You are on page 1of 12

1/Giới thiệu chung về tư tưởng đối ngoại của Hồ Chí Minh:

*Tư tưởng và triết lý đối ngoại của Hồ Chí Minh


Là lãnh tụ thiên tài, là nhà ngoại giao kiệt xuất đã sáng lập ra nền ngoại giao Việt Nam
hiện đại, Bác đã chỉ đạo công tác ngoại giao nước nhà vượt qua muôn vàn khó khăn, góp
phần giành độc lập, tự do và thống nhất đất nước. Từ chủ nghĩa yêu nước và truyền thống
văn hóa Việt Nam, bằng kho tàng tri thức đồ sộ Đông-Tây, với bản lĩnh dạn dày và kinh
nghiệm vô cùng phong phú qua hàng chục năm bôn ba hoạt động cách mạng, Bác đã để
lại cho nền ngoại giao Việt Nam hiện đại một tư tưởng ngoại giao đặc sắc-Tư tưởng đối
ngoại Hồ Chí Minh. Trong đó, tư tưởng của Người về đối ngoại chứa đựng nhiều nội
dung không chỉ bền vững qua thời gian, mà còn có những tư duy đi trước thời đại; thể
hiện ở những điểm sau:
-Một là, phải độc lập, tự chủ trong đối ngoại và hợp tác quốc tế
Độc lập, tự chủ là tư duy nổi bật, nhất quán trong toàn bộ hoạt động chính trị của Hồ Chí
Minh, nguyên lý chủ yếu của tư tưởng đó là “muốn người ta giúp cho, thì trước mình
phải tự giúp lấy mình đã”. Trong quan hệ quốc tế, Người khẳng định: “Độc lập nghĩa là
chúng tôi điều khiển lấy mọi công việc của chúng tôi, không có sự can thiệp ở ngoài
vào”; và nhấn mạnh: “Độc lập mà không có quân đội riêng, ngoại giao riêng, kinh tế
riêng. Nhân dân Việt Nam quyết không thèm thứ thống nhất và độc lập giả hiệu ấy”. Như
vậy, dân tộc Việt Nam độc lập, tự chủ, thống nhất không chỉ là toàn vẹn về lãnh thổ mà
ngoại giao, đối ngoại của dân tộc cũng phải độc lập, không bị bất kỳ thế lực, lực lượng
nào chi phối.
-Hai là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong công tác đối ngoại
Đây là một nội dung quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh, là quy luật, bài học kinh
nghiệm lớn của cách mạng Việt Nam. Trong mối quan hệ giữa sức mạnh dân tộc và sức
mạnh thời đại. Người nhấn mạnh: “Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ
dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”. Muốn tranh thủ sức mạnh của
thời đại phải có đường lối đúng đắn, phát huy độc lập tự chủ, kết hợp chặt chẽ mục tiêu
đấu tranh cho độc lập, thống nhất của dân tộc mình với mục tiêu của thời đại.
-Ba là, luôn yêu chuộng hòa bình, chống chiến tranh xâm lược
Tư tưởng yêu chuộng hòa bình, chống chiến tranh xâm lược được thể hiện từ rất sớm và
luôn nhất quán trong suốt quá trình hoạt động cách mạng của Người. Ngay sau Cách
mạng Tháng Tám năm 1945, Hồ Chí Minh viết Thư gửi những người Pháp ở Đông
Dương (tháng 10-1945), thể hiện sự kính trọng đối với nhân dân Pháp, nêu lên những
điểm tương đồng giữa hai dân tộc Việt - Pháp là khát vọng độc lập, tự do và kêu gọi:
“Hỡi những người Pháp ở Đông Dương! Các bạn không nghĩ rằng máu nhân loại đã chảy
nhiều, rằng hòa bình - một nền hòa bình chân chính xây trên công bình và lý tưởng dân
chủ - phải thay cho chiến tranh, rằng tự do, bình đẳng, bác ái phải thực hiện trên khắp các
nước không phân biệt chủng tộc và màu da ư?”. Ngay cả khi phải tiến hành cuộc chiến
tranh một mất một còn với đế quốc thực dân để giành độc lập dân tộc, Người cũng luôn
tìm kiếm những cơ hội đối thoại, đàm phán để tránh một cuộc chiến bạo lực phi nghĩa.
-Bốn là, luôn có tinh thần hòa hiếu, “thêm bạn, bớt thù”
Tư tưởng “thêm bạn, bớt thù” chỉ có thể thực hiện trên cơ sở xác định đúng mâu thuẫn vì
nhận thức đó sẽ giúp người cách mạng xác định đúng nhiệm vụ, xác định chính xác
những lực lượng nòng cốt của cách mạng. Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn làm cách
mạng thắng lợi thì phải phân biệt rõ ai là bạn ai là thù, phải thực hiện thêm bầu bạn, bớt
kẻ thù”. Đó là nguyên tắc chung của mọi cuộc cách mạng, đối với một dân tộc nhỏ lại
phải đối đầu với các kẻ thù mạnh và thâm độc thì việc “làm cho nước mình ít kẻ thù hơn
hết và nhiều bạn đồng minh hơn hết” càng trở nên cấp thiết.

