn;
+ Bầu cử và ứng cử trong các cuộc bầu cử định kỳ chân thực, bằng phổ thông đầu
phiếu, bình đẳng và bỏ phiếu kín, nhằm đảm bảo cho cử tri được tự do bày tỏ ý
nguyện của mình;

+ Được tiếp cận với các chức vụ công ở đất nước mình trên cơ sở bình đẳng (Điều 25
– ICCPR).

- Các điều kiện để tham gia:

+ Độ tuổi;

+ Khả năng nhận thức;

+ Và các điều kiện khác… do từng quốc gia quy định.

- ở VN, Hiến pháp quy định về việc người dân đủ độ tuổi nhất định thì được tham gia
bầu cử và ứng cử vào cơ quan nhà nước, …

14. Quyền được hưởng và duy trì tiêu chuẩn sống thích đáng

“Mọi người đều có quyền được hưởng một mức sống thích đáng, đủ để bảo đảm sức
khoẻ và phúc lợi của bản thân và gia đình, về các khía cạnh ăn, mặc, ở, chăm sóc y tế
và các dịch vụ xã hội cần thiết…” (Điều 25 UDHR).
15. Quyền làm việc và hưởng thù lao công bằng, hợp lý

(1). Mọi người đều có quyền làm việc, quyền tự do lựa chọn nghề nghiệp, được hưởng
những điều kiện làm việc công bằng, thuận lợi và được bảo vệ chống lại nạn thất
nghiệp;

(2). Mọi người đều có quyền được trả công ngang nhau cho những công việc như
nhau mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào;

(3). Mọi người lao động đều có quyền được hưởng chế độ thù lao công bằng và hợp lý
nhằm bảo đảm sự tồn tại của bản thân và gia đình xứng đáng với nhân phẩm, và được
trợ cấp khi cần thiết bằng các biện pháp bảo trợ xã hội;

(4). Mọi người đều có quyền thành lập hoặc gia nhập công đoàn để bảo vệ các quyền
lợi của mình (Điều 23 – UDHR).
ICESCR cũng đã nhắc lại quyền này: “Các quốc gia thành viên thừa nhận quyền làm
việc, trong đó bao gồm quyền của tất cả mọi người có cơ hội kiếm sống bằng công
việc do họ có thể tự do lựa chọn hoặc chấp nhận. Các quốc gia thành viên Công ước
phải tiến hành các biện pháp thích đáng để bảo đảm quyền này”. (Điều 6 – ICESCR).

Nội dung này được đề cập cụ thể trong các ILS của ILO.

16. Quyền được hưởng an sinh xã hội

Điều 22 UDHR: “Mọi người đều có quyền được hưởng an sinh xã hội”.

Ví dụ: Ở Pháp có Chương trình hỗ trợ nhà ở cho sinh viên và người nghèo – CAF.
Hay chính sách hỗ trợ thất nghiệp ở nhiều quốc gia.

17. Quyền được hỗ trợ về gia đình

“Các bà mẹ và trẻ em có quyền được hưởng sự chăm sóc và giúp đỡ đặc biệt. Mọi trẻ
em, dù sinh ra trong hay ngoài giá thú, đều phải được hưởng sự bảo trợ xã hội như
nhau” – Điều 16 UDHR.

(1) Dành sự giúp đỡ và bảo hộ tới mức tối đa có thể được cho gia đình - tế bào cơ bản
và tự nhiên, của xã hội - nhất là đối với … trẻ em đang sống lệ thuộc;

(2) Dành sự bảo hộ đặc biệt cho các bà mẹ trong một khoảng thời gian thích đáng
trước và sau khi sinh con...;

(3) Áp dụng những biện pháp bảo vệ và trợ giúp đặc biệt đối với mọi trẻ em và thanh
thiếu niên mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào vì các lý do xuất thân hoặc các
điều kiện khác... – Điều 10, ICESCR.

18. Quyền được bảo vệ sức khỏe

“Mọi người có quyền được hưởng một mức sống thích đáng, đủ để bảo đảm sức khỏe
và phúc lợi của bản thân và gia đình, về các khía cạnh ăn, mặc, ở, chăm sóc y tế và
các dịch vụ xã hội cần thi ết... Các bà mẹ và trẻ em có quyền được hưởng sự chăm sóc
và giúp đỡ đặc biệt” – Điều 25 UDHR.

Nội dung này được thể hiện ở các văn kiện pháp lý quốc tế.
Các quốc gia có trách nhiệm công nhận đầy đủ quyền về chăm sóc sức khỏe ở trong
các quy định pháp quốc gia.

- Theo Điều 20 Hiến pháp năm 2013 quy định nội dung sau đây:

+ Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức
khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ
hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân
phẩm.

+ Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định hoặc phê
chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam,
giữ người do luật định.

+ Mọi người có quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác theo quy định của
luật. Việc thử nghiệm y học, dược học, khoa học hay bất kỳ hình thức thử nghiệm nào
khác trên cơ thể người phải có sự đồng ý của người được thử nghiệm.

- Theo Điều 33 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định nội dung sau đây:

+ Cá nhân có quyền sống, quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, thân thể, quyền
được pháp luật bảo hộ về sức khỏe. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật.

+ Khi phát hiện người bị tai nạn, bệnh tật mà tính mạng bị đe dọa thì người phát hiện
có trách nhiệm hoặc yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức khác có điều kiện cần thiết đưa
ngay đến cơ sở khám bệnh, chữa bệnh nơi gần nhất; cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có
trách nhiệm thực hiện việc khám bệnh, chữa bệnh theo quy định của pháp luật về
khám bệnh, chữa bệnh.

+ Việc gây mê, mổ, cắt bỏ, cấy ghép mô, bộ phận cơ thể người; thực hiện kỹ thuật,
phương pháp khám, chữa bệnh mới trên cơ thể người; thử nghiệm y học, dược học,
khoa học hay bất cứ hình thức thử nghiệm nào khác trên cơ thể người phải được sự
đồng ý của người đó và phải được tổ chức có thẩm quyền thực hiện.
Trong trường hợp người được thử nghiệm là người chưa thành niên, người mất năng
lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc là bệnh
nhân bất tỉnh thì phải được cha, mẹ, vợ, chồng, con thành niên hoặc người giám hộ
của người đó đồng ý; trường hợp có nguy cơ đe dọa đến tính mạng của bệnh nhân mà
không chờ được ý kiến của những người nêu trên thì phải có quyết định của người có
thẩm quyền của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.

- Theo Điều 132 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định nội dung sau:

+ Chủ thể là người nào thấy người khác đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính
mạng, tuy có điều kiện mà không cứu giúp dẫn đến hậu quả người đó chết, thì bị phạt
cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến …

+ Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05
năm:

Người không cứu giúp là người đã vô ý gây ra tình trạng nguy hiểm.

Người không cứu giúp là người mà theo pháp luật hay nghề nghiệp có nghĩa vụ phải
cứu giúp.

+ Phạm tội dẫn đến hậu quả 02 người trở lên chết, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07
năm.

+ Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm
công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

19. Quyền được giáo dục

“Mọi người đều có quyền được học tập. Giáo dục phải miễn phí, ít nhất là ở các bậc
tiểu học và trung học cơ sở. Giáo dục tiểu học phải là bắt buộc. Giáo dục kỹ thuật và
dạy nghề phải mang tính phổ thông và giáo dục đại học hay cao hơn phải theo nguyên
tắc công bằng cho bất cứ ai có khả năng” – Điều 26 UDHR.

