Professional Documents
Culture Documents
Đề tài: Phân tích nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia
trong luật quốc tế
Lớp : CT47A4
HÀ NỘI - 2022
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
1, Sự hình thành nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia
2, Các khái niệm trong nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia
a) Chủ quyền quốc gia
b) Bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia
3, Nội dung của nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia
4, Ngoại lệ của nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia
a) Quốc gia bị hạn chế chủ quyền
b) Quốc gia tự hạn chế quyền hạn của mình
5, Tích cực và hạn chế của nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia
a) Tích cực
b) Hạn chế
6, Thực tiễn của nguyên tắc
a) Mâu thuẫn về quyền lực của các quốc gia
b) Vấn đề nhân quyền
LỜI KẾT
NỘI DUNG
1, Sự hình thành nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia
Nguyên tắc bình đẳng chủ quyền được xem là nền tảng tiền đề của các
nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế. Đây là nguyên tắc xuất hiện rất sớm trong đời
sống quốc tế. Nó được hình thành trong thời kỳ loài người chuyển từ chế độ phong
kiến sang chế độ tư bản chủ nghĩa. Liên Hợp Quốc ra đời năm 1945 đã lấy nguyên
tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia làm cơ sở cho hoạt động của mình. Đến
năm 1970, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc một lần nữa khẳng định và ghi nhận một
cách đầy đủ nội dung pháp lý của nguyên tắc này trong Tuyên bố ngày 24/10/1970:
“Tất cả các Quốc gia đều bình đẳng về chủ quyền. Các Quốc gia bình đẳng về
quyền và nghĩa vụ, và là thành viên bình đẳng của cộng đồng quốc tế, bất kể khác
biệt về kinh tế, xã hội, chính trị hay các khác biệt khác”. Trong quan hệ quốc tế
hiện nay, vấn đề bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia đóng vai trò rất quan
trọng trong việc thiết lập, xây dựng cũng như duy trì một trật tự quốc tế trong quan
hệ giữa các quốc gia.
2, Các khái niệm trong nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia
a) Chủ quyền quốc gia
Chủ quyền quốc gia là quyền tối cao của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ
của mình và quyền độc lập của quốc gia trong quan hệ quốc tế. Đây là quyền làm
chủ quốc gia và là thuộc tính chính trị – pháp lý không thể tách rời khỏi quốc gia.
Chủ quyền quốc gia bao gồm các quyền cơ bản là quyền bất khả xâm phạm
lãnh thổ, quyền tự quyết định những công việc của quốc gia, quyền độc lập trong
quan hệ đối ngoại. Quốc gia hoàn toàn độc lập, không lệ thuộc vào bất kỳ chủ thể
nào trong việc tham gia vào một quan hệ pháp luật quốc tế cụ thể. Việc ký kết các
Điều ước quốc tế, thiết lập quan hệ ngoại giao lãnh sự hay gia nhập các tổ chức
quốc tế là những biểu hiện điển hình của việc thực hiện chủ quyền đối ngoại của
quốc gia
Trong phạm vi lãnh thổ của mình, quốc gia có quyền tối cao về lập pháp,
hành pháp và tư pháp. Mọi vấn đề chính trị, kinh tế văn hóa, xã hội của quốc gia
phải do quốc gia đó quyết định, các quốc gia khác cũng như các tổ chức quốc tế
không có quyền can thiệp, mọi tổ chức, cá nhân cư trú trên lãnh thổ của quốc gia
đó phải tuân thủ pháp luật của quốc gia nêu trong Điều ước quốc gia đã ký kết.