-Năm là, xây dựng quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước trên cơ sở tôn trọng độc lập,
chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ
Trong hành trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã từng sống, làm việc, hoạt động ở
nhiều nước; bằng uy tín và những hành động cụ thể, Hồ Chí Minh là người đầu tiên đặt
cơ sở cho tình hữu nghị, hợp tác giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân các nước trên thế
giới. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời,
Người nhiều lần tuyên bố, Việt Nam “làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây
thù oán với một ai”. “Chính sách ngoại giao của Chính phủ thì chỉ có một điều tức là thân
thiện với tất cả các nước dân chủ trên thế giới để giữ gìn hòa bình”. Có thể xem những lời
tuyên bố đó là tư tưởng đặt nền móng cho phương châm đa phương hóa, đa dạng hóa
công tác đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam hiện nay.
=> Thực tiễn đã chứng minh Tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh là di sản vô giá, là nền
tảng sức mạnh và là chìa khóa để triển khai thắng lợi, hiệu quả đường lối đối ngoại của
Đảng qua các giai đoạn cách mạng. Chính nhờ sự vận dụng sáng tạo Tư tưởng ngoại giao
của Người trong tình hình mới, đối ngoại Việt Nam đã giành được nhiều thành tựu quan
trọng, góp phần duy trì môi trường hòa bình, thu hút các nguồn lực cho phát triển, giữ
vững chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc và nâng cao vị thế quốc tế của nước ta.

*Những nguyên tắc quan trọng trong quan điểm đối ngoại của Bác.

-Một là, tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của nhau. Trong quan hệ quốc tế, việc
giữ vững độc lập và chủ quyền được đặt lên vị trí hàng đầu. Với Chủ tịch Hồ Chí Minh,
mọi mối quan hệ với các nước, trước hết là phải giữ vững độc lập chủ quyền của dân tộc
mình trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, quân sự, ngoại giao,... và đòi hỏi
tất cả các nước phải thật sự tôn trọng quyền thiêng liêng tối cao đó. Chủ tịch Hồ Chí
Minh khẳng định, độc lập chủ quyền của Việt Nam phải gắn liền với vấn đề thống nhất
và toàn vẹn lãnh thổ. Người khẳng định: “Đồng bào Nam bộ là dân nước Việt Nam. Sông
có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi!”.