“Các quốc gia thành viên Công ước thừa nhận quyền của mọi người được học tập. Các
quốc gia nhất trí rằng giáo dục phải hướng vào việc phát triển đầy đủ nhân cách và ý
thức về nhân phẩm, và phải nhằm tăng cường sự tôn trọng các quyền và tự do cơ bản
của con người.

Các quốc gia cũng nhất trí rằng giáo dục cần phải giúp mọi người tham gia hiệu quả
vào xã hội tự do, thúc đẩy sự hiểu biết, khoan dung và tình hữu nghị giữa các dân tộc
và các nhóm về chủng tộc, sắc tộc hoặc tôn giáo, cũng như nhằm đẩy mạnh hơn nữa
các hoạt động duy trì hoà bình của LHQ” – Điều 13, 14 ICESCR.

- Ở Hiến pháp 2013 quy định: “Công dân có quyền và nghĩa vụ học tập”

20. Quyền được tham gia vào đời sống văn hóa và được hưởng các thành tựu
khoa học

“Mọi người có quyền tự do tham gia vào đời sống văn hoá của cộng đồng, được
thưởng thức nghệ thuật và chia sẻ những tiến bộ khoa học cũng như những lợi ích
xuất phát từ những tiến bộ khoa học. Mọi người đều có quyền được bảo vệ các quyền
lợi vật chất và tinh thần phát sinh từ bất kỳ sáng tạo khoa học, văn học hay nghệ
thuật” – Điều 27 UDHR.

21. Quyền của phụ nữ theo LHQ

Lịch sử về quyền của phụ nữ

- Trước đây, đặc biệt là trong xã hội phong kiến;

- Nhiều cuộc cách mạng dân chủ tư sản, nồi bật nhất là cuộc cách mạng dân chủ tư sản
Pháp- 1789;

- ILO và LHQ ra đời với nhiều văn kiện pháp lý quan trong;

- Đặc biệt là Công tớc CEDAW (Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử
chống lại phụ nữ - 1979);

Công ước CEDAW

Các quốc gia lên án sự phân biệt đối xử chống lại phụ nữ thể hiện dưới mọi hình thức,
áp dụng tất cả những biện pháp thích hợp và không chậm trễ để thực hiện một chính
sách xoá bỏ phân biệt đối xử chống lại phụ nữ.
Các quốc gia phải tiến hành mọi biện pháp thích hợp, kể cả về mặt lập pháp, trên tất
cả các lĩnh vực, đặc biệt là về chính trị, xã hội, kinh tế và văn hóa, để đảm bảo sự phát
triển và tiến bộ đầy đủ của phụ nữ với mục đích đảm bảo cho họ thực hiện và được
hưởng các quyền của con người và tự do cơ bản trên cơ sở bình đẳng với nam giới.

Các quyền cơ bản của phụ nữ

Cấm các hình thức buôn bán và bốc lột tình dục phụ nữ.

Quyền tham gia vào các hoạt động chính trị và xã hội.

Quyền bình đẳng về quốc tịch của phụ nữ.

Quyền bình đẳng của phụ nữ trong giáo dục.

Bình đẳng việc làm đối với phụ nữ.

Bình đẳng trong chăm sóc sức khỏe.

Bình đẳng trong đời sống kinh tế, xã hội.

Bình đẳng trong quan hệ hôn nhân.

Quyền của phụ nữ bị hạn chế ở một số nước

Việc cho phép phụ nữ lái xe ở Saudi Arabia

Phụ nữ luôn phải vận trang phục kín người và phải có người giám hộ.

Phụ nữ Iran bị han chế đi học đại học.

Phụ nữ Iran trước đây không được đến xem bóng đá.

Quyền của một số phụ nữ tại một số quốc gia

Phụ nữ phải đảm nhiệm phần lớn công việc chăm sóc việc nhà không công và thông
thường;

Ở rất nhiều nước, phụ nữ làm phần lớn công việc chăm sóc gia đinh và việc nhà không
được trả công, trung bình cao hơn gắp 2,5 lần so với nam giới (

Không bình đẳng trong phân công trách nhiệm đối với phụ nữ liên quan tới công việc
chăm sóc việc nhà... tạo ra "nghèo về thời gian", hạn chế sự lựa chọn của phụ nữ và
thời gian danh cho công việc, hay tham gia vào đời sống công cộng, thời gian nghi
ngơi hoặc giải trí, góp phân làm cho tỷ lệ phụ nữ tham gia vào lực lượng lao động
thấp hơn, tập trung vào công việc bán thời gian và công việc lương thấp...

Thực trạng tại VN – quyền của phụ nữ

Những thành tựu đạt được;

Những tồn tại hạn chế hiện nay;

Có các luật được ban hành như Luật Bình đẳng giới, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật
Lao động quy định về bình đẳng giữa lao động nam và nữ,

Đặc biệt, trong Bộ luật Hình sự hiện hành còn thể hiện sự khoan hồng, tính nhân đạo
của Đảng và Nhà nước ta trong xử lý tội phạm là nữ: Người phạm tội là phụ nữ có thai
được quy định là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; không áp dụng hình phạt tử
hình đối với phụ nữ có thai hoặc đối với phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi
phạm tội hoặc khi bị xét xử; không thi hành án tử hình đối với phụ nữ có thai hoặc
nuôi con dưới 36 tháng tuổi…

22. Quyền của trẻ em

Lịch sử về quyền của trẻ em với tư cách là chủ thể yếu thể cần được bảo vệ.

- Công ước về Quyền Trẻ em - Convention on the Rights of Child - 1989.

Công ước về quyền trẻ em 1989

Trẻ em là bất kỳ người nào dưới 18 tuổi

Các quốc gia phải tôn trọng và bảo đâm những quyền trẻ em... mà không có bất cứ sự
phân biệt đổi xử nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo...

Bảo đảm dành cho trẻ em sự bảo vệ và chăm sóc cần thiệt cho hạnh phúc của các
em…

Các quyền cơ bản của trẻ em

Bảo đảm lợi ích tốt nhất cho trẻ em;

Sự sống còn và phát triển của trẻ em;


Bảo vệ trẻ em khỏi sự lạm dụng;

Bảo đảm quyền được giáo dục;

Bảo vệ khỏi sự bóc lột về kinh tê.

Bào vệ trẻ em khỏi tình trạng lạm dụng tình dục... và một số các quyền khác.

Thực trạng bảo vệ quyền của trẻ em tại VN

Những thành tựu đạt được;

Vấn nạn lao động trẻ em

Toàn thế giới có đến 160 triệu lao động trẻ em;

Báo cáo: Child labour - Global estimates 2020, trends and the road forward - được
công bố tháng 6 năm 2021 của II.0 và UNICEF cho thấy tình trạng LĐTE trên toàn
thế giới đang ở tình trạng đáng báo động.

Đại dịch Covid - 19 đã làm thúc đây và gia tăng thêm 8,9 triệu LĐTE trên toàn thể
giới vào cuối năm 2022.

23. Quyền của người chung sống với HIV/AIDS

Theo báo cáo của Chương trình phối hợp của LHQ về phòng, chống HIV/AIDS
(UNAIDS), ước tính có khoảng 38,4 triệu người trên thế giới đang phải sống chung
với HIV. (Việt Nam có khoảng gần 230.000 người).

Tốc độ lây nhiễm của HIV/AIDS có xu hướng chậm lại.

Tuy nhiên, phần lớn những người bị nhiễm HIV/AIDS đang còn bị phân biệt đối xử.

Trong LQT, cấm phân biệt, đối xử là nguyên tắc cơ bản, được ghi nhận trong UDHR,
ICCPR và ICESCR.