Quốc gia có quyền khai thác và bảo vệ nguồn tài nguyên nằm phía trong biên giới
quốc gia; thực hiện quyền lực của mình một cách đầy đủ, trọn vẹn trên cơ sở tôn
trọng lợi ích của cộng đồng dân cư sống trên vùng lãnh thổ đó đồng thời phù hợp
với các quyền dân tộc cơ bản. Các quốc gia khác có nghĩa vụ tôn trọng quyền lợi
của mỗi quốc gia, không được áp đặt quyền lực của mình và không can thiệp vào
công việc nội bộ của bất cứ quốc gia nào
b) Bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia
Bình đẳng được đề cập đến trong nguyên tắc này không được hiểu theo
nghĩa là ngang bằng nhau về tất cả các quyền và nghĩa vụ. Quyền và nghĩa vụ mà
Tuyên bố năm 1970 đề cập đến ở đây là các quyền và nghĩa vụ cơ bản theo theo
tập quán quốc tế chung và các nguyên tắc pháp luật chung - những nguồn có giá trị
pháp lý phổ quát. Bởi lẽ mỗi quốc gia chịu ràng buộc bởi các quyền và nghĩa vụ
pháp lý khác nhau, tùy thuộc vào số lượng và nội dung các điều ước quốc tế mà
từng quốc gia ký kết. Tuy nhiên các quyền và nghĩa vụ cơ bản đó phải được đặt
trong sự tương xứng nhau. Tuyên bố năm 1970 còn giải thích cụ thể hơn nội hàm
chi tiết của bình đẳng, như sau: (a) bình đẳng về pháp lý, (b) được hưởng các
quyền theo xuất phát từ chủ quyền hoàn toàn, (c) có nghĩa vụ tôn trọng tư cách của
các quốc gia khác, (d) bất khả xâm phạm về toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chính trị,
(e) có quyền tự do lựa chọn và phát triển chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa và xã
hội, và (f) có nghĩa vụ tuân thủ đầy đủ và thiện chí nghĩa vụ quốc tế và chung sống
hòa bình với các quốc gia khác
Để thấy rõ điều này, hãy xét cụ thể quyền phủ quyết (Veto) trong Liên Hợp
Quốc. Theo đó để thông qua những vấn đề thông thường cần có 9/15 phiếu thuận
của bất kỳ thành viên nào trong Hội đông bảo an Liên Hợp Quốc. Tuy nhiên đối
với những vấn đề không thông thường thì trong 9 phiếu này phải có 5 phiếu thuận
của 5 ủy viên thường trực là Anh, Mỹ, Pháp, Nga và Trung Quốc thì mới hợp lệ.
Nếu có 1 trong 5 ủy viên thường trực phản đối thì nghị quyết đó sẽ không được
thông qua. Quy định trên đây không tạo ra sự bất bình đẳng cũng như vi phạm
nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế bởi lẽ nó được xây dựng dựa trên sự đồng ý tự
nguyện của các quốc gia còn lại. Hơn nữa song song với quyền lợi được hưởng
năm quốc gia này cũng phải gánh vác những trách nhiệm tương đương.
3, Nội dung của nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia
Nội dung của nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia gồm:
Tất cả các quốc gia bình đẳng về mặt pháp lý.
Mỗi quốc gia được hưởng các quyền xuất phát từ chủ quyền.
Mỗi quốc gia có nghĩa vụ tôn trọng quyền năng chủ thể của quốc gia khác.
Sự toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chính trị của quốc gia là bất khả xâm phạm.
Mỗi quốc gia có quyền tự do lựa chọn và phát triển chế độ chính trị, kinh tế, văn
hóa và xã hội của mình.
Mỗi quốc gia có nghĩa vụ tuân thủ một cách đầy đủ và có thiện chí các nghĩa vụ
quốc tế của mình và chung sống trong hòa bình với các quốc gia khác.
Theo nguyên tắc này mỗi quốc gia đều có các quyền bình đẳng sau:
- Được tôn trọng về quốc thể, sự thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ chính trị,
kinh tế, xã hội và văn hóa;
- Được tham gia giải quyết các vấn đề có liên quan đến lợi ích của mình;
- Được tham gia các tổ chức quốc tế, hội nghị quốc tế với các lá phiếu có giá trị
ngang nhau;
- Được ký kết và gia nhập các điều ước quốc tế có liên quan;
- Được tham gia xây dựng pháp luật quốc tế, hợp tác quốc tế bình đẳng với các
quốc gia khác;
- Được hưởng đầy đủ các quyền ưu đãi, miễn trừ và gánh vác các nghĩa vụ như các
quốc gia khác.