-Hai là, không xâm phạm lẫn nhau. Trong quan hệ quốc tế, Hồ Chí Minh chủ trương giải
quyết tranh chấp, bất đồng bằng thương lượng hòa bình, phù hợp đạo lý và luật pháp
quốc tế, chống chiến tranh, bảo vệ hòa bình. Trước khi diễn ra cuộc chiến tranh Việt -
Pháp, Hồ Chí Minh đã thể hiện tinh thần kiên trì giải quyết tranh chấp, bất đồng bằng
thương lượng hòa bình. Việc ký kết với Chính phủ Pháp bản Hiệp định sơ bộ (06/3/1946)
và Tạm ước (14/9/1946) là kết quả của các cuộc thương lượng tìm kiếm hòa bình, tránh
chiến tranh của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

-Ba là, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn tán
thành và kiên trì đấu tranh bảo vệ và thi hành nguyên tắc này trong quan hệ quốc tế. Khi
trả lời ông Vaxiđép Rao, thông tín viên hãng Roitơ (tháng 5/1947), Người nêu rõ:
“Chúng tôi muốn gửi thế giới lời này: Là ước mong tất cả các người dân chủ trên thế giới
đoàn kết với nhau để bảo vệ cho nền dân chủ trong các nước nhỏ cũng như trong các
nước lớn!.

-Bốn là, bình đẳng và hai bên cùng có lợi. Trong quan hệ giữa nước ta với các nước trên
thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn thể hiện tinh thần đoàn kết, hữu nghị, hợp tác, bình
đẳng và đôi bên cùng có lợi vì những mục tiêu chung, kết hợp đúng đắn lợi ích dân tộc
với lợi ích quốc tế. Người khẳng định: “Việt Nam sẵn sàng cộng tác thân thiện với nhân
dân Pháp. Những người Pháp tư bản hay công nhân, thương gia hay trí thức, nếu họ
muốn thật thà cộng tác với Việt Nam thì sẽ được nhân dân Việt Nam hoan nghênh họ như
anh em bầu bạn. Song nhân dân Việt Nam kiên quyết cự tuyệt những người Pháp quân
phiệt”.

-Năm là, chung sống hòa bình, mở rộng quan hệ quốc tế theo hướng đa phương và đa
dạng các mối quan hệ. Khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
nghĩ ngay đến việc hợp tác với các nước trên thế giới, vì theo người, Chính phủ Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng hợp tác với các nước, kể cả các nước không cùng chế độ xã
hội, thậm chí, cả với nước đã từng xâm lược nước ta.

2/Tư tưởng đối ngoại của Đảng từ 1986-2018:


1.Về đánh giá, dự báo tình hình thế giới:
Đại hội XIII kế thừa những nhận định lớn của các kỳ đại hội Đảng trước đây, nhất là Đại
hội XII, về các đặc điểm có tính quy luật và xu thế lâu dài của thế giới, song cập nhật,
điều chỉnh phù hợp với tình hình mới.
Bên cạnh tiếp tục nhận định thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen nhau, Đại
hội XIII nêu rõ tình hình thế giới "đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới nặng nề, phức
