You are on page 1of 1

III: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc phải kết hợp với đoàn kết

quốc tế:
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và kết hợp với đoàn kết quốc tế là một phần quan
trọng của chiến lược của ông trong cuộc chiến đấu cho độc lập và tự do của Việt Nam. Ông tin rằng
sự đoàn kết nội bộ của dân tộc là cần thiết để đối phó với các thách thức bên ngoài, nhưng đồng thời
cũng nhấn mạnh về sự cần thiết của sự liên kết quốc tế để hỗ trợ sự nghiệp chung của nhân loại tiến
bộ trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế. Đó là một trong
những tư tưởng cốt lõi của người trong quá trình đấu tranh và xây dựng đất nước vẫn còn được áp
dụng đến hiện tại như:
- Một là, làm rõ đoàn kết để thực hiện mục tiêu cách mạng trong giai đoạn hiện nay là dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, xã - hội công bằng văn minh.
Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đoàn kết, hợp tác quốc tế trong đường lối đối ngoại của
Việt Nam là phải đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết, trước hết; nói cách khác, muốn làm gì
cũng cần vì lợi ích của dân tộc. Ông tìm kiếm hợp tác với các quốc gia khác nhằm tăng cường sức
mạnh và bảo vệ chủ quyền dân tộc Việt Nam, cũng như để đẩy lùi sự thống trị và áp đặt từ bên
ngoài. Đồng thời không ngừng học hỏi những tư tưởng tiến bộ để áp dụng vào quá trình xây dựng và
phát triển đất nước.Tuy nhiên, ông cũng không mù quáng trong việc thiết lập các mối quan hệ quốc
tế. Ông nhận thức rõ rằng hợp tác quốc tế cũng đòi hỏi sự linh hoạt và sự đổi mới để bảo vệ lợi ích
cao nhất cho quốc gia và dân tộc trong bối cảnh biến đổi thế giới liên tục.
- Hai là, đoàn kết, hợp tác quốc tế để “thêm bạn, bớt thù”, tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau
giữa các quốc gia, dân tộc trên thế giới.
Hồ Chí Minh đã tìm kiếm sự ủng hộ và hợp tác từ các quốc gia và tổ chức quốc tế để đẩy lùi sự
thống trị của Pháp và sau này là Mỹ tại Việt Nam. Ông đã nỗ lực xây dựng mối quan hệ với các nước
có cùng lợi ích và chia sẻ mục tiêu độc lập, tự do và công bằng xã hội. Điều này được thể hiện qua
việc ông viết thư, gửi thông điệp và tham gia các hội nghị quốc tế như như Hội nghị Bandung, Hội
nghị Geneva,... nhằm thúc đẩy hỗ trợ cho cuộc chiến tranh giành độc lập của Việt Nam.
- Ba là, đoàn kết, hợp tác quốc tế có mối quan hệ biện chứng với độc lập, tự chủ.
Theo đó, độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường phải gắn với đoàn kết, hợp tác quốc tế với mục tiêu mang
lại thắng lợi cho cách mạng, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc. Trong đoàn kết, hợp tác quốc tế, Chủ
tịch Hồ Chí Minh không chủ trương đối thoại, hợp tác với bên ngoài, với các nước bằng mọi giá, mà
phải dựa trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ quyền, bình đẳng, các bên cùng có lợi. Người chỉ rõ: “Trên
nguyên tắc bình đẳng và hai bên cùng có lợi, chúng tôi sẵn sàng đặt quan hệ ngoại giao và thương
mại với tất cả các nước”.
- Bốn là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh làm hạt nhân đoàn kết toàn dân tộc và đoàn
kết quốc tế.
Tiếp tục đổi mới và chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng cho
ngang tầm nhiệm vụ của dân tộc và của thời đại.
- Ngoài ra, Hồ Chí Minh cũng thường nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đoàn kết với các dân tộc
khác để xây dựng một thế giới công bằng, hòa bình và phát triển. Ông coi đại đoàn kết dân tộc là một
phần không thể thiếu của cuộc chiến tranh giành độc lập và xây dựng xã hội công bằng ở Việt Nam,
trong bối cảnh cũng như quốc tế. Ông cũng tin rằng sự đoàn kết quốc tế là chìa khóa để xây dựng
một thế giới công bằng, hòa bình và phát triển.

You might also like