4, Ngoại lệ của nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia
a) Quốc gia bị hạn chế chủ quyền:
Đây là trường hợp mà các chủ thể họ bị áp dụng các biện pháp chế tài hoặc
sự trừng phạt quốc tế do có hành vi vi phạm nghiêm trọng pháp luật quốc tế.
Ví dụ vào năm 1990, Iraq xâm chiếm Kuwait – một nước láng giềng nhỏ
nhưng giàu dầu mỏ và hai ngày sau tuyên bố Kuwait là một phần của Iraq. Trước
hành vi phá hoại sự hòa bình quốc tế, Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc đã sử dụng
những biện pháp trừng phạt nặng nề nhất để hạn chế chủ quyền của quốc gia này
như cấm vận gần như hoàn toàn về buôn bán và tài chính; bị giám sát các nguồn
thu từ dầu mỏ và các nguồn thu khác; bị áp đăt chương trình “Đổi dầu lấy lương
thực”,…
Hay như năm 2001 sau khi Liên Hợp Quốc phát hiện cựu tổng thống Charles
Taylor của Liberia đã bán kim cương để tài trợ cho các cuộc xung đột dân cư trong
nước và tại các nước khác ở Tây Phi, thì Liên Hợp Quốc đã áp dụng các biện pháp
như cấm nhập khẩu, cấm vận vũ trang, cấm đi lại, đóng băng tài khoản,… đối với
quốc gia này.
b) Quốc gia tự hạn chế quyền hạn của mình
Đây là trường hợp mà quốc gia tự lựa chọn vì lợi ích của mình mà họ tự hạn
chế chủ quyền của mình bằng cách trao quyền cho một chủ thể khác để thay mặt
họ trong các hoạt động liên quan đến lợi ích quốc gia. Ví dụ như Công quốc
Monaco cho phép Pháp thay mặt họ trong mọi quan hệ đối ngoại, dù nó là một
quốc gia độc lập, có chủ quyền
Hoặc các quốc gia đó tự mình hạn chế quyền hạn tham gia vào các tổ chức
quốc tế. Trong những trường hợp đó quốc gia tự thu hẹp chủ quyền và không vi
phạm nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia. Trong nhiều thế kỷ, quốc
gia bé nhỏ bên dãy núi Alps mang tên Thụy Sĩ đã kiên định với một chính sách
quốc phòng trung lập trong các vấn đề toàn cầu. Thụy Sĩ không phải là quốc gia
trung lập duy nhất của thế giới – các quốc gia như Ireland, Áo và Costa Rica đều
giữ lập trường không can thiệp tương tự, nhưng Thụy Sĩ vẫn là quốc gia trung lập
lâu đời nhất và có uy tín nhất. Quốc gia này chưa bao giờ gia nhập Tổ chức Hiệp
ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) hay Liên minh châu âu, và chỉ mới gia nhập
Liên Hợp Quốc vào năm 2002.
5, Tích cực và hạn chế của nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia
a) Tích cực
Trong giai đoạn hiện nay, đại đa số các quốc gia trên thế giới đều tuân thủ
nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia, đồng thời lên án các hành vi vi
phạm nguyên tắc này. Điều này thể hiện ở việc các quốc gia khi tham gia vào các
quan hệ quốc tế họ tự thỏa thuận với nhau về các quyền và nghĩa vụ trên cơ sở của
nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia. Một quốc gia cùng lúc có thể
tham gia nhiều tổ chức khác nhau. Khi tham gia các tổ chức này, các quốc gia tự
nguyện trao cho các tổ chức đó một số thẩm quyền thuộc chủ quyền của mình để tổ
chức đó thực hiện các mục tiêu đề ra. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là quốc
gia bị hạn chế về chủ quyền.
