CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÔNG PHÁP QUỐC TẾ
1.1. Sự hình thành và phát triển của Luật Quốc Tế.
1.1.1. Khái niệm và nguồn gốc của Luật Quốc Tế Theo quan điểm của chủ nghĩa Mac – Lê Nin, nhà nước và pháp luật ra đời là hiện tượng lịch sử khách quan, là sản phẩm tất yếu của xã hội loài người đã phân chia giai cấp đối kháng về lợi ích và địa vị xã hội – Giai cấp thống trị và giai cấp bị trị. Về phương diện lịch sử, pháp luật của mỗi quốc gia có trước là tiền đề cho sự ra đời, tồn tại và phát triển của Luật Quốc tế. Cùng với sự xuất hiện các quốc gia độc lập, quan hệ giữa các quốc gia dần được hình thành trong quá trình thiết lập biên giới, quá trình kí kết các thỏa thuận để liên minh, liên kết chống ngoại xâm hoặc giải quyết hậu quả chiến tranh…Các quan hệ trên khi hình thành đòi hỏi phải được điều chỉnh về mặt pháp lý quốc tế. Do đó hệ thống pháp luật Quốc Tế hình thành. Quan hệ pháp luật quốc tế hình thành từ thời kì chiếm hữu nô lệ nhưng thuật ngữ Luật Quốc Tế ra đời muộn hơn rất nhiều. Luật Quốc Tế là hệ thống pháp luật độc lập bao gồm tổng thể các nguyên tắc, quy phạm điều chỉnh các quan hệ quốc tế phát sinh giữa các quốc gia, các chủ thể khác của Luật Quốc Tế trong các lĩnh vực của đời sống quốc tế. 1.1.2. Luật Quốc Tế thời kì chiếm hữu nô lệ Ngay từ thời kì chiếm hữu nô lệ đã xuất hiện các nguyên tắc, quy phạm điều chỉnh mối quan hệ giữa các quốc gia với tên gọi là: Jus gentium( luật Vạn Dân), đó là những nguyên tắc, quy phạm đầu tiên của Luật Quốc Tế. Đặc điểm các nguyên tắc, quy phạm luật Quốc Tế thời kì này là các nguyên tắc quy phạm còn rất sơ sài và chưa được thừa nhận rộng rãi; hình thức chủ yếu là luật lệ và tập quán chưa có dạng văn bản; chỉ được áp dụng trong một khu vực nhất định và có nội dung sơ sài chủ yếu là các luật lệ và tập quán về chiến tranh và ngoại giao. Mặc dù Luật Quốc Tế thời kì chiếm hữu nô lệ còn sơ sài nhưng nó đã xuất hiện một số chế độ tiến bộ làm tiền đề cho sự phát triển luật quốc tế thời kì sau như: Những quy định về cấm sử dụng thuốc độc và vũ khí tẩm thuốc độc; luật ngoại giao lãnh sự đã manh nha xuất hiện; nguyên tắc Pacta sunt sevenda cũng đã được hình thành. 1.1.3. Luật Quốc Tế thời kì phong kiến. Cùng với sự phát triển của chế độ phong kiến thì Luật Quốc Tế thời kì này phát triển vượt bậc so với thời kì chiếm hữu nô lệ. - Về nội dung luật Quốc Tế thời kì phong kiến phát triển ngày càng mở rộng trên nhiều lĩnh vực như: Thương mại, khai thác và sử dụng biển, thiết lập và duy trì quan hệ ngoại giao lãnh sự… - Thời kì này Luật Quốc Tế xuất hiện số lượng nhiều hơn và ngoài là các tiền lệ và tập quán ra thì xuất hiện các nguyên tắc, quy phạm dưới dạng văn bản. - Nhiều nguyên tắc, quy phạm mới của Luật Quốc Tế được hình thành như nguyên tắc, quy phạm của luật ngoại giao, lãnh sự, luật biển… - Tính khu vực của Luật Quốc Tế thời kì trước được thay thế bởi tính liên khu vực ở thời kì này. Như vậy thời kì này Luật quốc tế phát triển hoàn thiện hơn thời kì trước, nội dung các quy phạm được mở rộng ở nhiều lĩnh vực; tính khu vực được thay thế bởi tính liên khu vực; các nguyên tắc, quy phạm mới hình thành; xuất hiện các nguyên tắc, quy phạm dưới dạng thành văn; khoa học Luật Quốc Tế được hình thành như một ngành khoa học độc lập. 1.1.4. Luật Quốc Tế thời kì tư bản chủ nghĩa Cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản thì luật quốc tế có những bước phát triển vượt bậc so với các thời kì trước: Số lượng nguyên tắc, quy phạm của Luật Quốc Tế ngày càng nhiều hình thức văn bản dần chiếm ưu thế so với tập quán và tiền lệ; các nguyên tắc, quy phạm Luật Quốc Tế xuất hiện ở hầu hết các lĩnh vực; trong thời kì này xuất hiện chủ thể mới của Luật Quốc Tế đó là các tổ chức quốc tế liên chính phủ; những nguyên tắc, quy phạm dân chủ và tiến bộ hình thành nhiều như: Nguyên tắc chủ quyền nhân dân, bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia, không can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia khác. Tuy nhiên Luật Quốc Tế thời kì này cũng tồn tại những nguyên tắc, quy phạm, học thuyết phản động bất bình đẳng trong quan hệ quôc tế như: Công nhận quyền tự do sử dụng vũ lực của các quốc gia trong quan hệ quốc tế; chế độ tô giới, bảo hộ thuộc địa. 1.1.5. Luật Quốc Tế hiện đại Luật Quốc Tế hiện đại được đánh dấu sau thắng lợi của cuộc cách mạng tháng 10 Nga. Luật Quốc tế thời kì này phát triển hoàn thiện hơn tất cả các thời kì trước. Ở thời kì này các quan hệ giữa các quốc gia được xây dựng trên cơ sở các nguyên tắc, quy phạm có nội dung phong phú, đa dạng và tiến bộ hơn như: Nguyên tắc cấm sử dụng và đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế; nguyên tắc hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế…Trong thời kì này cũng xuất hiện chủ thể mới của Luật Quốc Tế đó là các dân tộc đang đấu tranh giành quyền tự quyết. Bên cạnh đó là hàng loạt các tổ chức quốc tế ra đời, mở rộng quan hệ hợp tác trên bình diện khu vực và toàn cầu. Đồng thời xuất hiện nhiều ngành luật mới như: Luật hàng không dân dụng quốc tế; luật môi trường quốc tế; luật kinh tế quốc tế; luật hành không vũ trụ… Như vậy trải qua các thời kì phát triển Luật Quốc Tế có sự phát triển mạnh mẽ, vượt bậc theo hướng dân chủ, công bằng hơn.Tuy nhiên thì Luật Quốc Tế cần phải được tuân thủ thực hiện một cách triệt để hơn để có thể xứng tầm với vị trí của nó. 1.2. Những đặc điểm của Luật Quốc Tế hiện đại. 1.2.1. Đối tượng điều chỉnh Đối tượng điều chỉnh nói chung của pháp luật là các quan hệ xã hội, cụ thể đối tượng điều chỉnh của Luật Quốc Tế là các quan hệ xã hội phát sinh trong đời sống quốc tế giữa các chủ thể luật quốc tế có đặc điểm: - Đối tượng điều chỉnh của luật Quốc Tế là các quan hệ xã hội mang tính quốc tế, phát sinh trong sinh hoạt quốc tế giữa các chủ thể của Luật Quốc Tế nó khác với đối tượng điều chỉnh của luật quốc gia – là các quan hệ phát sinh trong nội bộ quốc gia. - Nội dung của quan hệ pháp luật quốc tế rất đa dạng trên nhiều lĩnh vực từ quan hệ hợp tác chính trị- kinh tế đến quan hệ hợp tắc văn hóa, khoa học, kĩ thuật… - Tính chất của quan hệ pháp luật quốc tế là tính liên quốc gia, liên chính phủ mà trong mối quan hệ này các quốc gia tham gia quan hệ pháp luật quốc tế có vị trí hoàn toàn bình đẳng với nhau. 1.2.2. Chủ thể của Luật Quốc tế Chủ thể của Luật Quốc Tế bao gồm quốc gia, tổ chức quốc tế liên chính phủ, các dân tộc đang đấu tranh giành quyền tự quyết và một số chủ thể đặc biệt khác như: Hồng Kong, Ma Cao, Đài Loan…Các chủ thể Luật Quốc Tế khi tham gia vào quan hệ pháp luật quốc tế đều có vị trí bình đẳng với nhau mà không có ngoại lệ. - Quốc gia – chủ thể cơ bản và chủ yếu của Luật Quốc Tế. Khi quốc gia hội tụ đủ yếu tố cấu thành nên quốc gia là: Dân cư, lãnh thổ và quyền lực nhà nước thì quốc gia trở thành chủ thể của Luật Quốc Tế cho dù các quốc gia khác có công nhận hay không công nhận. - Tổ chức quốc tế liên chính phủ (IGO) – là tổ chức quốc tế do các quốc gia và các chủ thể khác của Luật Quốc Tế thỏa thuận xây dựng nên mới là chủ thể của Luật Quốc tế còn các tổ chức quốc tế phi chính phủ không phải là chủ thể của Luật Quốc Tế. - Dân tộc đang đấu tranh đòi quyền dân tộc tự quyết là chủ thể đang trong quá trình hình thành quốc gia độc lập có chủ quyền cũng là một chủ thể của Luật Quốc Tế. 1.2.3. Xây dựng các nguyên tắc và quy phạm Luật Quốc Tế. Các nguyên tắc, quy phạm của Luật Quốc Tế được xây dựng trên chủ quyền của quốc gia vì vậy mà không có cơ quan quyền lực nào đứng trên quốc gia để ban hành Luật Quốc Tế. Vì vậy mà trong quá trình xây dựng luật Quốc Tế không tồn tại một cơ quan lập pháp quốc tế theo đúng nghĩa đen của nó. Mà các nguyên tắc, quy phạm của Luật Quốc Tế do các quốc gia và các chủ thể khác của Luật Quốc Tế bình đẳng cùng nhau xây dựng trên nguyên tắc bình đẳng và tự nguyện. Mặc dù luật quốc tế do các chủ thể luật quốc tế thỏa thuận xây dựng nên nhưng một khi các nguyên tắc, quy phạm của luật quốc tế đã hình thành thì các chủ thể của luật quốc tế phải tuân thủ thực hiện. 1.2.4. Bảo đảm thi hành Luật Quốc Tế Bản chất của Luật Quốc Tế là sự thỏa thuận trên cơ sở bình đẳng và tự nguyện dựa trên chủ quyền của quốc gia vì vậy sẽ không có một cơ quan quyền lực nào đứng trên quốc gia để thi hành Luật Quốc Tế theo đúng nghĩa cơ quan hành pháp như trong pháp luật mỗi quốc gia. Việc thi hành luật quốc tế do các bên thỏa thuận thi hành. Để đảm bảo thi hành Luật Quốc Tế các quốc gia và các chủ thể khác của Luật Quốc Tế tận tâm thực hiện các cam kết quốc tế theo nguyên tắc Pacta sunt sevenda. Trong các trường hợp cần thiết các chủ thể Luật Quốc Tế có thể thực hiện các biện pháp cưỡng chế theo hai cách: cưỡng chế riêng lẻ hoặc cưỡng chế tập thể để thi hành luật quốc tế. 1.3. Mối quan hệ giữa Luật Quốc Tế và Luật Quốc Gia 1.3.1. Các học thuyết về mối quan hệ giữa luật quốc tế và luật quốc gia Có nhiều học thuyết về mối quan hệ giữa luật quốc tế và luật quốc gia trong đó nổi bật là hai học thuyết nhất nguyên luận và nhị nguyên luật. - Về học thuyết nhất nguyên luận: Thuyết nhất nguyên luận dựa vào học thuyết pháp luật tự nhiên của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại. Theo đó thuyết nhất nguyên quan niệm rằng: Pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia là hai bộ phận của một hệ thống pháp luật thống nhất trong đó bộ phận này phụ thuộc vào bộ phận kia. - Về thuyết nhị nguyên Luận: Thuyết nhị nguyên được xây dựng trên cơ sở phân tích sự khác biệt giữa luật quốc tế và Luật quốc gia. Theo đó thuyết có nội dung: Luật quốc tế và luật quốc gia là hai hệ thống pháp luật độc lập, song song tồn tại và giữa chúng không có mối quan hệ với nhau. Hai học thuyết nhất nguyên luận và nhị nguyên luận đều có những lập luận chưa thực sự thuyết phục về mới quan hệ giữa luật quốc tế và luật quốc gia. Luật quốc tế và luật quốc gia có đặc thù khác nhau nên không thể xếp vào một hệ thống pháp luật như quan điểm của thuyết nhất nguyên. Hơn nữa việc đặt Luật quốc tế có vị trí cao hay thấp hơn luật quốc gia sẽ dẫn đến tình trạng hoặc là đề cao chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi hoặc là dẫn đến tình trạng phủ nhận chủ quyền quốc gia. Còn đối với thuyết nhị nguyên đã phủ nhận tác động tương hỗ giữa hai hệ thống pháp luật trong việc điều chỉnh các quan hệ pháp sinh trong đời sống quốc tế cũng như quốc nội. 1.3.2. Cơ sở mối quan hệ giữa luật quốc tế và luật quốc gia. - Sự gắn bó chặt chẽ giữa hai chức năng cơ bản của nhà nước là chức năng đối nội và chức năng đối ngoại. Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị với hai chức năng chính là đối nội và đối ngoại. pháp luật là công cụ hữu hiệu nhất để nhà nước thực hiện các chức năng của mình. Do sự gắn bó chặt chẽ giữa hai chức năng cơ bản của nhà nước đã tạo cơ sở việc tồn tại mối quan hệ biện chứng giữa pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia. - Sự có mặt của nhà nước với địa vị vừa là tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị vừa là thực thể đại diện cho quốc gia trong quá trình ban hành pháp luật quốc gia và xây dựng pháp luật quốc tế. Trong quá trình đó pháp luật quốc gia thể hiện bảo vệ lợi ích cho giai cấp cầm quyền và luật quốc tế cũng gắn bó chặt chẽ với pháp luật quốc gia cùng bảo vệ lợi ích nhà nước và trong một chừng mực nhất định bảo về lợi ích chung của xã hội và cả cộng đồng dân tộc. - Nguyên tắc tự nguyện thực hiện các cam kết quốc tế. Khi tham gia vào quan hệ quốc tế các quốc gia phải tuân thủ pháp luật quốc tế trên nguyên tắc tự nguyện thực hiện các cam kết quốc tế. Để thực hiện các cam kết quốc tế các quốc gia có thể áp dụng trực tiếp hoặc nội luật hóa luật quốc tế. - Sự thống nhất về các vai trò của hai hệ thống pháp luật. Hai hệ thống pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia đều là cơ sở để thiết lập củng cố và tăng cường quyền lực nhà nước; là cơ sở để nhà nước quản lý kinh tế xã hội; góp phần tạo dựng những quan hệ mới và tạo môi trường ổn định để thiết lập, duy trì, phát triển các quan hệ quốc tế. 1.3.3. Nội dung mối quan hệ giữa luật quốc gia và luật quốc tế. + Luật quốc gia ảnh hưởng quyết định đến sự hình thành và phát triển của luật quốc tế thông qua sự tham gia của từng quốc gia vào các quan hệ pháp luật quốc tế. Luật quốc gia chi phối và thể hiện nội dung của luật quốc tế .Các quốc gia chỉ tham gia các quan hệ quốc tế nếu có lợi trong các quan hệ đó. Khi tham gia các quan hệ quốc tế quốc gia luôn cố gắng tận dụng mọi cơ hội để bảo vệ lợi ích của mình một cách tốt nhất trong mối tương quan giữa lợi ích quốc gia và lợi ích chung của cộng đồng quốc tế. Các nguyên tắc, quy phạm của luật quốc tế do quốc gia thỏa thuận xây dựng nên trên nền tảng của chính pháp luật quốc gia. Từ đó pháp luật quốc gia định hướng về nội dung, tính chất của quy phạm luật quốc tế. Mọi sự thay đổi hoặc phát triển của luật quốc gia đều thúc đẩy sự phát triển của luật quốc tế theo hướng tích cực. + Luật quốc gia chính là phương tiện thực hiện luật quốc tế + Luật quốc gia cũng đóng vai trò là cơ sở đảm bảo cho các ngành luật truyền thống của luật quốc tế tiếp tục phát triển, đồng thời tạo điều kiện vật chất cho sự hình thành và phát triển của những ngành luật mới (luật hàng không dân dụng quốc tế, luật môi trường quốc tế, luật kinh tế quốc tế...) + Luật quốc tế thúc đẩy quá trình phát triển và hoàn thiện pháp luật quốc gia Điều này được thể hiện thông qua nghĩa vụ thực hiện luật quốc tế và việc chuyển hóa luật quốc tế vào pháp luật quốc gia. + Luật quốc tế tạo điều kiện cho luật quốc gia phát triển theo chiều hướng tiến bộ (ảnh hưởng của những nguyên tắc tiến bộ của luật quốc tế, các vấn đề quyền con người ...). Chương 2: CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA LUẬT QUỐC TẾ 1. Khái niệm những nguyên tắc cơ bản của Luật Quốc Tế 1.1. Định nghĩa Những nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế hiện đại là những nguyên tắc pháp lý bao trùm nhất, quan trọng nhất và được thừa nhận rộng rãi nhất trong quan hệ quốc tế ngày nay. Các nguyên tắc cơ bản của Luật Quốc Tế không xuất hiện cùng một lúc mà chúng được hình thành dần dần qua các thời kì lịch sử phát triển của luât quốc tế. 1.2. Đặc điểm cơ bản của các nguyên tắc cơ bản của Luật Quốc Tế. Thứ nhất các nguyên tắc cơ bản của Luật Quốc Tế là những nguyên tắc bao trùm nhất. Chúng thể hiện những tư tưởng chung nhất, tổng quát hóa toàn bộ nội dung của những quy phạm cụ thể của Luật Quốc Tế. Thứ hai các nguyên tắc cơ bản của Luật Quốc Tế là những nguyên tắc quan trọng nhất. Đây là những nguyên tắc có tính chất chỉ đạo và có ý nghĩa cơ sở đối với việc xây dựng những quy phạm luật quốc tế khác. Trong quá trình xây dựng những nguyên tắc, quy phạm Luật Quốc Tế khác, thì các nguyên tắc, quy phạm trên không được có nội dung trái với các nguyên tắc, quy phạm trong các nguyên tắc cơ bản. Thứ ba các nguyên tắc cơ bản của Luật Quốc Tế là những nguyên tắc được thừa nhận rộng rãi nhất. 2. Hệ thống các nguyên tắc cơ bản của Luật Quốc Tế. 2.1. Nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia. Nguyên tắc bình đằng chủ quyền giữa các quốc gia hình thành trong thời kì phong kiến ở Châu Âu. Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia được ghi nhận tại Điều 2 Hiến chương Liên Hợp Quốc và trở thành một trong những nguyên tắc cơ bản của Luật Quốc Tế. Chủ quyền quốc gia là một thuộc tính chính trị pháp lý xuất hiện với sự ra đời của quốc gia và là cơ sở cho quyền năng chủ thể Luật Quốc Tế của quốc gia. Chủ quyền của quốc gia là quyền tối cao của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ và quyền độc lập của quốc gia trong quan hệ quốc tế. Nó thể hiện qua hai phương diện gắn với hai chức năng cơ bản của nhà nước là chức năng đối nội và chức năng đối ngoại. Nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia có nội dung: Mỗi quốc gia trên thế giới với những đặc điềm khác biệt về dân cư, lãnh thổ, chế độ chính trị, tiềm lực kinh tế, quốc phòng…nhưng luôn bình đẳng với nhau về mặt địa vị dựa trên yếu tố chủ quyền. theo tuyên bố năm 1970 của Liên Hợp Quốc về những nguyên tắc cơ bản của Luật Quốc Tế thì bình đẳng chủ quyền của các quốc gia có nội dung sau: - Tất cả các quốc gia đều bình đẳng về mặt pháp lý - Mỗi quốc gia được hưởng các quyền xuất phát từ chủ quyền hoàn toàn và đầy đủ - Mỗi quốc gia có nghĩa vụ tôn trọng quyền năng chủ thể của quốc gia khác - Sự toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chính trị của quốc gia là bất khả xâm phạm - Mỗi quốc gia có quyền tự lựa chọn và phát triển chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của mình - Mỗi quốc gia có nghĩa vụ tuân thủ một cách đầy đủ và thiện chí các nghĩa vụ quốc tế của mình và chung sống hòa bình với các quốc gia khác Ngoại lệ của nguyên tắc: - Liên quan đến các quốc gia là ủy viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. - Các quốc gia hạn chế chủ quyền: Bị hạn chế chủ quyền và tự hạn chế chủ quyền như trường hợp các quốc gia trung lập. 2.2. Nguyên tắc cấm dùng vũ lực và đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Khái niệm vũ lực trong quan hệ quốc tế: + Thuật ngữ vũ lực được hiểu trước tiên là sức mạnh vũ trang. Do đó, sử dụng vũ lực (use of force) chính là sử dụng lực lượng vũ trang (use of armed force) để chống lại quốc gia độc lập có chủ quyền. + Việc sử dụng các biện pháp khác như kinh tế, chính trị (phi vũ trang) chỉ được coi là dùng vũ lực nếu kết quả của nó dẫn đến việc sử dụng vũ lực(gián tiếp sử dụng vũ lực). + Những hành động dùng lực lượng vũ trang không nhằm tấn công xâm lược nhưng để gây sức ép, đe dọa quốc gia khác như tập trung quân đội (hải, lục, không quân) với số lượng lớn ở biên giới giáp với các quốc gia khác; tập trận ở biên giới nhằm biểu dương lực lượng đe dọa quốc gia láng giềng; gửi tối hậu thư đe dọa quốc gia khác ... được coi là đe dọa dùng vũ lực. Khái niệm xâm lược: Là những vấn đề phát sinh giữa các chủ thể luật quốc tế thể hiện những bất đồng, xung đột về các vấn đề cơ bản của quan hệ quốc tế cũng như các ý kiến, quan điểm khác nhau trong việc giải thích và áp dụng luật quốc tế. Nghĩa xâm lược theo Nghị quyết số 3314 ngày 12/4/1974) Nội dung của nguyên tắc: + Cấm xâm chiếm lãnh thổ quốc gia hoặc dùng lực lượng vũ trang vượt qua biên giới tiến vào lãnh thổ quốc gia khác + Cấm cho quân vượt qua giới tuyến quốc tế, trong đó có giới tuyến ngừng bắn hoặc giới tuyến hòa giải. + Cấm các hành vi đe dọa, trấn áp bằng vũ lực. + Không cho phép các quốc gia khác dùng lãnh thổ của mình để tiến hành xâm lược chống nước thứ ba. + Cấm tổ chức, khuyến khích, xúi giục, giúp đỡ hay tham gia vào nội chiến hay các hành vi khủng bố tại các quốc gia khác. + Không tổ chức hoặc giúp đỡ các nhóm vũ trang, lính đánh thuê đột nhập vào phá hoại trong lãnh thổ quốc gia khác. Những trường hợp ngoại lệ của nguyên tắc: + Tham gia vào lực lượng liên quân theo quy định của HĐBA trong trường hợp có sự đe dọa hòa bình, phá hoại hòa bình hoặc hành vi xâm lược (Đ. 39 Hiến chương LHQ) + Khi quốc gia thực hiện quyền tự vệ cá thể hoặc tập thể trong trường hợp bị tấn công vũ trang (Đ. 51 Hiến chương LHQ) + Các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc được quyền sử dụng vũ lực để tự giải phóng mình (nguyên tắc quyền dân tộc tự quyết) 2.3. Nguyên tắc hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế Khái niệm tranh chấp quốc tế:Là những bất đồng, xung đột giữa các chủ thể của luật quốc tế về những vấn đề liên quan đến lợi ích của họ Khái niệm về các biện pháp hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế:Là các phương tiện, cách thức mà các chủ thể của pháp luật quốc tế có nghĩa vụ phải sử dụng để giải quyết các tranh chấp, bất đồng trên cơ sở nguyên tắc hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế để duy trì hòa bình, an ninh quốc tế, phát triển mối quan hệ hòa bình, hợp tác giữa các nước. Nội dung của nguyên tắc: Hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế là nghĩa vụ bắt buộc đối với mọi quốc gia. Các quốc gia cần nỗ lực trên tinh thần thiện chí để giải quyết tranh chấp đồng thời kìm chế mọi hành động có thể làm căng thẳng tình hình và có thể dẫn đến xung đột quốc tế. 2.4. Nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác Khái niệm công việc nội bộ của các quốc gia: Công việc nội bộ là công việc nằm trong thẩm quyền giải quyết của mỗi quốc gia độc lập xuất phát từ chủ quyền của mình.Công việc nội bộ của quốc gia bao gồm cả công việc đối nội và công việc đối ngoại. Khái niệm can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác:Can thiệp trực tiếp: dùng áp lực quân sự, chính trị, kinh tế,… và các biện pháp khác khống chế quốc gia khác trong việc thực hiện các quyền thuộc chủ quyền để nhằm ép buộc quốc gia đó phải phụ thuộc vào mình.Can thiệp gián tiếp: là các biện pháp quân sự, kinh tế - tài chính,… do quốc gia tổ chức, khuyến khích các phần tử phá hoại hoặc khủng bố nhằm mục đích lật đổ chính quyền hợp pháp của quốc gia đó hoặc gây mất ổn định cho tình hình chính trị, kinh tế, xã hội nước này. Nội dung của nguyên tắc: - Cấm can thiệp vũ trang và các hình thức can thiệp hoặc đe dọa can thiệp khác nhằm chống lại chủ quyền, nền tảng chính trị, văn hóa, kinh tế, xã hội của quốc gia. - Cấm sử dụng các biện pháp kinh tế, chính trị và các biện pháp khác để bắt quốc gia khác phụ thuộc vào mình. - Cấm tổ chức, khuyến khích các phần tử phá hoại hoặc khủng bố nhằm lật đổ chính quyền của quốc gia khác - Cấm can thiệp vào công việc đấu tranh nội bộ của quốc gia khác - Tôn trọng quyền của mỗi quốc gia tự lựa chọn cho mình chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội phù hợp với nguyện vọng của dân tộc. Các trường hợp ngoại lệ: + Khi có xung đột vũ trang nội bộ ở quốc gia nào đó, nếu cuộc xung đột này đã đạt đến mức độ nghiêm trọng mà nếu tiếp tục kéo dài sẽ gây ra mất ổn định trong khu vực, đe dọa hòa bình và an ninh thế giới thì HĐBA LHQ được quyền “can thiệp” trực tiếp hoặc gián tiếp. + Khi có vi phạm nghiêm trọng các quyền cơ bản của con người, HĐBA LHQ có quyền “can thiệp” để đảm bảo thực hiện quyền con người ở quốc gia vi phạm. 2.5. Nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với nhau: Nội dung pháp lý của nguyên tắc: - Các quốc gia phải hợp tác để thực hiện tôn chỉ, mục đích của Liên hợp quốc như: Nâng cao mức sống của người dân, đảm bảo công ăn việc làm, giải quyết các vấn đề quốc tế trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội,y tế… - Các quốc gia phải hành động phù hợp với các nguyên tắc của Liên hợp quốc để giải quyết các vấn đề quốc tế thông qua sự hợp tác. Phạm vi hợp tác của các quốc gia: 2.6. Nguyên tắc quyền dân tộc tự quyết Khái niệm quyền dân tộc tự quyết: + Khái niệm dân tộc theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin: Dân tộc là cộng đồng người ổn định làm thành nhân dân một nước, một quốc gia gắn bó với nhau trong truyền thống, nghĩa vụ và quyền lợi. + Khái niệm dân tộc đấu tranh giành quyền tự quyết Nội dung của nguyên tắc: - Được thành lập quốc gia độc lập hay cùng với các dân tộc khác thành lập quốc gia liên bang hoặc đơn nhất trên cơ sở tự nguyện. - Tự lựa chọn cho mình chế độ chính trị, kinh tế, xã hội - Tự giải quyết các vấn đề đối nội không có sự can thiệp từ bên ngoài - Quyền của các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc tiến hành đấu tranh, kể cả đấu tranh vũ trang để giành độc lập và nhận sự giúp đỡ, ủng hộ từ bên ngoài, kể cả giúp đỡ về quân sự. - Tự lựa chọn con đường phát triển phù hợp với truyền thống lịch sử, văn hóa, tín ngưỡng, điều kiện địa lý. 2.7. Nguyên tắc tận tâm thực hiện các cam kết quốc tế ( Pacta sunt servanda) Nội dung pháp lý của nguyên tắc: - Mọi chủ thể phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ quốc tế được xác lập theo luật pháp quốc tế - Các quốc gia phải thực hiện điều ước quốc tế trên cơ sở tuân thủ một cách triệt để, không do dự và không phụ thuộc vào các sự kiện xảy ra trong nước cũng như quốc tế như: Thay đổi chính phủ, thay đổi các hình thức quản lý và chế độ xã hội hoặc các bất ổn chính trị...không là lý do để quốc gia thực hiện các cam kết và các điều ước quốc tế - Việc cắt đứt quan hệ ngoại giao hay quan hệ lãnh sự giữa các quốc gia thành viên của ĐƯQT không ảnh hưởng tới các quan hệ pháp lý phát sinh giữa các quốc gia, trừ trường hợp các quan hệ ngoại giao hoặc lãnh sự là đối tượng cho việc thực hiện ĐƯQT. Các trường hợp ngoại lệ: + điều ước quốc tế được ký kết vi phạm những qui định của pháp luật quốc gia của các quốc gia tham gia về thẩm quyền và thủ tục ký kết. + Nội dung của điều ước trái với mục đích và nguyên tắc của Hiến chương Liên hợp quốc hoặc những nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế. Chương 3: CHỦ THỂ CỦA LUẬT QUỐC TẾ 1. Khái niệm chủ thể luật quốc tế. 1.1.Tiêu chí chủ thể của luật quốc tế Mỗi một hệ thống pháp luật đều có những chủ thể nhất định của nó. Bởi vậy, khi nghiên cứu hệ thống pháp luật quốc tế chúng ta không thể không đề cập đến chủ thể pháp luật của nó. Khi bàn về vấn đề chủ thể luật quốc tế có nhiều quan điểm khác nhau về chủ thể luật quốc tế. Có quan điểm cho rằng chủ thể của luật quốc tế bao gồm: Quốc gia, tổ chức quốc tế liên chính phủ, dân tộc đang đấu tranh giành quyền tự quyết và một số chủ thể đặc biệt khác. Có quan điểm lại cho rằng các tập đoàn xuyên quốc gia, các tổ chức phi chính phủ, thậm chí cả cá nhân trong một số quan hệ pháp luật quốc tế cũng là chủ thể của luật quốc tế. Để làm rõ vấn đề chủ thể của luật quốc tế chúng ta cần làm rõ các chủ thể luật quốc tế có những tiêu chí nào? Trong khoa hoc pháp lý quốc tế hiện nay các chủ thể của luật quốc tế phải đáp ứng các tiêu chí sau: - Thứ nhất, chủ thể của luật quốc tế phải là những thực thể có sự tham gia vào quan hệ quốc tế do luật quốc tế điều chỉnh (tức là tham gia vào quan hệ pháp luật quốc tế). Nghĩa là, chủ thể của luật quốc tế phải có đầy đủ điều kiện và khả năng tham gia vào các quan hệ pháp lý quốc tế nhằm thiết lập và thực hiện các quan hệ pháp luật quốc tế với các chủ thể khác trong tất cả các lĩnh vực của quan hệ quốc tế thuộc đối tượng điều chỉnh của luật quốc tế. Khả năng tham gia vào các quan hệ quốc tế thuộc đối tượng điều chỉnh của luật quốc tế phụ thuộc vào năng lực pháp luật và năng lực hành vi quốc tế của mỗi chủ thể do luật quốc tế quy định. Chủ thể luật quốc tế tham gia vào quan hệ nào, với chủ thể nào, vào thời điểm nào hoàn toàn do chính chủ thể đó lựa chọn và quyết định. - Thứ hai, có ý chí độc lập không phụ thuộc vào ý chí của các chủ thể khác. Điều này có nghĩa là khi tham gia vào các quan hệ pháp luật quốc tế, các chủ thể luật quốc tế không bị lệ thuộc, chi phối hoặc bị áp đặt ý chí bởi bất kì chủ thể nào. Sự tham gia vào các quan hệ pháp lý quốc tế phải xuất phát từ ý chí, nguyện vọng và lợi ích của chính chủ thể. Việc áp đặt, cưỡng bức, can thiệp buộc các chủ thể tham gia vào những quan hệ pháp luật trái với ý chí, nguyện vọng và lợi ích của chính chủ thể đều bị coi là hành vi vi phạm pháp luật quốc tế. - Thứ ba, chủ thể của luật quốc tế phải là thực thể có các quyền và nghĩa vụ riêng biệt đối với các chủ thể khác. Khi tham gia vào các quan hệ pháp luật quốc tế các chủ thể khác nhau thì có những quyền và nghĩa vụ khác nhau, các quyền và nghĩa vụ này là riêng biệt. Các quyền và nghĩa vụ pháp lý này phụ thuộc vào việc chủ thể đó tham gia vào quan hệ pháp luật nào, với chủ thể nào, với lĩnh vực nào… Khi các quyền và nghĩa vụ quốc tế đó được xác lập phù hợp với các nguyên tắc, quy phạm của luật quốc tế thì các chủ thể phải thực hiện một cách đầy đủ, tận tâm và thiện chí. - Thứ tư, chủ thể luật quốc tế phải có khả năng độc lập gắng vác những trách nhiệm pháp lý quốc tế do những hành vi của mình gây ra. Khi tham gia vào các quan hệ pháp luật quốc tế, các chủ thể luật quốc tế thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo ý chí độc lập của bản thân nên các chủ thể này phải có khả năng tự bản thân độc lập gắng vác những trách nhiệm pháp lý đối với những thiệt hại do chính mình gây ra, xâm hại đến các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác hoặc xâm hại đến các quan hệ được pháp luật quốc tế xác lập và bảo vệ. Các chủ thể luật quốc tế phải có đầy đủ các dấu hiệu cơ bản trên nếu thiếu đi một trong các dấu hiệu trên thì chủ thể đó không còn là chủ thể pháp luật quốc tế được luật quốc tế điều chỉnh. Các dấu hiệu cơ bản này, tạo cho chủ thể luật quốc tế tồn tại và có ý chí độc lập, không phụ thuộc vào ý chí của các chủ thể khác. 1.2. Định nghĩa chủ thể luật quốc tế Từ các dấu hiệu cơ bản của chủ thể luật quốc tế ta có thể hiểu chủ thể luật quốc tế là thực thể đang tham gia vào quan hệ pháp luật quốc tế một cách độc lập, có đầy đủ quyền, nghĩa vụ quốc tế do chính hành vi của chủ thể gây ra. Như vậy các chủ thể của luật quốc tế bao gồm: Quốc gia, dân tộc đang đấu tranh giành quyền tự quyết, tổ chức quốc tế liên chính phủ và một số chủ thể đặc biệt khác như Tòa thánh Vanticang, Vùng lãnh thổ. Các cá nhân, tập đoàn xuyên quốc gia và các tổ chức quốc tế phi chính phủ có thể tham gia vào một số quan hệ quốc tế nhưng thực thể này không phải chủ thể luật quốc tế. Vì chúng không độc lập khi tham gia quan hệ mà phụ thuộc vào ý chí của quốc gia. 1.3. Phân loại chủ thể luật quốc tế Dựa vào yếu tố chủ quyền chủ thể luật quốc tế chia thành hai nhóm: - Chủ thể có chủ quyền bao gồm quốc gia và dân tộc đang đấu trành giành quyền tự quyết. Quốc gia có chủ quyền quốc gia còn dân tộc đang đấu tranh giành quyền tự quyết có chủ quyền dân tộc. - Chủ thể không có chủ quyền bao gồm tổ chức quốc tế liên chính phủ và một số chủ thể đặc biệt của luật quốc tế. Tổ chức quốc tế liên chính phủ là thực thể do các quốc gia thỏa thuận thành lập, vì vậy nó không có chủ quyền. 1.4. Vấn đề quyền năng của chủ thể luật quốc tế. Quyền năng của chủ thể luật quốc tế là khả năng của chủ thể luật quốc tế tham gia vào quan hệ quốc tế, thực hiện các quyền và nghĩa vụ quốc tế trên cơ sở và trong khuôn khổ luật quốc tế. Quyền năng chủ thể luật quốc tế là thuộc tính chính trị pháp lý được thể hiện ở hai phương diện là năng lực pháp luật quốc tế và năng lực hành vi quốc tế. Năng lực pháp lý quốc tế là khả năng chủ thể được thực hiện quyền và nghĩa vụ chủ thể khi tham gia vào các quan hệ pháp lý quốc tế. Nó là tổng thể các quyền và nghĩa vụ pháp lý quốc tế được pháp luật quốc tế ghi nhận. Năng lực pháp luật quốc tế bắt đầu khi chủ thể đó xuất hiện và chấm dứt khi chủ thể đó không còn tư cách chủ thể luật quốc tế. Năng lực hành vi quốc tế là khả năng của chủ thể luật quốc tế bằng chính hành vi pháp lý độc lập của mình tạo ra các quyền và đồng thời gánh chịu các nghĩa vụ pháp lý quốc tế. Các quốc gia khác nhau có năng lực pháp lý quốc tế giống nhau nhưng có năng lực hành vi quốc tế khác nhau. 2. Các chủ thể luật quốc tế. 2.1. Quốc gia – Chủ thể cơ bản và chủ yếu của luật quốc tế 2.1.1. Các yếu tố cấu thành và thuộc tính chính trị pháp lý của quốc gia Quốc gia là chủ thể cơ bản và chủ yếu tham gia vào tất cả các quan hệ pháp luật do luật quốc tế điều chỉnh. Theo công ước Montevideo năm 1933 về các quyền và nghĩa vụ của quốc gia tại hội nghị quốc tế các nước Châu Mỹ ngày 26/12/1933 thì quốc gia được cấu thành bởi các yếu tố sau: Lãnh thổ xác định, dân cư cư trú thường xuyên, chính phủ và khả năng tham gia quan hệ quốc tế. - Lãnh thổ xác định: Lãnh thổ xác định khoảng không gian trong đó quyền lực quốc gia được thiết lập và thực hiện. Mỗi quốc gia có lãnh thổ xác định và được thể hiện trên bản đồ địa lý hành chính thế giới với các thông tin cơ bản về lãnh thổ như vị trí địa lý của quốc gia ở đâu, châu lục nào, diện tích bao nhiêu, tiếp giáp với những quốc gia nào. Nếu như quốc gia mất đi hoàn toàn lãnh thổ quốc gia sẽ mất đi tư cách chủ thể của luật quốc tế. - Dân cư cư trú thường xuyên: Quốc gia không thể tồn tại nếu không có dân cư. Dân cư là tổng hợp những người sinh sống trên một lãnh thổ quốc gia nhất định và tuân theo pháp luật của quốc gia đó. Thành phần dân cư gồm: Công dân quốc gia và người nước ngoài. Luật quốc tế không quy định số dân tối thiểu để thành một quốc gia. - Chính phủ: Chính phủ là yếu tố thứ ba không thể thiếu của quốc gia. Khi nói đến một quốc gia là nói đến một dân cư, một lãnh thổ nằm dưới một quyền lực chính trị. Luật quốc tế chỉ đòi hỏi chính phủ phải có quyền lực thực sự có nghĩ là chính phủ đó phải có đủ khả năng duy trì quyền lực của mình trên toàn bộ lãnh thổ và đối với tất cả các thành phần dân cư. - Khả năng tham gia quan hệ quốc tế được thể hiện ở việc dựa trên ý chí của chính chủ thể, chủ thể tự quyết định việc tham gia hay không tham gia vào quan hệ quốc tế. Một khi hội tụ đầy đủ các yếu tố cấu thành quốc gia sẽ trở thành quốc gia với thuộc tính Chính trị - pháp lý vốn có và không thể tách rời của quốc gia đó là chủ quyền quốc gia. Chủ quyền của quốc gia thể hiện ở hai nội dung: Quyền tối cao trong lãnh thổ: Quốc gia có toàn quyền quyết định mọi vấn đề trong phạm vi lãnh thổ của mình mà biểu hiện là các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; quyền quyết định mọi vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, đời sống vật chất và tinh thần của quốc gia; quyền đối với mọi công dân, tổ chức…Chủ thể khác của luật quốc tế không được can thiệp. Quyền độc lập trong quan hệ quốc tế: Quốc gia hoàn toàn độc lập không phụ thuộc vào ý chí của các quốc gia, các chủ thể khác của luật quốc tế trong khi tham gia các quan hệ quốc tế.Quốc gia có toàn quyền tự do lựa chọn việc tham gia hay không tham gia vào các tổ chức quốc tế, thiết lập quan hệ với quốc gia khác… 2.1.2. Quyền năng chủ thể của quốc gia Quyền năng chủ thể luật quốc tế của quốc gia xuất phát trên cơ sở chủ quyền của quốc gia. Tuy nhiên chủ quyền quốc gia không phải là tuyệt đối.Thể hiện ở việc các quốc gia phải tôn trọng các cam kết quốc tế theo nguyên tắc tự nguyện và thiện chí. Khi quốc gia không thực hiện các cam kết quốc tế thì quốc gia sẽ bị hạn chế quyền năng chủ quyền từ phía các quốc gia khác. Khi tham gia quan hệ pháp lý quốc tế, quốc gia sẽ có các quyền và nghĩa vụ theo quy định của luật quốc tế. Quốc gia là chủ thể duy nhất có đầy đủ các quyền trên tất cả các lĩnh vực phát sinh trong quan hệ quốc tế. Điều này xuất phát từ cơ sở chủ quyền của quốc gia, đây là điểm khác biệt về quyền năng chủ thể luật quốc tế của quốc gia với các chủ thể khác của luật quốc tế. Các quyền và nghĩa vụ cơ bản này sẽ chấm dứt cùng với việc chấm dứt sự tồn tại của quốc gia. Quốc gia là chủ thể duy nhất của luật quốc tế có quyền năng đầy đủ. Quyền năng này dựa trên chủ quyền quốc gia – thuộc tính chính trị pháp lý của quốc gia. Khi tham gia quan hệ pháp lý, quốc gia tự mình xác định quyền và nghĩa vụ cho chính bản thân được ghi nhận trong các điều ước quốc tế mà quốc gia kí kết hoặc tham gia hay tồn tại dưới dạng tập quán quốc tế. Mỗi một giai đoạn lịch sử khác nhau thì quốc gia lại có hệ thống các quyền và nghĩa vụ cơ bản khác nhau theo quy định của luật quốc tế giai đoạn đó. Theo luật quốc tế hiện đại quốc gia có các quyền và nghĩa vụ cơ bản sau: - Các quyền cơ bản của quốc gia: - Quyền được tôn trọng độc lập, chủ quyền - Quyền được bình đẳng chủ quyền và quyền lợi; - Quyền bất khả xâm phạm về biên giới, lãnh thổ; - Quyền được tự vệ cá thể hoặc tập