tạp hơn" đối với xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đòi hỏi tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy,
dự báo đúng tình hình, chủ động trước mọi tình huống. Do đó, vai trò của đối ngoại càng
quan trọng, nhiệm vụ càng nặng nề, nhất là vai trò tiên phong trong bảo vệ Tổ quốc từ
sớm, từ xa, tranh thủ thời cơ và nguồn lực bên ngoài phục vụ phát triển đất nước.
2. Về mục tiêu đối ngoại:
Đại hội XIII khẳng định "bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc", tức là đặt lợi ích
quốc gia- dân tộc lên trước hết và trên hết; đồng thời, chỉ ra nguyên tắc chung là phải
luôn nỗ lực đạt được lợi ích quốc gia- dân tộc tới mức cao nhất có thể. Đại hội XIII nhấn
mạnh thúc đẩy lợi ích quốc gia- dân tộc phải "trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến
chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi", cùng phấn
đấu vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Các thành tố nói trên có quan hệ chặt chẽ, tương hỗ và thống nhất với nhau, không thể
coi nhẹ thành tố nào, đồng thời là căn cứ quan trọng nhất để xác định đối tác- đối tượng,
hợp tác- đấu tranh trong đối ngoại, là "bất biến" để ứng phó với tình hình diễn biến
nhanh, phức tạp.
3. Về vị trí, vai trò và nhiệm vụ của đối ngoại:
Điểm mới nổi bật trong đường lối đối ngoại Đại hội XIII là lần đầu tiên Đảng xác định rõ
vị trí, vai trò tiên phong của đối ngoại trong "tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn
định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao vị thế và uy tín
của đất nước". Các nhiệm vụ này quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó giữ vững hòa bình,
ổn định là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên; phục vụ phát triển đất nước là nhiệm vụ
trung tâm; nâng cao vị thế và uy tín đất nước là nhiệm vụ quan trọng.
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, ông cha ta luôn lấy ngoại giao hòa hiếu làm
thượng sách giữ nước. Trong đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, đối ngoại đi đầu tạo thế "vừa đánh, vừa đàm", tranh thủ ủng hộ
quốc tế, phá bao vây cấm vận, mở ra cục diện phát triển mới cho đất nước. Trong công
cuộc đổi mới, đối ngoại "đi đầu trong kiến tạo hòa bình, bảo vệ Tổ quốc và thu hút nguồn
lực cho phát triển đất nước" .
-> Như vậy, việc khẳng định vai trò tiên phong của đối ngoại trong văn kiện Đại hội XIII
là bước phát triển mới về tư duy đối ngoại của Đảng trên cơ sở vận dụng sáng tạo tư
tưởng giữ nước mang tính chủ động cao của dân tộc, đúc kết thực tiễn phát triển và hội
nhập quốc tế của đất nước, tiếp thu chọn lọc kinh nghiệm quốc tế và phù hợp với xu thế
hòa bình, hợp tác và phát triển trên thế giới.

