Professional Documents
Culture Documents
-Năm là, xây dựng quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước trên cơ sở tôn trọng độc lập,
chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ
Trong hành trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã từng sống, làm việc, hoạt động ở
nhiều nước; bằng uy tín và những hành động cụ thể, Hồ Chí Minh là người đầu tiên đặt
cơ sở cho tình hữu nghị, hợp tác giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân các nước trên thế
giới. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời,
Người nhiều lần tuyên bố, Việt Nam “làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây
thù oán với một ai”. “Chính sách ngoại giao của Chính phủ thì chỉ có một điều tức là thân
thiện với tất cả các nước dân chủ trên thế giới để giữ gìn hòa bình”. Có thể xem những lời
tuyên bố đó là tư tưởng đặt nền móng cho phương châm đa phương hóa, đa dạng hóa
công tác đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam hiện nay.
=> Thực tiễn đã chứng minh Tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh là di sản vô giá, là nền
tảng sức mạnh và là chìa khóa để triển khai thắng lợi, hiệu quả đường lối đối ngoại của
Đảng qua các giai đoạn cách mạng. Chính nhờ sự vận dụng sáng tạo Tư tưởng ngoại giao
của Người trong tình hình mới, đối ngoại Việt Nam đã giành được nhiều thành tựu quan
trọng, góp phần duy trì môi trường hòa bình, thu hút các nguồn lực cho phát triển, giữ
vững chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc và nâng cao vị thế quốc tế của nước ta.
*Những nguyên tắc quan trọng trong quan điểm đối ngoại của Bác.
-Một là, tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của nhau. Trong quan hệ quốc tế, việc
giữ vững độc lập và chủ quyền được đặt lên vị trí hàng đầu. Với Chủ tịch Hồ Chí Minh,
mọi mối quan hệ với các nước, trước hết là phải giữ vững độc lập chủ quyền của dân tộc
mình trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, quân sự, ngoại giao,... và đòi hỏi
tất cả các nước phải thật sự tôn trọng quyền thiêng liêng tối cao đó. Chủ tịch Hồ Chí
Minh khẳng định, độc lập chủ quyền của Việt Nam phải gắn liền với vấn đề thống nhất
và toàn vẹn lãnh thổ. Người khẳng định: “Đồng bào Nam bộ là dân nước Việt Nam. Sông
có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi!”.
-Hai là, không xâm phạm lẫn nhau. Trong quan hệ quốc tế, Hồ Chí Minh chủ trương giải
quyết tranh chấp, bất đồng bằng thương lượng hòa bình, phù hợp đạo lý và luật pháp
quốc tế, chống chiến tranh, bảo vệ hòa bình. Trước khi diễn ra cuộc chiến tranh Việt -
Pháp, Hồ Chí Minh đã thể hiện tinh thần kiên trì giải quyết tranh chấp, bất đồng bằng
thương lượng hòa bình. Việc ký kết với Chính phủ Pháp bản Hiệp định sơ bộ (06/3/1946)
và Tạm ước (14/9/1946) là kết quả của các cuộc thương lượng tìm kiếm hòa bình, tránh
chiến tranh của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
-Ba là, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn tán
thành và kiên trì đấu tranh bảo vệ và thi hành nguyên tắc này trong quan hệ quốc tế. Khi
trả lời ông Vaxiđép Rao, thông tín viên hãng Roitơ (tháng 5/1947), Người nêu rõ:
“Chúng tôi muốn gửi thế giới lời này: Là ước mong tất cả các người dân chủ trên thế giới
đoàn kết với nhau để bảo vệ cho nền dân chủ trong các nước nhỏ cũng như trong các
nước lớn!.
-Bốn là, bình đẳng và hai bên cùng có lợi. Trong quan hệ giữa nước ta với các nước trên
thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn thể hiện tinh thần đoàn kết, hữu nghị, hợp tác, bình
đẳng và đôi bên cùng có lợi vì những mục tiêu chung, kết hợp đúng đắn lợi ích dân tộc
với lợi ích quốc tế. Người khẳng định: “Việt Nam sẵn sàng cộng tác thân thiện với nhân
dân Pháp. Những người Pháp tư bản hay công nhân, thương gia hay trí thức, nếu họ
muốn thật thà cộng tác với Việt Nam thì sẽ được nhân dân Việt Nam hoan nghênh họ như
anh em bầu bạn. Song nhân dân Việt Nam kiên quyết cự tuyệt những người Pháp quân
phiệt”.
-Năm là, chung sống hòa bình, mở rộng quan hệ quốc tế theo hướng đa phương và đa
dạng các mối quan hệ. Khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
nghĩ ngay đến việc hợp tác với các nước trên thế giới, vì theo người, Chính phủ Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng hợp tác với các nước, kể cả các nước không cùng chế độ xã
hội, thậm chí, cả với nước đã từng xâm lược nước ta.
- Hoạt động đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại Quốc hội, đối ngoại nhân
dân, công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế của các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp
ngày càng được triển khai đồng bộ, toàn diện. Cơ chế phối hợp, hiệu quả hoạt động tác
chiến trong đối ngoại được thực hiện nghiêm túc theo Quy chế 272 về quản lý thống nhất
các hoạt động đối ngoại, tạo nên sức mạnh cộng hưởng triển khai hiệu quả công tác đối
ngoại của Đảng và Nhà nước.
- Nhờ đó, đối ngoại đã phát huy được sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc và hệ thống
chính trị, hoàn thành tốt các nhiệm vụ: (i) Giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát
triển, bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ Đảng, chế
độ xã hội chủ nghĩa; (ii) Chủ động và tích cực đẩy mạnh hội nhập quốc tế toàn diện và
sâu rộng, tăng cường ngoại giao đa phương, ngoại giao kinh tế, ngoại giao văn hóa; (iii)
Xử lý hiệu quả quan hệ với các nước, đặc biệt là với các nước láng giềng, các nước lớn,
đối tác chiến lược, đối tác toàn diện; tiếp tục đưa quan hệ với các nước đi vào chiều sâu,
thực chất, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.