thể; - Quyền được phát triển và tồn tại trong hòa bình; - Quyền được tham gia xây dựng các nguyên tắc, quy phạm của luật quốc tế; - Quyền được tự do quan hệ và hợp tác với các chủ thể khác; - Quyền được trở thành hội viên của các tổ chức quốc tế phổ cập; - Quyền được tham gia các hội nghị quốc tế liên quan đến lợi ích của mình; - Bên cạnh việc hưởng các quyền cơ bản trên quốc gia phải thực hiện các nghĩa vụ cơ bản sau: - Tôn trọng độc lập, chủ quyền của quốc gia khác; - Không xâm phạm biên giới, lãnh thổ của quốc gia khác; - Không dùng vũ lực và đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế; - Không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác; - Hợp tác hữu nghị với các quốc gia khác nhằm duy trì hòa bình, an ninh quốc tế; - Giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng các phương pháp hòa bình… Khi tham gia vào quan hệ quốc tế, các quốc gia theo ý chí của mình thực hiện một cách độc lập hoặc hợp tác với các chủ thể khác của luật quốc tế thực hiện các quyền và nghĩa vụ cơ bản. Trong thực tiễn quan hệ quốc tế, có những trường hợp đặc biết như: Quốc gia tự hạn chế một số quyền của mình trong một số lĩnh vực và phạm vi nhất định (với điều kiện sự tự hạn chế này phù hợp với các quy định của Luật quốc tế) hoặc các quốc gia có thể gánh vác thêm những trách nhiệm quốc tế bổ sung và do đó có thêm những quyền và nghĩa vụ nhất định. 3.2.1. Tổ chức quốc tế liên chính phủ. 3.2.1.1. Khái niện tổ chức quốc tế liên chính phủ Tổ chức quốc tế liên chính phủ là thực thể liên kết chủ yếu các quốc gia độc lập có chủ quyền, được thành lập và hoạt động trên cơ sở điều ước quốc tế, phù hợp với luật quốc tế hiện đại, có quyền năng chủ thể riêng biệt và có hệ thống cơ cấu tổ chức phù hợp để thực hiện các quyền năng đó theo đúng tôn chỉ, mục địch của tổ chức. Đặc điểm cơ bản của tổ chức quốc tế liên chính phủ: - Thành viên của tổ chức quốc tế liên chính phủ chủ yếu là các quốc gia độc lập có chủ quyền. Một số tổ chức cũng chấp nhận tư cách thành viên của các chủ thể khác của luật quốc tế như WTO - Tổ chức quốc tế liên chính phủ được thành lập trên cơ sở điều ước quốc tế được kí kết giữa các thành viên. Các thành viên sáng lập nên tổ chức quốc tế bằng cách ngồi lại với nhau đàm phán và trên cơ sở đàm phán đó kí với nhau điều ước quốc tế lập ra tổ chức quốc tế. - Tổ chức quốc tế liên chính phủ có cơ cấu tổ chức chặt chẽ để duy trì quan hệ giữa các thành viên, giữa thành viên với tổ chức quốc tế. Tổ chức quốc tế có thể cơ cấu gồm cơ quan thường trực, cơ quan không thường trực và một số cơ quan chuyên môn khác. - Tổ chức quốc tế liên chính phủ hoạt động theo đúng tôn chỉ, mục đích đã xác định khi thành lập tổ chức. Điều này được ghi nhận rõ ràng cụ thể trong điều ước quốc tế thành lập tổ chức quốc tế. Trong điều ước sẽ ghi nhận rõ quyền hạn, nhiệm vụ của tổ chức quốc tế. 3.2.2.2. Quyền và nghĩa vụ cơ bản của tổ chức quốc tế liên chính phủ Tổ chức quốc tế liên chính phủ được hình thành trên cơ sở sự thỏa thuận của các quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế, vì vậy quyền năng chủ thể luật quốc tế của tổ chức quốc tế liên chính phủ là quyền năng hạn chế, quyền năng phái sinh. Số lượng quyền và nghĩa vụ hoàn toàn phụ thuộc vào thỏa thuận của các thành viên và nó được ghi nhận trong điều lệ của tổ chức. Nhìn chung các tổ chức quốc tế liên chính phủ đều có các quyền và nghĩa vụ cơ bản sau: - Quyền tham gia vào việc xây dựng các nguyên tắc, quy phạm pháp luật quốc tế. - Quyền nhận cơ quan đại diện của các quốc gia thành viên, nhận quan sát viên thường trực của quốc gia không phải là thành viên và cử đại diện của mình tới các quốc gia này - Quyền được hưởng ưu đãi, miễn trừ ngoại giao - Quyền được trao đổi đại diện với các tổ chức quốc tế liên chính phủ khác - Quyền được giải quyết các tranh chấp phát sinh giữa các quốc gia thành viên của tổ chức và giữa quốc gia thành viên với tổ chức quốc tế đó. Các nghĩa vụ mà tổ chức quốc tế liên chính phủ phải thực hiện là: - Tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế - Tôn trọng quyền của các chủ thể khác của luật quốc tế, không vi phạm chủ quyền và can thiệp công việc nội bộ của các quốc gia - Chịu trách nhiệm pháp lý quốc tế về các hành vi của mình - Tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế ký với các chủ thể khác của luật quốc tế… 3.2.3. Các dân tộc đang đấu tranh giành quyền tự quyết. 3.2.3.1. Định nghĩa Dân tộc đang đấu tranh giành quyền tự quyết chính là chủ thể đang trong gia đoạn quá độ hình thành một quốc gia. Dân tộc đang đấu tranh giành quyền tự quyết có chủ quyền dân tộc. Chủ quyền dân tộc là quyền thiêng liêng và bất khả xâm phạm của mỗi dân tộc được luật quốc tế ghi nhận và đảm bảo thực hiện như quyền được độc lập, quyền bình đẳng với các dân tộc khác, quyền được sống trong hòa bình… Quyền dân tộc tự quyết được hiểu là quyền tự quyết định vận mệnh của dân tộc đó trong đời sống quốc tế, thể hiện ở việc tự do quyết định vận mệnh chính trị, bản sắc dân tộc của mình và đòi hỏi các chủ thể khác của luật quốc tế phải tôn trọng và không được can thiệp dưới bất cứ hình thức nào. Không phải mọi dân tộc đều có tư cách chủ thể của luật quốc tế mà để trở thành chủ thể của luật quốc tế các dân tộc phải đáp ứng các điều kiện sau: - Dân tộc đó đang bị quốc gia, dân tộc khác áp bức, bóc lột. Điều này thể hiện ở việc dân tộc đó đang bị một quốc gia, dân tộc khác đô hộ, chi phối, áp đặt mọi về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội…Đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của dân tộc này hoàn toàn phụ thuộc vào dân tộc, quốc gia đang nắm quyền cai trị. - Thực tế đang tồn tại một cược đấu tranh với mục đích giải phóng dân tộc, giành quyền tự quyết và thành lập một quốc gia độc lập - Đã thành lập cơ quan lãnh đạo phong trào, đại diện cho dân tộc đó trên trường quốc tế 3.2.3.2. Quyền năng chủ thể luật quốc tế của dân tộc đang đấu tranh giành quyền tự quyết Luật quốc tế thừa nhận các dân tộc đang đấu tranh giành quyền tự quyết là một chủ thể của luật quốc tế, có quyền năng chủ thể luật quốc tế. Quyền năng chủ thể luật quốc tế của các dân tộc đang đấu tranh giành quyền tự quyết tương tự như quốc gia, nó gắn liền với sự tồn tại thực tế của cuộc đấu tranh không phụ thuộc vào việc đã thành lập quốc gia hay chưa hoặc sự công nhận hay không công nhận của các quốc gia và nó hạn chế hơn của quốc gia. Với tư cách là chủ thể luật quốc tế dân tộc đang đấu tranh giành quyền tự quyết có các quyền và nghĩa vụ cơ bản sau: - Quyền được thể hiện ý chí nguyện vọng của mình, dưới bất kì hình thức nào, kể cả việc áp dụng những biện pháp chống lại quốc gia đang cai trị mình. - Quyền được luật pháp quốc tế bảo vệ và được các quốc gia, các dân tộc và tổ chức quốc tế giúp đỡ. - Quyền được tham gia xây dựng các nguyên tắc, quy phạm luật quốc tế - Quyền được tham gia vào hoạt động của các tổ chức quốc tế và hội nghị quốc tế - Quyền được thiết lập quan hệ hợp tác với các chủ thể khác của luật quốc tế. Các nghĩa vụ cơ bản mà dân tộc đang đấu tranh giành quyền tự quyết gồm: - Tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế - Tôn trọng các quyền của các chủ thể khác của luật quốc tế… Tư cách chủ thể của dân tộc đang đấu tranh giành quyền tự quyết hoàn toàn phụ thuộc vào kết quả của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc. Nếu cuộc đấu tranh thắng lợi dẫn đến sự ra đời của một quốc gia mới độc lập hoặc nếu phong trào đấu tranh thất bại thì tư cách chủ thể cũng chấm dứt trên thực tế. 3.3. Vấn đề công nhận trong luật quốc tế 3.3.1. Khái niệm công nhận trong luật quốc tế Công nhận là hành vi pháp lý chính trị của bên công nhận, dựa trên nền tảng các động cơ nhất định( chủ yếu là các động cơ chính trị, kinh tế, an ninh, quốc phòng…), nhằm xác nhận sự tồn tại của một thành viên mới trong cộng đồng quốc tế, khẳng định quan hệ của bên công nhận đối với chính sách, chế độ chính trị, kinh tế… của thành viên mới, đồng thời thông qua hành vi pháp lý chính trị đó mà bên công nhận thể hiện ý định muốn thiết lập quan hệ bình thường, ổn định với thành viên mới của cộng đồng quốc tế trong nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống quốc tế. Vấn đề công nhận trong luật quốc tế đặt ra khi có trường hợp xuất hiện các thực thể mới có vai trò nhất định trong đời sống quốc tế chủ yếu là công nhận quốc gia mới, chính phủ mới. Về vấn đề công nhận trong luật quốc tế còn nhiều quan điểm trái ngược nhau chủ yếu có hai học thuyết cơ bản: - Thuyết cấu thành: Theo thuyết cấu thành các quốc gia mới thành lập chỉ trở thành chủ thể của luật quốc tế, trở thành thành viên độc lập của cộng đồng quốc tế nếu được các quốc gia khác chính thức công nhận. Học thuyết này được vận dụng làm cơ sở cho chính sách ngoại giao của một số nước. Theo học thuyết này ngoài các yếu tố cấu thành quốc gia là lãnh thổ, dân cư, chính phủ, khả năng tham gia quan hệ quốc tế còn một yếu tố nữa là sự công nhận của các quốc gia. Với nội dung này đã đặt quốc gia tồn tại từ trước ở vị trí cao hơn các quốc gia mới thành lập. Điều này mâu thẫn với các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế. - Thuyết tuyên bố: Theo thuyết tuyên bố, một thực thể khi hội tụ đủ các yếu tố cấu thành quốc gia đương nhiên trở thành quốc gia và là chủ thể của luật quốc tế. Việc công nhận quốc gia mới từ các quốc gia khác không tạo ra chủ thể mới của luật quốc tế. Hành vi công nhận xác nhận sự tồn tại của quốc gia mới trên thực tế và tạo điều kiện xác lập, phát triển quan hệ giữa bên công nhận và bên được công nhận. Học thuyết tuyên bố đã gắn tư cách chủ thể luật quốc tế của quốc gia mới thành lập với sự tồn tại thực tế của quốc gia đó, chứ không phụ thuộc vào sự công nhận của quốc gia. Nhưng sự công nhận hay không công nhận của các quốc gia khác cũng ảnh hưởng nhất định tới các khả năng tham gia quan hệ quốc tế của quốc gia mới hình thành. 3.3.2.. Các thể loại, hình thức và phương pháp công nhận 3.3.2.1. Thể loại công nhận Các thể loại công nhận cơ bản bao gồm công nhận quốc gia mới và công nhận chính phủ mới. - Công nhận quốc gia mới: Công nhận quốc gia mới là công nhận chủ thể mới của luật quốc tế và được đặt ra khi có sự thành lập quốc gia mới trong các trường hợp sau:Quốc gia thành lập theo con đường cổ điển, hiện nay không còn gặp trên thực tiễn;Do thắng lợi của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc;Do thắng lợi của cuộc cách mạng xã hội;Do hợp nhất hoặc chia tách quốc gia; - Công nhận chính phủ mới: là hình thức công nhận người đại diện hợp pháp cho quốc gia- chủ thể đang tồn tại trong luật quốc tế. Công nhận chính phủ mới chỉ đặt ra đối với chính phủ hình thành bằng con đường không hợp hiến. Trên thực tế, chính phủ de Jure được hình thành phù hợp với quy định của pháp luật quốc gia nên không đặt ra vấn đề công nhận. Mà vấn đề công nhận chỉ đặt ra đối với chính phủ de Facto được hình thành không theo con đường pháp luật quy định như: đảo chính, lật đổ chính phủ. Hiện nay trong lý luận chủ thể luật quốc tế đã thừa nhận “nguyên tắc hữu hiệu” là cơ sở để công nhận chính phủ mới.Vậy chính phủ mới được công nhận khi: - Được sự ủng hộ của đông đảo quần chúng nhân dân - Có đủ khả năng để duy trì và thực hiện quyền lực trong một thời gian dài - Có khả năng kiểm soát toàn bộ hoặc phần lớn lãnh thổ quốc gia. Ngoài công nhận quốc gia mới và chính phủ mới, trong thực tiễn quan hệ quốc tế còn có công nhận các dân tộc đang đấu tranh giành quyền tự quyết; công nhận chính phủ lưu vong, công nhận các bên tham chiến… 3.3.2.2. Hình thức công nhận Tùy vào phạm vi và mức độ của những quan hệ được thiết lập giữa bên công nhận và bên được công nhận có thể chia làm ba loại công nhận là công nhận de Jure, công nhận de facto và công nhận ad hoc - Công nhận de Jure là hình thức công nhận chính thức và toàn diện. Nó thể hiện ý định thực sự muốn thiết lập quan hệ bình thường, toàn diện giữa bên công nhận và bên được công nhận. Hình thức công nhận này là dứt khoát không thể hủy bỏ và thường mở đường cho việc thiết lập quan hệ ngoại giao, kí điều ước quốc tế song phương… - Công nhận de facto là hình thức công nhận chính thức nhưng không đầy đủ và toàn diện như công nhận de jure. Hình thức công nhận này thể hiện thái độ thận trọng, miễn cưỡng của bên công nhận đối với bên được công nhận và có thể bị hủy bỏ. Thường công nhận de facto chỉ giới hạn ở mức độ thiết lập quan hệ lãnh sự và hợp tác ở một số lĩnh vực kinh tế, thương mại. - Công nhận ad hoc là hình thức công nhận đặc biệt, quan hệ giữa các bên chỉ được thiết lập nhằm giải quyết một công việc cụ thể và quan hệ đó sẽ chấm dứt ngay sau khi công việc đó chấm dứt. 3.3.2.3. Phương pháp công nhận - Công nhận minh thị hoặc công nhận mặc thị - Công nhận riêng lẻ hoặc tập thể Việc công nhận hay không công nhận không tạo ra tư cách chủ thể luật quốc tế của quốc gia mới hình thành. Tuy nhiên việc không công nhận sẽ dẫn đến hệ quả hạn chế khả năng kí kết, tham gia và thực hiện các điều ước quốc tế giữa quốc gia mới và quốc gia không công nhận họ; Hạn chế khả năng bảo hộ ngoại giao, bênh vực các công dân của quốc gia không được công nhận tại quốc gia khác; Hạn chế khả năng tham gia các hội nghị quốc tế, các tổ chức quốc tế…Công nhận nó tạo điều kiện cho quốc gia mới thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình theo luật quốc tế một cách đầy đủ nhất 3.3.3. Hệ quả của hành vi công nhận Hành vi công nhận không tạo ra chủ thể mới của luật quốc tế, không tạo ra quyền năng chủ thể của luật quốc tế của bên được công nhận.Tuy nhiên công nhận sẽ tạo ra vào đảm bảo những điều kiện thuận lợi để thiết lập quan hệ nhiều mặt giữa bên công nhận và bên được công nhận; đồng thời tạo những điều kiện thuận lợi cho bên được công nhận tham gia quan hệ quốc tế. Cụ thể: - Thiết lập quan hệ ngoại giao và quan hệ lãnh sự giữa bên công nhận và bên được công nhận. - kí điều ước song phương giữa bên công nhận và bên được công nhận. Đối với các điều ước đa phương sự tham gia của nhiều quốc gia vào quan hệ điều ước không có nghĩa là quốc gia đó mặc nhiên công nhận lẫn nhau. Trường hợp này các quốc gia tham gia điều ước chỉ có thể xuất hiện và tồn tại những quan hệ thực tế ad hoc trong phạm vi cụ thể điều ước đó thôi. 3.3. Kế thừa quốc gia trong luật quốc tế 3.3.1. Khái niệm kế thừa quốc gia Kế thừa quốc gia được đặt ra khi có sự thay dổi triệt để về chủ quyền của quốc gia này bằng chủ quyền của quốc gia khác trên một lãnh thổ nhất định. Sự thay đổi này có thể là kết quả của sự xuất hiện một quốc gia mới hoặc do một bộ phận lãnh thổ của quốc gia này được chuyển giao cho quốc gia khác. Về vấn đề kế thừa quốc gia có hai văn bản pháp luật quốc tế quan trọng điều chỉnh đó là: Công ước viên 1978 về kế thừa quốc gia đối với điều ước quốc tế và công ước viên 1983 về kế thừa quốc gia đối với tài sản, hồ sơ lưu trữ và công nợ quốc gia. Theo lý luận quốc tế thì kế thừa quốc gia được hiểu là sự thay thế của một quốc gia này bằng một quốc gia khác trong trách nhiệm gánh vác các quan hệ quốc tế đối với lãnh thổ nào đó. Các đặc điểm của kế thừa quốc gia gồm: - Chủ thể của quan hệ kế thừa quốc gia gồm quốc gia để lại kế thừa và quốc gia kế thừa - Nội dung của quan hệ kế thừa là sự chuyển dịch các quyền và nghĩa vụ quốc tế( như quyền và nghĩa vụ liên quan đến lãnh thổ, tài sản và công nợ, điều ước quốc tế và quy chế thành viên tại các tổ chức quốc tế…)giữa quốc gia để lại kế thừa và quốc gia kế thừa. - Sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ kế thừa là những biến cố chính trị lớn lao xảy ra hợp với quy luật khách quan của xã hội. Những biến cố chính trị này dẫn tới sự thay đổi triệt để chủ quyền của quốc gia này bằng chủ quyền quốc gia khác trên một phần lãnh thổ nhất định như: Thắng lợi của phong trào giải phóng dân tộc hoặc của cuộc cách mạng xã hội dẫn đến sự ra đời của quốc gia mới; Hợp nhất hai hay nhiều quốc gia thành quốc gia mới; phân tách một quốc gia thành nhiều quốc gia mới; chuyển nhượng hay trao đổi một phần lãnh thổ từ quốc gia này sang quốc gia khác. 3.3.2. Một số trường hợp kế thừa quốc gia - Kế thừa quốc gia trong trường hợp một bộ phận lãnh thổ quốc gia được chuyển giao cho quốc gia khác. - Tài sản được giải quyết trên cơ sở sự thỏa thuận giữa quốc gia để lại kế thừa và quốc gia kế thừa. Nếu không có thỏa thuận thì xử lý theo quy định của công ước viên 1983: Quốc gia kế thừa có quyền kế thừa các loại tài sản sau: Các tài sản là bất động sản đang hiện hữu trên phần lãnh thổ được chuyển giao; Các tài sản là động sản có mối liên hệ với hoạt động của quốc gia để lại kế thừa trên phần lãnh thổ được chuyển giao. - Điều ước quốc tế của quốc gia để lại kế thừa sẽ chấm dứt hiệu lực trên phần lãnh thổ chuyển giao và thay vào đó là các diều ước quốc tế do quốc gia kế thừa ký kết, trừ trường hợp việc áp dụng điều ước quốc tế mới trên phần lãnh thổ chuyển giao không phù hợp với đối tượng và mục đích của điều ước hoặc làm thay đổi căn bản các điều kiện thực hiện nó. Về vấn đề kế thừa quy chế thành viên tại các tổ chức quốc tế không đặt ra. Kế thừa quốc gia mới hình thành do kết quả của phong trào giải phóng dân tộc Đối với tài sản thì theo luật quốc tế quốc gia mới được thừa kế chính đáng các tài sản sau: Tài sản là bất động sản có tại lãnh thổ mới được thành lập; Tài sản là bất động sản hoặc động sản hiện đang ở nước ngoài nhưng trước đây vốn là của lãnh thổ thuộc địa; tài sản là động sản hoặc bất động sản hiện đang ở nước ngoài nhưng được tạo bởi sự đóng góp của lãnh thổ thuộc địa nay sẽ được quốc gia mới kế thừa theo tỷ lệ tương ứng với mức đóng góp; tài sản là động sản có mối liên hệ với hoạt động của