You are on page 1of 57

Đề cương tư tưởng HCM

Câu 1. Chương 2
Cơ sở hình thành, quá trình hình thành và phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh. (
Huy)
Gồm 5 giai đoạn: 
 Trước 1911
 1911-1920 
 1920-1930
 1930-1940( chú ý tìm hiểu bức thư năm 1938: bức thư của HCM gửi 1 đồng chí
qtcs 1938). Giai đoạn này đặc biệt phân tích để cho thấy những khó khăn, thử
thách trong tư tưởng của Người. Lúc này Bác vẫn nghi ngờ tư tưởng của
mình. Năm 1930 Người thành lập ĐCS nhưng bị quốc tế cộng sản hiểu là chủ
nghĩa dân tộc hẹp hòi.
Trong cương lĩnh: xác định nhiệm vụ là giải phóng dân tộc. Lực lượng cách mạng
là tư sản+địa chủ. => QTCS lên án vì chưa có cách thức xoá bỏ giai cấp bóc lột-
gcpk, không thể giải phóng triệt để giai cấp bị bóc lột=> khó khăn trong giữ gìn
luận điểm ( Đoạn này tự tìm hiểu thêm)
 Giai đoạn 1941 trở đi 
Câu 2: Chương 3
TTHCM về độc lập dân tộc+cnxh( nói thêm về nội dung của con đường cách mạng
vô sản) ( Định) 
 Tư tưởng hcm về độc lập dân tộc: làm rõ nội dung: 
 tư tưởng Hcm về độc lập dân tộc là gì? Thực tế vấn đề? 
 Liên hệ vấn đề( có thể về chủ quyền biển đảo)
 Giải pháp 
Câu 3: Chương 4
Tư tưởng HCM về ĐCS ( Hoa)
Những nguyên tắc trong hoạt động của Đảng
1. Đảng lấy chủ nghĩa Mác lê nin làm nền tảng tư tưởng
 Đòi hỏi cần nắm vững vai trò của CN Mác với Đảng
 Trang bị sự hiểu biết, học tập về cn Mác lê với Đảng viên
 Vận dụng sao cho xây dựng Đảng trong sạch và có hiệu quả
 Cách học tập chủ nghĩa Mac của HCM: có những điểm gì giống và khác=> thể
hiện sự linh hoạt của HCM. ( ví dụ:theo Mac, cmgp dân tộc là giai cấp vô sản,
nhưng với HCM là tập hợp lực lượng, tự vạch ra đường lối, tự xác định phương
pháp, kẻ thù,…. Ví dụ: quan hệ giữa gp dân tộc và vô sản: độc lập, sáng tạo và
giành độc lập, còn ở Mac: phụ thuộc) 
Câu 4: Chương 5 
TTHCM về  Đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế ( ôn cả 2 phần) ( có 3 đề) (Ann+
Đăng)
Form đề: Cho đoạn trích, phân tích tư tưởng trong đoạn trích. 
 Đại đoàn kết dân tộc: vai trò, lực lượng, hình thức tổ chức, phương thức xây dựng
khối đại đoàn kết dân tộc 
 Chú ý đọc đoạn trích và hiểu đúng ý, tránh phân tích nhầm 4 nội dung trên
 Khi phân tích 4 nội dung trên cần lấy ví dụ liên hệ, Ví dụ về tập hợp lực lượng,
xây dựng đoàn kết dân tộc: có thể lấy sinh viên ngoại giao 
 Chốt: nhấn mạnh đoàn kết dân tộc là chiến lược của cách mạng
 Đoàn kết quốc tế: làm rõ nội dung và các nguyên tắc trong đoàn kết quốc tế. 
Note: Tư tưởng “là bạn” đã được vận dụng giải quyết như thế nào qua các kỳ đại
hội. “ Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy”=> ptich như csđn, nêu hoàn
cảnh, nguyên nhân,… phân tích sâu.
Câu 5: Chương 6 ( Thảo Anh+Ann)
Văn hoá
+ Giữ gìn bản sắc văn hoá (“ Dân ta phải biết sử ta,…)
+ Tiếp thu văn hoá nhân loại. => Quan điểm của Đảng về phát triển văn hoá hiện nay như
nào( làm phân tích văn kiện như csđn)
Đạo đức: Các chuẩn mực đạo đức cách mạng. ( nêu rõ, lấy các ví dụ cminh,…)
Con người: Xây dựng con người ( bổ sung thêm bài nhóm mình: nhấn mạnh con người
là trung tâm, so sánh với đại hội Đảng XII)

NOTE: Tất cả các đề ngoài phần kiến thức chung ra thì cần liên hệ. Về phần kiến thức
chung: đọc kỹ các sách, nhặt có chọn lọc, mở slide bài giảng của cô để đối chiếu những
nội dung cốt lõi, tuy nhiên vì là slide nên có thể không đủ, nên vẫn cần nghiên cứu giáo
trình và search mạng. Về phần liên hệ: trong quá trình làm lý thuyết có thể lồng ghép so
sánh sao cho có liên quan, có thể liên hệ về các tư tưởng của HCM trong văn kiện Đảng,
chính sách của Đảng hiện nay, liên hệ những sự kiện nổi bật, liên hệ sinh viên …)
 Có chỗ nào không hiểu thì thảo luận. Yêu cầu làm bài có tâm và nghiêm túc.
Không leak đề cương ra ngoài!
 Deadline lần 1: Tối t7. => Các thành viên soát chéo nội dung, vđ nào chưa ổn
hoặc làm không được thì báo để giải quyết nốt
 Deadline lần 2: tối chủ nhật để các thành viên có bài vào t2. 