Các quốc gia, trong đó có VN cần có những biện pháp thích hợp nhằm bảo vệ các
quyền của những người có HIV/AIDS.
Tại VN có khoảng gần 230.000 người nhiễm HIV đang còn sống và hơn 112.000 đã
tử vong; Trong 10 tháng đầu năm 2022 cả nước phát hiện hơn 9.025 người bị nhiễm
mới;

Số người mới phát hiện nhiễm HIV tập trung chủ yếu ở độ tuổi 16-29 (48,6%) và 30-
39 (28,4%). Đường lây chủ yếu là QHTD không an toàn (81,6%) (Số liệu Bộ Y tế);

Công tác phòng chống HIV/HIV còn gặp những khó khăn, thử thách…

24. Quyền của người khuyết tật

Ước tính trên thế giới có khoảng 1 tỷ người khuyết tật (chiếm 15% dân số toàn cầu)
và đa phần đều trong độ tuổi đi làm.

Tại VN, có khoảng 6,2 triệu người khuyết tật (tháng 4/2022)

Chỉ số thị trường lao động mới nhất cho thấy người khuyết tật đối mặt với nhiều thách
thức hơn khi tham gia lao động.

Ngoài các quy định trong UDHR, ICCPR và ICESCR, Đại hội đồng LHQ cũng đã
thông qua Công ước về Người khuyết tật – 2007.

+ Cần bảo đảm cho người khuyết tật được hưởng đầy đủ các quyền này mà không có
sự phân biệt nào;

+ Sự phân biệt đối xử chống lại bất kỳ người nào trên cơ sở sự khuyết tật là vi phạm
phẩm giá vốn có của con người;

+ Các quốc gia cam kết bảo đảm và thúc đẩy bảo vệ quyền… với mọi người khuyết tật
mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào trên cơ sở sự khuyết tật.

Hoạt động bảo đảm quyền của người khuyết tật tại Việt Nam

VN có khoảng 6,2 triệu người khuyết tật – chiếm gần 7% dân số;

Phần lớn người khuyết tật Việt Nam sống ở vùng nông thôn, có cuộc sống rất khó
khăn, đặc biệt là người khuyết tật bị ảnh hưởng bởi chất độc da cam trong chiến tranh;

VN vẫn còn nhiều khó khăn về kinh tế, hạ tầng cơ sở xã hội thiếu thốn, chưa thể đáp
ứng thỏa đáng nhu cầu nguyện vọng của người khuyết tật;
Những khó khăn, thách thức mà người khuyết tật phải đối mặt trong cuộc sống, công
việc…

25. Quyền của người lao động di trú (migrant worker)

ILO ước tính trong giai đoạn từ năm 2017 đến năm 2019, số lượng người lao động di
trú đã tăng từ 164 triệu lên 169 triệu người.

Lao động di trú vẫn thường phải làm những công việc tạm thời, phi chính thức và
không được bảo vệ,….bị sa thải và sa sút về điều kiện làm việc.

Khủng hoảng COVID-19 làm gia tăng những nguy cơ này.

Các nước có thu nhập cao thu hút phần đông lao động di trú.

Phần lớn lao động di cư là nam giới, với 99 triệu người, và hiện số lao động di cư là
nữ là 70 triệu (ILO – 2019).

Phần lớn lao động di cư (86,5%) ở độ tuổi trưởng thành chính (25-64 tuổi).

Các công ước có liên quan

Công ước số 97 về di trú tìm việc làm (1949);

Công ước số 143 về người lao động di trú (1975);

Công ước số 118 về bình đẳng trong đối xử (1962);

Công ước số 157 về duy trì các quyền an sinh xã hội;

Ngoài ra còn một số công ước có liên quan, như các công ước cơ bản ILS và một số
Khuyến nghị…..

26. Quyền của người thiểu số

- Đã có một số định nghĩa về người thiểu số, trong đó nổi bật có định nghĩa của Tòa
án công lý quốc tế thường trực – Permanent Court of International Justice (PCIJ):

+ “Là một nhóm người sống trên một quốc gia hoặc địa phương nhất định, có những
đặc điểm đồng nhất về chủng tộc, tín ngưỡng, ngôn ngữ và truyền thống, có sự giúp
đỡ lẫn nhau và có quan điểm thống nhất trong việc bảo lưu những yếu tố truyền thống,
duy trì tôn giáo, tín ngưỡng và hướng dẫn, giáo dục trẻ em trong cộng đồng theo tinh
thần và truyền thống của chủng tộc họ”.

- Theo LHQ, hiện trên thế giới có khoảng10-20 % dân số là người thiểu số ( khoảng
600 triệu - 1,2 tỷ người);

- Ở Việt Nam có đến 54 dân tộc (53 dân tộc thiểu số) 14,6% dân số là người dân tộc
thiểu số;

- Hầu hết đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống ở các vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt
khó khăn…;

- Họ không có nhiều cơ hội để thụ hưởng các chính sách an sinh xã hội;

- Gặp rất nhiều khó khăn trong đời sống.