quốc gia để lại kế thừa trên phần lãnh thổ thuộc địa trong thời gian duy trì chế độ thuộc địa; đối với các khoản nợ, không một khoản nợ nào của quốc gia để lại kế thừa được chuyển giao cho quốc gia mới trừ khi các bên có thỏa thuận khác. Về điều ước quốc tế quốc gia mới không có nghĩa vụ phải tiếp tục thực hiện các điều ước quốc tế do quốc gia để lại kế thừa kí. Tuy nhiên quốc gia mới vẫn có thể tuyên bố kế thừa nếu điều ước quốc tế không đi ngược lại lợi ích của quốc gia mới. Đối với quy chế thành viên tại tổ chức quốc tế, quốc gia mới không thể tự động kế thừa quy chế thành viên tại tổ chức quốc tế của quốc gia để lại kế thừa khi quốc gia đó vẫn tồn tại. Kế thừa quốc gia mới hình thành do kết quả của cách mạng xã hội Về tài sản thì quốc gia kế thừa được hưởng toàn bộ tài sản của quốc gia để lại kế thừa, kể cả tài sản trong nước và ngoài nước. Đối với khoản nợ quốc gia, không một khoản nợ nào của quốc gia để lại kế thừa được chuyển giao cho quốc gia mới. Tuy nhiên, quốc gia mới có thể chấp nhận một số khoản nợ do quốc gia cũ để lại. Đối với điều ước quốc tế, kế thừa theo nguyên tắc chọn lọc có nghĩa là quốc gia mới hình thành không có nghĩa vụ kế thừa nếu nó đi ngược lại với lợi ích của quốc gia mới. Tuy nhiên quốc gia mới có nghĩa vụ phải tôn trọng điều ước quốc tế về biên giới lãnh thổ, điều ước chứa đựng các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế. Đối với quy chế thành viên tại các tổ chức quốc tế, về nguyên tắc quốc gia mới được kế thừa quy chế thành viên tại các tổ chức quốc tế của quốc gia đề lại kế thừa. Tuy nhiên trên thực tế lại rất phức tạp, tùy vào quy chế, điều lệ của tổ chức quốc tế cũng như phụ thuộc vào ý chí của các quốc gia thành viên khác. Kế thừa quốc gia khi hợp nhất hoặc phân chia quốc gia Đối với kế thừa khi hợp nhất quốc gia thì: Mọi tài sản của các quốc gia để lại kế thừa sẽ được chuyển giao hoàn toàn cho quốc gia để lại kế thừa. Các điều ước quốc tế của các quốc gia để lại kế thừa kí kết đang có hiệu lực vẫn tiếp tục được thực hiện tại phần lãnh thổ trước đây đã định theo hiệp ước, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc điều ước đó mâu thuẫn với lợi ích quốc gia mới. Về quy chế thành viên tại tổ chức quốc tế, quốc gia mới có quyền kế thừa quy chế thành viên tại các tổ chức quốc tế mà các quốc gia để lại kế thừa đã tham gia. Việc kế thừa hay không quy chế này lại tùy thuộc vào sự lựa chọn của quốc gia mới. Đối với kế thừa khi phân chia quốc gia: Các vấn đề liên quan đến việc giải quyết khối tài sản và công nợ của quốc gia để lại kế thừa sẽ được thực hiện dựa trên thỏa thuận của các bên, nếu không có thỏa thuận thì: Tài sản là bất động sản hiện đang có ở quốc gia nào thì quốc gia đó kế thừa, tài sản là bất động sản ở nước ngoài sẽ được chia cho các bên theo tỷ lệ công bằng; tài sản là động sản có mối liên hệ với hoạt động của quốc gia để lại kế thừa trên phần lãnh thổ quốc gia nào sẽ được chuyển giao cho quốc gia đó. Các động sản khác được chia cho các bên theo tỷ lệ công bằng. Đối với điều ước quốc tế, các điều ước quốc tế do quốc gia để lại kế thừa kí kết vấn tiếp tục có hiệu lực trên lãnh thổ các quốc gia kế thừa, trừ trường hợp các quốc gia có thỏa thuận khác hoặc việc áp dụng điều ước mới trên phần lãnh thổ quốc gia kế thừa không phù hợp với đối tượng, mục đích của điều ước hoặc làm thay đổi căn bản các điều kiện thực hiện nó. Đối với quy chế thành viên tại các tổ chức quốc tế thực tiễn giải quyết vấn đề này là rất khác nhau tùy thuộc vào từng trường hợp. Chương 4: LUẬT ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ
I. KHÁI NIỆM LUẬT ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ
1. Khái niệm luật điều ước quốc tế Theo Công ước Viên về Luật điều ước quốc tế năm 1969, điều ước quốc tế: “…Thuật ngữ “điều ước” dùng để chỉ một thỏa thuận quốc tế được ký kết bằng văn bản giữa các quốc gia và được pháp luật quốc tế điều chỉnh, dù được ghi nhận trong một văn kiện duy nhất hoặc trong hai hay nhiều văn kiện có quan hệ với nhau và với bất kể tên gọi riêng của nó là gì”. Luật điều ước quốc tế là tổng thể các quy phạm pháp lý điều chỉnh trình tự ký kết, điều kiện hợp pháp, hiệu lực và chấm dứt điều ước quốc tế. Đây là một ngành luật của luật quốc tế, luật điều ước quốc tế được hình thành và phát triển dưới nền tảng của các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế. Trong đó, các nguyên tắc cơ bản như bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với nhau và nguyên tắc tuân thủ các cam kết quốc tế. 2. Nguồn của luật điều ước quốc tế Nguồn của luật điều ước quốc tế là tập quán quốc tế và điều ước quốc tế. Tập quán pháp quốc tế là nguồn của luật điều ước quốc tế và chiếm vị trí quan trọng trong một thời gian dài trước đây. Tuy nhiên, từ đầu thế kỷ XX, các điều ước quốc tế dần chiếm vị trí quan trọng trong việc ghi nhận các quy phạm của luật điều ước quốc tế. 3. Những nguyên tắc riêng biệt của luật điều ước quốc tế Ngành luật điều ước quốc tế cũng có những nguyên tắc chi phối toàn bộ quan hệ giữa các chủ thể luật quốc tế trong lĩnh vực đàm phán, ký kết và thực hiện điều ước quốc tế. *Các nguyên tắc riêng biệt này bao gồm: a. Nguyên tắc bình đẳng và tự nguyện của các chủ thể Nguyên tắc bình đẳng và tự nguyện có nguồn gốc từ nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia. Nguyên tắc này thể hiện ở việc các quốc gia không phân biệt chế độ, số dân, trình độ phát triển… đều có quyền bình đẳng trong việc đàm phán, ký kết và thực hiện điều ước quốc tế. Bởi vậy, khi các chủ thể vi phạm nguyên tắc này, điều ước quốc tế sẽ bị coi là không có giá trị pháp lý. b. Nguyên tắc tận tâm có thiện chí Nguyên tắc tận tâm có thiện chí có nguồn gốc từ nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác và nguyên tắc tuân thủ các cam kết quốc tế. Nguyên tắc này đặt ra nghĩa vụ của các quốc gia như sau: + Phải có thái độ xây dựng trong việc đàm phán và ký kết điều ước quốc tế; + Phải thực hiện điều ước quốc tế một cách có thiện chí phù hợp với khách thể và mục đích ký kết điều ước. c. Nguyên tắc rõ ràng chặt chẽ Nguyên tắc rõ ràng và chặt chẽ được thể hiện ở chỗ các quy định trong điều ước phải dễ hiểu và logic thuận lợi cho quá trình thực hiện điều ước quốc tế trên thực tế. II. KHÁI NIỆM ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ 1. Định nghĩa Điều ước quốc tế là văn bản pháp lý quốc tế biểu hiện rõ ràng sự thỏa thuận ý chí của các chủ thể luật quốc tế trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng nhằm thiết lập, thay đổi hoặc chấm dứt những quyền và nghĩa vụ pháp lý đối với nhau trong các lĩnh vực hợp tác quốc tế, phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế hiện đại. Như vậy, khái niệm điều ước quốc tế bao gồm các nội dung cơ bản sau đây: - Hình thức của điều ước quốc tế phải bằng văn bản và điều ước quốc tế phải được ký kết phù hợp với thủ tục, thẩm quyền theo quy định của pháp luật của các bên ký kết. Việc ký kết các điều ước quốc tế phải tuân thủ trình tự, thủ tục nhất định, đúng thẩm quyền theo quy định của pháp luật quốc gia của các bên ký kết, là cơ sở pháp lý đặc biệt quan trọng để quốc gia ràng buộc mình với các quyền và nghĩa vụ đã được điều ước quốc tế quy định. - Chủ thể điều ước quốc tế là các chủ thể của luật quốc tế. Trong đó, các quốc gia chiếm vị trí chủ yếu. Và điều ước quốc tế phải có nội dung phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế. Đó là 7 nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế hay còn gọi là các nguyên tắc jus cogens, gồm: + Nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia; + Nguyên tắc cấm sử dụng và đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế; + Nguyên tắc hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế; + Nguyên tắc không can thiệp nội bộ của các quốc gia; + Nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với nhau; + Nguyên tắc quyền dân tộc tự quyết; + Nguyên tắc Pacta Sunt Servanda (tận tâm giải quyết). - Điều ước quốc tế phải được ký kết trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng giữa các chủ thể của luật quốc tế. Tức là việc tham gia, ký kết các điều ước quốc tế của các chủ thể luật quốc tế dựa trên ý chí, nguyện vọng và lợi ích của họ chứ không phải là kết quả của sự ép buộc, lừa dối, cưỡng bức hoặc đe dọa hay sử dụng vũ lực từ các chủ thể khác. - Điều ước quốc tế phải ghi nhận các quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể luật quốc tế khi tham gia quan hệ điều ước. 2. Hình thức và cơ cấu điều ước quốc tế a. Hình thức Đặc trưng về hình thức của điều ước quốc tế: điều ước quốc tế tồn tại chủ yếu dưới hình thức văn bản. Trước đây, trong quan hệ quốc tế có sự xuất hiện của một số điều ước quân tử (bất thành văn), tuy nhiên các điều ước loại này hiện nay hầu như không còn tồn tại trong quan hệ giữa các chủ thể của luật quốc tế. * Tên gọi - Tên gọi của điều ước quốc tế là một phần của hình thức điều ước quốc tế. - Việc đặt tên cho các điều ước quốc tế do các bên ký kết thỏa thuận. Luật quốc tế không có bất kỳ một quy định nào về cách thức đặt tên cho các điều ước quốc tế. Các bên ký kết thỏa thuận đặt tên cho điều ước quốc tế với nhiều tên gọi khác nhau như Hiến chương (charte), Công ước (convention), Hiệp định (accord), Hiệp ước (traité), Thỏa ước (arrangement), Nghị định thư (protocole)… nhưng điều ước quốc tế là tên gọi chung cho các văn bản pháp lý quốc tế do các chủ thể của luật quốc tế ký kết với nhau. - Ngoài ra, một số quốc gia sử dụng các tuyên bố đơn phương để chính thức công bố những quy phạm pháp lý hiện hành của mình dể các quốc gia khác công nhận hiệu lực của những quy phạm đó. * Ngôn ngữ Ngôn ngữ được sử dụng trong soạn thảo điều ước quốc tế do các bên tham gia quan hệ điều ước thỏa thuận lựa chọn. Đối với điều ước quốc tế song phương: + Là ngôn ngữ của hai bên ký kết, soạn thảo làm hai bản, mỗi bản được ghi bằng hai ngôn ngữ của mỗi bên. Các văn bản của hai ngôn ngữ đều là bản chính và có giá trị như nhau. + Ngoài ra, các bên ký kết có thể chọn một ngôn ngữ thứ ba để soạn thảo. Đối với điều ước quốc tế đa phương: + Các bên tham gia có thể lựa chọn một hay một số ngôn ngữ để soạn thảo. + Thông thường, các điều ước quốc tế được ký kết dưới sự bảo trợ của Liên hợp quốc (do Ủy ban pháp luật quốc tế soạn thảo) thì ngôn ngữ của điều ước quốc tế là ngôn ngữ làm việc chính thức của Liên hợp quốc (tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nga, tiếng Tây ban nha, tiếng Trung quốc và tiếng Ả rập). b. Cơ cấu Điều ước quốc tế được xây dựng với ba phần chủ yếu là lời nói đầu, phần chính và phần cuối. * Phần nói đầu: + Về kỹ thuật soạn thảo: phần nói đầu của điều ước quốc tế không chia thành các chương, điều khoản, điểm và không chứa đựng các quy phạm pháp luật cụ thể để quy định quyền và nghĩa vụ của các bên. + Nội dung: nêu lý do, mục đích, nguyên tắc ký kết, hoàn cảnh dẫn đến việc ký kết điều ước quốc tế, các bên tham gia ký kết… * Phần chính: là phần nội dung và cũng là phần quan trọng nhất của điều ước quốc tế. + Về kỹ thuận soạn thảo: phần này được xây dựng thành các chương, điều, khoản, điểm. + Nội dung: ghi nhận các quyền và nghĩa vụ cụ thể của các bên. Phần cuối: + Về kỹ thuật soạn thảo: phần này cũng được xây dựng thành các chương, điều, khoản và điểm. + Nội dung: bổ sung, sửa đổi điều ước và thủ tục để điều ước có hiệu lực, thời hạn có hiệu lực và hết hiệu lực của điều ước. Sau cùng là chữ ký của đại diện và dấu của các bên. 3. Phân loại Có nhiều cách để phân loại điều ước quốc tế nếu dựa vào các tiêu chí khác nhau: Căn cứ vào số lượng chủ thể tham gia ký kết điều ước quốc tế, điều ước quốc tế được phân thành hai loại: điều ước quốc tế song phương và điều ước quốc tế đa phương. Trong đó, điều ước quốc tế đa phương được chia thành hai loại: điều ước quốc tế phổ biến và điều ước quốc tế với số lượng chủ thể hạn chế. Căn cứ vào lĩnh vực quan hệ điều chỉnh, điều ước quốc tế có thể được phân thành nhiều loại: chiến tranh và hòa bình, kinh tế, nhân quyền, môi trường, tương trợ tư pháp… Căn cứ vào tính chất điều ước, điều ước quốc tế được phân thành hai loại: điều ước quốc tế mở và điều ước quốc tế đóng. Căn cứ vào chủ thể ký kết điều ước quốc tế, điều ước quốc tế được phân thành điều ước quốc tế ký kết giữa quốc gia với quốc gia; điều ước quốc tế ký kết giữa quốc gia với các tổ chức quốc tế liên chính phủ… III. KÝ KẾT ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ 1. Thẩm quyền ký kết điều ước quốc tế a. Các quốc gia - Về nguyên tắc, các quốc gia đều có thẩm quyền ký kết điều ước quốc tế. - Tuy nhiên, trong một số trường hợp, quốc gia có thể từ chối hoặc chuyển cho một quốc gia khác. b. Các tổ chức quốc tế - Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, các tổ chức quốc tế sẽ tiền hành ký kết các điều ước quốc tế xuất phát từ quyền năng chủ thể luật quốc tế. c. Một số thực thể đặc biệt trong quan hệ quốc tế như: tòa thành Vatican, Đài Loan, Hồng Kông, Ma Cao… cũng tham gia ký kết một số điều ước quốc tế nhất định. * Khi ký kết các điều ước quốc tế, các chủ thể thông qua các đại diện: - Nguyên thủ quốc gia, người đứng đầu chính phủ, bộ trưởng ngoại giao trong mọi hoạt động liên quan đến việc ký kết điều ước quốc tế; - Người đứng đầu các cơ quan đại diện ngoại giao trong việc thông qua văn bản của một điều ước quốc tế giữa nước cử cơ quan đại diện và nước sở tại; - Những người thay mặt cho quốc gia tại các hội nghị quốc tế hoặc tại tổ chức quốc tế. 2. Trình tự ký kết điều ước quốc tế a. Giai đoạn 1: là giai đoạn thỏa thuận ý chí của các quốc gia hay các chủ thể khác của luật quốc tế. Nếu ký kết điều ước quốc tế song phương thì giai đoạn này gồm: đàm phán, soạn thảo văn bản điều ước và thống nhất thông qua văn bản này. Nếu ký kết điều ước quốc tế đa phương thì giai đoạn này gồm: soạn thảo và thông qua văn bản điều ước bằng hội nghị quốc tế hoặc cơ quan được ủy nhiệm của tổ chức quốc tế. * Đàm phán - Đàm phán là giai đoạn đầu tiên của quá trình ký kết điều ước quốc tế, có vai trò quyết định trong việc xác lập và thực hiện quan hệ điều ước quốc tế giữa các quốc gia và các chủ thể của luật quốc tế. Thông qua đàm phán, các bên sẽ bày tỏ, quan điểm, lập trường, ý chí của quốc gia mình đối với lĩnh vực mà điều ước quốc tế đó điều chỉnh. - Đàm phán để ký kết điều ước quốc tế sẽ được tiến hành thông qua các cá nhân, các phái đoàn đại diện của quốc gia hoặc các chủ thể khác của luật quốc tế theo thỏa thuận của các bên ký kết. Theo đó, nếu những người đại diện, thay mặt các quốc gia đàm phán theo sự ủy quyền của Nguyên thủ quốc gia, Thủ tướng Chính phủ hoặc của các cá nhân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật của quốc gia đó khi đi đàm phán phải có thư ủy quyền. - Theo Công ước Viên về Luật điều ước quốc tế năm 1969 quy định: “Thư ủy quyền” dùng để chỉ một văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền của một quốc gia chỉ định một hoặc nhiều người để thay mặt mình trong việc đàm phán, thông qua hoặc xác thực văn bản của một điều ước để ghi nhận sự đồng ý của quốc gia mình chịu sự ràng buộc của một điều ước hoặc để thi hành mọi công việc khác có liên quan tới một điều ước”. Việc xác và trao thư ủy quyền cho người đại diện quốc gia tham gia đàm phán, ký kết điều ước quốc tế không phải là một giai đoạn của quá trình ký kết điều ước quốc tế nhưng đóng vai trò rất quan trọng trong việc xác nhận tư cách đại diện cho một quốc gia để đàm phán, thông qua văn bản điều ước hoặc để xác thực văn bản của một điều ước hay để tỏ sự đồng ý của quốc gia chịu sự ràng buộc của điều ước quốc tế. - Đàm phán ký kết điều ước quốc tế có thể được tiến hành bằng các hình thức như: đàm phán tại Hội nghị Thượng đỉnh với sự có mặt của các vị Nguyên thủ quốc gia. Các quốc gia cũng có thể cử các phái đoàn nhân danh nhà nước hoặc nhân danh Chính phủ để đàm phán hoặc đàm phán thông qua tại các Hội nghị quốc tế hoặc các tổ chức quốc tế và các bên cũng có thể tổ chức Hội nghi đàm phán song phương hoặc đa phương tùy thuộc vào sự thỏa thuận của các bên ký kết. * Soạn thảo và thông qua văn bản - Soạn thảo văn bản: + Soạn thảo điều ước quốc tế thực chất là bước chuyển hóa kết quả của quá trình đàm phán mà các bên đã đạt được thành văn bản điều ước. + Soạn thảo văn bản điều ước được tiến hành bằng các cách thức khác nhau: thông qua các kênh ngoại giao, các hội nghị quốc tế và trong khuôn khổ các tổ chức quốc tế. Thông thường, bản dự thảo các điều ước song phương được soạn thảo qua các kênh ngoại giao hoặc sự đàm phán trực tiếp giữa các phái đoàn của hai quốc gia hữu quan. - Thông qua văn bản: + Đối với điều ước quốc tế song phương, hai bên có thể thông qua văn bản điều ước bằng cách tổ chức một hội nghị toàn thể hoặc thông qua sự thỏa thuận của những người có thẩm quyền do các bên cử ra. Thỏa thuận này có thể bằng miệng hoặc bằng hình thức ký tắt. + Đối với điều ước đa phương, các bên ký kết có thể thông qua văn bản điều ước bằng cách bỏ phiếu kín hoặc biểu quyết. + Ngoài ra, thực tiễn pháp lý quốc tế áp dụng nguyên tắc consensus (đồng thuận 100%). Theo nguyên tắc này, văn bản điều ước quốc tế được thông qua khi không có quốc gia nào phản đối. Nguyên tắc Consensus được áp dụng để thông qua những điều ước quốc tế có nội dung quan trọng, đòi hỏi sự tham gia và thực hiện một cách đầy đủ của tất cả các quốc gia liên quan. b. Giai đoạn 2 * Ký điều ước quốc tế - Ký kết điều ước quốc tế chính là sự biểu thị sự nhất trí của các bên đối với điều ước mà mình là một bên tham gia. - Sự xác nhận văn bản được tiến hành theo các cách thức như: + Ký tắt: là việc xác nhận của các đại diện vào từng trang của văn bản đã thỏa thuận. Vì vậy, ký