ĐỀ CƯƠNG TTHCM 
Câu 1: Chương 2
Cơ sở hình thành, quá trình hình thành và phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh
1. Thời kỳ trước ngày 5 – 6- 1911: Hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng
cách mạng
Nguyễn Tất Thành - Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh nước mất, nhà
tan. Xuất thân trong một gia đình nhà nho yêu nước từ thuở nhỏ, Hồ Chí Minh đã hấp thụ
truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc, nền văn hiến của nước nhà và những tinh hoa
văn hóa phương Đông, Người lại được hưởng nền giáo huấn yêu nước, thương nòi của
gia đình, truyền thống đấu tranh bất khuất của đất Lam Hồng.
Đất nước, quê hương, gia đình và nhà trường đã hình thành nên ở người thanh niên
Nguyễn Tất Thành một nhân cách giàu lòng yêu nước, nhân ái, thương người, có hoài
bão cứu nước và thấu hiểu được sức mạnh ý chí độc lập tự cường của dân tộc. Vốn có tư
chất thông minh, linh khiếu chính trị sắc sảo, với ý chí lớn tìm đường cứu nước, cứu dân.
Người không đi theo con đường phong kiến, lối mòn của các bậc tiền bối. Người nói:
“Vào trạc tuổi 13, lần đầu tiên tôi nghe những tiếng Pháp “tự do, bình đẳng, bác ái”. Thế
là tôi muốn làm quen với nền văn minh Pháp, tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những
từ mĩ miều ấy. Vì thế tôi nảy ra ý muốn sang xem “Mẫu quốc” ra sao và tôi tới Pari để
học hỏi”.
Hành trang tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh là tri thức ban đầu rất quan trọng
về văn hoá Đông - Tây và lòng yêu nước nhiệt thành với chí hướng rõ rệt: trên cơ sở tiếp
thu có chọn lọc con đường cứu nước của các nhà yêu nước lớp trước.
2. Thời kỳ từ giữa năm 1911 đến cuối năm 1920: Dần dần hình thành tư tưởng
yêu nước, giải phóng dân tộc Việt Nam theo con đường cách mạng vô sản
Đây là giai đoạn Hồ Chí Minh bôn ba tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Tư
tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc được hình thành từng bước. Qua
quá trình sống, làm việc, học tập, nghiên cứu lý luận và tham gia đấu tranh trong thực tế
cách mạng ở nhiều nước, Người đã tìm hiểu các cuộc cách mạng trên thế giới và khảo sát
cuộc sống của nhân dân các dân tộc bị áp bức và nhân dân lao động ở chính quốc
 Tháng 7-1911, Hồ Chí Minh đặt chân lên đất Pháp. Tiếp đó Người còn đến nhiều
nước thuộc địa ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ Latinh và các nước đế quốc như
Mỹ, Anh để nghiên cứu và tìm lời giải đáp cho câu hỏi lúc ra đi. Qua cuộc hành
trình này, ở Người hình thành một nhận thức mới: Nhân dân lao động các nước,
trong đó có giai cấp công nhân, đều bị bóc lột có thể là bạn của nhau, còn chủ
nghĩa đế quốc, bọn thực dân ở đâu cũng là kẻ bóc lột, là kẻ thù của nhân dân lao
động
 Giữa lúc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất ở vào thời kỳ ác liệt cuối năm 1917,
Người từ nước Anh trở lại nước Pháp. Ngày 11-1917, Cách mạng xã hội chủ
nghĩa Tháng Mười nổ ra và thắng lợi, Hồ Chí Minh có cảm tình sâu sắc với cuộc
cách mạng ấy và với lãnh tụ Lênin.
 Chiến tranh kết thúc năm 1919, các nước đế quốc họp hội nghị ở Vécxây (Pháp).
Thực chất của hội nghị là các nước thắng trận chia lại thuộc địa được dấu dưới
những lời lẽ “tự do”, “công bằng”, “nhân đạo”, theo chương trình 14 điều của
Uynxơn - Tổng thống Mỹ lúc bấy giờ.
 Thay mặt nhóm những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã
gửi đến hội nghị “Yêu sách của nhân dân An Nam” đòi các cường quốc thừa
nhận quyền tự do, dân chủ, bình đẳng cho dân tộc Việt Nam. Qua hội nghị
Vécxây, Hồ Chí Minh rút ra kết luận: ““Chủ nghĩa Uynxơn” chỉ là một trò bịp
bợm lớn”; các dân tộc muốn được giải phóng chỉ có thể dựa vào sức lực của bản
thân mình. Nhờ nhận thức rút ra từ thực tiễn gần 10 năm lăn lộn tìm đường cứu
nước nên khi đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và
vấn đề thuộc địa của Lênin (7-1920), Hồ Chí Minh tìm thấy những lời giải đáp
đầy thuyết phục cho những câu hỏi của mình. Người viết: “Luận cương của
Lênin làm cho tôi rất cảm động phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui
mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang
nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái
cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta” . Đến đây, Hồ Chí
Minh khẳng định con đường cứu nước của mình: giải phóng dân tộc bằng con
đường cách mạng vô sản, gắn giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp vô sản.
Hồ Chí Minh rời bỏ Đảng Xã hội theo quan điểm Đệ nhị quốc tế để đến với
Quốc tế III - Quốc tế Cộng sản do Lênin sáng lập (3-1919).
 Tháng 12-1920, đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp gắn liền với việc Hồ Chí
Minh trở thành người cộng sản đánh dấu bước ngoặt trong quá trình phát triển tư
tưởng và cuộc đời hoạt động cách mạng của Người - chủ nghĩa yêu nước chân
chính đã gặp chủ nghĩa quốc tế vô sản chân chính.
3. Thời kỳ cuối năm 1920 đến đầu năm 1930: Hình thành những nội dung cơ
bản tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam
Những năm bôn ba, lăn lộn trong phong trào yêu nước, phong trào công nhân
“chính quốc” và các nước thuộc địa, Hồ Chí Minh đã mở rộng quan hệ xã hội và tri thức
của mình. Nhờ thông hiểu nhiều ngoại ngữ và giao tiếp rộng với nhiều bạn bè quốc tế mà
Người tiếp thu được kiến thức cổ, kim, đông, tây, nắm được cốt lõi của chủ nghĩa Mác -
Lênin. Do tích cực tham gia các hoạt động quốc tế và các buổi sinh hoạt lý luận bàn về
chiến lược sách lược cách mạng thế giới, qua thực tiễn công tác, tổng kết kinh nghiệm
nhiều cuộc cách mạng, Hồ Chí Minh đã tích lũy được nhiều tri thức cách mạng, dần dần
trong tư duy của Người hình thành nên một luận điểm đúng đắn: Giải phóng dân tộc gắn
liền với giải phóng giai cấp vô sản và các dân tộc thuộc địa, giải phóng nhân loại. Cũng
từ đó, lý luận, chiến lược cách mạng vô sản ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, đã
từng bước hình thành trong tư duy Hồ Chí Minh.
Từ khi trở thành người cộng sản, cùng với việc thực hiện những nhiệm vụ của Đảng
Cộng sản Pháp và Quốc tế Cộng sản, Quốc tế Nông dân…, Hồ Chí Minh đã truyền bá
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng của mình về nước chuẩn bị cho việc thành lập một
Đảng cộng sản ở Việt Nam. Các bài viết trên báo Người cùng khổ (1922), báo Thanh
niên (1925), báo Nhân đạo, Tạp chí Cộng sản, Đời sống thợ thuyền, Thông tin quốc tế,
các tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (1925), Đường Cách mệnh (1927),… của Hồ
Chí Minh là những công cụ quan trọng trong việc giáo dục những người Việt Nam yêu
nước từng bước chuyển từ yêu nước truyền thống thành yêu nước theo lập trường cách
mạng vô sản.
Từ giữa những năm 20 của thế kỷ XX, do việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin của
Hồ Chí Minh, phong trào cách mạng Việt Nam có những chuyển biến mạnh mẽ. Bên
cạnh những đảng theo xu hướng tư tưởng tư sản đã xuất hiện nhiều tổ chức cách mạng từ
sau đại hội lần thứ nhất của đội Việt Nam cách mạng thanh niên (5-1929) ba tổ chức
cộng sản ở Việt Nam ra đời: Đông Dương Cộng sản Đảng (6-1929), An Nam Cộng sản
Đảng (9-1929) và Đông Dương Cộng sản liên đoàn (l-1930).
Trước tình hình ở Đông Dương có các tổ chức cộng sản xuất hiện, ngày 28-11-
1929, Quốc tế Cộng sản đã có nghị quyết về việc thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương.
Thực hiện Nghị quyết của Quốc tế Cộng sản, Hồ Chí Minh đã chủ trì Hội nghị hợp nhất
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 3-2-1930.
Hội nghị hợp nhất đã thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương
trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh soạn thảo.
Các văn kiện quan trọng nói trên đã trở thành Cương lĩnh đầu tiên của Đảng. Trong
Cương lĩnh đầu tiên của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam nhận định Việt Nam là một
nước thuộc địa, nửa phong kiến, “vì tư bản Pháp hết sức ngăn trở sức sinh sản làm cho
công nghệ bản xứ không thế mở mang được”… “nông nghệ một ngày một tập trung...
nông dân thất nghiệp nhiều”. Đánh giá về giai cấp tư sản dân tộc và giai cấp địa chủ,
Chánh cương vắn tắt có sự phân biệt rõ ràng: “Tư bản bản xứ không có thể lực gì ta
không nên nói cho họ đi về phe đế quốc được, chỉ bọn đại địa chủ mới có thế lực và đứng
hẳn về phe đế quốc chủ nghĩa”. Đây là một sự đánh giá hết sức khách quan, chân thực,
không hề bị chi phối của tư tưởng giáo điều hay “tả” khuynh. Từ thực tế đó, Đảng chủ
trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
Như vậy, ngay từ khi Đảng ra đời, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã giải quyết đúng đắn
mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, phân tích đúng đắn đặc điểm của xã hội, sắp xếp
đúng vị trí của từng giai cấp, tầng lớp và cá nhân trong lực lượng cách mạng, tạo điều
kiện cho Đảng vừa ra đời đã nắm trọn quyền lãnh đạo cách mạng.
Với cột mốc lịch sử ngày 3-2-1930, tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt
Nam đã hình thành về cơ bản, chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối và tổ chức lãnh
đạo cách mạng Việt Nam kéo dài từ cuối thế kỷ XIX sang đầu thế kỷ XX.