Chính sách dân tộc của Việt Nam

CÁC TIÊU CHUẨN LAO ĐỘNG QUỐC TẾ CỦA ILO

Bảo vệ quyền tự do liên kết và thương lượng tập thể của người lao động

Bảo vệ quyền tự do liên kết và công nhận một cách thực chất quyền TLTT của
NLĐ là một trong những nội dung cốt lõi, quan trọng trong Tuyên bố năm 1998 của
ILO và được xem là một trong các tiêu chuẩn quốc tế cơ bản về lao động được áp
dụng rộng rãi hiện nay. Những nội dung các quyền này của NLĐ được thể hiện qua
hai công ước là Công ước số 87 về quyền tự do hiệp hội và quyền được tổ chức và
Công ước số 98 về Quyền tổ chức và TLTT của ILO.
Về quyền tự do liên kết, tự do hiệp hội
Tự do liên kết, tự do hiệp hội là quyền cơ bản của con người nói chung và NLĐ
nói riêng, sự ra đời của quyền này chính là kết quả của những mâu thuẫn trong xã
hội hiện đại. Sự xuất hiện của quyền tự do liên kết và tự do hiệp hội là những nhu
cầu có tính tự thân và tất yếu trong QHLĐ. Bởi nó bắt nguồn từ vị thế bất bình đẳng
của các chủ thể trong QHLĐ nên một cách tự nhiên, NLĐ – bên “yếu thế” sẽ liên kết
với nhau trong một tổ chức để bảo vệ lợi ích của mình. Do vậy, tôn trọng và bảo đảm
quyền tự do liên kết, tự do hiệp hội sẽ giúp các mối quan hệ trong hoạt động nghề
nghiệp được thực hiện ổn định đồng thời đây cũng là tiêu chí để đánh giá mức độ dân
chủ trong mỗi quốc gia.
Quyền tự do liên kết, tự do hiệp hội của NLĐ được thực hiện thông qua hoạt
động của các tổ chức đại diện lao động. Về cơ bản, tổ chức đại diện của NLĐ do
những NLĐ lập nên trên cơ sở của nguyên tắc tự do, tự nguyện, không trái pháp luật
với chức năng chủ yếu là đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng cho
NLĐ. Sự thành lập tổ chức đại diện NLĐ là một phong trào lớn trên thế giới, xuất
hiện tại châu Âu vào đầu thế kỷ XIX khi NLĐ có nhu cầu cần được bảo vệ trước sức
mạnh của NSDLĐ và họ ý thức được giá trị của sức mạnh tập thể. Trong phạm vi
quốc gia, NLĐ có thể thành lập một hoặc nhiều tổ chức đại diện của mình tùy thuộc
vào phạm vi quyền tự do hiệp hội của NLĐ được thừa nhận ở mức độ nào bởi pháp
luật quốc gia. Ở những quốc gia không ủng hộ chủ nghĩa đa nguyên thường chỉ tồn tại
một loại tổ chức duy nhất đại diện cho NLĐ. Ngược lại, ở những quốc gia ủng hộ chủ
nghĩa đa nguyên thường có nhiều loại tổ chức khác nhau đại diện cho những nhóm
NLĐ khác nhau. Trên bình diện quốc tế, tổ chức đại diện của NLĐ có quyền gia nhập
tổ chức đại diện của NLĐ trong khu vực và gia nhập tổ chức đại diện NLĐ ở cấp độ
quốc tế [83, tr.33]. Như vậy có thể thấy, các tổ chức đại diện lao động ra đời xuất
phát từ nhu cầu thực tế cần được bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của
NLĐ. Việc ghi nhận và bảo vệ NLĐ thông qua các tổ chức đại diện ở các quốc gia
phụ thuộc vào chế độ chính trị, chính sách pháp luật, điều kiện kinh tế - xã hội của
mỗi quốc gia khác nhau.
ILO đã quy định quyền tổ chức trong Công ước số 87 và Công ước số 98. Theo
đó, tổ chức này ghi nhận NLĐ và NSDLĐ được quyền tham gia thành lập, gia nhập
vào tổ chức công đoàn, theo điều lệ của tổ chức công đoàn nhằm xúc tiến và bảo vệ
những lợi ích của họ. Công ước số 87 quy định: (i) NLĐ và NSDLĐ, không phân
biệt dưới bất kỳ hình thức nào đều không phải xin phép trước mà vẫn có quyền được
tổ chức và gia nhập các tổ chức theo sự lựa chọn của mình, với một điều kiện duy
nhất là phải tuân theo điều lệ của chính tổ chức đó (Điều 2); (ii) Các tổ chức của
NLĐ và của NSDLĐ có quyền lập ra điều lệ, những quy tắc quản lý, tự do bầu các
đại diện, tổ chức việc điều hành hoạt động và soạn thảo chương trình hoạt động của
mình. Các cơ quan có thẩm quyền phải tránh mọi sự can thiệp có tính chất hạn chế
quyền đó, hoặc cản trở việc thi hành hợp pháp quyền đó (Điều 3). Nhìn chung,
quyền thành lập, gia nhập công đoàn là sự tự nguyện của NLĐ.
Tuy nhiên, cũng cần phải lưu ý rằng quyền tự do liên kết, tự do hiệp hội và việc
tham gia các hình thức đại diện của các tổ chức đại diện không phải chỉ là quyền của
riêng NLĐ mà còn là quyền của NSDLĐ. Bởi lẽ, đối với NSDLĐ dù là “kẻ mạnh”
trong QHLĐ song họ - NSDLĐ cũng có nhu cầu liên kết bằng việc thành lập hoặc
tham gia một hoặc một số tổ chức của họ với mục đích được đại diện và được bảo vệ
quyền và lợi ích chính đáng, đặc biệt khi các quyền và lợi ích đó vượt ra ngoài tầm
doanh nghiệp hoặc từng đơn vị sử dụng lao động. Từ đó để thấy rằng, trong QHLĐ
nhu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp thông qua các hình thức đại diện không chỉ
là nhu cầu riêng của NLĐ mà còn là nhu cầu của chính NSDLĐ. Thông qua hoạt
động của mình, tổ chức đại diện NSDLĐ cùng với các cơ quan nhà nước hỗ trợ, xây
dựng QHLĐ hài hòa, ổn định và tiến bộ, nhằm thúc đẩy sản xuất kinh doanh và xã
hội phát triển.
Như vậy, pháp luật các nước trên thế giới đều quy định quyền tự do liên kết, tự
do hiệp hội như là một trong những quyền cơ bản nhằm bảo vệ NLĐ và NSDLĐ khi
tham gia QHLĐ. Chính vì vậy, đa số các quốc gia trên thế giới đã nội luật hóa nội
dung này vào trong quy định của pháp luật của quốc gia mình với những mức độ
khác nhau, cho dù quốc gia đó đã phê chuẩn hay chưa phê chuẩn các công ước có
liên quan đến quyền này.
Quyền thương lượng tập thể của người lao động
Cùng với đối thoại xã hội, TLTT được hiểu là quan hệ giữa NSDLĐ hoặc đại
diện của họ với NLĐ hoặc đại diện NLĐ về các vấn đề phát sinh trong QHLĐ nhằm
tìm được sự đồng thuận giữa hai bên để thiết lập mối QHLĐ hài hòa, ổn định, bền
vững. Mục đích của hoạt động này là giải quyết nhanh, kịp thời các xung đột về lợi
ích xảy ra giữa hai bên; tôn trọng, khẳng định địa vị pháp lý của các bên; tăng hiệu
quả sản xuất, kinh doanh và tính cạnh tranh trong doanh nghiệp; phòng ngừa, hạn
chế xung đột, tranh chấp có thể xảy ra; thiết lập QHLĐ hài hòa, ổn định, bền vững;
thúc đẩy tính dân chủ, bình đẳng, công khai của mỗi bên trong QHLĐ; tạo môi
trường lao động mang tính hiện đại, bền vững và hòa nhập vào môi trường lao động
quốc tế. Từ lâu TLTT đã được chứng minh là phương tiện quan trọng và hiệu quả để
xây dựng các thỏa thuận nhằm bảo vệ việc làm, các điều kiện làm việc cho NLĐ, tạo
điều kiện cho doanh nghiệp điều chỉnh hoạt động sản xuất, kinh doanh thích ứng với
sự thay đổi của hoàn cảnh kinh tế trong khi vẫn tuân thủ và bảo vệ, bảo đảm các
quyền lao động cơ bản [203, tr.241].
Có thể thấy, vai trò của TLTT nhằm mục đích cân bằng vị thế của NLĐ với
NSDLĐ trong QHLĐ; cải thiện tiền lương và các điều kiện làm việc, bảo đảm nguyên
tắc bình đẳng trên các phương diện, tăng cường tính ổn định của QHLĐ, đồng thời là
biện pháp hiệu quả để hạn chế, giải quyết có hiệu quả các xung đột, tranh chấp trong
QHLĐ.
Về chủ thể của hoạt động TLTT có thể thấy đó là việc đàm phán, thỏa thuận tự