tắt không thể làm phát sinh hiệu lực của điều ước quốc tế. + Ký ad referendum (ký tượng trưng): là việc các đại diện ký vào văn bản với điều kiện sau đó phải có sự xác nhận của quốc gia hoặc tổ chức quốc tế. Ký ad referendum không làm phát sinh hiệu lực của điều ước quốc tế (ngoại trừ một số trường ngoại lệ). + Ký đầy đủ (ký chính thức): là chữ ký của vị đại diện vào bản điều ước quốc tế. Nếu điều ước quốc tế không quy định phải tiến hành những thủ tục pháp lý như phê chuẩn hoặc phê duyệt thì điều ước quốc tế đó sẽ phát sinh hiệu lực. * Phê chuẩn hoặc phê duyệt điều ước quốc tế - Phê chuẩn điều ước quốc tế + Phê chuẩn là hành vi của cơ quan nhà nước có thẩm quyền của một quốc gia nhằm chính thức ràng buộc hiệu lực của điều ước quốc tế đối với quốc gia mình. Thông qua hành vi phê chuẩn, quốc gia thể hiện sự đồng ý của mình đối với các quyền và nghĩa vụ đã được ghi nhận trong điều ước quốc tế mà quốc gia đã tham gia ký kết. + Theo pháp luật của các quốc gia và thực tiễn ký kết điều ước quốc tế, phê chuẩn điều ước quốc tế được áp dụng đối với các điều ước được ký nhân danh nhà nước, có tầm quan trọng đặc biệt với quốc gia về các lĩnh vực như: lãnh thổ, biên giới quốc gia; chủ quyền quốc gia; an ninh quốc gia; quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; tương trợ tư pháp; gia nhập các tổ chức quốc tế quan trọng… + Thẩm quyền phê chuẩn điều ước quốc tế: do pháp luật quốc gia quy định. Pháp luật của hầu hết các quốc gia trên thế giới hiện nay đều quy định thẩm quyền phê chuẩn điều ước quốc tế thuộc cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước hoặc, nguyên thủ quốc gia hoặc cơ quan hành pháp. - Phê duyệt điều ước quốc tế + Phê duyệt điều ước quốc tế là hành vi của cơ quan nhà nước có thẩm quyền của một quốc gia nhằm chính thức ràng buộc hiệu lực của điều ước quốc tế đối với quốc gia mình. Thông qua hành vi phê duyệt, quốc gia thể hiện sự chấp thuận ràng buộc với các quyền và nghĩa vụ đã được ghi nhận trong điều ước quốc tế mà quốc gia đã tham gia ký kết. - Gia nhập điều ước quốc tế + Gia nhập điều ước quốc tế là hành vi đơn phương được thực hiện trên cơ sở tự nguyện của một quốc gia mong muốn trở thành thành viên của một điều ước quốc tế mà quốc gia đó không tham gia ký kết. Thông qua một văn bản pháp lý, một chủ thể của luật quốc tế đồng ý ràng buộc với quyền và nghĩa vụ của một điều ước nào đó mà mình chưa phải là thành viên của điều ước đó. + Thời điểm gia nhập điều ước quốc tế có thể được thực hiện khi thời hạn ký kết điều ước quốc tế đã hết hoặc điều ước quốc tế đã phát sinh hiệu lực. + Điều kiện và thủ tuc gia nhập điều ước quốc tế do chính điều ước quốc tế quy định. + Thẩm quyền gia nhập điều ước quốc tế do luật quốc gia quy định. + Khi chính thức gia nhập điều ước quốc tế, quốc gia sẽ trở thành thành viên gia nhập của điều ước quốc tế đó. Vì vậy, các thành viên gia nhập phải tuân thủ đầy đủ nội dung điều ước quốc tế mà không có quyền yêu cầu sửa đổi, bổ sung bất cứ điều khoản nào của điều ước quốc tế. Tuy nhiên, các thành viên gia nhập có quyền bảo lưu theo quy định của điều ước quốc tế. c. Bảo lưu Bảo lưu là tuyên bố đơn phương mà trong đó quốc gia tuyên bố loại trừ hoặc muốn thay đổi hiệu lực của một số điều khoản nhất định của điều ước. Những điều khoản đó gọi là điều khoản bảo lưu. Bảo lưu sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các bên tham gia thực hiện điều ước quốc tế một cách tốt nhất. Nếu điều ước có một hoặc vài điều khoản gây khó khăn cho quốc gia hoặc quốc gia không thể thực hiện được vì các lý do khác nhau nhưng không chấp nhận bảo lưu thì quốc gia sẽ không trở thành thành viên của điều ước quốc tế này được. Vì vậy, nếu được bảo lưu thì quốc gia sẽ dễ dàng hơn trong việc quyết định tham gia vào các điều ước quốc tế đó, quốc gia có thể đưa ra bảo lưu khi tham gia điều ước quốc tế nào đó nhằm thực hiện chính sách đối ngoại của mình một cách nhất quán. Bảo lưu là quyền của chủ thể luật quốc tế tham gia điều ước quốc tế nhưng bảo lưu không là quyền tuyệt đối. Vì vậy, bảo lưu sẽ không được đặt ra trong những trường hợp sau đây: + Các bên tham gia ký kết điều ước quốc tế song phương. + Nếu điều ước quốc tế đó cấm bảo lưu. + Không được bảo lưu những điều khoản khác ngoài những điều ước quốc tế cho phép bảo lưu. + Nếu bảo lưu không phù hợp với đối tượng và mục đích của điều ước. Bảo lưu chỉ có hiệu lực giữa quốc gia bảo lưu và quốc gia chấp nhận bảo lưu. Đối với các quốc gia khác, quan hệ điều ước vẫn không thay đổi. Nếu điều ước quốc tế là văn bản pháp lý thành lập tổ chức quốc tế thì bảo lưu cần phải được sự chấp nhận của cơ quan có thẩm quyền của tổ chức quốc tế đó. * Trình tự thực hiện bảo lưu - Trong trường hợp điều ước quốc tế quy định rõ điều khoản nào bảo ưu thì việc bảo lưu đối với điều khoản đó không cần tới sự động ý rõ ràng và riêng biệt từ phía các quốc gia ký kết khác. Khi đó, quốc gia sẽ chỉ tuyên bố bảo lưu trong phạm vi mà điều ước cho phép. - Riêng với trường hợp điều ước quốc tế không có điều khoản quy định liên quan đến bảo lưu thì: việc bảo lưu phải được tất cả các quốc gia thành viên chấp nhận nếu số quốc gia đàm phán có hạn hoặc phải được tất cả các quốc gia thành viên chấp nhận nếu số quốc gia quốc gia đàm phán có hạn hoặc việc thi hành toàn bộ điều ước là điều kiện dẫn tới sự chấp nhận ràng buộc của các bên đối với điều ước.; một bảo lưu coi như được một quốc gia chấp nhận nếu quốc gia đó không phản đối trong vòng 12 tháng kể từ ngày nhận được thông báo về bảo lưu; nếu điều ước quốc tế là văn kiện về thành lập tổ chức quốc tế thì bảo lưu phải được sự chấp thuận của cơ quan có thẩm quyền của tổ chức đó. - Việc tuyên bố bảo lưu, sự phản đối bảo lưu và sự đồng ý với bảo lưu phải được thể hiện dưới hình thức văn bản và thông báo một cách công khai cho các quốc gia thành viên, riêng trường hợp đống ý bảo lưu có thể được thể hiện dưới dạng im lặng. - Quốc gia tuyên bố bảo lưu có quyền rút bảo lưu trong bất kỳ thời gian nào. Trong trường hợp này, sự đồng ý từ phía các quốc gia công nhận bảo lưu là không cần thiết - Tuyên bố về phản đối bảo lưu cũng có thể được quốc gia tuyên bố hủy bỏ vào bất kỳ thời gian nào nhưng phải được thể hiện dưới hình thức văn bản. * Hệ quả pháp lý của bảo lưu Bản chất của bảo lưu không nhằm đưa ra các điều khoản bị bảo lưu ra khỏi nội dung của một điều ước quốc tế nhưng về tổng thể quan hệ giữa các quốc gia thành vien của một điều ước sẽ thay đổi trong phạm vi có bảo lưu. Bao gồm: Quan hệ giữa quốc gia bảo lưu và quốc gia chấp nhận bảo lưu được thực hiện bằng các điều ước quốc tế, trừ các điều khoản liên quan đến bảo lưu. Quan hệ giữa quốc gia bảo lưu và quốc gia phản đối bảo lưu vẫn được điều chỉnh bằng điều ước quốc tế đó, không loại trừ các điều khoản bảo lưu không được chấp nhận. Tuy nhiên, từ việc phản đối bảo lưu do một quốc gia đưa ra, cũng có thể làm cho quốc gia bảo lưu và quốc gia phản đối bảo lưu không còn tồn tại quan hệ điều ước. Điều này phụ thuộc vào quan điểm của mỗi bên. IV. HIỆU LỰC CỦA ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ 1. Điều kiện có hiệu lực của điều ước quốc tế - Điều ước quốc tế chỉ có thể phát sinh quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể tham gia ký kết khi nó phù hợp với pháp luật quốc tế nói chung và luật điều ước nói riêng. - Điều ước quốc tế phải được ký kết trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng. - Điều ước quốc tế phải được ký kết trên cơ sở có sự tham gia của các chủ thể có liên quan trực tiếp tới các vấn đề mà điều ước quốc tế đề cập. - Điều ước quốc tế được ký kết phải phù hợp với thủ tục, thẩm quyền theo quy định của pháp luật của các bên ký kết. - Điều ước quốc tế phải có một nội dung không trái với các quy phạm mệnh lệnh mang tính jus cogens. 2. Thời điểm có hiệu lực của điều ước quốc tế - Điều ước có hiệu lực của điều ước quốc tế phụ thuộc vào sự thỏa thuận của các bên ký kết điều ước quốc tế. Thông thường, những điều ước quốc tế mà các quốc gia thỏa thuận không quy định thủ tục phê chuẩn hoặc phê duyệt sẽ phát sinh hiệu lực sau khi ký chính thức. - Đối với các điều ước quốc tế có quy định phải trải qua thủ tục phê chuẩn hoặc phê duyệt: + Nếu là điều ước quốc tế song phương thì điều ước quốc tế đó sẽ phát sinh hiệu lực kể từ khi hai bên trao đổi văn kiện phê chuẩn hoặc phê duyệt cho nhau. + Nếu là điều ước quốc tế đa phương, có các cách thức để xác định thời điểm có hiệu lực của điều ước. Một là, quy định số thành viên cần thiết phê chuẩn hoặc phê duyệt điều ước, khi đủ số lượng thành viên đó, điều ước quốc tế sẽ phát sinh hiệu lực. Hai là, điều ước quốc tế quy định một thời gian sau khi đạt được số lượng thành viên theo thỏa thuận, điều ước quốc tế sẽ phát sinh hiệu lực. 3. Hiệu lực về thời gian và không gian của điều ước quốc tế a. Thời gian có hiệu lực của điều ước quốc tế - Thời gian có hiệu lực của điều ước quốc tế được quy định ngay trong điều ước đó. Thời gian dài hay ngắn do các bên tham gia điều ước thỏa thuận. - Thời gian có hiệu lực của điều ước quốc tế được xác định tùy thuộc vào điều ước quốc tế có thời hạn hay điều ước quốc tế vô thời hạn. - Điều ước vô thời hạn là những điều ước chỉ ghi nhận thời điểm bắt đầu có hiệu lực mà không gih nhận thời điểm chấm dứt hiệu lực. - Điều ước có thời hạn là những điều ước quốc tế quy định rõ thời điểm có hiệu lực và thời điểm chấm dứt hiệu lực. b. Không gian có hiệu lực của điều ước quốc tế - Về nguyên tắc, khi các quốc gia ký kết các điều ước quốc tế thì các điều ước quốc tế đó sẽ có hiệu lực trên lãnh thỗ của quốc gia thành viên. - Tuy nhiên, cũng có những điều ước quốc tế được các quốc gia ký kết nhưng lại có hiệu lực tren lãnh thỗ của các quốc gia thành viên và các vùng lãnh thổ thuộc chủ quyền quốc gia hoặc trên các vùng lãnh thổ quốc tế. 4. Hiệu lực đối với bên thứ ba - Quốc gia thứ ba là những quốc gia không phải là thành viên của điều ước quốc tế đó. Vì vậy, về nguyên tắc chung, một điều ước không tạo ra nghĩa vụ hay quyền hạn nào cho một quốc gia thứ ba, nếu không có sự đồng ý của quốc gia đó. - Tuy nhiên, có những trường hợp điều ước quốc tế làm phát sinh quan hệ với quốc gia thứ ba, cụ thể: + Thứ nhất, điều ước quốc tế quy định nghĩa vụ cho các quốc gia thứ ba. Về nguyên tắc, nghĩa vụ đó phải có sự chấp thuận bằng văn bản của quốc gia thứ ba đó. Nhưng cũng có những nghĩa vụ ràng buộc với quốc gia thứ ba mà quốc gia này phải có nghĩa vụ tuân thủ. Nếu nghĩa vụ phát sinh cho một quốc gia thứ ba thì nghĩa vụ đó sẽ không thể bị hủy bỏ hoặc sửa đổi nếu không có sự đồng ý của các bên tham gia điều ước quốc tế và của quốc gia thứ ba, trừ khi có sự thể hiện rõ ràng rằng có sự thỏa thuận khác có liên quan. Nếu điều ước quốc tế mang tính chất nghĩa vụ là biện pháp trừng phạt quốc tế thì quốc gia thứ ba không có quyền từ chối. + Thứ hai, điều ước quốc tế quy định quyền cho các quốc gia thứ ba. Quyền này sẽ phát sinh cho một quốc gia thứ ba theo quy định của điều ước quốc tế nếu các bên tham gia điều ước quốc tế đồng ý trao quyền đó cho quốc gia thứ ba hoặc cho tất cả các quốc gia và nếu quốc gia thứ ba đó đồng ý. Trong quá trình được hưởng các quyền xuất phát từ điều ước quốc tế, các quyền này không thể bị hủy bỏ hoặc sửa đổi bởi các bên nếu không thể hiện rõ là có ý định theo đó quyền này không thể bị hủy bỏ hoặc sửa đổi mà không có sự đồng ý của quốc gia thứ ba. Ngoài ra, còn có những điều ước quốc tế có điều khoản tối huệ quốc cũng sẽ làm phát sinh quyền của quốc gia thứ ba. V. ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ HỢP PHÁP, ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ HIỆU LỰC 1. Điều ước quốc tế không hợp pháp - Điều ước quốc tế không hợp pháp là điều ước quốc tế được ký kết mà không có đầy đủ các điều kiện sau: + Nội dung điều ước phải phù hợp với luật quốc tế hiện đại; + Các bên tham gia phải có quyền tham gia điều ước; + Điều ước quốc tế không bị mất hiệu lực theo luật quốc tế. + Điều ước có hiệu lực theo luật quốc tế. Tùy theo mức độ không hợp pháp, điều ước quốc tế được chia thành hai loại: điều ước quốc tế không hợp pháp tương đối và điều ước quốc tế không hợp pháp tuyệt đối. a. Điều ước quốc tế không hợp pháp tương đối là những điều ước mà các bên xét thấy có những vi phạm pháp luật trong nước về thẩm quyền ký kết; hoặc có sai lầm khi ký kết; hoặc có hành vi man trá hay mua chuộc, hay nhận hối lộ của đại diện của các quốc gia. Mặc dù vậy, những điều ước quốc tế đó cũng có thể có hiệu lực nếu được các bên chấp thuận. b. Điều ước quốc tế không hợp pháp tuyệt đối là những điều ước quốc tế vô hiệu ngay từ khi ký kết. Bởi vì, khi tham gia đàm phán ký kết điều ước quốc tế mà có sự cưỡng ép đối với đại diện của các quốc gia sẽ dẫn đến hệ quả pháp lý; hoặc có sự cưỡng ép đối với một quốc gia bằng việc đe dọa hay dùng vũ lực; hoặc ký kết điều ước quốc tế có nội dung xung đột với một quy phạm bắt buộc của luật quốc tế (quy phạm jus cogens) 2. Điều ước quốc tế chấm dứt hiệu lực - Đối với những điều ước quốc tế có thời hạn, thời điểm chấm dứt hiệu lực được ghi nhận ngay trong điều ước quốc tế đó. - Đối với những điều ước quốc tế không có thời hạn, thời điểm chấm dứt hiệu lực của điều ước quốc tế không được ghi nhận trong điều ước quốc tế như sau: * Điều ước quốc tế hết hiệu lực theo ý muốn của các bên Thứ nhất, bãi bỏ điều ước quốc tế:Bãi bỏ điều ước quốc tế là hành vi đơn phương của một quốc gia tuyên bố quốc tế mà mình đã ký kết hoặc gia nhập hết hiệu lực đối với mình với điều kiện việc bãi bỏ được ghi nhận trong điều ước quốc tế. Điều ước quốc tế cũng có thể được bãi bỏ nếu các bên thống nhất bãi bỏ. Hệ quả pháp lý của tuyên bố bãi bỏ điều ước quốc tế song phương và đa phương khác nhau. Đối với điều ước quốc tế song phương, nếu một bên bãi bỏ thì điều ươc quốc tế đó sẽ chấm dứt hiệu lực. Đối với điều ước quốc tế đa phương, bên nào ra tuyên bố bãi bỏ thì điều ước quốc tế đó sẽ chấm dứt hiệu lực đối với bên bãi bỏ, điều ước quốc tế vẫn có hiệu lực đối với các bên còn lại. Thứ hai, hủy bỏ điều ước quốc tế:Hủy bỏ điều ước quốc tế là hành động của một quốc gia đơn phương tuyên bố điều ước quốc tế hết hiệu lực đối với mình mặc dù không được ghi nhận trong điều ước. Cơ sở để hủy bỏ điều ước quốc tế là khi một bên chỉ hưởng quyền mà không thực hiện nghĩa vụ theo quy định của điều ước; hoặc một hay nhiều bên vi phạm nghiêm trọng điều ước; hoặc khi điều kiện, hoàn cảnh đã thay đổi cơ bản dẫn đến việc quốc gia không thể hiện được điều ước đó nữa. Bên tuyên bố hủy bỏ điều ước quốc tế phải thông báo bằng văn bản cho các bên ký kết điều ước khác biết hoặc gửi văn bản hủy bỏ cho quốc gia hoặc tổ chức quốc tế có nhiệm vụ bảo quản điều ước để thông báo cho các thành viên khác của điều ước quốc tế. Thứ ba, tạm đình chỉ thi hành điều ước quốc tế:Các bên tham gia điều ước quốc tế có thể tạm đình chỉ thi hành điều ước trong một thời gian nhất định nếu xét thấy cần thiết. Cơ sở của việc đình chỉ thực hiện điều ước quốc tế luôn luôn dựa trên sự thỏa thuận của các bên tham gia điều ước quốc tế hoặc việc tạm đình chỉ thi hành đã được quy định ngay trong điều ước. Trong thời gian tạm đình chỉ hiệu lực của điều ước, các bên không được thực hiện bất kỳ hành vi nào nhằm cản trở việc khôi phục lại điều ước sau thời gian tạm đình chỉ. * Điều ước quốc tế tự động hết hiệu lực Thứ nhất, đã hết thời gian mà các bên đã thỏa thuận (đối với điều ước quốc tế có thời hạn). Thứ hai, sau khi các bên đã thực hiện xong các quyền và nghĩa vụ được quy định trong điều ước. Thứ ba, trong trường hợp chiến tranh xảy ra, điều ước quốc tế sẽ hết hiệu lực đối với các bên tham chiến. Chiến tranh xảy ra làm chấm dứt hiệu lực đối với các điều ước quốc tế song phương nhưng đối với các điều ước quốc tế đa phương thì chỉ mất hiệu lực đối với các bên tham chiến nhưng vẫn tiếp tục có hiệu lực với các bên còn lại (các bên không tham chiến). Tuy nhiên, có một số loại điều ước quốc tế cho dù chiến tranh xảy ra vẫn không mất hiệu lực đó là: các điều ước quốc tế về lãnh thổ, biên giới; các điều ước quốc tế đã ghi rõ thành một điều khoản trong điều ước là khi có chiến tranh xảy ra điều ước vẫn không mất hiệu lực giữa các bên tham chiến; các điều ước quốc tế về nhân đạo, về vũ khí sử dụng trên chiến trường… Có những trường hợp điều ước quốc tế đã hết hiệu lực một thời gian nhưng các bên xét thấy cần thiết khôi phục lại hiệu quả của chúng thì các bên liên quan có thể khôi phục lại điều ước quốc tế đó. Ngược lại, có những trường hợp điều ước quốc tế gần hết hiệu lực nhưng nếu thấy cần thiết, các bên có thể thỏa thuận kéo dài hiệu lực của điều ước đó thêm một thời gian nữa. Tuy nhiên, việc kéo dài này phải được thỏa thuận trong thời gian ít nhất một tháng trước khi điều ước quốc tế đó hết hiệu lực. VI. GIẢI THÍCH ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ 1. Khái niệm giải thích điều ước quốc tế Giải thích điều ước là quá trình làm sáng tỏ nội dung thật của điều ước. Mục đích của việc giải thích là nhằm giúp cho các bên trong quan hệ điều ước thực hiện điều ước một cách đầy đủ và chính xác, tránh sự hiểu lầm và mâu thuẫn phát sinh giữa các bên trong quá trình thực hiện điều ước quốc tế. Đối tượng giải thích là điều ước quốc tế mà các bên tham gia ký kết và các văn bản phụ lục kèm theo nếu có. 2. Chủ thể giải thích điều ước quốc tế Chủ thể giải thích điều ước quốc tế bao gồm hai loại: chủ thể giải thích chính thức và chủ thể giải thích không chính thức. * Chủ thể giải thích chinh thức: Là các quốc gia và các chủ khác của luật quốc tế tham gia điều ước quốc tế giải thích hoặc do tổ chức quốc tế giải thích khi các quốc gia hay các chủ thể của luật quốc tế