4. Thời kỳ đầu năm 1930 đến đầu năm 1941: Vượt qua thử thách, giữ vững
đường lối, phương pháp cách mạng Việt Nam đúng đắn, sáng tạo
Những đường lối, chủ trương mà Hồ Chí Minh vạch ra trong Cương lĩnh đầu tiên
của Đảng thể hiện sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện Việt Nam.
Trong sự vận dụng sáng tạo đó có những vấn đề thuộc lý luận, chiến lược cách mạng vô
sản ở nước thuộc địa mà Lênin cũng như Quốc tế Cộng sản có đề cập nhưng chưa đi sâu.
Hơn nữa, vào cuối những năm 20, nửa đầu những năm 30 của thế kỷ XX. Phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế bị chi phối bởi những sai lầm tả khuynh, tư tưởng biệt
phái, hẹp hòi. Điều đó được thể hiện rõ nhất qua Nghị quyết Đại hội lần thứ VI Quốc tế
Cộng sản (9-1928).
Do không nắm được tình hình thực tế ở Việt Nam và các nước thuộc địa phương
Đông, lại bị chi phối bởi khuynh hướng “tả” lúc bấy giờ. Quốc tế cộng sản đã chỉ trích và
phê phán đường lối của Hồ Chí Minh vạch ra trong Hội nghị hợp nhất thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam là tư tưởng “hữu khuynh”, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi. Hội nghị
Trung ương Đảng họp tháng 10-1930 ra nghị quyết cho rằng: Hội nghị hiệp nhất đảng do
Nguyễn Ái Quốc chủ trì có nhiều sai lầm, "chỉ lo đến việc phản đế mà quên mất lợi ích
giai cấp tranh đấu, ấy là một sự rất nguy hiểm"; việc phân chia thành trung, tiểu, đại địa
chủ trong sách lược của Đảng là không đúng. Hội nghị ra án nghị quyết: "Thủ tiêu chánh
cương, sách lược và điều lệ Đảng"; bỏ tên Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh và
những người tham gia Hội nghị thành lập Đảng xác định, lấy tên là Đảng Cộng sản Đông
Dương, hoạt động theo như chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, v.v… Trong thời gian đó
Nguyễn Ái Quốc bị Quốc Tế Cộng sản phê phán là “hữu khuynh”, “dân tộc chủ nghĩa”.
Ngoài việc học tập, Người Không được giao công tác nào khác.
Tuy bị phê phán, song đường lối cách mạng của Hồ Chí Minh đã được thực tiễn
chứng minh là đúng đắn. Đó là cơ sở để Thường vụ Trung ương ra chỉ thị thành lập Hội
phản đế đồng minh (18-l l-1930), tiếp đó là Chỉ thị về vấn đề thanh Đảng ở Trung kỳ (20-
5-1931). Những chỉ thị này đã uốn nắn quan điểm xa rời thực tiễn Việt Nam, làm cho
toàn Đảng thấy được sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và vai trò của Mặt trận phản đế
trong sứ mệnh đoàn kết toàn dân đưa cách mạng đến thắng lợi.
Phải đến Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản (7-1935), trước nguy cơ của chủ
nghĩa phátxít và chiến tranh thế giới mới, khi Quốc tế Cộng sản đã nghiêm khắc tự phê
bình về những sai lầm “tả” khuynh trong Nghị quyết Đại hội VI của mình, thì những
quan điểm đúng đắn của Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam, về đoàn kết các lực
lượng cách mạng chống đế quốc đã trình bày trong Cương lĩnh mới được Quốc tế Cộng
sản thừa nhận. 
Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, dự đoán thời cuộc sẽ có những chuyên biên
lớn, nên cần phải trở về nước trực tiếp tham gia lãnh đạo cách mạng Việt Nam, ngày 6-6-
1938, Hồ Chí Minh gửi thư cho một lãnh đạo Quốc tế Cộng sản, đề nghị cho phép trở về
nước hoạt động. Trong đó, có đoạn Người viết: "Xin đồng chí giúp đỡ tôi thay đổi tình
cảnh đau buồn này... Đừng để tôi sống quá lâu trong tình trạng không hoạt động và giống
như là sống ở bên cạnh, ở bên ngoài của Đảng". Đề nghị này được chấp nhận.
Cuối tháng 9-1939, Quốc tế Cộng sản đã quyết định điều động Người về công tác ở
Đông Dương. Sau gần 30 năm xa Tổ quốc, ngày 28-1-1941 Hồ Chí Minh vượt qua cột
mốc 108 trên biên giới Việt - Trung về nước. Cuối tháng 1 – 1941, Hồ Chí Minh trở về
nước. Tháng 5/1941, tại Pác Pó (huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng), với tư cách là cán bộ
Quốc tế Cộng sản, Người chủ trì Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương Đảng.
Hội nghị này đã đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Người khẳng định:
“Trong lúc này quyền lợi giải phóng dân tộc cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết lại
đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sôi lửa nóng”. 
Hội nghị Trung ương đã tạm thời gác lại khẩu hiệu cách mạng điền địa, xóa bỏ vấn
đề lập Chính phủ Liên bang Cộng hòa dân chủ Đông Dương, thay vào đó sẽ lập Chính
phủ nhân dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, chủ trương lập Mặt trận Việt Minh,
thực hiện đại đoàn kết dân tộc trên cơ sở nòng cốt liên minh công nông, nêu ra phương
hướng khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền, thành lập, v.v...
Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng tháng 5-1941 đã hoàn chỉnh thêm một bước
sự chuyển hướng chiến lược và sách lược của Cách mạng Việt Nam được vạch ra từ Hội
nghị Trung ương Đảng tháng 11-1939. Sự chuyển hướng được vạch ra từ hai cuộc Hội
nghị này thực chất là sự trở về với quan điểm của Hồ Chí Minh đã nêu ra từ trong Chánh
cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng khi thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam đầu năm 1930.
Trải qua sóng gió, thử thách, những quan điểm cơ bản nhất về đường lối cách mạng
giải phóng dân tộc Việt Nam của Hồ Chí Minh được Đảng khẳng định đưa vào thực tiễn
tổ chức nhân dân biến thành các phong trào cách mạng để dẫn tới thắng lợi của cuộc
Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
5. Thời kỳ từ đầu năm 1941 đến tháng 9 – 1969: Tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục
phát triển, hoàn thiện, soi đường cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và của nhân
dân ta