Ví dụ Điều 2, Hiến chương ASEAN khẳng định: Tôn trọng độc lập, chủ
quyền, bình đẳng, toàn vẹn lãnh thổ và bản sắc dân tộc của tất cả các quốc gia
thành viên; Cùng cam kết và chia sẻ trách nhiệm tập thể trong việc thúc đẩy hòa
bình, an ninh và thịnh vượng ở khu vực; Không can thiệp vào công việc nội bộ của
các quốc gia thành viên ASEAN; Tôn trọng quyền của các quốc gia thành viên
được quyết định vận mệnh của mình mà không có sự can thiệp, lật đổ và áp đặt từ
bên ngoài. Đây là một trong những nguyên tắc làm nền tảng cho các quốc gia
ASEAN trong quan hệ quốc tế với nhau và cả trong quan hệ quốc tế với các quốc
gia ngoài khối ASEAN. Mục tiêu mà ASEAN hướng tới không phải là xây dựng
một tổ chức siêu quốc gia có quyền lực bao trùm lên chủ quyền quốc gia của các
nước thành viên. Trái lại, với tư cách một tổ chức liên chính phủ, mọi quyết định
của ASEAN đều có sự tham gia đóng góp của các nước thành viên dựa trên cơ sở
bình đẳng về nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi. Mục tiêu cao nhất của ASEAN
hiện nay là tiếp tục thúc đẩy hội nhập khu vực sâu rộng hơn nữa, thể hiện ở nỗ lực
xây dựng một Cộng đồng ASEAN “mở, năng động và tự cường” dựa trên ba trụ
cột chính trị - an ninh, kinh tế và văn hóa - xã hội. Do vậy, trong quá trình này, các
nước thành viên tiếp tục là các chủ thể bình đẳng về chủ quyền, có nghĩa vụ và
quyền lợi bình đẳng như đã cam kết và thống nhất trong việc thực hiện các chương
trình hành động cụ thể nhằm hiện thực hóa mục tiêu xây dựng cộng đồng.
Hay khi tham gia vào Công ước về Luật Biển năm 1982, các quốc gia đã
thảo luận trên cơ sở nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia và nhất trí
ghi nhận Điều 87: “Biển cả được để ngỏ cho tất cả các quốc gia, dù có biển hay
không có biển. Quyền tự do trên biển cả được thực hiện trong những điều kiện do
các quy định của Công ước và những quy tắc khác của pháp luật quốc tế trù định.
Đối với các quốc gia dù có biển hay không có biển, quyền tự do này bao gồm: Tự
do hàng hải; tự do hàng không; tự do đặt các dây cáp hoặc ống dẫn ngầm; tự do
xây dựng các đảo nhân tạo hoặc các thiết bị khác được pháp luật quốc tế cho phép;
tự do đánh bắt hải sản; tự do nghiên cứu khoa học (khi thực hiện các quyền tự do
trên phải tuân thủ các quy định có liên quan của Công ước). Mỗi quốc gia khi thực
hiện các quyền tự do này phải tính đến lợi ích của việc thực hiện quyền tự do trên
biển cả của các quốc gia khác và các quyền được Công ước thừa nhận liên quan.”
b) Hạn chế
Mặc dù nguyên tắc này bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia đã xuất hiện
từ lâu đời nhưng thực tiễn quốc tế ghi nhận rất nhiều các trường hợp vi phạm
nguyên tắc một cách trắng trợn. Trên thực tế, nhiều người sẽ thừa nhận sự bình
đẳng giữa các quốc gia là một điều hư cấu về mặt pháp lý, các quốc gia không bình
đẳng trên thực tế. Hơn nữa, nguyên tắc pháp lý về bình đẳng chủ quyền không phải
lúc nào cũng được các quốc gia mạnh và yếu tôn trọng ở mức độ như nhau.
Vào giai đoạn 1981-1984, Mỹ đã vi phạm chủ quyền của Nicaragua khi tiến
hành các chuyến bay trái phép trên vùng trời quốc gia của Nicaragua, và đặt thủy
lôi trong nội thủy và lãnh hải của Nicaragua. Sau đó vào 2003, Mỹ lại lấy các lý do
như “can thiệp nhân đạo”, “truyền bá dân chủ” hay “đánh đòn phủ đầu để đảm bảo
an ninh” để sử dụng vũ lực xâm lược Iraq mà không có sự cho phép của Liên Hợp
Quốc tạo ra sự lo ngại sâu sắc trong cộng đồng quốc tế. Hay Pakistan bao che, tạo
điều kiện cho các phần tử khủng bố tấn công vào lãnh thổ Ấn Độ, đặc biệt là cuộc
tấn công đẫm máu vào thành phố Mumbai cuối năm 2008. Nhà nước Taliban ở
Afghanistan cũng đã từng bị tố cáo che chở và nuôi dưỡng mạng lưới khủng bố Al
Qaeda - những kẻ chủ mưu và thực hiện vụ tấn công đẫm máu 11/9 tại Mỹ năm
2001.