ủy quyền. Chủ thể chính thức sẽ đưa ra văn bản giải thích có tính chất bắt buộc các bên phải thi hành. * Chủ thể giải thích không chính thức: - Là cá nhân, cơ quan, tổ chức (như các luật gia, cơ quan, viện nghiên cứu pháp luật). - Kết quả của giải thích không chính thức chỉ có giá trị tham khảo, không có giá trị ràng buộc các bên tham gia điều ước phải thực hiện. 3. Quy tắc chung về giải thích Theo quy định tại Điều 31 Công ước Viên 1969, giải thích điều ước phải được tiến hành theo các nguyên tắc sau đây: Giải thích phải thiện chí, phù hợp với nội dung nguyên bản của điều ước, đồng thời chú trọng đến đối tượng và mục đích của điều ước; Giải thích mọi thỏa thuận liên quan đến điều ước đã được tất cả các bên thông qua; Trong quá trình giải thích phải tính đến mọi thỏa thuận sau này giữa các bên về giải thích điều ước hoặc về việc thi hành các quy định của điều ước; mọi thực tiễn này trong khi thực hiện điều ước được các bên thỏa thuận liên quan đến việc giải thích điều ước; mọi quy tắc thích hợp của pháp luật quốc tế áp dụng trong các quan hệ giữa các bên. 4. Phương pháp giải thích Giải thích điều ước quốc tế có thể thực hiện theo các phương pháp sau đây: Giải thích theo văn phạm: là giải thích bằng cách phân tích cấu trúc của văn bản điều ước trên cơ sở cấu tạo của câu văn, nghĩa của từ, nguồn gốc thuật ngữ trong điều ước. Giải thích theo logic: là giải thích bằng cách phân tích văn bản điều ước trên cơ sở so sánh các điều khoản của điều ước, đối chiếu những điều khoản giải thích với từng nội dung của điều ước theo một trật tự logic. Giải thích theo thực tiễn: là giải thích có xem xét đến các hoạt động tiếp theo của các bên ký kết, đặc biệt trong việc thực hiện điều ước. Phương pháp này thường được sử dụng trong việc giải thích các điều ước quốc tế đa phương. Giải thích theo tài liệu trù bị: là giải thích dựa trên cơ sở sử dụng những tài liệu có liên quan trực tiếp với việc ký kết điều ước để xác định rõ thêm ý chí của các bên ký kết. Giải thích theo lịch sử: là việc giải thích văn bản điều ước trên cơ sở phân tích hoàn cảnh lịch sử lúc đàm phán (quan hệ giữa các bên và bối cảnh thế giới nói chung). VII. CÔNG BỐ, ĐĂNG KÝ VÀ THỰC HIỆN ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ 1. Công bố điều ước quốc tế Công bố điều ước quốc tế là nhiệm vụ của Ban thư ký Liên hợp quốc (Điều 102 Hiến chương Liên hợp quốc). Theo Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế của Việt Nam năm 2005 quy định Điều 69 như sau: “1. Điều ước quốc tế có hiệu lực đối với nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được công bố trên Công báo của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và niêm giám điều ước quốc tế, trừ trường hợp có sự thỏa thuận khác giữa bên Việt Nam và bên ký kết nước ngoài hoặc có quyết định khác của cơ quan nhà nước có thẩm quyền”. 2. Đăng ký điều ước quốc tế Theo Điều 102 Hiến chương Liên hợp quốc, Ban thư ký đảm nhiệm việc đăng ký điều ước quốc tế. Đăng ký điều ước quốc tế không phải là một giai đoạn của quá trình ký kết điều ước quốc tế nhưng nó có giá trị pháp lý rất lớn. Bởi vì, đăng ký điều ước quốc tế là căn cứ quan trọng để giải quyết các tranh chấp có thể xảy ra giữa các chủ thể trong quá trình thực hiện điều ước quốc tế. Theo Công ước Viên 1969: “các điều ước, sau khi có hiệu lực, sẽ được chuyển đến Ban thư ký Liên hợp quốc để đăng ký hoặc lưu trữ và ghi vào danh bạ, tùy từng trường hợp cũng như để công bố”. Điều 102 Hiến chương Liên hợp quốc quy định: “1. Bất cứ hiệp ước hay hiệp định quốc tế nào do một hội viên Liên hợp quốc ký kết sau khi Hiến chương này có hiệu lực đều phải được đăng ký càng sớm càng tốt tại cơ quan Tổng thư ký và do cơ quan Tổng thư ký công bố. 2. Nếu một nước nào ký kết hiệp ước hay hiệp định quốc tế mà không đăng ký, theo quy định của đoạn 1 Điều này thì không có quyền đưa hiệp ước hay hiệp định đó ra trước một cơ quan nào của Liên hợp quốc”. Như vậy, đăng ký điều ước quốc tế không phải là nghĩa vụ mà là quyền của các bên ký kết điều ước quốc tế nhưng nếu điều ước không được đăng ký thì các quốc gia không được viện dẫn trước bất kỳ cơ quan nào của Liên hợp quốc khi có tranh chấp xảy ra. Nên, để quyền và lợi ích của mình được thừa nhận và bảo đảm thực hiện bởi Liên hợp quốc, các quốc gia cần thiết phải đăng ký các điều ước quốc tế mà quốc gia đã ký kết với các quốc gia khác. 3. Thi hành và đảm bảo thực hiện điều ước quốc tế a. Thi hành điều ước quốc tế Là việc các bên thực hiện các quyền và gánh vác các nghĩa vụ pháp lý được ghi nhận trong điều ước quốc tế. Các thực thể thi hành điều ước là các cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật quốc gia. Việc thi hành điều ước được thực hiện qua sự chuyển hóa điều ước quốc tế vào pháp luật quốc gia. Có hai phương thức chuyển hóa điều ước quốc tế vào pháp luật quốc gia được áp dụng: Viện dẫn áp dụng điều ước quốc tế (kèm theo công bố điều ước trước công luận). Cách này thường được áp dụng đối với điều ước quốc tế song phương hoặc điều ước quốc tế đa phương nhưng không mang tính phổ biến. Ban hành các văn bản pháp luật quốc gia có nội dung tương ứng. Cách này thường được áp dụng với các điều ước quốc tế phổ biến (ví dụ các công ước quốc tế về nhân quyền). b. Đảm bảo thực hiện điều ước quốc tế Là việc áp dụng các biện pháp nhằm ngăn chặn, phòng ngừa sự vi phạm điều ước quốc tế từ phía các bên ký kết. Các biện pháp đó có thể do chính các bên thực hiện hoặc do các chủ thể khác nhau thực hiện, hoặc do tổ chức quốc tế. 4. Thực hiện điều ước quốc tế Sau khi ký kết điều ước quốc tế, các quốc gia đã chấp thuận sự ràng buộc của hiệu lực của điều ước quốc tế bằng các hành vi ký chính thức, phê chuẩn, phê duyệt, gia nhập hoặc chấp thuận. Trên tinh thần nguyên tắc Pacta Sunt Servanda, các quốc gia sẽ tuân thủ và thi hành điều ước mà quốc gia là thành viên. Pháp luật của các quốc gia trên thế giới đều quy định nếu có sự xung đột giữa các quy định của điều ước với các quy định trong các văn bản luật (trừ Hiến pháp) các quốc gia sẽ ưu tiên áp dụng điều ước quốc tế. Tại Khoản 3 Điều 6 Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế của Việt Nam năm 2005, cũng quy định rất rõ phương pháp thực hiện điều ước quốc tế mà nước Công hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên như sau: “ Căn cứ vào yêu cầu, nội dung, tính chất của điều ước quốc tế, Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ khi quyết định chấp nhận sự ràng buộc của điều ước quốc tế đồng thời quyết định áp dụng trực tiếp toàn bộ hoặc một phần điều ước quốc tế đó đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong trường hợp quy định của điều ước quốc tế đã đủ rõ, chi tiết để thực hiện; quyết định hoặc kiến nghị sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện điều ước quốc tế”. Về phương pháp thực hiện điều ước quốc tế trên lãnh thổ các quốc gia thành viên, tùy theo nội dung của từng điều ước mà các quốc gia sẽ thực hiện điều ước bằng cách trực tiếp hoặc gián tiếp. + Thực hiện trực tiếp: là áp dụng trực tiếp điều ước quốc tế mà quốc gia là thành viên mà không cần phải chuyển hóa các quy định của điều ước quốc tế thành các quy định của pháp luật quốc gia để thực hiện. + Thực hiện gián tiếp: là phải tiến hành chuyển hóa các quy định của điều ước quốc tế mà quốc gia là thành viên vào pháp luật trong nước để thực hiện bằng các hành vi như ban hành văn bản mới; sửa đổi, bổ sung những văn bản pháp luật hiện hành hoặc bãi bỏ những văn bản không còn phù hợp để thực hiện theo tinh thần của điều ước quốc tế. chương 5: Lãnh thổ quốc gia
1.Khái niệm lãnh thổ quốc gia
1.1. khái niệm Định nghĩa:Lãnh thổ quốc gia là một phần của trái đất bao gồm vùng đất, vùng nước, vùng trời và lòng đất thuộc chủ quyền hoàn toàn riêng biệt (hoặc tuyệt đối) của một quốc gia nhất định Ý nghĩa của lãnh thổ quốc gia: Là cơ sở vật chất để tồn tại và phát triển của quốc gia-chủ thể luật quốc tế; Là cơ sở để duy trì và phát triển một ranh giới quyền lực nhà nước với cộng đồng dân cư ổn định. 1.2. Các bộ phận cấu thành lãnh thổ quốc gia Vùng đất:Vùng đất thuộc chủ quyền hoàn toàn và tuyệt đối của quốc gia + Bao gồm toàn bộ đất liền + hải đảo + quần đảo + Trường hợp QG quần đảo + Trường hợp quốc gia giáp Bắc cực: các đảo và quần đảo được xác định theo hình rẻ quạt + Lãnh thổ kín, lãnh thổ hải ngoại Vùng nước gồm: - Vùng nước nội địa: sông, hồ, ao, kênh rạch .. tự nhiên cũng như nhân tạo Thuộc chủ quyền hoàn toàn, tuyệt đối của quốc gia - Vùng nước biên giới: tương tự vùng nước nội địa nhưng nằm trong khu vực biên giới. Thuộc chủ quyền hoàn toàn, đầy đủ của quốc gia - Vùng nước nội thủy: vùng nước biển bên trong đường cơ sở. Thuộc chủ quyền hoàn toàn, tuyệt đối của quốc gia - Vùng nước lãnh hải: vùng biển bên ngoài nội thuỷ, rộng không quá 12 hải lý.Thuộc chủ quyền hoàn toàn, đầy đủ của quốc gia Vùng trời:Là khoảng không gian bao trùm trên vùng đất + vùng nước quốc gia Thuộc chủ quyền hoàn toàn, tuyệt đối của quốc gia Vùng lòng đất: Là toàn bộ phần nằm dưới vùng đất và vùng nước Thuộc chủ quyền hoàn toàn,tuyệt đối của quốc gia. 2. Quyền tối cao của quốc gia đối với lãnh thổ 2.1. Các học thuyết về lãnh thổ - Thuyết tài vật: Lãnh thổ được xem là tài sản của người đứng đầu quốc gia mà thực chất là tài sản của vua chúa phong kiến. Vì vậy, lãnh thổ có thể được trao đổi, mua bán, chuyển nhượng, thừa kế...và được định đoạt bởi các vua chúa phong kiến. - Thuyết cai trị: lãnh thổ là khoảng không gian tồn tại quyền lực nhà nước. Học thuyết là sự biện họ cho chính sách xâm lược của các nhà nước tư bản châu âu đối với các dân tộc, vùng lãnh thổ là thuộc địa của họ. - Thuyết thẩm quyền: Lãnh thổ là sự tồn tại về mặt vật chất và chủ quyền quốc gia đối với lãnh thổ là tổng thể quyền lực của quốc gia sở tại và các quốc gia khác có công dân sinh sống ở quốc gia sở tại. Như vậy theo học thuyết này chủ quyền của quốc gia đối với lãnh thổ không phải duy nhất thuộc về chính quốc gia mà có sự đan xen của các quốc gia khác. 2.2. Chủ quyền của quốc gia đối với lãnh thổ quốc gia - Về phương diện quyền lực: Trên lãnh thổ quốc gia duy nhất tồn tại quyền lực và pháp luật của quốc gia. Tất cả dân cư, tài sản và sự kiện pháp lý xảy ra trên lãnh thổ đều phải đảm bảo tuân thủ luật pháp quốc gia. Trên phạm vi lãnh thổ quốc gia, quốc gia được tiến hành mọi hoạt động với điều kiện hành vi đó không bị luật quốc tế cấm và không vi phạm các nghĩa vụ quốc tế. Tuy nhiên trong quá trình tiến hành các hoạt động hợp pháp quốc gia phải lưu ý đến nguyên tắc không sử dụng chủ quyền lãnh thổ của mình làm thiệt hại đến chủ quyền lãnh thổ của quốc gia khác. Cùng với việc thực hiện chủ quyền lãnh thổ quốc gia có nghĩa vụ tôn trọng và đảm bảo quyền bất khả xâm phạm lãnh thổ của quốc gia khác. Theo đó: Cấm đe dọa dùng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực để chống lại sự toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia khác; Biên giới quốc gia là ổn định và bất khả xâm phạm;không được sử dụng lãnh thổ quốc gia khi không có sự đồng ý của quốc gia đó; Không cho quốc gia khác sử dụng lãnh thổ quốc gia mình để chống lại nước thứ ba. - Về phương diện vật chất: Quốc gia có quyền sử hữu một cách đầy đủ, trọn vẹn trên cơ sở phù hợp với lợi ích của cộng đồng dân cư sống trên vũng lãnh thổ đó và phù hợp với các quyền dân tộc cơ bản. Mọi sự thay đổi hoặc định đoạt liên quan đến số phận một bộ phận lãnh thổ của quốc gia phải dựa trên nguyên tắc dân tộc tự quyết mới được coi là hợp pháp. Đối với trường hợp thuê lãnh thổ quốc gia thì vùng lãnh thổ cho thuê vẫn là một bộ phận của quốc gia cho thuê. Quốc gia thuê lãnh thổ có quyền áp dụng quyền tài phán của mình phù hợp với nội dung thỏa thuận. 2.3.Nguyên tắc bất khả xâm phạm và toàn vẹn lãnh thổ Nguyên tắc bất khả xâm phạm và toàn vẹn lãnh thổ bắt nguồn từ nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia và các nguyên tắc cơ bản khác của luật Quốc tế hiện đại. Cơ sở pháp lý của nguyên tắc:Nguyên tắc này được ghi nhận trong Hiến chương Liên hợp quốc và các văn kiện pháp lý Quốc tế khác. - Tại Điều 2 khoản 4 Hiến chương Liên hợp quốc quy định:" Tất cả các thành viên của Liên hợp quốc cần phải tự kiềm chế không đe dọa hoặc sử dụng vũ lực để chống lại sự toàn vẹn lãnh thổ hoặc nền độc lập chính trị của bất kỳ nước nào hoặc bằng bất cứ cách nào trái với mục đích của Liên hợp quốc…" - Ngoài ra, nguyên tắc này còn được ghi nhận trong tuyên bố ngày 24.10/1970 của Liên hợp quốc về các nguyên tắc cơ bản của luật Quốc tế hiện đại; - Nghị quyết 290 của Đại hội đồng Liên hợp quốc về các nhân tố chủ yếu của hòa bình ngày 01/12/1949; - Nghị quyết về trao trả độc lập cho các nước và các dân tộc thuộc địa ngày 14/12/1960; Thông cáo chung của hội nghị Aù - Phi tại Băng Đung Indonexia ngày 24/4/1955. Nội dung của nguyên tắc: - Bất khả xâm phạm lãnh thổ quốc gia có nghĩa là các quốc gia có nghĩa vụ không được đe dọa hoặc sử dụng vũ lực để xâm phạm lãnh thổ quốc gia khác. - Toàn vẹn lãnh thổ có nghĩa là các quốc gia trên thế giới có nghĩa vụ không được tiến hành các hành động như xâm phạm, chuyển dịch, thôn tính , chia cắt lãnh thổ trong đó bao gồm biên giới quốc gia của bất kỳ quốc gia nào bằng cách dùng vũ lực hoặc bất kỳ hình thức nào. - Đối với quốc gia chủ nhà, quốc gia chủ nhà có quyền thực hiện những biện pháp cần thiết để bảo vệ, giữ gìn và quản trị lãnh thổ theo sự lựa chọn của họ nhằm đảm bảo tính thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia. Họ có quyền áp dụng các biện pháp bao gồm cả biện pháp vũ trang để phòng thủ, bảo vệ hoặc chống lại bất kỳ sự vi phạm nào từ bên ngoài vào lãnh thổ quốc gia vơi điều kiện các hành động đó của quốc gia phải nằm trong khuôn khổ, giới hạn của luật quốc tế hiện đại. Nội dung cơ bản của nguyên tắc bất khả xâm phạm và toàn vẹn lãnh thổ bao gồm các điểm cơ bản sau: + Nghiêm cấm xâm chiếm lãnh thổ quốc gia bằng cách đe dọa hoặc sử dụng vũ lực. + Biên giới quốc gia là ổn định và bất khả xâm phạm + không được sử dụng lãnh thổ quốc gia khi không được sự đồng ý của quốc gia chủ nhà + Không được sử dụng lãnh thổ của mình hoặc cho các quốc gia khác sử dụng lãnh thổ của mình để gây thiệt hại cho quốc gia thứ ba. 2.4. Nội dung quy chế pháp lý của lãnh thổ quốc gia Nội dung quy chế pháp lý của lãnh thổ quốc gia thể hiện ở các khía cạnh cơ bản sau: - Quốc gia có toàn quyền tự do lựa chọn chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội phù hợp với nguyện vọng của cộng đồng dân cư sống trên lãnh thổ đó mà không có sự can thiệp, áp đặt dưới bất kỳ hình thức nào từ bên ngoài.(Phân tích nội dung:Trong phạm vi lãnh thổ quốc gia, quốc gia chủ nhà có quyền tối cao về lập pháp, hành pháp và tư pháp. Mọi vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của quốc gia phải trên nguyên tắc quyền dân tộc tự quyết, lợi ích của quốc gia, lợi ích của cộng đồng dân cư sống trên lãnh thổ đó và do quốc gia chủ nhà quyết định. Các quốc gia khác cũng như các tổ chức Quốc tế không có quyền can thiệp vào vì đó là công việc nội bộ của quốc gia. Mọi tổ chức, cá nhân cư trú trên lãnh thổ quốc gia phải tuân thủ pháp luật của quốc gia chủ nhà nếu các Điều ước Quốc tế mà quốc gia đó ký kết hoặc tham gia không có quy định khác. Mọi hành động gây sức ép hay can thiệp nhằm mục đích bắt buộc quốc gia đó từ bỏ chế độ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội mà quốc gia đó đã lựa chọn là việc làm trái với luật pháp Quốc tế). - Quốc gia có quyền tự do trong việc lựa chọn phương hướng phát triển đất nước, thực hiện những cải cách kinh tế - xã hội phù hợp với các đặc điểm của quốc gia. Các quốc gia khác có nghĩa vụ tôn trọng sự lựa chọn đó. (Phân tích nội dung :Xuất phát từ tình hình đặc điểm riêng biệt của từng quốc gia mà quốc gia tự quyết định cách thức phát triển đất nước cho phù hợp với đặc thù của quốc gia mình. Phương thức cải cách nền kinh tế - xã hội của quốc gia được tiến hành như thế nào là do quốc gia tự quyết định mà các tổ chức, các quốc gia khác không có quyền can thiệp vào và phải tôn trọng sự lựa chọn này. Ví dụ:Đại hội VI Đảng cộng sản Việt Nam nêu rõ:Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là ý chí, sự lựa chọn của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam mà các quốc gia khác không được quyền can thiệp vào). - Quốc gia tự quy định chế độ pháp lý đối với từng vùng của lãnh thổ quốc gia. (Phân tích nội dung Lãnh thổ quốc gia bao gồm vùng đất, vùng nước, vùng trời trên chúng và lòng đất dưới chúng thuộc chủ quyền hoàn toàn và riêng biệt của quốc gia. Chính vì vậy, chỉ có quốc gia chủ nhà mới là "người" có toàn quyền quy định chế độ pháp lý đối với từng vùng của lãnh thổ quốc gia. Nói như vậy không có nghĩa rằng khi quy định chế độ pháp lý đối với từng vùng của lãnh thổ quốc gia, quốc gia chủ nhà không tính đến các quy định chung của luật pháp Quốc tế mà quốc gia chủ nhà phải tuân thủ những quy định chung của luật pháp Quốc tế. Ví dụ: Theo công ước Quốc tế về Luật biển năm 1982 của Liên hợp quốc quy định: Chiều rộng của lãnh do các quốc gia tự ấn định nhưng không được quá 12 hải lý tính từ đường cơ sở thì quốc gia chủ nhà không được quy định chiều rộng của lãnh hải rộng quá 12 hải lý vì quy định như vậy là trái với luật pháp Quốc tế. Hay theo công ước Quốc tế về Luật biển các quốc gia phải giành quyền tự do qua lại vô hại cho tàu thuyền nước ngoài nếu như quốc gia nào không cho phép tàu thuyền nước ngoài qua lại vô hại trên vùng lãnh hải là trái với luật pháp Quốc tế). - Quốc gia có quyền sở hữu hoàn toàn đối với tài nguyên và tư liệu sản xuất trong phạm vi lãnh thổ của mình.