nguyện và có thiện chí giữa một bên là một hoặc nhiều tổ chức đại diện NLĐ với
một bên là một hoặc nhiều NSDLĐ hoặc tổ chức đại diện NSDLĐ nhằm xác lập điều
kiện lao động, quy định về mối quan hệ giữa các bên và xây dựng QHLĐ tiến bộ, hài
hòa và ổn định. Về phía ILO, tổ chức này cho rằng TLTT là quá trình đàm phán, thảo
luận giữa hai bên là NSDLĐ và đại diện tập thể NLĐ về những vấn đề lợi ích liên
quan đến chính sách kinh tế, xã hội. Với cách hiểu trên của ILO cho thấy TLTT chỉ
tồn tại khi có NLĐ, NSDLĐ và các tổ chức đại diện của họ. Điều đó cho thấy, NLĐ
và NSDLĐ chỉ tồn tại khi có hệ thống QHLĐ trong nền kinh tế thị trường, mà không
tồn tại trong một xã hội nông nghiệp thiếu vắng các QHLĐ hiện đại hoặc các QHLĐ
hiện đại chưa phát triển ở mức độ nhất định [116, tr.47]. Cùng với đó, Công ước số
98 và Công ước số 154 của ILO (Công ước về xúc tiến TLTT, 1981), có quy định
một số nguyên tắc cần đảm bảo thực hiện trong quá trình các bên trong QHLĐ tiến
hành hoạt động TLTT, đó là quyền tự do, tự nguyện, tự định đoạt của các bên, không
chấp nhận sự can thiệp của Nhà nước hay các chủ thể khác. Đồng thời, các bên khi
tiến hành TLTT phải bình đẳng về vị trí và các quyền và nghĩa vụ.
Từ quan điểm của ILO và các quy định trong pháp luật của một số quốc gia
trên thế giới có thể đánh giá, quyền TLTT là một trong những quyền quan trọng, cốt
lõi của NLĐ đã được công nhận rộng rãi trên phạm vi toàn cầu, được hầu hết các
quốc gia xem là chế định quan trọng trong pháp luật lao động của quốc gia mình.
Mặc dù vậy, vẫn tồn tại những sự khác biệt nhất định trong những quy định pháp
luật giữa các quốc gia về chế định TLTT. Điều này hoàn toàn xuất phát từ những yếu
tố như điều kiện kinh tế, thể chế chính trị, các điều kiện về văn hóa, xã hội,… của
mỗi quốc gia. Song không thể phủ nhận được rằng TLTT đóng một vai trò hết sức
quan trọng trong duy trì sự “cân bằng” của các chủ thể trong QHLĐ.
Xóa bỏ mọi hành vi lao động cưỡng bức hoặc ép buộc
Xóa bỏ lao động cưỡng bức hay bắt buộc là một trong những nội dung và mục
tiêu của các tổ chức quốc tế và các quốc gia trên thế giới. Chính vì lẽ đó mà ngày từ
năm 1930, ILO đã xây dựng Công ước số 30 về lao động cưỡng bức. Cùng với Công
ước số 182 về xóa bỏ lao động cưỡng bức (1957) thì đây là được xem là một trong
bốn cặp công ước cơ bản, cốt lõi trong Tuyên bố năm 1998 của ILO, sau này được
các FTA thế hệ mới đã lồng ghép các nội dung về chống lao động cưỡng bức hay ép
buộc vào trong nội dung bắt buộc đối với các quốc gia thành viên khi tham gia các
hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, các quốc gia phải tuân thủ và thực thi các
cam kết này. Việt Nam là thành viên của Công ước số 29 từ năm 2007 và Công ước
số 105 vào năm 2020.
Trong pháp luật quốc tế, lao động cưỡng bức hay bắt buộc là mọi công việc
hoặc dịch vụ mà một người bị ép buộc phải làm dưới sự đe dọa về bất kỳ hình phạt
nào và bản thân người đó không tự nguyện làm [31, Khoản 1, Điều 2]. Pháp luật của
hầu hết các nước trên thế giới đều cho rằng, lao động cưỡng bức là những hình thức
lao động bất hợp pháp, bị pháp luật nghiêm cấm, loại bỏ. Các hình thức lao động
cưỡng bức đều bị lên án, những hành vi vi phạm pháp luật về lao động cưỡng bức
đều có thể bị xử lý, các chủ thể có hành vi vi phạm các quy định của pháp luật về lao
động cưỡng bức có thể phải chịu những trách nhiệm pháp lý ở những mức độ khác
nhau. Lao động cưỡng bức có thể được biểu hiện thông qua nhiều hình thức khác
nhau, cụ thể: lao động cưỡng bức bởi Nhà nước hay các lực lượng vũ trang; lạm
dụng tình dục, cưỡng bức thông qua hình thức buôn bán; hay vì mục đích kinh tế và
những hình thức lao động cưỡng bức khác không thể xác định rõ ràng.
Từ khái niệm và các hình thức về lao động cưỡng bức có thể thấy lao động
cưỡng bức có những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, về chủ thể của hành vi lao động cưỡng bức. Đó là bất kỳ một cá nhân
nào khi họ thực hiện các công việc, dịch vụ mà bị phân biệt về chủng tộc, màu da,
nguồn gốc quốc gia, giới tính, tôn giáo, độ tuổi,…
Thứ hai, về ý chí của chủ thể thực hiện những hoạt động lao động cưỡng bức, ép
buộc. Đó là những người thực hiện các công việc, dịch vụ không tự nguyện, hay nói
cách khác họ bị bắt buộc phải làm những công việc, dịch vụ trái với ý chí của họ.
Thiếu yếu tố tự nguyện có thể xuất phát từ sự lừa đảo, từ hành vi dụ dỗ, từ hành vi đe
dọa hoặc hành vi cưỡng ép làm cho chủ thể đó thực hiện công việc không xuất phát từ
yếu tố chủ quan của chủ thể đó [51, tr.30]. Hay nói cách khác, sự tự nguyện được thể
hiện ở chỗ họ có quyền tự do bày tỏ và thể hiện ý chí của mình khi thực hiện các công
việc, dịch vụ mà không hề bị ép buộc, lừa dối, đe dọa… để thực hiện các công việc
không xuất phát từ ý muốn của chính họ.
Thứ ba, về hậu quả đối với nạn nhân. Người không thực hiện các công việc,
dịch vụ lao động cưỡng bức phải chịu những hình phạt. Những hình phạt mà họ -
những người bị lao động cưỡng bức không thực hiện các công việc mà bị ép buộc
làm, trái với ý muốn của họ, họ có thể bị bắt, giam giữ; ngược đãi, bóc lột; áp dụng
các biện pháp trừng phạt tài chính, sa thải hay có những hành vi phân biệt đối xử với
NLĐ,… hậu quả xảy ra khi người bị cưỡng bức không thực hiện công việc rất đa
dạng và phong phú, có thể chỉ là việc NSDLĐ đe dọa sẽ trừ lương, không cho NLĐ
hưởng trợ cấp hoặc đe dọa tiết lộ bí mật đời tư, làm mất vị thế xã hội của người bị
cưỡng bức và nhân thân của họ.
Bảo vệ quyền của NLĐ trong việc đấu tranh, phòng chống đối với lao động
cưỡng bức được xem là nội dung trọng tâm trong chính sách pháp luật của các quốc
gia nhằm cải thiện điều kiện làm việc cho NLĐ. Điều đó cho thấy rằng, việc xóa bỏ
các hình thức lao động cưỡng bức là những nỗ lực của các quốc gia trong việc xây
dựng QHLĐ tiến bộ, hài hòa, ổn định trên cơ tôn trọng các quyền và lợi ích hợp pháp
của các bên tham gia QHLĐ, phù hợp với các chuẩn mực quốc tế, là một trong
những cơ sở duy trì sự ổn định về chính trị và xã hội của quốc gia – điều kiện tiên
quyết để thúc đẩy phát triển kinh tế và thu hút đầu tư nước ngoài FDI. Điều đó càng
chứng tỏ rằng, trong lĩnh vực lao động các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản nói
chung và “tiêu chuẩn” về xóa bỏ lao động cưỡng bức nói riêng đang ngày càng
được chú trọng và đề cao thông qua chiến dịch toàn cầu hóa công bằng. Đây là mục
tiêu hàng đầu, phản ánh tính dân chủ, nền văn minh của một quốc gia đồng thời nó
cũng phản ánh quyền con người được pháp luật bảo đảm.
Xóa bỏ một cách hiệu quả lao động trẻ em, cấm các hình thức lao động trẻ em tồi
tệ nhất
Lao động trẻ em là một vấn đề xã hội mang tính toàn cầu, thu hút sự quan tâm