Đây là thời kỳ tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của đảng về cơ bản là thống
nhất.
Tháng 5-1941, Hồ Chí Minh triệu tập và chủ trì Hội nghị trung ương lần thứ 8 của
Đảng. Quan điểm chủ đạo của hội nghị này là nêu cao vấn đề giải phóng dân tộc coi đó là
nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng. Người kêu gọi: “Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải
phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian
đảng cứu giống nòi rút khỏi nước sôi lửa nóng”. Đồng thời, ngày 19-5-1941, Hồ Chí
Minh sáng lập ra Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là Việt Minh, không phân
biệt dân tộc, giai cấp, đảng phái, tôn giáo v.v... nhằm đoàn kết mọi lực lượng yêu nước
chống đế quốc giành độc lập dân tộc. Nghị quyết hội nghị Trung ương lần thứ 8 và
Chương trình của Việt Minh cùng với Kính cáo đồng bào của Hồ Chí Minh ngày 6-6-
1941, là những chủ trương, chính sách hợp lòng dân đã quy tụ toàn dân dưới ngọn cờ của
Đảng do Hồ Chí Minh lãnh đạo, đưa Cách mạng tháng Tám 1945 đến thắng lợi.
Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên
ngôn độc lập tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội) tuyên bố nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa ra đời. Đó là nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Tư tưởng Hồ Chí
Minh về đảng cầm quyền về nhà nước của dân, do dân, vì dân có bước phát triển mới.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của ý chí độc lập tự chủ tự lập tự
cường của dân tộc Việt Nam và là thắng lợi vĩ đại đầu tiên của tư tưởng Hồ Chí Minh ở
một nước thuộc địa nửa phong kiến.
Nhân dân ta hưởng độc lập chưa được bao ngày thì thù trong giặc ngoài câu kết với
nhau đẩy nước nhà lâm vào cảnh “ngàn cân treo sợi tóc”… Dưới sự lãnh đạo của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
lần thứ hai với chủ trương vừa kháng chiến vừa kiến quốc.
Tháng 2-1951, cuộc kháng chiến đang trên đà thắng lợi, Hồ Chí Minh và Ban Chấp
hành trung ương đảng quyết định triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng.
Đại hội khẳng định đường lối do Hồ Chí Minh vạch ra từ ngày thành lập Đảng, tiếp tục
lãnh đạo nhân dân thực hiện cuộc kháng chiến “toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào
sức mình là chính”.
Đường lối đúng đắn mà Đại hội toàn quốc lần thứ II của Đảng vạch ra đã dắt dẫn
nhân dân ta tiến lên làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động địa cầu, mở đầu quá
trình sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên phạm vi toàn thế giới. Hoà bình được lập lại
nhưng đất nước bị chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị khác nhau. Nắm vững
bản chất của chủ nghĩa đế quốc, Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng đã sớm xác định
kẻ thù chính của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới là chủ nghĩa đế quốc Mỹ;
đồng thời vạch ra đường lối cùng một lúc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: miền Nam
tiếp tục thực hiện cách mạng dân tộc, dân chủ; miền Bắc đã được hoàn toàn giải phóng,
từng bước tiến dần lên chủ nghĩa xã hội. Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa,
nửa phong kiến, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đã thực hiện quá độ lên chủ nghĩa
xã hội không qua chế độ tư bản. Trong điều kiện ấy tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục phát
triển và hoàn thiện.
Trước thất bại của chiến tranh đặc biệt, năm 1965, đế quốc Mỹ chuyển sang chiến
lược chiến tranh cục bộ. Chúng ào ạt đưa quân Mỹ và chư hầu vào miền Nam, tăng
cường chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân trên miền Bắc, hòng khuất phục
quân và dân ta. Trước hành động leo thang xâm lược hết sức tàn bạo của đế quốc Mỹ, Hồ
Chí Minh khẳng định: “Chúng có thể đưa 50 vạn quân, 1 triệu quân hoặc nhiều hơn nữa
để đẩy mạnh chiến tranh xâm lược ở miền Nam Việt Nam. Chúng có thể dùng hàng
nghìn máy bay, tăng cường đánh phá miền Bắc. Nhưng chúng quyết không thể lay
chuyển được chí khí sắt đá, quyết tâm chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam anh
hùng. Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải
Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết
không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây
dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Người, đồng bào và chiến sĩ cả nước phát huy cao độ
chủ nghĩa anh hùng cách mạng giữ vững lòng tin tưởng tuyệt đối với Người và Trung
ương Đảng, nêu cao quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ.
Trước khi qua đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân ta bản Di chúc thiêng liêng. Trong Di chúc, Người đã nói lên niềm tin tất thắng vào
sự nghiệp chống Mỹ cứu nước; tổng kết sâu sắc những bài học đấu tranh và thắng lợi của
cách mạng Việt Nam; đồng thời đề ra những phương sách lớn để xây dựng lại đất nước
sau chiến tranh nhằm thực hiện mục tiêu: “Xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống
nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng
thế giới” .
Di chúc là những lời căn dặn cuối cùng đầy nhiệt huyết, thắm đượm tình người của
Chủ tịch Hồ Chí Minh; một di sản tư tưởng vô cùng quý báu của dân tộc và nhân loại.
Tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành, phát triển cùng chiều với quá trình phát triển
của xã hội Việt Nam và thời đại. Khi đã phát triển hoàn chỉnh về cơ bản, tư tưởng Hồ Chí
Minh trở thành cơ sở lý luận và thực tiễn cho đường lối chính trị đúng đắn của cách mạng
Việt Nam. Chính vì vậy tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần quý báu của dân tộc và
nhân loại.