(Phân tích nội dung :Như đã phân tích ở trên, lãnh thổ quốc gia là nền tảng vật chất quan trong của quốc gia, thuộc quyền sở hữu của quốc gia, chỉ có quốc gia mới là người có đầy đủ tất cả các quyền năng chiếm hữu, sử dụng và định đoạt lãnh thổ quốc gia trên cơ sở phù hợp với lợi ích và sự lựa chọn của cộng đồng dân cư sống trên lãnh thổ đó.Trong đó có tất cả các tàu nguyên thiên nhiên và tư liệu sản xuất như đất đai, rừng núi,sông ngòi nguồn nước tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi ở thềm lục địa…..phần vốn và tài sản của Nhà nước đầu tư vào các xí nghiệp, công trình thuộc tất cả các ngành nghề, các lĩnh vực kinh tế,văn hóa, xã hội, quốc phòng an ninh đều thuộc quyền sở hữu của quốc gia. - Quốc gia có tài phán đối với mọi cá nhân, tổ chức trong phạm vi lãnh thổ quốc gia(trừ trường hợp pháp luật quốc gia và các Điều ước Quốc tế mà quốc gia đó ký kết hoặc tham gia có quy định khác).(phân tích nội dung:Xuất phát từ nguyên tắc chủ quyền quốc gia, quốc gia có quyền ban hành pháp luật có phạm vi áp dụng trên toàn lãnh thổ quốc gia để điều chỉnh các quan hệ xã hội theo ý chí của mình bắt buộc các cá nhân, tổ chức kể cả các cá nhân, tổ chức nước ngoài đều phải tuân thủ pháp luật của quốc gia chủ nhà.Tuy nhiên, trong những trường hợp đặc biệt như đối với các các nhân có những ưu đãi đặc biệt như những ưu đãi mang tính chất ngoại giao đối với những người có thân phận ngoại giao… thì áp dụng theo các quy định đã được ghi nhận trong các Điều ước Quốc tế mà quốc gia đã ký kết hoặc tham gia. Quốc gia có quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế thích hợp, kể cả các trường hợp quốc hữu hóa, trưng thu, trưng mua tài sản của các cá nhân tổ chức nước ngoài.Điều kiện và thể thức thi hành các hoạt động trên do pháp luật của quốc gia quy định. Quốc hữu hóa là hoạt động của Nhà nước nhằm chuyển hoá tài sản thuộc quyền sở hữu của tư nhân thành sở hữu của Nhà nước trên cơ sở pháp luật. Tài sản bị quốc hữu hoá là tài sản của tổ chức, cá nhân nước ngoài. Quốc gia có quyền và nghĩa vụ bảo vệ và cải tạo lãnh thổ quốc gia theo những yêu cầu chung của luật pháp Quốc tế như đảm bảo môi trường sông trong sạch, không gây ô nhiễm môi trường ở vùng biển, châu Nam cực… 3. Thay đổi quốc gia - Xác lập chủ quyền quốc gia đối với vùng lãnh thổ mới. 3.1. Thay đổi lãnh thổ quốc gia Lãnh thổ quốc gia được hình thành trong quá trình vận động của lịch sử gắn liền với cộng đồng dân cư nhất định. Lãnh thổ quốc gia cũng gắn liền với các đặc trưng văn hoá, xã hội của cộng đồng dân này. Trong quan hệ Quốc tếù lãnh thổ có tính ổn định rất cao, lãnh thổ quốc gia là toàn vẹn và bất khả xâm phạm. Mặc dù vậy, trong những trường hợp nhất định lãnh thổ quốc gia vẫn có thể được thay đổi một cách hợp trên cơ sở phù hợp với các quy định của luật pháp Quốc tế. Trước đây, khi luật Quốc tế còn xem chiến tranh là phương tiện hợp pháp để giải quyết các tranh chấp Quốc tế trong đó có cả tranh chấp về lãnh thổ thì cơ sở của việc thay đổi lãnh thổ quốc gia chủ yếu là bằng các cuộc chiến tranh xâm chiếm lãnh thổ. Từ khi luật Quốc tế thừa nhận và khẳng định nguyên tắc cấm dùng vũ lực và đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ Quốc tế là một nguyên tắc cơ bản của Luật Quốc tế hiện đại thì việc thay đổi lãnh thổ quốc gia bằng chiến tranh xâm chiếm lãnh thổ đã bị loại khỏi vòng pháp luật. Theo đó, bất kỳ quốc gia nào khi tiến hành bất cứ hình thức thay đổi nào cũng phải dựa trên nguyên tắc quyền dân tộc tự quyết. Thông qua hình thức trưng cầu dân ý, Nhà nước đại diện cho cộng đồng dân cư của mình ký kết các Điều ước Quốc tế về lãnh thổ với các quốc gia khác. Trong thực tiễn quan hệ Quốc tế, lãnh thổ quốc gia có thể được thay đổi theo một trong các hình thức sau đây; - Thay đổi lãnh thổ do phân chia quốc gia thành hai hay nhiều quốc gia mới.Ví dụ: Tiệp Khắc hiện nay đã phân chia thành hai quốc gia độc lập là CH Sech và Slovakie;, Liên bang CHXHCNXV hiện nay đã chia thành nhiều quốc gia độc lập nhưCHLB Nga, Belarusie, Grudia, Bangladet tách khỏi Pakistan năm 1971..). -Thay đổi lãnh thổ quốc gia do hợp nhất, liên minh hai hay nhiều quốc gia thành một quốc gia mới. Ví dụ: Tiệp Khắc, Liên bang CHXHCNXV trước đây. Ngày 3/4/1996 CHLB Nga và CH Belarusie đã tuyên bố thành lập Nhà nước Liên bang Nga – Belarusie, Năm 1990 Đông Đức và Tây Đức - Thay đổi lãnh thổ quốc gia do sáp nhập một bộ phận lãnh thổ quốc gia này vào lãnh thổ của quốc gia khác. Ví dụ:Năm 1945 Liên bang CHXHCNXV Sáp nhập quần đảo Curin thuộc lãnh thổ của Nhật Bản vào lãnh thổ của mình. - Thay đổi lãnh thổ quốc gia do trao đổi một bộ phận lãnh thổ giữa hai quốc gia với nhau. Ví dụ:Việc Vương quốc Anh trao trả Hồng Công cho Trung Quốc năm 1997; Bồ Đào Nha trả Lại Ma Cao cho Trung Quốc 30/12/999. - Thay đổi lãnh thổ quốc gia do chuyển nhượng một bộ phận lãnh thổ của quốc gia này cho một quốc gia khác. Ví dụ: Sa Hoàng đã bán Vùng lãnh thổ Alaska 586,412 dặm vuông cho Hoa Kỳ (năm 1867) với giá 7,2 triệu đô la mỹ. Ngày 4/6/1916 Mỹ mua của Đan Mạch các đảo Vecgiơ trong quần đảo tiểu Ăng ti giá 25 triệu USD.Chú ý: Việc nhượng lãnh thổ dưới bất kỳ hình thức nào cũng phải được tiến hành bằng cách ký kết hiệp định giữa các nước hữu quan. Các hiệp định chuyển nhượng này thường phải được phê chuẩn. Ví dụ, Thực dân Pháp mở đầu cuộc xâm lược và chiếm đóng Việt Nam bằng Hiệp ước ngày 5/6/1862. Theo Hiệp ước này thì triều đình nhà Nguyễn phải dâng cho Pháp 3tỉnh miền đông: Biên Hòa, Gia Định, Định tường với cả đảo Côn Lôn. Đến Hiệp ước 15/3/1874 thì chủ quyền của Pháp lại được thừa nhận trên 6 tỉnh miền nam, tức là toàn bộ đất Nam bộ. Sau cùng là hiệp ước ngày 6/6/1884 áp đặt chế độ bảo hộ đối với Trung kỳ và Bắc kỳ. - Thay đổi lãnh thổ quốc gia do một Điều ước Quốc tế đặc biệt. Ví dụ: Việc thay đổi lãnh thổ Triều Tiên sau cuộc chiến tranh Triều Tiên 1950 - 1953. Thay đổi lãnh thổ của nước ta sau Hiệp định Giơnevơ năm 1954. 4.2. Xác lập chủ quyền quốc gia đối với vùng lãnh thổ mới Vấn đề xác lập chủ quyền quốc gia với vùng lãnh thổ mới được đặt ra trong thực tiễn pháp luật Quốc tế từ rất sớm khi một quốc gia muốn thiết lập hoặc khẳng định chủ quyền của mình trên một vùng lãnh thổ nào đó. Trong quá trình phát tiển của chế định chiếm cứ các khu vực lãnh thổ mới có hai nguyên tắc lớn được áp dụng trong hai giai đoạn khác nhau là: Nguyên tắc chiếm cứ hình thức và nguyên tắc chiếm cứ thực sự (hữu hiệu), phương thức thủ đắc lãnh thổ bằng sự chuyển nhượng tự nguyện. a.Nguyên tắc chiếm cứ hình thức Theo nguyên tắc này, việc chiếm cứ vùng lãnh thổ mới được thực hiện và công nhận thông qua sự công nhận một số hành vi mang tính chất tượng trưng như: Hoạt động của viên thuyền trưởng hay một nhà thám hiểm nào đó đã đặt chân lên đảo hay bờ biển của vùng lãnh thổ mới và phải lưu lại bằng chứng về việc mình đã đặt chân lên nơi đó kèm theo tuyên bố của Nhà nước về sự khởi đầu quyền sở hữu.Hai điều kiện đó là: - Để lại bằng chứng về việc nhà thám hiểm hay viên thuyền trưởng đã đặt chân lên vùng lãnh thổ đó và để lại cây thập tự, cột gỗ...hay bất kỳ dấu tích nào để chứng minh sự có mặt của họ trên lãnh thổ đó. - Nhà nước phải đưa ra tuyên bố chính thức về việc xác lập chủ quyền của quốc gia đối với vùng lãnh thổ mới phát hiện. Hai điều kiện trên là đủ để một một vùng đất vô chủ được coi là thuộc chủ quyền của quốc gia phát hiện ra nó mà không cần có sự kiểm soát trên thực tế. Nguyên tắc này đã bộc lộ những thiếu sót và hạn chế sau: - Việc chiếm hữu theo cách này là dễ dàng đối với vùng đất, đảo nhỏ nhưng ngược lại đối với vùng đất đai rộng lớn nếu chỉ lưu lại bằng chứng tại một điểm nào đó nhưng thực chất nhà thám hiểm chưa khám phá hết vùng đất mới mà đã xác lập chủ quyền hoàn toàn đối với vùng đất này là chưa hợp lý. Ví dụ: Năm 1495, Ca Bô Tô, nhà thám hiểm người Anh mới chỉ đi dọc từ vĩ tuyến 56 đến 38 Bắc mà nước Anh đã đòi xác lập chủ quyền cả vùng Bắc Mỹ. - Mặt khác, do điều kiện thông tin lúc đó chưa phát triển nên đã dẫn tới tình trạng các nước không được thông tin đầy đủ và kịp thời về một vùng lãnh thổ nào đó đã được một quốc gia phát hiện. Do vậy, thường dẫn đến tình trạng nhiều quốc gia đều tuyên bố chủ quyền trên một vùng đất mới. - Việc lưu lại bằng những chứng cứ như cờ, cây thập tự, cột gỗ thì không phải bao giờ cũng được nguyên vẹn qua thời gian nên dẫn đến tình trạng tái phát hiện sáp nhập đi sáp nhập lại các vùng đất mới. b. Nguyên tắc chiếm hữu thực sự Theo nguyên tắc này việc thiết lập và khẳng định chủ quyền quốc gia đối với vùng lãnh thổ mới phải là sự chiếm hữu thực sự, quản trị và duy trì liên tục hoà bình quyền lực của Nhà nước trên vùng lãnh thổ đó. Nguyên tắc này còn gọi là nguyên tắc chiếm hữu hiệu quả. Qua thực tiễn pháp lý Quốc tế vào năm 1884 để giải quyết việc tranh chấp những vùng đất đai rộng lớn ở Công Gô( châu Phi) 13 nước Châu âu và Mỹ đã họp hội nghị tại Beclin và ký Thỏa ước Beclin năm 1885 trong đó có hai điều khoản cơ bản quy định: - Việc một quốc gia nào chiếm hữu một vùng lãnh thổ mới ở châu Phi phải thông báo cho các quốc gia tham dự Hội nghị biết ( Điều 34 ). - Các nước chiếm hữu phải đảm bảo sự tồn tại của một tổ chức chính quyền tại vùng lãnh thổ họ chiếm hữu để thi hành luật pháp và khi cần thiết để bảo vệ tự do buôn bán và quá cảnh trong các điều trong các điều kiện đã được quy định ( Điều 35 ) đã được viện luật quốc tế Lausanne dự thảo tuyên bố về chủ quyền quốc gia ngày 7/9/1888). Hai tiêu chuẩn này được xem là hai tiêu chuẩn cơ bản của việc xác lập chủ quyền trên các vùng lãnh thổ mới. Theo sự phát triển của lịch sử, dần dần việc chiếm hữu một vùng lãnh thổ mới được luật pháp quốc tế quy định cụ thể và chi tiết hơn cụ thể phải bảo đảm các điều kiện sau: - Những vùng đất, đảo được quốc gia chiếm hữu phải là lãnh thổ vô chủ, không nằm hoặc không còn nằm trong hệ thông địa lý hành chính của một quốc gia nào. Vùng đất, đảo có thể có hoặc không có người ơ nhưng khái niệm vô chủ có nghĩa là vùng đất, đảo đó không nằm trong hệ thống hành chính của bất kỳ nước nào, hoặc tuy đã từng thuộc về một quốc gia nhưng quốc gia này đã từ bỏ và không có ý định tiếp tục thực hiện chủ quyền của mình ở đó. - Việc chiếm hữu đó phải là hành động của Nhà nước.Việc chiếm hữu một vùng lãnh thổ phải là một hành động có tính chất Nhà nước, nghĩa là được thực hiện bởi những viên chức đại diện cho Nhà nước, hoặc những người được Nhà nước ủy quyền thì mới có giá trị pháp lý. Hành động của những cá nhân, hoặc những tập thể, tổ chức tư nhân đều không có giá trị pháp lý để xác định chủ quyền lãnh thổ. Tuy nhiên trong một số trường hợp, các hành động của tư nhân với danh nghĩa công dân của một quốc gia, dù chưa được Nhà nước đó chứng nhận, cũng có thể có một ý nghĩa nhất định. Như khi giải quyết tranh chấp lãnh thổ, những hành động này sẽ là những chưng cứ có lợi cho một quốc gia nếu phía bên kia không có hành động có ý nghĩa pháp lý nào được thực hiện. - Việc chiếm hữu phải thực sự, rõ ràng. Có nghĩa là cơ sở của việc chiếm hữu thực sự là phải thiết lập một cơ chế Nhà nước cần thiết nhằm mục đích kiểm soát, quản lý, bảo vệ vùng lãnh thổ đã chiếm hữu và thực hiện trên thực tế quyền tài phán ở đó. - Việc chiếm hữu phải hoà bình được dư luận đương thời chấp nhận. Yêu về tính hoà bình của sự chiếm hữu có nghĩa là việc chiếm hữu không được tước đoạt quyền của một quốc gia khác bằng vũ kực hay bằng hoạt động lén lút, việc chiếm hữu phải công khai được dư luận đương thời chấp nhận. c. Phương thức thụ đắc dựa trên sự chuyển nhượng tự nguyện Đây là sự chuyển giao một cách hòa bình danh nghĩa chủ quyền trên một lãnh thổ từ một quốc gia này sang quốc gia khác thông quan các hình thức như qua điều ước quốc tế; qua mua bán; qua trao đổi. Phương thức này chuyển cho người chủ mới một danh nghĩa hợp pháp. chương 6: DÂN CƯ TRONG LUẬT QUỐC TẾ
1. Khái niệm dân cư.
Trong các yếu tố cấu thành quốc gia, dân cư là yếu tố có vai trò quan trọng. Không thể hình thành quốc gia nếu không có dân cư cư trú thường xuyên. Theo Luật quốc tế hiện đại dân cư được hiểu là tổng hợp những người sinh sống trên lãnh thổ của một quốc gia nhất định và chịu sự điều chỉnh của quốc gia đó. Căn cứ vào địa vị pháp lý, dân cư của một quốc gia được chia thành hai nhóm người sau: - Công dân của quốc gia: là những người mang quốc tịch của quốc gia, có đầy đủ quyền và nghĩa vụ công dân theo quy định của pháp luật quốc gia. - Người nước ngoài: Là những người không mang quốc tịch của quốc gia mà họ đang cư trú. Căn cứ vào yếu tố quốc tịch: Người nước ngoài có thể là người có quốc tịch của một, hai hay nhiều quốc tịch của quốc gia khác hay người không có quốc tịch 2. Điều chỉnh pháp lý quan hệ quốc tịch. 2.1. Khái niệm quốc tịch Quyền năng chủ thể luật quốc tế của quốc gia xuất phát trên cơ sở chủ quyền quốc gia. Một trong những biểu hiện cơ bản của chủ quyền quốc gia là chủ quyền quốc gia đối với dân cư. Chủ quyền đó được xác lập thông qua việc xác lập mối quan hệ pháp lý đặc biệt là quốc tịch. Trong khoa học pháp lý Quốc tịch là mối quan hệ pháp lý hai chiều, được xác lập giữa cá nhân với một quốc gia nhất định, có nội dung là tổng thể các quyền và nghĩa vụ của người đó được pháp luật quốc gia quy định và đảm bảo thực hiện. 2.2. Đặc điểm cơ bản của quan hệ quốc tịch Thứ nhất, quan hệ quốc tịch có tính bền vững và ổn định. Tính bền vững của quan hệ quốc tịch thể hiện cả về thời gian và không gian.( Chẳng hạn: A có bố mẹ là công dân Việt Nam và sinh ra ở Việt Nam.A có quốc tịch Việt Nam từ khi A đăng kí khai sinh.Khi A làm ăn sinh sống ở nước ngoài A vẫn là công dân Việt Nam.Quan hệ quốc tịch giữa A với quốc gia Việt Nam chỉ chấm dứt khi A chết hoặc trong các trường hợp đặc biệt như: A xin thôi quốc tịch Việt Nam hoặc bị tước quốc tịch).Như vậy về thời gian, quốc tịch luôn gắn bó với một cá nhân trong suốt cuộc đời của họ từ khi sinh ra cho đến khi chết đi, trừ một số trường hợp đặc biệt như khi người đó xin thôi quốc tịch hoặc bị tước quốc tịch. Về mặt không gian dù công dân cư trú bất kì đâu, trên lãnh thổ của quốc gia mà họ mang quốc tịch hoặc cư trú trên lãnh thổ quốc gia khác thì họ vẫn mang quốc tịch của quốc gia mà họ là công dân. Thứ hai, quan hệ quốc tịch mang tính cá nhân. Quốc tịch là mối quan hệ pháp lý giữa quốc gia với một cá nhân cụ thể. Sự thay đổi quốc tịch của một cá nhân không ảnh hưởng đến quốc tịch của những người thân xung quanh họ và ngược lại sự thay đổi quốc tịch của người thân không làm thay đổi quốc tịch của họ.Nhưng vẫn có trường hợp ngoại lệ đó là trường hợp quốc tịch của con chưa thành niên khi cha mẹ thôi quốc tịch để gia nhập quốc tịch quốc gia khác thì con chưa thành niên có thể thay đổi theo quốc tịch của bố mẹ Thứ ba, quan hệ quốc tịch mang tính hai chiều thể hiện ở quyền và nghĩa vụ của quốc gia đối với công dân như quyền ban hành pháp luật buộc công dân tuân thủ, quyền thu thuế, đồng thời có nghĩa vụ đảm bảo cuộc sống cho công dân, bảo vệ nhân phẩm tính mạng cho công dân…Ngược lại công dân có quyền và nghĩa vụ đối với nhà nước như công dân có quyền bầu cử và ứng cử vào cơ quan nhà nước, được kinh doanh các nghành nghề mà pháp luật không cấm, đồng thời có các nghĩa vụ như tuân thủ pháp luật, thực hiện nộp thuế, lệ phí… Thứ tư, quan hệ quốc tịch được điều chỉnh bằng cả hai hệ thống pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế. Khi quốc gia quy định các vấn đề về quốc tịch, mỗi quốc gia phải tôn trọng các tập quán quốc tế đã được thừa nhận rộng rãi, tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế hiện đại và các điều ước quốc tế mà quốc gia đã kí kết hoặc tham gia. Ví dụ như điều 1 công ước lahaye về xung đột luật quốc tịch: “Mỗi quốc gia sẽ quy định bằng luật ai là công dân của nước mình. Luật này sẽ được các quốc gia khác công nhận trong chừng mực nó được xây dựng phù hợp với các điều ước quốc tế, tập quán quốc tế và với nguyên tắc pháp luật được công nhận chung về vấn đề quốc tịch”. Thứ năm, quan hệ quốc tịch là căn cứ giải quyết các vấn đề pháp lý liên quan đến cá nhân. Chẳng hạn như quốc tịch xem như căn cứ để lựa chọn luật áp dụng điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, cụ thể là về điều kiện kết hôn. 2.3. Thẩm quyền xác định quốc tịch Không phải bất kì chủ thể nào của Luật Quốc Tế cũng có thẩm quyền xác định quốc tịch, chỉ có quốc gia mới có thẩm quyền đó. Bởi vì căn cứ để xác định quốc tịch của cá nhân là xuất phát từ chủ quyền quốc gia, do đó các chủ thể khác không có chủ quyền quốc gia nên không có thẩm quyền này Xét trường hợp đặc biệt là Tòa Thánh Vanticang, dưới góc độ lý luận tòa thánh Vanticang không phải là một quốc gia, mà là một chủ thể đặc biệt của luật quốc tế. Luật quốc tế cho phép tòa thánh xác định quốc tịch Vanticang nhưng không giống với quốc tịch quốc gia quốc tịch Vanticang được xác định trên nguyên tắc công vụ. Những người có quốc tịch Vanticang thường đã có một quốc tịch của quốc gia. Trường hợp nữa là Liên minh châu Âu xác nhận tư cách công dân Liên Minh châu Âu. Tư cách công dân liên minh châu Âu là chế định rất đặc biệt nó không hình thành trên cơ sở quốc tịch liên minh châu Âu mà được hình thành trên cơ sở quốc tịch của một trong các số các quốc gia thành viên liên minh Châu Âu. 3. Các căn cứ hưởng quốc tịch Mỗi quốc gia sẽ quy định bằng pháp luật các căn cứ cá nhân được hưởng quốc tịch của quốc gia. Mỗi quốc gia quy định có thể sẽ khác nhau, nhưng nhìn chung theo quy định của các quốc gia thì có những căn cứ hưởng quốc tịch sau: do sinh ra, gia nhập quốc tịch, trở lại quốc tịch, lựa chọn quốc tịch, thưởng quốc tịch hoặc hưởng quốc tịch theo điều ước quốc tế. 3.1. Hưởng quốc tịch do sinh ra. Hưởng quốc tịch do sinh ra là cách hưởng