của các tổ chức quốc tế, các quốc gia tiến bộ trên toàn thế giới. Trẻ em là những
công dân đặc biệt của xã hội, đối tượng cần được nhà nước và xã hội dành sự ưu tiên
và tạo môi trường lành mạnh để phát triển toàn diện về thể chất và trí tuệ. Nhưng
trên thực tế tình trạng lạm dụng LĐTE diễn ra phổ biến. Việc lạm dụng LĐTE luôn
để lại những hậu quả và hệ lụy hết sức nghiêm trọng, tước bỏ của các em cơ hội
được phát triển đối đa tiềm năng của mình, ảnh hưởng lớn đến sức khỏe thể chất và
tinh thần của các em, tác động xấu đến sự phát triển bền vững của xã hội, tương lai
của mỗi quốc gia, dân tộc.
Xóa bỏ các hình thức LĐTE và cấm các hình thức LĐTE tồi tệ nhất chính là
nội dung quan trọng trong mục tiêu bảo vệ các quyền cơ bản của trẻ em.
LĐTE là thuật ngữ được các tổ chức quốc tế như UNICEF, ILO sử dụng để đề
cập về những công việc cho những người dưới 18 tuổi mất đi tuổi thơ, mất đi cơ hội
để phát triển về phẩm giá, ảnh hưởng đến sự phát triển đến tinh thần và thể chất. Đó
là những công việc nguy hiểm và có hại cho các em về mặt tinh thần thể chất, đạo
đức, làm ảnh hưởng đến việc học tập của các em; tước bỏ cơ hội đi học của các em;
làm cho các em phải nghỉ học sớm; phải cố gắng để vừa đi học vừa làm các công
việc nặng nhọc đòi hỏi nhiều thời gian. Tuy nhiên, không phải trẻ em nào cứ tham
gia làm việc đều được coi là LĐTE, vì hiện nay chưa có sự phân biệt rõ ràng giữa
LĐTE và “trẻ em tham gia làm việc”. Trẻ em tham gia làm việc là những trẻ em làm
các công việc không làm hại tới việc phát triển thể chất, học hành và vui chơi, có thể
góp phần vào sự phát triển lành mạnh của trẻ. Thế giới đang phải đối mặt với tình
trạng LĐTE đang hết sức phức tạp và nghiêm trọng. Đây là thực trạng mà các quốc
gia, các tổ chức toàn cầu cần phải chung tay và có những hành động cấp bách, thiết
thực để giải quyết tình trạng này.
Ở góc độ kinh tế, nhiều nhà kinh tế học cho rằng LĐTE là triệu chứng của
nghèo đói và là nguyên nhân dẫn đến nghèo đói trong tương lai. Mục tiêu xóa đói,
giảm nghèo có thể được thực hiện thông qua việc giảm thiểu và xóa bỏ LĐTE. Điều
này có thể được giải thích ở việc các gia đình nghèo thường có xu hướng đưa con cái
của họ tham gia lao động để có thu nhập, trang trải cho cuộc sống thay vì tạo điều
kiện cho trẻ em được đến trường. Chính điều này đã dẫn đến một “vòng luẩn quẩn”
của đói nghèo, mà nguyên nhân chính là trẻ em không được đến trường, không được
phát triển trong môi trường giáo dục. Chu kỳ này chính là nguyên nhân dẫn đến
“bẫy nghèo đói cổ điển” hiện nay, mà rất nhiều các quốc gia trên thế giới đang phải
đối mặt và giải quyết.
Tuy nhiên, để giải quyết vấn đề này không phải là vấn đề đơn giản bởi ngay cả
khi chính phủ các nước có thể xóa bỏ LĐTE một cách hiệu quả nhưng hậu quả của
việc này có thể rất thảm khốc đối với các hộ gia đình nghèo và con cái của họ đang
phải sử dụng LĐTE trong tình trạng tuyệt vọng. Những đứa trẻ này đang làm việc để
giúp gia đình mưu sinh, kiếm sống. Việc nghiêm cấm đối với LĐTE có thể sẽ làm
những đứa trẻ và gia đình của chúng có thể lâm vào tình trạng tồi tệ hơn.
Xóa bỏ một cách hiệu quả LĐTE, cấm các hình thức LĐTE tồi tệ nhất là một
trong những “tiêu chuẩn” trong lĩnh vực lao động mà các FTA thế hệ mới, trong đó
có CPTPP yêu cầu các thành viên của hiệp định thương mại này phải tuân thủ và
thực hiện. Trong bối cảnh toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ và sâu rộng như hiện
nay, sự ra đời của các FTA là một trong những minh chứng rõ nét cho xu thế toàn
cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế của các quốc gia. Các tiêu chuẩn về lao động được
xem như là những nội dung bắt buộc không thể thiếu trong nội dung của các FTA,
trong đó tiêu chuẩn về bảo vệ LĐTE, xóa bỏ mọi hình thức LĐTE tồi tệ luôn được
xem là một trong những tiêu chuẩn “cốt lõi” trong các tiêu chuẩn lao động quốc tế
cơ bản.
Tóm lại, trẻ em luôn là thế hệ tương lai của mỗi quốc gia. Do đó, trách nhiệm
bảo vệ và chăm sóc, tạo những điều kiện thuận lợi nhất cho sự phát triển toàn diện và
đầy đủ đối với trẻ em, xây dựng môi trường an ninh, an toàn là trách nhiệm của cộng
đồng quốc tế, của mỗi một quốc gia cũng như của toàn xã hội. Phát hiện, đấu tranh,
ngăn chặn và xử lý đối với những hành vi xâm phạm đến quyền của trẻ em, trong đó
có hoạt động lạm dụng LĐTE, các hình thức LĐTE tồi tệ chính là việc đang xây dựng,
vun đắp và bảo vệ cho tương lai mỗi một quốc gia, dân tộc.
Xóa bỏ phân biệt đối xử về việc làm, nghề nghiệp
Tạo việc làm bền vững cho tất cả mọi người cũng như phân chia công bằng
nguồn thu nhập cho NLĐ được coi là trung tâm của mọi chính sách kinh tế - xã hội
của các quốc gia. Tuy nhiên, tình trạng phân biệt về cơ hội và đối xử trong việc làm,
nghề nghiệp lại xảy ra phổ biến ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Điều đó xuất
phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau như do các quy định của pháp luật, phong tục
tập quán, những tác động tiêu cực của thị trường lao động, thậm chí là những định
kiến trong xã hội. Theo cách hiểu thông thường, “phân biệt đối xử” được hiểu là sự
khác biệt trong cách ứng xử, là hình thức vi phạm quyền cá nhân. Còn xét theo nghĩa
rộng thì “phân biệt đối xử” bao gồm cả sự “ưu đãi” và khi nói đến một đối tượng bị
“phân biệt đối xử” thì có nghĩa là đối tượng này bị mất đi một số quyền hay lợi ích
nào đó mà đáng lẽ họ được hưởng. Đấu tranh để đảm bảo sự công bằng, chấm dứt
mọi hành vi phân biệt, đối xử trong việc làm và nghề nghiệp đối với NLĐ là mục
tiêu và nhiệm vụ quan trọng trong quá trình xây dựng QHLĐ tiến bộ, hài hòa và ổn
định, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của NLĐ.
Về các trường phái hiện đại nhằm đảm bảo sự bình đẳng, không phân biệt đối
xử trong lao động, hiện nay ngoài trường phái đối xử bình đẳng giữa mọi người
trong xã hội nói chung và trong QHLĐ nói riêng thì có thêm hai trường phải về bảo
đảm sự bình đẳng. Đó là bình đẳng hình thức và bình đẳng thực tế; và thêm một
trường phái phân biệt đối xử trực tiếp và phân biệt đối xử gián tiếp. Trong đó, phân
biệt đối xử trực tiếp là khi NSDLĐ công khai hành động thiên vị cho NLĐ mà không
có cơ sở. Phân biệt đối xử trực tiếp xảy ra khi sự đối xử kém thuận lợi là rõ ràng
hoặc ngầm dựa trên một hoặc nhiều yếu tố bị cấm. Còn phân biệt đối xử gián tiếp
xảy ra khi cùng một điều kiện, cùng cách đối xử hoặc cùng cách tiêu chuẩn được áp
dụng cho tất cả mọi người nhưng kết quả tác động không công bằng với một số
người do các đặc điểm riêng của họ như chủng tộc, màu da, giới tính hay tôn giáo và
không liên quan chặt chẽ với các yêu cầu vốn có của công việc.
Xuất phát từ định nghĩa của ILO, có thể đánh giá phân biệt đối xử được thể
hiện ở một số khía cạnh sau đây:

Thứ nhất, về bản chất của sự phân biệt, đối xử giữa các cá nhân NLĐ (hoặc
nhóm NLĐ) trong lĩnh vực việc làm, nghề nghiệp của NSDLĐ. Đây rõ ràng là những
trường hợp mà NSDLĐ có hành vi phân biệt, đối xử không công bằng đối với NLĐ
trong QHLĐ. Trên thực tế hành vi phân biệt, đối xử của NSDLĐ đối với NLĐ hay
nhóm NLĐ không có lý do chính đáng hay những căn cứ theo quy định của pháp
luật. Đó có thể là những trường hợp mà NSDLĐ sẽ ưu tiên tuyển dụng, thuê mướn
đối với những NLĐ là nam giới thay vì tuân thủ quy định của pháp luật về đảm bảo
sự bình đẳng giữa lao động là nam giới và nữ giới, hoặc trong những trường hợp
khác lao động nam giới sẽ được trả mức lương cao hơn so với nữ giới khi thực hiện
những công việc giống nhau. Thậm chí sự kỳ thị về vùng miền vẫn còn ngự trị trong
không ít tư tưởng của các chủ doanh nghiệp, tình trạng không đảm bảo điều kiện làm
việc cho lao động là người khuyết tật, thậm chí là kỳ thị người khuyết tật trong
QHLĐ vẫn còn tồn tại. Điều này hoàn toàn trái với tinh thần của các văn kiện pháp lý
quốc tế, xâm phạm đến quyền đảm bảo sự bình đẳng của NLĐ trong QHLĐ.
Thứ hai, lý do của sự phân biệt đối xử xuất phát từ sự không giống nhau về đặc
điểm cá nhân hay xã hội của NLĐ (hoặc nhóm NLĐ). Những hành vi được xác định
là phân biệt đối xử đã được nêu rõ trong Công ước số 111 của ILO. Theo đó, có
những lý do dẫn đến việc phân biệt đối xử đối với NLĐ, đó là dựa trên chủng tộc,
màu da, giới tính, tôn giáo, quan điểm chính trị, dòng dõi dân tộc hoặc nguồn gốc xã
hội có tác động làm vô hiệu hoặc làm suy giảm sự bình đẳng về cơ hội và đối xử
trong việc làm và nghề nghiệp [36, Điều 1]. Sự bảo vệ này áp dụng cho tất cả các
lĩnh vực việc làm và nghề nghiệp, cả lĩnh vực công và lĩnh vực tư nhân và được mở
rộng đến việc tiếp cận rất nhiều các lĩnh vực khác nhau như giáo dục, hướng nghiệp,
đào tạo; thăng tiến trong sự nghiệp; TLTT, tiếp cận các tổ chức NLĐ và NSDLĐ…
Những lý do làm ảnh hưởng đến sự bình đẳng về cơ may hoặc về đối xử trong việc
làm và nghề nghiệp. Để chấm dứt sự phân biệt đối xử này, pháp luật lao động của
nhiều quốc gia trên thế giới đã có những quy định nhằm xóa bỏ những hành vi phân
biệt, đối xử đối với NLĐ với những lý do đến từ sự không giống nhau về đặc điểm
cá nhân hay xã hội của NLĐ.
Thứ ba, việc phân biệt đối xử gây ra những tác động tiêu cực đối với cá nhân
NLĐ (nhóm NLĐ) bị phân biệt đối xử và đến các mặt trong đời sống xã hội. Có thể
đánh giá phân biệt đối xử trong QHLĐ là việc đối xử khác nhau giữa các cá nhân
hoặc nhóm NLĐ mà không dựa trên yêu cầu vốn có của công việc và có tác động
tiêu cực đối với NLĐ hoặc nhóm NLĐ và những tác động tiêu cực lên các mặt đời
sống kinh tế xã hội.
Đối với cá nhân NLĐ, việc đảm bảo sự bình đẳng trong việc làm và nghề
nghiệp có ý nghĩa quan trọng đối với sự tự do, quyền lợi và hạnh phúc của mỗi cá
nhân. Việc phân biệt, đối xử gây nên sự căng thẳng, xuống tinh thần và thiếu động
lực lao động là tình trạng phổ biến đối với những NLĐ. Điều này làm ảnh hưởng
nghiêm trọng đến lòng tự trọng của NLĐ và chắc chắn rằng năng suất lao động cũng
vì thế mà bị ảnh hưởng, thu nhập và cuộc sống của NLĐ sẽ bị ảnh hưởng. Ngược lại,
nếu NLĐ được đối xử công bằng, bình đẳng thì họ luôn có thái độ làm việc tích cực
và hăng say. Cũng chính từ đó mà sẽ tạo bầu không khí làm việc tốt, QHLĐ được cải
thiện và mọi NLĐ luôn cảm thấy được tôn trọng, từ đó nâng cao năng suất lao động
của NLĐ. Đó là những tác động tích cực có thể nhận thấy từ việc đảm bảo sự bình
đẳng, không phân biệt đối xử.
Đối với các mặt của đời sống xã hội, việc tồn tại các hình thức phân biệt đối xử
trong lao động và việc làm có thể gây ra những hậu quả và tiêu cực to lớn đến đời
sống kinh tế, xã hội. Nó không chỉ lãng phí tài năng, nguồn nhân lực mà còn có thể
gây ra những tác động tiêu cực đến sự đoàn kết trong xã hội của các quốc gia, sự ổn
định về chính trị và tăng trưởng kinh tế trong tương lai. Chính vì lẽ đó mà việc xóa
bỏ sự phân biệt, đối xử trong lao động và nghề nghiệp có vai trò và ý nghĩa quan
trọng đối với thị trường lao động, đến khả năng cạnh trạng của doanh nghiệp. Cho
phép NLĐ phát huy được hết tiềm năng vốn có của mình, NLĐ sẽ cống hiến và hăng
hái làm việc, làm gia tăng tỷ lệ có việc làm cho NLĐ, mở rộng thị trường, tạo động
lực cho sự tăng trưởng của nền kinh tế. Giải quyết vấn đề thu nhập, xóa đói, giảm
nghèo, cải thiện chất lượng cuộc sống của NLĐ nói riêng và của cộng đồng nói
chung.
Tóm lại, từ những phân tích ở trên một lần nữa cho thấy việc chấm dứt phân
biệt đối xử trong lao động và nghề nghiệp là cần thiết. Một mặt, nó đảm bảo quyền
bình đẳng của NLĐ trong QHLĐ, một quyền cơ bản trong pháp luật lao động. Mặt
khác, việc chấm dứt phân biệt đối xử góp phần nâng cao năng suất lao động; cải
thiện đời sống vật chất, tinh thần cho NLĐ; góp phần cải thiện và ổn định các
QHLĐ, tạo động lực để thúc đẩy tiến bộ, công bằng, bình đẳng trong xã hội.
Quyền con người về chuyển đổi giới tính
Người chuyển giới hiện nay đã và đang phải đối mặt với nhiều định kiến xã
hội. Việc thừa nhận quyền chuyển đổi giới tính là bước tiến quan trọng cho người có
nhận diện giới khác giới tính sinh học hiện có được sống đúng với giới tính mà mình
mong muốn hay không. Tuy nhiên, chuyển giới là một vấn đề pháp lý - xã hội gắn
liền với quyền nhân thân của con người nên việc thừa nhận quyền này từ lâu đã gây