Câu 2: 
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chính trị đặc sắc, sợi chỉ
đỏ xuyên suốt và bao trùm toàn bộ tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ khi trở thành người
cộng sản cho đến khi trở thành lãnh tụ, nguyên thủ quốc gia, mối quan tâm hàng
đầu của Hồ Chí Minh là gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội phù hợp với từng
thời kỳ của cách mạng Việt Nam.Tư tưởng này đã đưa dân tộc Việt Nam đến độc lập,
tự do, nước nhà Bắc – Nam thống nhất và ngày nay, đó là nguồn sức mạnh trong sự
nghiệp xây dựng một xã hội Việt Nam xã hội chủ nghĩa, phấn đấu vì mục tiêu: “Dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
 
 A, Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
a. Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả dân tộc
 
Đối với người dân mất nước, khát vọng lớn nhất của các dân tộc thuộc địa là độc lập cho
Tổ quốc, tự do cho nhân dân. Đó là lẽ sống, nguồn cổ vũ to lớn đối với các dân tộc bị áp
bức trên thế giới trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc.
Cách tiếp cận từ quyền con người
Trong quá trình ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã tìm hiểu, tiếp thu những nhân
tố về quyền con người được nêu trong Tuyên ngôn độc lập 1776 của Mỹ, Tuyên ngôn
Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791 như quyền bình đẳng, quyền
được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. “Đó là những lẽ phải không ai chối
cãi được”. Từ quyền con người, Hồ Chí Minh đã khái quát lên chân lý bất diệt về quyền
cơ bản của các dân tộc: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc
nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”
Độc lập, tự do là khát vọng lớn nhất của các dân tộc thuộc địa. Vì vậy, khi chưa có độc
lập thì phải quyết tâm đấu tranh để giành độc lập dân tộc.
Năm 1945, tình hình Chiến tranh thế giới thứ hai chuyển biến mau lẹ, có lợi cho cách
mạng, trong nước nhân dân ta sống trong nỗi thống khổ, lầm than, vấn đề giành được độc
lập dân tộc được đặt ra cấp bách hơn bao giờ hết. Trong bối cảnh đó, Hồ Chí Minh đã
nêu lên quyết tâm phải đứng lên đấu tranh, giành bằng được độc lập dân tộc, Người nói:
“Dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho
được độc lập”.
Khi đã giành độc lập, tự do, phải kiên quyết giữ vững quyền độc lập, tự do ấy
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, trong bản Tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí
Minh thay mặt Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,trịnh trọng tuyên
bố với thế giới và toàn thể quốc dân đồng bào rằng:“Nước Việt Nam có quyền hưởng tự
do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam
quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và
độc lập ấy”.

b. Độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do, cơm no, áo ấm và hạnh phúc của
nhân dân
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải gắn với tự do, hạnh phúc của nhân dân. Người
đánh giá cao học thuyết “tam dân" của Tôn Trung Sơn: dân tộc độc lập, dân quyền tự
do, dân sinh hạnh phúc. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước nhà được
độc lập, Hồ Chí Minh tiếp tục khẳng định độc lập phải gắn với tự do. Người nói: “ Nước
độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì”.
Dân chúng chỉ cảm nhận được những giá trị thực sự của độc lập, tự do khi họ được ăn no,
mặc ấm, được học hành để phát triển, có hiểu biết để thực hành dân chủ, quyền và nghĩa
vụ của người công dân.
Người từng nói b: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao nước ta
hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc,
ai cũng được học hành”. Đó là một sự ham muốn đầy tính nhân văn và thấm đượm tình
thương yêu dân tộc và đó cũng là mục tiêu tối thượng trong suốt cuộc đời hoạt động cách
mạng của Hồ Chí Minh.

c. Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải là độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để trên tất
cả các lĩnh vực. Người nhấn mạnh: độc lập mà người dân không có quyền tự quyết về
ngoại giao, không có quân đội riêng, không có nền tài chính riêng..., thì độc lập chẳng có
ý nghĩa gì. Trên tinh thần đó và trong hoàn cảnh đất nước ta sau Cách mạng Tháng Tám
còn gặp nhiều khó khăn, Người đã thay mặt Chính phủ ký với đại diện Chính phủ Pháp
Hiệp định sơ bộ ngày 6 – 3 – 1946, theo đó: “Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa là một quốc gia tự do có Chính phủ của mình, Nghị viện của mình,
quân đội của mình, tài chính của mình”. Đây là thắng lợi bước đầu của một sách lược
ngoại giao như một minh chứng cho tính đúng đắn của tư tưởng Hồ Chí Minh.

d. Độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
Sau 1954, nước ta bị chia làm 2 miền, Hồ Chí Minh tiếp tục kiên trì đấu tranh chống lại
âm mưu chia cắt đất nước để thống nhất Tổ quốc với một quyết tâm, ý chí sắt đá, không
gì lay chuyển: “Kiên quyết bảo vệ nền độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ của nước Việt Nam. Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, không ai được
xâm phạm đến quyền thiêng liêng ấy của nhân dân ta”.
Đến cuối đời, trong Di chúc, Người vẫn đặt niềm tin tuyệt đối vào sự thắng lợi của cách
mạng, sự thống nhất nước nhà: “Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ
hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ
thống nhất. Đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”.

(*) TƯ TƯỞNG HCM VỀ CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC

a. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng
vô sản
Rút ra bài học kinh nghiệm từ sự thất bại của những phong trào yêu nước theo con
đường phong kiến, tư sản ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Chứng kiến sự thất bại, bế tắc của các phong trào yêu nước, mặc dù rất khâm phục tinh
thần yêu nước, tinh thần kiên cường bất khuất chống ngoại xâm của thế hệ cha anh nhưng
Hồ Chí Minh đã không tán thành con đường, phương pháp đấu tranh đó. Người lựa chọn
đi sang phương Tây để tìm con đường mới
Đánh giá các cuộc cách mạng trên thế giới
Người cho rằng: “Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản,
cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục
công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa.” Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười thắng lợi
đã ảnh hưởng sâu sắc tới Hồ Chí Minh trong việc chọn con đường cứu nước, giải phóng
dân tộc. Người cho rằng: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công
và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng
thật”.
Xác định cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam đi theo con đường cách mạng vô
sản, thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
Trong Chánh cương vắn tắt của Đảng năm 1930, Hồ Chí Minh đã khẳng định phương
hướng chiến lược cách mạng Việt Nam: làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách
mạng để đi tới xã hội cộng sản. Phương hướng này vừa phù hợp với xu thế phát triển của
thời đại vừa hướng tới giải quyết một cách triệt để những yêu cầu khách quan, cụ thể mà
cách mạng Việt Nam đặt ra vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.

b. Cách mạng giải phóng dân tộc, trong điều kiện của Việt Nam, muốn thắng lợi
phải do đảng cộng sản lãnh đạo
Hồ Chí Minh khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định sự
thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản . Đảng có
vững cách mệnh mới thành công, giống như người cầm lái có vững, thuyền mới chạy.

c. Cách mạng giải phóng dân tộc phải dựa trên lực lượng đại đoàn kết toàn dân tộc,
lấy liên minh công – nông làm nền tảng
Các nhà lý luận kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định rằng: cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng nhân dân; quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo ra lịch sử.
Hồ Chí Minh khẳng định: “cách mệnh là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc
một hai người”. Người luôn quan niệm phải đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết tất cả giai
cấp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo, mọi người Việt Nam yêu nước, phải tập hợp và đoàn
kết toàn dân thì cách mạng mới thành công.

d. Cách mạng giải phóng dân tộc cần chủ động, sáng tạo, có khả năng giành thắng
lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc
Quan điểm của Quốc tế cộng sản
Do chưa đánh giá hết tiềm lực và khả năng to lớn của cách mạng thuộc địa nên Quốc tế
cộng sản có lúc xem nhẹ vai trò của cách mạng thuộc địa, coi cách mạng thuộc địa phụ
thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc
Quan điểm của Hồ Chí Minh
Chỉ rõ mối quan hệ khăng khít, tác động qua lại lẫn nhau giữa cách mạng thuộc địa và
cách mạng vô sản ở chính quốc, là mối quan hệ bình đẳng, không lệ thuộc, phụ thuộc vào
nhau. Cách mạng thuộc địa không những không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính
quốc mà có thể giành thắng lợi trước.
 Cơ sở để Hồ Chí Minh khẳng định cách mạng thuộc địa có thể giành thắng lợi trước
cách mạng vô sản chính quốc vì:
+ Thấy rõ tầm quan trọng của thuộc địa đối với các nước đế quốc: Thuộc địa có một vị
trí, vai trò, tầm quan trọng đặc biệt đối với chủ nghĩa đế quốc, là nơi duy trì sự tồn tại,
phát triển, là món mồi “béo bở” cho chủ nghĩa đế quốc. Cho nên, cách mạng ở thuộc địa
có vai trò rất lớn trong việc cùng với cách mạng vô sản ở chính quốc tiêu diệt chủ nghĩa
đế quốc.
+ Thấy rõ tiềm năng to lớn của cách mạng ở thuộc địa: “Ngày mà hàng trăm triệu nhân
dân châu Á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của một bọn thực
dân lòng tham không đáy, họ sẽ hình thành một lực lượng khổng lồ”.
Thực tế đã chứng minh luận điểm trên của Hồ Chí Minh là độc đáo, sáng tạo, có giá trị lí
luận và thực tiễn to lớn.

e. Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng phương pháp bạo lực
cách mạng
Tính tất yếu của phương pháp cách mạng bạo lực:
Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về bạo lực cách mạng: Bạo lực là bà đỡ của một
chế độ xã hội cũ đang thai nghén một chế độ mới; không có bạo lực cách mạng thì không
thể thay thế nhà nước tư sản bằng nhà nước vô sản được.
Về hình thức bạo lực cách mạng:
Bạo lực cách mạng là bạo lực của quần chúng nhân dân, kết hợp lực lượng chính trị với
lực lượng vũ trang, hai hình thức đấu tranh: đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang.
Việc xác định hình thức đấu tranh phải căn cứ vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể mà áp dụng
cho thích hợp.
Tư tưởng bạo lực cách mạng thống nhất biện chứng với quan điểm hòa bình nhân
đạo:
Tranh thủ khả năng hòa bình, cố gắng tránh xung đột vũ trang, chủ động đàm phán giải
quyết xung đột bằng hòa bình, phát động chiến trang là giải pháp cuối cùng khi có
phương pháp nào khác.

B. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CNXH VÀ XÂY DỰNG CNXH TẠI VIỆT


NAM

I. Quá trình hình thành tư tưởng yêu nước, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội của Hồ Chí Minh.

1. Vượt qua tư tưởng yêu nước, độc lập dân tộc theo lập trường phong kiến, tư sản.
- Ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã nhận thấy sự bất cập của tư tưởng yêu nước
trong khuôn khổ ý thức hệ phong kiến để đi đến quan niệm mới: dân là dân nước, nước là
nước dân.
- Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức được nguyên nhân thất bại của chủ trương cứu nước
dựa vào sự giúp đỡ của Trung Quốc, Nhật Bản trong “Phong trào Đông Du”. Đầu thế kỷ
XX, Hồ Chí Minh đã tiếp cận với tư tưởng dân chủ tư sản của Trung Quốc trong Cách
mạng Tân Hợi. Nhưng qua việc quyết định ra đi tìm đường cứu nước bằng cách đến nước
Pháp, đến phương Tây, cái nôi của chủ nghĩa tư bản, chứng tỏ Người chưa tin vào tư
tưởng yêu nước và con đường cứu nước đó.
2. Bước ngoặt lớn khi Hồ Chí Minh đọc sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về
vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I.Lê.
Từ đây Người nhận thức được sâu sắc vấn đề cách mạng giải phóng dân tộc trong thời
đại mới được mở ra sau thắng lợi Cách mạng Tháng Mười: thời đại quá độ từ chủ nghĩa
tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Do đó, cách mạng giải phóng dân tộc phải đặt trong quỹ đạo
của cách mạng vô sản. Người đã chỉ ra: muốn cứu nước và giải phóng dân tộc phải tiến
hành cách mạng vô sản.
3. Từ “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con
đường cách mạng vô sản” đến độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
- Nghiên cứu Cương lĩnh dân tộc của V.I.Lênin: bình đẳng, tự quyết, đoàn kết giai cấp
công nhân các dân tộc, Hồ Chí Minh đã tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn nhất là
dựa trên lập trường cách mạng vô sản. Sau khi cách mạng giải phóng dân tộc thắng lợi,
phải tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
- Độc lập dân tộc đòi hỏi trước hết phải bảo đảm cho dân tộc đó quyền tự quyết dân tộc,
quyền lựa chọn chế độ chính trị, lựa chọn con đường và mô hình phát triển độc lập cả về
chính trị, kinh tế, văn hóa.
- Độc lập dân tộc phải thực sự bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân; nhân dân có cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc; con người được phát triển toàn diện, có năng lực làm chủ.
- Độc lập dân tộc đòi hỏi phải xóa bỏ tình trạng áp bức, bóc lột, nô dịch của dân tộc này
với dân tộc khác về kinh tế, chính trị và tinh thần.
- Sự trao đổi, hợp tác kinh tế, văn hóa giữa các nước dựa trên nguyên tắc tôn trọng chủ
quyền của nhau, bình đẳng và cùng có lợi, vì một thế giới không có chiến tranh, không có
sự hoành hành cái ác, của những sự tàn bạo và bất công, bảo đảm cho con người sống
trong an ninh và hạnh phúc.
Như vậy, theo Hồ Chí Minh, để đảm bảo độc lập dân tộc thực sự phải tiến lên chủ nghĩa
xã hội, đó là quy luật của thời đại, đáp ứng khát vọng ngàn đời của nhân dân ta là độc lập,
tự do, ấm no, hạnh phúc.

II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội.

a. Cơ sở hình thành tư tưởng về chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh.


- Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội có nguồn gốc sâu xa từ chủ nghĩa yêu nước,
truyền thống nhân ái và tinh thần cộng đồng làng xã Việt Nam
- Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ lập trường yêu nước và khát vọng giải phóng
dân tộc, từ phương diện đạo đức và từ truyền thống lịch sử, văn hóa và con người VN
b. Tư tưởng Hồ Chí Minh về những đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội.
- Chủ nghĩa xã hội là một chế độ do nhân dân làm chủ, Nhà nước phải phát huy quyền
làm chủ của nhân dân để huy động được tính tích cực và sáng tạo của nhân dân vào sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu, nhằm không ngừng nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần cho nhân dân, trước hết là nhân dân lao động.
- Chủ nghĩa xã hội là một xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo đức, trong đó người với
người là bạn bè, là đồng chí, là anh em, con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột,
có cuộc sống vật chất và tinh thần phong phú, được tạo điều kiện để phát triển hết mọi
khả năng sẵn có của mình.
- Chủ nghĩa xã hội là một xã hội công bằng và hợp lý: làm nhiều hưởng nhiều, làm ít
hưởng ít, không làm thì không được hưởng; các dân tộc đều bình đẳng, miền núi được
giúp đỡ để tiến kịp miền xuôi.
- Chủ nghĩa xã hội là công trình tập thể của nhân dân, do nhân dân tự xây dựng lấy dưới
sự lãnh đạo của Đảng.

c. Về động lực xây dựng chủ nghĩa xã hội.


Hệ thống động lực của chủ nghĩa xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất phong phú,
trong đó bao trùm lên tất cả là động lực con người, trên cả hai bình diện: cộng đồng và cá
nhân.
- Phát huy sức mạnh đoàn kết của cộng đồng dân tộc - động lực chủ yếu để phát triển đất
nước.
- Phát huy sức mạnh của con người được giải phóng, được làm chủ. Để phát huy sức
mạnh này phải tác động vào nhu cầu và lợi ích của con người; phát huy động lực chính
trị, tinh thần, đạo đức, truyền thống, quyền làm chủ của người lao động, thực hiện công
bằng xã hội…
- Khắc phục các trở lực kìm hãm sự phát triển của chủ nghĩa xã hội: phải đấu tranh chống
chủ nghĩa cá nhân; chống tham ô, lãng phí, quan lieu; chống chủ quan, bảo thủ, giáo
điều, lười biếng không chịu học tập cái mới,.... Đó là những trở lực đối với sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội.

2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.