quốc tịch phổ biến nhất được áp dụng để xác định quốc tịch của trẻ em sinh ra. Trong luật quốc tế các nước thường áp dụng hai nguyên tắc là: Nguyên tắc huyết thống và nguyên tắc nơi sinh để xác định quốc tịch cho đứa trẻ mới sinh ra. - Nguyên tắc huyết thống: Theo tâm lý học, ai cũng công nhận rằng, người thuộc dòng giống nào thì đẻ con cái cũng thuộc dòng giống ấy, vì vậy đa số các quốc gia đều lấy tiêu chí huyết thống làm căn cứ đầu tiên để xác định quốc tịch của một cá nhân. Theo căn cứ này đứa trẻ khi sinh ra có quốc tịch theo quốc tịch cha mẹ bất kể sinh ra ở đâu. Các quốc gia áp dụng nguyên tắc này như Áo, Nauy, Italia… - Nguyên tắc nơi sinh: Đứa trẻ sinh ra sẽ mang quốc tịch của quốc gia nếu sinh ra trên lãnh thổ của quốc gia đó không phụ thuộc vào quốc tịch của cha mẹ. Nguyên tắc này xuất hiện do truyền thống hình thành dân cư hoặc do vấn đề truyền thống để lại mà quốc gia không lấy tiêu chí huyết thống làm căn cứ mà lấy tiêu chí nơi sinh làm căn cứ. Các quốc gia áp dụng nguyên tắc này như: Braxin, Achentina, Mỹ… Trong một số trường hợp, điều ước quốc tế kí kết giữa quốc gia còn quy định trẻ em sinh ra trên tàu biển hoặc máy bay có thể được xem như sinh ra trên lãnh thổ của quốc gia mà tàu biển đó treo cờ hoặc máy bay đăng kí ( điều 3 công ước New York năm 1961 về hạn chế tình trạng không quốc tịch). Lưu ý căn cứ nơi sinh sẽ không áp dụng để xác định quốc tịch của con cái viên chức ngoại giao, viên chức lãnh sự. Việc áp dụng nguyên tắc huyết thống hay nguyên tắc nơi sinh để xác định quốc tịch cho cá nhân là tùy thuộc mỗi quốc gia tự quyết định. Mỗi một nguyên tắc đều tồn tại một số vấn đề. Nếu áp dụng nguyên tắc huyết thống thì sẽ có trường hợp cá nhân không có quốc tịch đó là trường hợp cha mẹ là người không có quốc tịch khi sinh con ở những nước áp dụng nguyên tắc huyết thống thì dẫn đến đứa trẻ sinh ra không có quốc tịch vì bố, mẹ chúng không có quốc tịch nước nào cả. Nguyên tắc nơi sinh tuy khắc phục được nhược điểm của nguyên tắc huyết thống là xác định quốc tịch cho đứa trẻ không rõ quốc tịch trên lãnh thổ quốc gia, nhưng nguyên tắc này cũng bộc lộ hạn chế đó là: Trường hợp những đứa trẻ có cha mẹ là công dân nước khác, nhưng do được sinh ra tại quốc gia áp dụng nguyên tắc nơi sinh nên đứa trẻ đương nhiên có quốc tịch của quốc gia nơi nó được sinh ra. Điều này dẫn đến sự gia tăng hiện tượng hai hay nhiều quốc tịch của công dân. Vì vậy có một số nước để hạn chế tình trạng này đã áp dụng cả hai nguyên tắc trên trong việc xác định quốc tịch cả cá nhân, trong đó có Việt Nam và các quốc gia thực hiện kí kết các điều ước quốc tế hạn chế tình trạng không quốc tịch hoặc hai hay nhiều quốc tịch. 3.2. Hưởng quốc tịch do gia nhập. Hưởng quốc tịch do gia nhập được hiểu là việc một người có quốc tịch của quốc gia nhất định do việc xin gia nhập quốc tịch của quốc gia đó. Việc hưởng quốc tịch do gia nhập được áp dụng cho người không quốc tịch hoặc người có quốc tịch nước người muốn có quốc tịch của quốc gia sở tại. Muốn gia nhập quốc tịch của quốc gia thì trước hết cá nhân đó phải có đơn xin gia nhập quốc tịch gửi đến cơ quan có thẩm quyền của quốc gia. Sauk hi nhận được đơn xin gia nhập quốc tịch cơ quan có thẩm quyền xem xét và ra quyết định có chấp nhận cá nhân gia nhập quốc tịch hay không. Pháp luật quốc gia đều quy định ra một cơ quan có thẩm quyền xem xét và giải quyết đơn xin gia nhập quốc tịch. Cơ quan này có thể là Bộ tư pháp (Mỹ, Nhật Bản), Bộ Nội Vụ Liên Bang(Đức),Tòa Án hoặc Tổng Thống, ở Việt Nam thuộc thẩm quyền của Chủ Tịch Nước. Thông thường cá nhân muốn gia nhập quốc tịch của quốc gia thì cá nhân phải đáp ứng các yêu cầu quy định trong pháp luật quốc gia về gia nhập quốc tịch. Đa số các quốc gia đều quy định các điều kiện chủ yếu sau: - Phải đạt độ tuổi nhất định, thường quy định là người đủ tuổi thành niên. - Phải có thời gian cứ trú tại quốc gia, thường quy định là 5 năm trở lên - Biết ngôn ngữ và có khả năng hòa nhập vào cộng đồng văn hóa của quốc gia - Phải đảm bảo các yêu cầu về chính kiến đối với nước xin gia nhập quốc tịch. - Điều kiện về sức khỏe, về khả năng kinh tế.( tránh trường hợp cá nhân xin nhập quốc tịch để hưởng các phúc lợi xã hội cho người thất nghiệp)… Hưởng quốc tịch do gia nhập cũng xuất phát từ sự kiện nhận con nuôi. Sự kiện nhận con nuôi được xem như một ưu tiên gia nhập quốc tịch.Một số quốc gia còn quy định việc con nuôi đương nhiên hưởng quốc tịch của cha mẹ nuôi( Việt Nam là cũng áp dụng quy định này khoản 2 điều 37 luật quốc tịch Việt Nam). Cũng giống như trường hợp nhận con nuôi, sự kiện kết hôn cũng được xem như một ưu tiên để xin nhập quốc tịch. Trường hợp này người nước ngoài muốn gia nhập quốc tịch của một quốc gia có thể được miễn hoặc giảm điều kiện xin gia nhập như: Điều kiện cư trú, điều kiện kinh tế DÂN CƯ TRONG LUẬT QUỐC TẾ ( tiếp) 1. Các căn cứ hưởng quốc tịch 1.1. Hưởng quốc tịch do sự trở lại quốc tịch. Hưởng quốc tịch do sự trở lại quốc tịch là việc khôi phục lại quốc tịch của một quốc gia cho người đã mất quốc tịch quốc gia đó. Trở lại quốc tịch thường áp dụng cho các trường hợp sau: - Những người trước đây đã xin thôi quốc tịch để ra nước ngoài sinh sống nay trở về tổ quốc. - Những người bị mất quốc tịch do kết hôn với người nước ngoài hoặc được nhận làm con nuôi người nước ngoài nay ly hôn hoặc hủy việc nhận con nuôi. Thông thường hai nhóm người này được hưởng những điều kiện ưu tiên trong việc trở lại quốc tịch so với những người mới ra nhập lần đầu. 1.2. Hưởng quốc tịch do lựa chọn quốc tịch Lựa chọn quốc tịch là việc người dân, theo yêu cầu của quốc gia tiến hành lựa chọn cho mình một quốc tịch hoặc giữ nguyên quốc tịch cũ hoặc nhận quốc tịch của quốc gia khác hoặc lựa chọn một quốc tịch trong số quốc tịch mà mình đang có. Việc lựa chọn quốc tịch được đặt ra trong các trường hợp sau: - Khi có sự thay đổi chủ quyền lãnh thổ như chuyển nhượng, trao đổi lãnh thổ hoặc phân chia hợp nhất lãnh thổ quốc gia… - Khi một người cùng lúc có hai hay nhiều quốc tịch - Khi có sự di chuyển dân cư 1.3. Hưởng quốc tịch do thưởng quốc tịch Thưởng quốc tịch là hành vi của cơ quan có thẩm quyền của một quốc gia công nhận người nước ngoài có công trạng lớn đối với quốc gia mình là công dân nước mình. Việc thưởng quốc tịch cho người nước ngoài có thể dẫn đến một trong hai trường hợp sau: - Người được thưởng quốc tịch trở thành công dân thực sự của quốc gia thưởng quốc tịch, thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ công dân quốc gia đó. - Người được thưởng quốc tịch chỉ trở thành công dân danh dự của quốc gia thưởng quốc tịch. Người này hưởng một số quyền nhất định theo quy chế công dân danh dự của nước đó. 1.4. Hưởng quốc tịch theo điều ước quốc tế Trong thực tiễn quốc tế các quốc gia có thể kí các điều ước quốc tế làm căn cứ xác định quốc tịch cho cộng đồng dân cư đặc biệt là những người hai hay nhiều quốc tịch hoặc không quốc tịch. 2. Các căn cứ chấm dứt quốc tịch. Cũng như các căn cứ hưởng quốc tịch việc chấm dứt quan hệ quốc tịch cũng có các căn cứ như: Xin thôi quốc tịch, đương nhiên mất quốc tịch và tước quốc tịch 2.1. Xin thôi quốc tịch Cũng giống như trường hợp xin gia nhập quốc tịch thì xin thôi quốc tịch cũng xuất phát từ ý chí chính cá nhân nhưng ngược nhau. Xin thôi quốc tịch là trường hợp cá nhân có nguyện vọng không giữ quốc tịch mà mình hiện có còn nhập quốc tịch là việc cá nhân có nguyện vọng có quốc tịch của quốc gia. Lý do xin thôi quốc tịch có thể là do cá nhân muốn thôi quốc tịch cũ để gia nhập quốc tịch của quốc gia khác hoặc trở thành người không quốc tịch. Muốn xin thôi quốc tịch cá nhân phải gửi đơn lên cơ quan nhà nước có thẩm quyền thể hiện nguyện vọng, cơ quan xem xét và xác nhận việc xin thôi quốc tịch. Cá nhân sẽ không còn mang quốc tịch cũ từ ngày ra văn bản. Khác với việc xin gia nhập quốc tịch thì quốc gia có những hạn chế trong việc công dân xin thôi quốc tịch như: Đang còn nghĩa vụ với nhà nước, đang thi hành bản án, quyết định của tòa án… 2.2. Đương nhiên mất quốc tịch Luật pháp quốc gia sẽ quy định những trường hợp công dân quốc gia sẽ đương nhiên mất quốc tịch quốc gia Như: - Cá nhân chết được xem như là một căn cứ để chấm dứt quan hệ quốc tịch giữa cá nhân và nhà nước. - Công dân quốc gia xin gia nhập quốc tịch nước ngoai - Công dân quốc gia phục vụ trong quân đội hoặc tham gia vào bộ máy nhà nước của quốc gia khác. 2.3. Bị tước quốc tịch Nếu như trong trường hợp xin thôi quốc tịch thì cá nhân chủ động theo ý chí của mình xin thôi quốc tịch của quốc gia còn bị tước quốc tịch thì cá nhân bị động dù muốn hay không muốn. Tước quốc tịch được xem là biện pháp trừng phạt quốc gia áp dụng với công dân của mình khi người này phạm tội có tính chất phản quốc, gây tổn hại đến an ninh quốc gia, làm nhục quốc thể…Nhưng người đó đang cư trú ở nước ngoài mà nước đó không có kí kết với quốc gia điều ước quốc tế về dẫn độ. Việc tước quốc tịch còn được áp dụng với những người gia nhập quốc tịch nhưng có hành vi gian lận trong việc xin nhập quốc tịch, trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ công dân hoặc đã được nhập quốc tịch nhưng vẫn định cư ở nước ngoài trong một thời gian dài… Ngoài các căn cứ chấm dứt quốc tịch trên, Luật quốc tịch của các quốc gia còn quy định một số căn cứ mất quốc tịch khác như: Theo quy định của Điều ước quốc tế, hủy quyết định cho gia nhập quốc tịch… 3. Thực hiện quyền và nghĩa vụ bảo hộ công dân của nhà nước Theo nghĩa hẹp, bảo hộ công dân được hiểu là việc quốc gia thông qua các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tiến hành các hoạt động nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích của công dân nước mình ở nước ngoài khi các quyền và lợi ích này bị xâm hại hoặc có nguy cơ bị xâm hại ở nước ngoài đó. Theo nghĩa rộng, bảo hộ công dân không những là việc quốc gia can thiệp để bảo vệ các quyền và lợi ích của công dân nước mình ở nước ngoài khi các quyền và lợi ích này bị xâm hại hoặc có nguy cơ bị xâm hại mà còn bao gồm cả các hoạt động giúp đỡ về mọi mặt mà quốc gia dành cho công dân mình khi ở nước ngoài, kể cả trong trường hợp không có hành vi nào xâm hại đến công dân nước này. 3.1. Cơ sở của bảo hộ công dân Cơ sở pháp lý: Hoạt động bảo hộ công dân được tiến hành dựa trên các quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia. Trong luật quốc tế có rất nhiều quy định về vấn đề này như: Công ước viên 1961 về quan hệ ngoại giao, công ước viên 1963 về quan hệ lãnh sự…Pháp luật các quốc gia cũng dành khá nhiều quy định làm cơ sở cho hoạt động bảo hộ công dân của quốc gia. Cơ sở thực tiễn: Quốc gia chỉ thực hiện bảo hộ đối với công dân của quốc gia, những người mang quốc tịch của quốc gia và có hành vi vi phạm pháp luật quốc tế của quốc gia sở tại gây thiệt hại cho công dân quốc gia thực hiện bảo hộ( đối với hoạt động bảo hộ công dân theo nghĩa hẹp). Trên thực tế có trường hợp cá nhân không mang quốc tịch quốc gia nhưng vẫn được quốc gia bảo hộ như đối với cá nhân được hưởng tư cách “ Công dân liên minh Châu Âu”. 3.2. Thẩm quyền bảo hộ công dân. Thực tiễn cũng như lý luận, quốc gia có quyền bảo hộ công dân nước mình khi ở nước ngoài. Quốc gia trao chức năng thực hiện công tác bảo hộ công dân cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. - Đối với các cơ quan trong nước, việc quy định cơ quan nào thực hiện bảo hộ công dân phụ thuộc vào quy định của từng quốc gia. Có thể có nhiều bộ ngành tham gia nhưng cũng có thể chỉ do Bộ ngoại giao thực hiện. - Đối với cơ quan ở nước ngoài, bảo hộ công dân được thực hiện bởi các cơ quan đại diện của quốc gia cử tại quốc gia nhận đại diện. 3.3. Các biện pháp bảo hộ công dân Quốc gia có thể thực hiện rất nhiều biện pháp đa dạng để bảo hộ công dân. Nó có thể là hoạt động đơn giản nhất, được tiến hành khi công dân chưa xuất cảnh khỏi biên giới quốc gia như việc cấp hộ chiếu hay trang bị những thông tin về quốc gia mà họ sắp tới đến những hoạt động phức tạp hơn như: Bảo về quyền lợi chính đáng của họ trước cơ quan có thẩm quyền của quốc gia sở tại… Có rất nhiều biện pháp được quốc gia sử dụng nhưng ngoại giao thường được xem là biện pháp đầu tiên. Quốc gia có thể tiến hành các hoạt động ngoại giao như: thông qua đàm phán trực tiếp, trung gian, hòa giải…Ngoài ra quốc gia có thể tiến hành các biện pháp cứng rắn như: Thực hiện bao vây, cấm vận kinh tế, rút toàn bộ viêc chức ngoại giao của mình ra khỏi phạm vi quốc gia…Việc sử dụng biện pháp nào phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: quyền bị vi phạm, mức độ vi phạm, thái độ quốc gia sở tại, nguy cơ ảnh hưởng tới mối quan hệ giữa hai quốc gia… Pháp luật quốc tế có sự giới hạn cho việc áp dụng biện pháp bảo hộ. Đó là việc bảo hộ công dân phải thực hiện trên cơ sở điều ước quốc tế mà các bên kí kết hoặc tham gia hoặc là theo tập quán quốc tế. Và nghiêm cấm hành vi sử dụng vũ lực, vì vi phạm nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế. DÂN CƯ TRONG LUẬT QUỐC TẾ ( tiếp ) 1. Chế độ pháp lý dành cho người nước ngoài. Trong thực tiễn quan hệ quốc tế, tùy thuộc vào mối quan hệ giữa các quốc gia và lĩnh vực cụ thể, quốc gia sở tại sẽ dành cho người nước ngoài chế độ pháp lý nhất định, có thể là đãi ngộ như công dân, chế độ tối huệ quốc hay là chế độ đãi ngộ đặc biệt. 1.1. Chế độ đãi ngộ như công dân. Theo chế độ này, quốc gia sở tại dành cho người nước ngoài được hưởng những quyền và nghĩa vụ ngang với những quyền và nghĩa vụ mà công dân nước sở tại đang được hưởng và sẽ được hưởng trong tương lai. Như vậy chế độ đãi ngộ như công dân hướng tới việc cân bằng địa vị pháp lý giữa người nước ngoài với công dân sở tại. Tuy nhiên sự ngang bằng chỉ là tương đối, thể hiện ở việc có những quyền mà công dân quốc gia được hưởng mà người nước ngoài thì không như: Quyền bầu cử, ứng cử… 1.2. Chế độ đãi ngộ tối huệ quốc Chế độ đãi ngộ tối huệ quốc nhằm cân bằng địa vị pháp lý giữa những người nước ngoài mang các quốc tịch khác nhau trên lãnh thổ của quốc gia sở tại. Theo chế độ tối huệ quốc, quốc gia sở tại dành cho người nước ngoài được hưởng các quyền và ưu đãi mà người nước ngoài mang quốc tịch bất kì nước thứ ba nào đang được hưởng hoặc sẽ được hưởng trong tương lai. Chế độ tối huệ quốc thường được ghi nhận trong các điều ước quốc tế song phương hoặc đa phương về thương mại, hàng hải, thuế quan… 1.3. Chế độ đãi ngộ đặc biệt Theo chế độ đãi ngộ đặc biệt, quốc gia sở tại dành cho người nước ngoài được hưởng các quyền ưu đãi đặc biệt mà công dân của quốc gia cũng không được hưởng chẳng hạn như: quyền ưu đãi miễn trừ ngoại giao, lãnh sự… Người nước ngoài được hưởng các quyền và ưu đãi mà quốc gia sở tại dành cho còn phải thực hiện những nghĩa vụ nhất định theo quy định của pháp luật quốc gia sở tại. 2. Cư trú chính trị Cư trú chính trị được hiểu là việc một quốc gia cho phép những người nước ngoài đang bị truy nã do những hoạt động và quan điểm về chính trị, khoa học, tôn giáo được nhập cảnh và cư trú trên lãnh thổ quốc gia mình. Không phải tất cả các cá nhân đều được hưởng quyền cư trú chính trị, pháp luật các quốc gia đều công nhận rằng cư trú chính trị không dành cho: - Những cá nhân phạm tội quốc tế như tội phạm chiến tranh, tội phân biệt chủng tộc… - Tội phạm hình sự có tính chất quốc tế như tội cướp biển, tội trong hoạt động hàng không - Cá nhân tội phạm hình sự mà việc dẫn độ quy định trong các điều ước quốc tế song phương, đa phương về dẫn độ - Cá nhân thực hiện hành vi trái với mục đích và nguyên tắc của liên hợp quốc Việc trao quyền cư trú chính trị cho người nước ngoài là quyền của quốc gia trên cơ sở phù hợp với các quy định luật quốc tế. Người được hưởng quyền cư trú chính trị không bắt buộc phải nhập quốc tịch nước sở tại, họ được hưởng các quyền mà nước sở tại dành cho người nước ngoài và không bị trục xuất hoặc dẫn độ về quốc gia mà họ bị truy nã. Các hình thức cư trú chính trị: - Cư trú lãnh thổ là việc người nước ngoài cư trú chính trị trên lãnh thổ quốc gia cho cư trú chính trị. Hình thức này được áp dụng phổ biến và thừa nhận rộng rãi. - Cư trú ngoại giao là việc quốc gia dành cho người nước ngoài quyền cư trú chính trị trong trụ sở cơ quan đại diện ngoại giao hoặc cơ quan lãnh sự của quốc gia trên lãnh thổ quốc gia khác. Hiện nay có nhiều quan điểm trái ngược nhau về quyền cư trú ngoại giao vì vậy nó không phổ biến trong quan hệ quốc tế. Ngoài ra việc cư trú chính trị có thể được thực hiện trên tàu chiến, phương tiện bay quân sự và tại các căn cứ quân sự của quốc gia. Trong thực tiễn quan hệ pháp lý cần phân biệt hình thức cư trú chính trị với vấn đề người tị nạn. Theo pháp luật quốc tế, người tị nạn là người do sự sợ hãi có cơ sở là sẽ bị ngược đãi vì những lý do chủng tộc, tôn giáo, dân tộc hoặc do là thành viên của một nhóm xã hội nào đó, hay vì quan điểm chính trị, đang ở ngoài nước mà người đó có quốc tịch mà không thể hoặc do sự sợ hãi như vậy mà không muốn tiếp nhận sự bảo vệ của quốc gia đó; hoặc người không quốc tịch đang sống ở ngoài quốc gia mà trước đó họ đã cư trú mà không thể hoặc do sự sợ hãi mà không muốn trở lại quốc gia đó. So với người được quyền cư trú chính trị thì người tị nạn có địa vị pháp lý thấp hơn. Người tị nạn có thể bị quốc gia sở tại trục xuất, bị bắt hồi hương hoặc không cho hưởng các quyền được công ước ghi nhận khi có cơ sở cho thấy người đó là mối đe dọa cho nền an ninh quốc gia nơi người đó đang sống, hoặc sau khi người ấy bị kết án về tội ác đặc biệt nghiêm trọn, tạo nguy cơ cho cộng đồng tại quốc gia đó. Trên thực tiễn một số nước cho người hưởng cư trú chính trị ban đầu có thể là người tị nạn sau đó được quốc gia xem xét và trao quy chế cư trú chính trị.