3/Kế thừa tư tưởng của Hồ Chí Minh:


3.1. Đảng đã kế thừa và phát triển tư tưởng đối ngoại của Bác như thế nào?
Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại, Đại hội XIII của Đảng đã đề ra
đường lối đối ngoại chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng với những
điểm mới, thể hiện trên một số nội dung sau:
Một là, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp
tác và phát triển
Đại hội XIII của Đảng xác định: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự
chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối
ngoại”. Đây là nguyên tắc “bất biến”, là đường lối đối ngoại nhất quán của Đảng.
Đại hội XIII nhấn mạnh, giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc
tế; thúc đẩy hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, linh hoạt, hiệu quả.
Hai là, kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong công tác đối ngoại
Sau hơn 35 năm đổi mới, “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy
tín quốc tế như ngày nay”. Song, việc kết hợp chặt chẽ giữa sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại vẫn là yêu cầu quan trọng, thực lực của ta mạnh lên thì ngoại giao sẽ càng
hiệu quả; đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy, có thực lực mạnh, thì ngoại giao sẽ
thắng lợi. Tinh thần đó tiếp tục được thể hiện rõ trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng:
“Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế
toàn diện, sâu rộng”
Ba là, tiếp tục phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong việc tạo lập và giữ vững
môi trường hòa bình, ổn định, phát triển và nâng cao vị thế, uy tín của đất nước
Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Tiếp tục phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại
trong việc tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên
ngoài để phát triển đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước”.Mở rộng quan hệ
đối ngoại nhằm thúc đẩy quan hệ kinh tế, tăng cường hợp tác quốc tế để phát triển kinh tế
- xã hội, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ.
Bốn là, xác định mục tiêu của đối ngoại trong thời kỳ mới là bảo đảm cao nhất lợi ích
quốc gia - dân tộc
Trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, “mục tiêu tối thượng” trong công tác đối ngoại
của Đảng là: “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ
bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có
lợi”
Năm là, thực hiện đường lối ngoại giao rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa
trong quan hệ quốc tế
Qua 35 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong lĩnh vực
đối ngoại, đặc biệt là thiết lập các cơ chế hợp tác song phương và đa phương để kết nối
với thế giới. Tiếp nối những thành tựu này, Đại hội XIII của Đảng chủ trương: “Đẩy
mạnh đối ngoại song phương và nâng tầm đối ngoại đa phương. Chủ động tham gia và
phát huy vai trò của Việt Nam tại các cơ chế đa phương... Coi trọng phát triển quan hệ
hợp tác, hữu nghị, truyền thống với các nước láng giềng; chủ động, tích cực và có trách
nhiệm cùng các nước ASEAN xây dựng Cộng đồng đoàn kết, vững mạnh, giữ vững vai
trò trung tâm của ASEAN trong cấu trúc an ninh khu vực. Đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn
quan hệ hợp tác song phương với các đối tác, đặc biệt là các đối tác chiến lược, đối tác
toàn diện và các đối tác quan trọng khác, tạo thế đan xen lợi ích và tăng độ tin cậy. Chủ
động, tích cực tham gia các cơ chế đa phương về quốc phòng, an ninh theo tư duy mới về
bảo vệ Tổ quốc”.
3.2. Những chính sách và chiến lược quan trọng trong đối ngoại
3.2.1. Chính sách đối ngoại
Thứ nhất, lợi ích quốc gia - dân tộc. Lợi ích quốc gia của Việt Nam trong đối ngoại bao
gồm hai nhóm: nhóm các lợi ích sống còn và nhóm các lợi ích phát triển. Nhóm các lợi
ích sống còn bao gồm giữ vững chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia;
giữ vững hòa bình với bên ngoài, bảo đảm ổn định và trật tự bên trong; bảo đảm cuộc
sống an toàn cho nhân dân; bảo đảm an ninh kinh tế của quốc gia; giữ gìn bản sắc dân
tộc. Nhóm các lợi ích phát triển bao gồm không ngừng nâng cao khả năng giữ vững chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; không ngừng nâng cao chất lượng
cuộc sống của nhân dân; mở rộng không gian phát triển; phát huy bản sắc dân tộc; phát
huy vai trò và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế
Thứ hai, thế và lực của quốc gia trên trường quốc tế. Trong quá trình hoạch định chính
sách đối ngoại, mọi quốc gia trên thế giới đều cân nhắc và xem xét yếu tố thế và lực của
quốc gia mình. Chính sách đối ngoại được xây dựng trên cơ sở không những phải phù
hợp với lợi ích của quốc gia, mà còn phải tương thích với vị thế và sức mạnh tổng hợp
của đất nước.
3.2.2. Chiến lược quan trọng trong đối ngoại.
Tập trung vào việc duy trì và phát triển mối quan hệ với các nước cộng sản, các quốc gia
xã hội chủ nghĩa, cũng như các đối tác chiến lược truyền thống như Trung Quốc, Nga,
Cuba và các quốc gia trong khối ASEAN.
Ngoài ra, Đảng cũng tìm kiếm mở rộng quan hệ với các quốc gia và khu vực khác trên
thế giới để tăng cường hợp tác kinh tế, chính trị và quân sự, đồng thời thúc đẩy vai trò
của Việt Nam trên trường quốc tế.

4/Kết quả của chính sách đối ngoại từ 1986-2018:


* Những thành công trong công tác đối ngoại:
٠ Giai đoạn 1986-1995 : Phá thế bao vây cấm vận, đưa đất nước ra khỏi khủng
hoảng
- Trước các sóng gió, Đảng đã đánh giá lại cục diện thế giới để xác định đường lối,
chính sách đối ngoại trong tình hình mới. Tại Đại hội VI (12/1986), chúng ta đã có
nhận thức mới về xu thế mở rộng phân công, hợp tác giữa các nước, kể cả các
nước có chế độ kinh tế, xã hội khác nhau. Tư duy của Đảng ta có bước chuyển
quan trọng tại Nghị quyết số 13 của Bộ Chính trị (tháng 5/1988).
- Theo đó, Đảng nêu rõ trạng thái “đấu tranh và hợp tác trong cùng tồn tại hòa
bình” và nhận định “với một nền kinh tế mạnh, một nền quốc phòng vừa đủ mạnh
cùng với sự mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, chúng ta sẽ càng có nhiều khả năng
giữ vững độc lập và xây dựng thành công xã hội chủ nghĩa hơn”.
- Tình hình khó khăn và bức bách đầu những năm 1990 tiếp tục đặt ra vấn đề đổi
mới tư duy về thời đại. Đảng khẳng định thế giới vẫn trong thời đại quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, đồng thời chỉ rõ những xu thế lớn như quốc tế hóa, dân chủ hóa, xu
thế hòa bình, hợp tác trong quan hệ quốc tế. Chủ trương đối ngoại của Việt Nam
được khẳng định tại Đại hội VII (1991), theo đó Việt Nam muốn là bạn, là đối tác
với các nước trên thế giới và mở rộng, đa phương hóa quan hệ kinh tế đối ngoại.
٠ Giai đoạn 1996-2010: Mở rộng quan hệ và hội nhập kinh tế quốc tế
- Đất nước có không gian phát triển thuận lợi do nằm trong khu vực châu Á-Thái
Bình Dương đang phát triển năng động với tốc độ cao. Các đặc điểm và xu thế nêu
trên đã làm thúc đẩy thêm tính chất đa phương, đa dạng trong quan hệ quốc tế và
chính sách đối ngoại của các nước.
- Chính sách mở cửa của Việt Nam đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc tham gia
vào các tổ chức kinh tế quốc tế như WTO và APEC. Việt Nam đã ký kết nhiều
hiệp định thương mại tự do với nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ, tạo điều kiện cho
xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ.
٠ Giai đoạn 2011-2018: Đưa quan hệ đi vào chiều sâu và hội nhập quốc tế toàn
diện
- Đối chiếu với những mục tiêu, nhiệm vụ đối ngoại mà Đảng ta đề ra tại Cương lĩnh
2011 cũng như các kỳ Đại hội Đảng XI và XII, có thể khẳng định đến nay, gần 10 năm
sau khi triển khai Cương lĩnh, ta đã đạt và vượt các mục tiêu đề ra, đồng thời xử lý hài
hòa các vấn đề nảy sinh ngoài dự kiến, nhất là những sự cố, khủng hoảng như việc Trung
Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm
lục địa của Việt Nam (1/5-15/7/2014).

- Hoạt động đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại Quốc hội, đối ngoại nhân
dân, công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế của các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp
ngày càng được triển khai đồng bộ, toàn diện. Cơ chế phối hợp, hiệu quả hoạt động tác
chiến trong đối ngoại được thực hiện nghiêm túc theo Quy chế 272 về quản lý thống nhất
các hoạt động đối ngoại, tạo nên sức mạnh cộng hưởng triển khai hiệu quả công tác đối
ngoại của Đảng và Nhà nước.

- Nhờ đó, đối ngoại đã phát huy được sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc và hệ thống
chính trị, hoàn thành tốt các nhiệm vụ: (i) Giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát
triển, bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ Đảng, chế
độ xã hội chủ nghĩa; (ii) Chủ động và tích cực đẩy mạnh hội nhập quốc tế toàn diện và
sâu rộng, tăng cường ngoại giao đa phương, ngoại giao kinh tế, ngoại giao văn hóa; (iii)
Xử lý hiệu quả quan hệ với các nước, đặc biệt là với các nước láng giềng, các nước lớn,
đối tác chiến lược, đối tác toàn diện; tiếp tục đưa quan hệ với các nước đi vào chiều sâu,
thực chất, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.

* Những thách thức trong công tác đối ngoại:


- Biến động chính trị và an ninh quốc tế: Sự biến động trong hệ thống quốc tế có
thể tạo ra những thách thức không lường trước đối với chính sách đối ngoại của
Việt Nam, bao gồm thương chiến, biến động chính trị và kinh tế toàn cầu.
- Xung đột lợi ích giữa các quốc gia: Trên thị trường quốc tế, sự cạnh tranh và
xung đột lợi ích giữa các quốc gia có thể tạo ra những thách thức trong việc duy trì
và phát triển quan hệ đối ngoại. Điều này đặc biệt đúng trong trường hợp của Việt
Nam, đặc biệt là khi các quốc gia lớn đua nhau tìm kiếm tài nguyên và thị trường
mới.
- Vấn đề biển đông: Tranh chấp Biển Đông là một thách thức lớn đối với chính
sách đối ngoại của Việt Nam. Sự leo thang của các tranh chấp lãnh thổ và tài
nguyên ở Biển Đông có thể ảnh hưởng đến quan hệ của Việt Nam với các nước
láng giềng và đối tác quốc tế.
- Nhân quyền và dân chủ: Một số quốc gia có quan điểm và tiêu chuẩn về nhân
quyền và dân chủ khác nhau so với Việt Nam, điều này có thể gây ra áp lực đối với
quan hệ ngoại giao của Việt Nam
- Kinh tế và phát triển: Trong bối cảnh thị trường kinh tế toàn cầu hóa, Việt Nam
phải đối mặt với áp lực cạnh tranh và thay đổi nhanh chóng trong quá trình hội
nhập kinh tế. Điều này đòi hỏi sự linh hoạt và sáng tạo trong chính sách đối ngoại
để đảm bảo phát triển bền vững và công bằng.
5/Nguyên nhân thành công và những khó khăn đã trãi qua:
Thành công trong đối ngoại của tư tưởng Hồ Chí Minh được phản ánh qua một số nguyên
nhân chính sau:
Tính nhân văn và hòa bình: Tư tưởng của Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh vào tinh thần
hòa bình, tôn trọng chủ quyền và độc lập của các quốc gia. Điều này đã giúp Việt Nam
tạo ra một hình ảnh tích cực trong cộng đồng quốc tế.
Chiến lược linh hoạt: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại không bao giờ cố định mà luôn
linh hoạt, điều chỉnh theo tình hình thực tế và lợi ích của Việt Nam. Điều này giúp Việt
Nam thích ứng tốt với biến động trong chính trị và kinh tế thế giới.
Chính sách đa phương: Hồ Chí Minh đã khéo léo xây dựng các mối quan hệ đa dạng với
nhiều quốc gia trên thế giới, từ các đối tác truyền thống đến các quốc gia mới nổi. Điều
này giúp Việt Nam mở rộng mối quan hệ và tối đa hóa cơ hội hợp tác.
Khả năng đàm phán và thương lượng: Hồ Chí Minh được biết đến là một nhà ngoại giao
tài ba, có khả năng đàm phán và thương lượng tốt. Sự thông minh và khéo léo trong
thương lượng đã giúp Việt Nam đạt được nhiều thỏa thuận quan trọng trong quan hệ đối
ngoại.
Sứ mệnh cách mạng và tình đoàn kết quốc tế: Tư tưởng của Hồ Chí Minh không chỉ dừng
lại ở việc bảo vệ lợi ích quốc gia mà còn theo đuổi mục tiêu cách mạng toàn cầu và tình
đoàn kết quốc tế. Điều này đã thu hút sự ủng hộ từ các phong trào cách mạng và nhân dân
trên thế giới.
Tóm lại, sự thành công trong đối ngoại của tư tưởng Hồ Chí Minh được dẫn đến bởi sự
linh hoạt, tính nhân văn, khả năng thương lượng và sứ mệnh cách mạng của ông, cùng
với sự hỗ trợ từ các phong trào cách mạng quốc tế.
Trong quá trình thực hiện đối ngoại theo tư tưởng của Hồ Chí Minh, Việt Nam đã
phải đối mặt với một số thách thức và khó khăn đáng kể:
1. Áp lực từ thế giới chia cắt: Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, thế giới chia cắt giữa hai
phe ảnh hưởng lớn là Liên Xô và Hoa Kỳ. Việt Nam phải đối mặt với áp lực từ cả hai phe
này và phải thể hiện sự độc lập và tự chủ trong chính sách đối ngoại.
2. Sự đối đầu với áp lực của đế quốc: Việt Nam phải đối mặt với sự đối đầu với áp lực từ
các đế quốc, đặc biệt là trong quá trình chiến tranh Việt Nam. Việc duy trì một chính sách
đối ngoại độc lập và tư tưởng cách mạng trước sự áp đặt của các quốc gia lớn là một
thách thức lớn.
3. Xây dựng quan hệ với các nước láng giềng: Việt Nam phải xử lý mối quan hệ với các
nước láng giềng một cách thông minh và khéo léo để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và đồng
thời thúc đẩy hợp tác kinh tế và chính trị.
4. Phản ứng từ cộng đồng quốc tế: Việt Nam phải đối mặt với sự phản ứng từ cộng đồng
quốc tế đối với các quyết định và hành động của mình, đặc biệt là trong các vấn đề nhân
quyền và dân chủ.
5. Thách thức từ biến đổi khí hậu và môi trường: Biến đổi khí hậu và vấn đề môi trường
đã tạo ra những thách thức mới trong quản lý tài nguyên và phát triển bền vững, đặc biệt
là trong các khu vực nông thôn và miền núi.
Tóm lại, trong quá trình thực hiện đối ngoại theo tư tưởng của Hồ Chí Minh, Việt Nam
đã phải đối mặt với nhiều thách thức và khó khăn, đòi hỏi sự linh hoạt, thông minh và
quyết đoán trong việc đối phó và vượt qua.