ra những tranh luận trái chiều ở các quốc gia. Từ việc phân tích nội dung các quy
định về quyền chuyển đổi giới tính trong các văn kiện quốc tế về quyền con người đã
chỉ ra mức độ ràng buộc và mức độ đáp ứng của các quy định này trong việc bảo
đảm quyền của người chuyển giới trong giai đoạn hiện nay.
Bảo đảm quyền chuyển giới là cơ sở góp phần tôn trọng quyền tự quyết, tạo
điều kiện cho người có nhận diện giới khác giới tính sinh học hiện có được sống
đúng với giới tính mà mình mong muốn. Tuy nhiên, chuyển giới là một vấn đề pháp
lý - xã hội gắn liền với quyền nhân thân của con người chính vì vậy việc thừa nhận
quyền này từ lâu đã gây ra những tranh luận trái chiều ở các quốc gia.
Trong pháp luật quốc tế, hiện nay quyền của người chuyển đổi giới tính được
ghi nhận chung trong các văn kiện về quyền của cộng đồng LGBTQ+.
Ngay trong Lời nói đầu của Hiến chương LHQ (1945) đã khẳng định các quyền
cơ bản, phẩm chất và giá trị của con người là bình đẳng, không có bất kì sự phân biệt
nào. Tuyên ngôn thế giới về quyền con người (UDHR, 1948) tiếp tục khẳng định
mọi người sinh ra đều bình đẳng về quyền và được bảo vệ về nhân phẩm (Điều 1),
tất cả thành viên trong gia đình nhân loại đều được hưởng quyền và tự do cơ bản mà
không có sự phân biệt nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan
điểm chính trị hay tất cả quan điểm khác, quốc tịch hay nguồn gốc xã hội, tài sản,
dòng dõi, hay tất cả những hoàn cảnh khác (Điều 2). Nguyên tắc không phân biệt
tiếp tục được ghi nhận trong hai công ước cơ bản về quyền con người là Công ước
quốc tế về Quyền chính trị và dân sự 1966 (ICCPR) và Công ước quốc tế về Quyền
văn hóa, xã hội và kinh tế 1966 (ICESCR). Theo nguyên tắc này, các quốc gia thành
viên LHQ phải tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người mà không có bất
kì sự phân biệt đối xử và kỳ thị nào, trong đó bao gồm yếu tố “xu hướng tính dục” và
“bản dạng giới”.
Điều 26 của ICCPR nghiêm cấm phân biệt đối xử và bảo vệ bình đẳng cho tất
cả mọi người bao gồm cả người chuyển giới. Điều 9 của ICCPR đã giải thích rằng
quyền tự do dành cho "tất cả mọi người". Điều 12 của ICESCR được hiểu là công
nhận quyền được chăm sóc sức khỏe của người chuyển giới là một nhóm dễ bị tổn
thương cần có sự bảo vệ tích cực của Nhà nước. Tương tự, Ủy ban về Công ước
chống tra tấn yêu cầu các biện pháp đặc biệt để bảo vệ người chuyển giới khỏi bị tra
tấn theo Điều 2, cũng như cung cấp các cơ chế khắc phục hiệu quả cho các nạn nhân
chuyển giới bị tra tấn theo Điều 14 của Công ước.
Pháp luật quốc tế đã có sự phát triển khá mạnh mẽ trong việc bảo vệ quyền của
người đồng tính, song tính và chuyển giới. Mặc dù vậy các văn kiện quốc tế về nhân
quyền chưa có quy định riêng về quyền được chuyển đổi giới tính. Quyền chuyển
đổi giới tính nói chung, quyền chuyển đổi giới tính nói riêng được ghi nhận hàm
chứa trong một số quyền con người khác trong đó đặc biệt là các quyền được thừa
nhận trước pháp luật, quyền bình đẳng không bị phân biệt đối xử, các quyền về an
ninh cá nhân... Trong thực tế, quyền được chuyển đổi giới tính và các quyền liên
quan như thay đổi giấy tờ tuỳ thân để có tên và giới tính mới đã được các tổ chức
quốc tế và cơ quan nhân quyền LHQ thừa nhận. Tuy nhiên, các nghị quyết và
nguyên tắc trên vẫn chỉ là những Tuyên bố và Tuyên bố cam kết giải quyết các
quyền của LGBTQ+ nói chung.
Các văn kiện này thường mang tính chất khuyến nghị ít mang tính chất pháp lý
bắt buộc. Các công ước quốc tế về quyền con người tạo ra nghĩa vụ bắt buộc cho các
Quốc gia không đề cập rõ ràng đến những người LGBTQ+ và những đặc điểm nhận
dạng này sau đó đã được giải thích theo hướng mở rộng. Phạm vi bảo vệ được giải
thích bao hàm cả cộng đồng LGBTQ+. Tuy nhiên, điều này được đánh giá là chậm
chạp và thiếu tính rõ ràng trong việc bảo đảm quyền của người chuyển giới nói riêng
và cộng đồng LGBTQ+ nói chung. Thực tế, những người chuyển giới hiện nay được
đối xử như thế nào phụ thuộc và quan niệm xã hội của mỗi quốc gia, vì thế những
quốc gia vẫn có thể sử dụng điều khoản này để tiếp tục cản trở những người chuyển
giới khỏi việc đạt được quyền bình đẳng của họ.
Quyền tự do lập hội
Tự do lập hội là một quyền con người và là một trong những giá trị cốt lõi của
ILO. Đây là một giá trị thiêng liêng được nhắc tới trong Hiến chương ILO , Tuyên bố
Philadelphia của ILO , và Tuyên bố về các Nguyên tắc và Quyền Cơ bản trong Lao
động của ILO (1998) ; điều này cũng được tuyên bố trong Tuyên ngôn Quốc tế về
Nhân Quyền.

Quyền của người lao động và người sử dụng lao động được thành lập và tham
gia các tổ chức do họ tự chọn là một phần không thể tách rời của một xã hội cởi mở và
tự do. Những tổ chức độc lập của người lao động và người sử dụng lao động mang lại
cho họ những đối tác khách quan trong các đối thoại xã hội và thương lượng tập thể.
Trong nhiều trường hợp, tổ chức của người lao động và người sử dụng lao động đóng
một vai trò lớn trong những các biến đổi dân chủ của quốc gia.

Tuy nhiên, trên khắp thế giới, việc đảm bảo tôn trọng quyền cơ bản này gặp
phải rất nhiều thách thức. Ở một số quốc gia, một số đối tượng người lao động bị từ
chối quyền lập hội, hay tổ chức của người lao động và người sử dụng lao động bị đình
chỉ hoạt động hay can thiệp bất hợp pháp, và trong một số trường hợp cực đoan những
người hoạt động công đoàn còn bị bắt giữ hoặc giết.

You might also like