Hay như năm 2014, Cơ quan chức năng Việt Nam phát hiện giàn khoan
nước sâu Hải Dương 981 và 03 tàu dịch vụ dầu khí của phía Trung Quốc ở cách bờ
biển Việt Nam 130 hải lý để tiến hành khoan thăm dò thềm lục địa của Việt Nam
đồng thời huy động nhiều tàu bảo vệ đi cùng. Các tàu này đã cố tình đâm, va vào
tàu cảnh sát biển và tàu kiểm ngư của Việt Nam đang hoạt động chấp pháp tại
vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, gây thiệt hại về người và tài
sản. Những hành động trên của Trung Quốc đã bất chấp luật pháp quốc tế, vi phạm
chủ quyền của Việt Nam, vi phạm nghiêm trọng Điều 58 và Điều 77 Công ước của
Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 mà chính Trung Quốc là quốc gia thành
viên. Hành động này cũng đi ngược lại Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở
Biển Đông (DOC) mà Trung Quốc là một bên tham gia ký kết. Trung Quốc cũng
từng bị phê phán trên toàn cầu vì thực hiện chính sách khai thác tài nguyên ở các
quốc gia khác, đặc biệt là ở châu Phi, bất chấp những hậu quả xã hội và môi trường
nghiêm trọng cho các cộng đồng sở tại.
Không chỉ vậy, hiện giờ vẫn tồn tại các tranh cãi về việc “không can thiệp”
trên cơ sở “chủ quyền của nhà nước” không chỉ gây nguy hiểm mà còn là vi phạm
nghiêm trọng các quyền con người, chẳng hạn như tội ác chống lại loài người và
các tội ác khác theo luật pháp quốc tế có thể gây ra sự giám sát cao độ từ bên ngoài
theo luật quốc tế. Trên thực tế, có những chính quyền, mới đây nhất là Taliban tại
Afghanistan nhấn mạnh nguyên tắc này, họ làm như vậy với mục đích làm suy
giảm giá trị của các quy tắc và thể chế quốc tế trong lĩnh vực nhân quyền, cũng
như đạt được quyền miễn trừ trên thực tế khỏi những hậu quả gây ra cho chính họ
và quan chức của họ.
Lập luận “không can thiệp” này cũng không tính đến việc những gì xảy ra
trong biên giới của một quốc gia có thể ảnh hưởng đến tất cả chúng ta - như thảm
họa tự nhiên hoặc do con người tạo ra, khủng hoảng khí hậu và đại dịch COVID-
19 đã cho thấy lỗ hổng này. Mặc dù khái niệm chủ quyền có vẻ rõ ràng, nhưng việc
áp dụng nó trong một thế giới toàn cầu hóa và có tính kết nối cao là không đơn
giản. Việc giám sát nhân quyền và thảo luận hoặc chỉ trích các vi phạm - ngay cả
việc thông qua các tuyên bố và nghị quyết chính thức - không cấu thành sự xâm
phạm chủ quyền nhà nước hoặc can thiệp vào công việc nội bộ của một quốc gia.
Giám sát nhân quyền là một cách đảm bảo rằng các quốc gia đáp ứng các nghĩa vụ
nhân quyền của họ đối với tất cả mọi người trong phạm vi quyền hạn của họ và
dưới sự kiểm soát của họ. Về bản chất, giám sát nhân quyền đòi hỏi phải điều tra
“công việc nội bộ” của các quốc gia.
Tổng thư ký Liên hợp quốc Antonio Guterres đã xác định khả năng các
chính phủ lạm dụng nguyên tắc bình đẳng chủ quyền khi ông nói với Hội đồng
Nhân quyền Liên hợp quốc vào ngày 24 tháng 2 năm 2020: “Chủ quyền quốc gia
không thể là cái cớ để vi phạm nhân quyền. Chúng ta phải vượt qua sự phân đôi sai
lầm giữa nhân quyền và chủ quyền quốc gia”.