6/Quan điểm "ngoại giao cây tre" hiện nay:


*Quan điểm “ngoại giao cây tre” hiện nay:
Lâu nay, nói đến ngoại giao cây tre, nhiều ý kiến đã đánh đồng đó là khuôn mẫu
của chính sách mà nước khác từng theo đuổi và có một số ý kiến cho rằng đó là sự
"nghiêng ngả" kiểu "nay bên này, mai bên kia". Nhưng đó là đánh giá không đúng
bản chất, cơ sở của ngoại giao cây tre Việt Nam, vốn cần nhìn thấy được bản sắc
của cây tre là giữa những cơn gió lớn, thậm chí cuồng phong bão tố, thì cây tre vẫn
vững chãi, thể hiện sức sống mạnh mẽ.
Về bản sắc ngoại giao cây tre Việt Nam, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ
đạo, định hướng là: "gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển" để bảo vệ Tổ quốc
"từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy". Theo đó, "gốc vững" là sự tự lực, tự
cường, luôn đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên. "Thân chắc" là bản lĩnh kiên
cường trước mọi thử thách, khó khăn; sẵn sàng là đối tác tin cậy, có trách nhiệm
với cộng đồng quốc tế. "Cành uyển chuyển" là cách ứng xử linh hoạt, kịp thời
thích nghi với sự biến động, thách thức.
Bản sắc này dựa trên nền tảng Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại. Cụ thể là:
Phải độc lập, tự chủ trong đối ngoại và hợp tác quốc tế; Luôn có tinh thần hòa hiếu,
"thêm bạn, bớt thù"; Xây dựng quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước trên cơ sở
tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ; Nhất quán phương châm "Dĩ bất
biến ứng vạn biến" trong hoạt động đối ngoại, v.v.
*Tầm quan trọng của “ngoại giao cây tre trong bối cảnh hiện nay”
Chúng ta đều biết, thuật ngữ ngoại giao “Cây tre Việt Nam” được Tổng Bí thư Nguyễn
Phú Trọng đề cập tại Hội nghị ngoại giao lần thứ 29 với chủ đề “Nâng cao hiệu quả công
tác đối ngoại và hội nhập quốc tế-Thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ
XII”, diễn ra tại Hà Nội, ngày 22-8-2016. Trong bài phát biểu chỉ đạo tại hội nghị, Tổng
Bí thư Đảng ta đã nêu rõ bài học kiên trì về nguyên tắc, linh hoạt về sách lược trong công
tác ngoại giao. “...Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, hoạt động đối
ngoại đã làm nên nhiều thành tích vẻ vang, xây dựng nên một trường phái ngoại giao độc
đáo, mang đậm bản sắc "Cây tre Việt Nam"-mềm mại mà cứng cỏi, nhân ái mà quật
cường, biết nhu biết cương, biết thời biết thế, biết mình biết người..., thể hiện tâm hồn và
khí phách của dân tộc Việt Nam...”

You might also like