Các quyền chính trị theo Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 bao gồm: 4.1.2.1. Quyền dân tộc tự quyết “ Quyền dân tộc tự quyết” là một trong các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế hiện đại. Theo Công ước, các quyền chính trị được chia thành quyền của dân tộc và quyền của cá nhân. Quyền chính trị của một dân tộc là quyền thiêng liêng và bất khả xâm phạm, đóng vai trò quan trọng và tiên quyết. Chỉ khi quốc gia có quyền này thì mới xây dựng và đảm bảo thực hiện tốt các quyền dân sự và chính trị khác, kể cả các quyền kinh tế, văn hóa xã hội của công dân. Tại Điều 1, Công ước đã khẳng định: “ Mọi dân tộc đều có quyền tự quyết. Xuất phát từ quyền đó, các dân tộc tự do quyết định thể chế chính trị của mình và tự do phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa. Vì lợi ích của mình, mọi dân tộc đều có thể tự do định đoạt tài nguyên thiên nhiên và của cải của mình, miễn là không làm phương hại đến các nghĩa vụ phát sinh từ hợp tác kinh tế quốc tế mà dựa trên nguyên tắc các bên cùng có lợi và các nguyên tắc của luật pháp quốc tế. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng không được phép tước đi những phương tiện sinh tồn của một dân tộc”. Để đảm bảo thực hiện quyền này, Công ước yêu cầu “ Tất cả các quốc gia thành viên của Công ước này phải có nghĩa vụ thúc đẩy thực hiện quyền dân tộc tự quyết và phải tôn trọng các quyền đó phù hợp với Hiến chương Liên Hợp Quốc. Tôn trọng quyền tự quyết của dân tộc có nghĩa là tôn trọng các chuẩn mực quốc tế về quyền con người nhằm mục đích đảm bảo chủ quyền và lợi ích của các quốc gia, dân tộc. Quyền dân tộc tự quyết là quyền mang tính chất nhóm, tính chất tập thể, không được thực hiện bởi cá nhân riêng lẻ. Các quốc gia thành viên Công ước có nghĩa vụ thúc đẩy việc thực hiện quyền tự quyết dân tộc và phải tôn trọng quyềnddos, phù hợp với các quy định của Hiến chương liên hợp quốc. 4.1.2.2. Quyền tham gia vào quản lý nhà nước và xã hội Quyền tham gia vào quản lý nhà nước và xã hội là quyền chính trị đích thực, quan trọng của cá nhân trong một xã hội dân chủ, nhằm đảm bảo cho con người được tham gia vào các hoạt động chính trị của đất nước, nhằm phát huy sức mạnh, trí tuệ tập thể và giám sát hoạt động của các cơ quan đại diện nhân dân. Mọi công dân, không phân biệt giới tính, tôn giáo, màu da, trình độ văn hóa, thành phần xã hội đều có quyền và cơ hội tham gia một cách trực tiếp vào việc điều hành các công việc xã hội hoặc có thể tiến hành điều hành một cách gián tiếp thông qua những người đại diện do mình bỏ phiếu lựa chọn. Để công dân tham gia quản lý nhà nước xã hội một cách hiệu quả, thực sự, Công ước quy định công dân có quyền bầu cử và ứng cử trong các cuộc bầy cử định kỳ, bằng phổ thông đầu phiếu, bình đẳng và bỏ phiếu kín để thể hiện ý chí nguyện vọng của mình. Không ai được phép cản trở, ép buộc. Bên cạnh đó, công dân phải được tiếp cận với các dịch vụ công cộng ở đất nước mình trên cơ sở bình đẳng. 4.1.2.3. Quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo Vấn đề tâm linh, tín ngưỡng và tôn giáo là quyền của mỗi người được Công ước ghi nhận. Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng và tôn giáo mà không chịu bất kỳ sự phân biệt nào. Nội dung của quyền bao gồm tự do có hoặc theo một tôn giáo, tín ngưỡng do mình tự lựa chọn mà không ai được quyền can thiệp, cản trở; tự do bày tỏ tín ngưỡng tôn giáo một mình hoặc nhiều người khác một cách công khai hoặc thầm kín dưới nhiều hình thức khác nhau như cầu nguyện, thờ cúng, thực hành và truyền giảng. Công dân dù khác dân tộc, màu da, trai hay gái, già hay trẻ đều có quyền này một cách bình đẳng, kể cả khi các bậc cha mẹ , những người giám hộ hợp pháp nếu có trongv việc giáo dục về tôn giáo và đạo đức cho con cái họ theo ý nguyện riêng của họ thì quyền tự do lựa chọn theo hoặc không theo tôn giáo, tín ngưỡng của người đó cũng phải được tôn trọng. Bất kỳ một hành vi cương ép, ngăn cấm theo hợc thông theo một tín ngưỡng tôn giáo để phục vụ cho mục đích bất hợp pháp đều sẽ bị xử lý theo pháp luật. Tuy nhiên, quyền tự do tư tưởng, tôn giáo có thể bị giới hạn bởi những quy định của pháp luật, nếu những giới hạn này là cần thiết cho việc bảo vệ trật tự công cộng, sức khỏe đạo đức của công chúng hợc những quyền tự do cơ bản của người khác. 84.1.2.4. Quyền tự do ngôn luận, thông tin Quyền tự do ngôn luận, tự do thông tin của người dân thể hiện tính chất dân chủ, thúc đẩy sự minh bạch công khai của nhà nước trong quản lý xã hội, phát triển kinh tế. Đây là quyền đảm bảo cho mọ người dân trong xã hội có điều kiện cần thiết để tham gia một cách dân chủ chỉ động và tích cực vào các hoạt động của nhà nước và xã hội. Theo Điều 19 của Công ước, nội dung của quyền tự do ngôn luận là rất rộng, bao gồm cả quyền tự do tìm kiếm thông tin, nhận và truyền đạt thông tin, ý kiến, không phân biệt ranh giới và hình thức tiếp nhận, truyền tải thông tin, có thể dưới hình thức truyền miệng hoặc thông qua các bản viết, bản in hoặc hình thức nghệ thuật, hoặc thông qua mọi phương tiện thông tin đại chúng tùy theo sự lựa chọn của mỗi người. Quyền tự do ngôn luận cũng có những giới hạn nhất định, những giới hạn này phải được pháp luật quy định một cách cụ thể và phải cần thiết tron việc bảo vệ uy tín, danh dự của người khác hoặc bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc. 4.1.2.5. Quyền tự do hội họp hòa bình và tự do lập hội Việc kết hợp với nhau để thành một nhóm, hội hay tập thể cùng chúng ý ý hay hành động thep một tôn chỉ mục đích nhất định là quá trình phát triển tự nhiên của con người.
bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Liên hệ trách nhiệm của bản thân trong việc góp phần xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.