Hồ Chí Minh đã chỉ ra những đặc điểm và mâu thuẫn của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam, nhưng bao trùm, “to nhất” là đặc điểm “từ một nước nông nghiệp lạc
hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ
nghĩa”.
- Về độ dài và thời kỳ quá độ, Người nói “Xây dựng chủ nghĩa xã hội là một cuộc đấu
tranh cách mạng phức tạp, gian khổ và lâu dài”.
- Về nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ quá độ, Người chỉ rõ: “...phải xây dựng nền tảng vật
chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội..., có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn
hóa và khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải cải
tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu
dài”.
- Về những nhân tố bảo đảm thực hiện thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Hồ Chí
Minh chỉ rõ phải:
+ Giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng.
+ Nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước.
+ Phát huy tính tích cực, chủ động của các tổ chức chính trị - xã hội.
+ Xây dựng đội ngũ cán bộ đủ đức và tài, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng xã
hội chủ nghĩa.
- Về bước đi của thời kỳ quá độ, Người đã chỉ rõ: Tư tưởng chủ đạo của Hồ Chí Minh về
bước đi của thời kỳ quá độ ở Việt Nam là phải qua nhiều bước, “bước ngắn, bước dài, tùy
theo hoàn cảnh”, nhưng “chớ ham làm mau, ham rầm rộ... đi bước vững chắc bước ấy, cứ
tiến dần dần”.
- Về phương pháp, biện pháp, cách thức tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam,
Người luôn luôn nhắc nhở phải nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, chống giáo
điều, rập khuôn kinh nghiệm nước ngoài, phải suy nghĩ tìm tòi, sáng tạo ra cách làm phù
hợp với thực tiễn Việt Nam.

 (*) Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
1. Bối cảnh thời đại và sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại.
a. Bối cảnh thời đại.
- Đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn tự do cạnh tranh đã chuyển sang giai đoạn
chủ nghĩa đế quốc, làm nảy sinh một trong những mâu thuẫn cơ bản của thời đại: mâu
thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc với các dân tộc thuộc địa.
- Thắng lợi của cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và sự ra đời của Nhà nước công
nông đầu tiên trên thế giới tạo ra mâu thuẫn cơ bản mới của thời đại: giữa chủ nghĩa tư
bản và chủ nghĩa xã hội và mở đầu cho thời đại mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới.
- Sự phát triển không đều của chủ nghĩa đế quốc đã làm sâu sắc thêm mâu thuẫn giữa các
nước đế quốc, bùng nổ các cuộc chiến tranh đế quốc.
- Chủ nghĩa tư bản tăng cường bóc lột giai cấp công nhân và nhân dân chính quốc, làm
cho mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản ngày càng tăng lên trên thế giới.
- Sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật đã tạo ra những bước phát triển mới
trong sự nghiệp phát triển của kinh tế, chính trị, xã hội, đặt ra nhiều vấn đề mới trong
quan hệ quốc tế. Nói về khoa học kỹ thuật, từ năm 1951 Hồ Chí Minh đã nói “Năm mươi
năm vừa qua có những biến đổi mau chóng hơn và quan trọng hơn nhiều thế kỷ trước
cộng lại về khoa học kỹ thuật”.
b. Quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa sức mạnh dân tộc và
sức mạnh thời đại.
- Điểm xuất phát để ra đi tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh là nhận thức rõ và có
niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh của dân tộc. Đó là sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước;
tinh thần đoàn kết; ý chí độc lập, tự lực, tự cường, truyền thống đấu tranh anh dũng, bất
khuất cho độc lập, tự do.
+ Hồ Chí Minh là người đã nói công khai về chủ nghĩa dân tộc.
+ Chủ nghĩa dân tộc của Hồ Chí Minh là chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc chân
chính của nhân dân ta, đồng thời cũng là của nhân dân các nước thuộc địa đấu tranh với
chủ nghĩa thực dân giành độc lập, tự do cho dân tộc.
- Nhận thức của Hồ Chí Minh về sức mạnh của thời đại được hình thành từng bước,
thông qua hoạt động thực tiễn và được tổng kết thành lý luận.
+ Ra đi tìm đường cứu nước với thân phận người lao động, Hồ Chí Minh đã phát hiện ra
mối tương đồng giữa các dân tộc bị áp bức
+ Khảo sát chủ nghĩa đế quốc ngay tại sào huyệt của nó, Hồ Chí Minh đã phát hiện và chỉ
ra rằng: “cả công nhân ở chính quốc lẫn binh lính ở thuộc địa,...họ đều là anh em cùng
một giai cấp và khi tới lúc phải chiến đấu, thì cả hai bên đều phải cùng đánh bọn chủ
chung của mình...”
+ Sau khi tiếp cận với Luận cương của V.I. Lênin, Hồ Chí Minh từ người yêu nước thành
người cộng sản, nâng cao nhận thức của Người về sức mạnh của thời đại: đó là sức mạnh
của giai cấp vô sản, cách mạng vô sản, sức mạnh kết hợp giữa chủ nghĩa yêu nước chân
chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản, sức mạnh đoàn kết quốc tế.
+ Từ nhận thức trên, Hồ Chí Minh đi vào tổ chức và hoạt động các phong trào đấu tranh
+ Cùng với sự phát triển của lịch sử và thời đại, Hồ Chí Minh bổ sung thêm sức mạnh
của thời đại những nhân tố mới, đó là: sự hình thành và phát triển và sức mạnh đoàn kết
trong hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới; là cuộc cách mạng khoa học và công nghệ ngày
càng phát triển mạnh mẽ, trở thành một nhân tố mới trong sức mạnh của thời đại.

2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh và kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của
thời đại.
Đặt cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam trong sự gắn bó cách mạng vô sản trên
thế giới
Về cách mạng giải phóng dân tộc của Việt Nam, Hồ Chí Minh viết: “Cách mệnh An Nam
cũng là một bộ phận trong cách mệnh thế giới. Ai làm cách mệnh trong thế giới đều là
đồng chí của dân An Nam cả”.
Kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản
- Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn
giáo dục nhân dân ta phân biệt rõ sự khác nhau giữa bọn thực dân, đế quốc với nhân dân
lao động, yêu công lý và hòa bình ở các nước đế quốc.
- Sau khi giành được độc lập, tiến lên chủ nghĩa xã hội, theo Hồ Chí Minh, nội dung mới
của kết hợp lòng yêu nước với tinh thần quốc tế là phải phát triển chủ nghĩa yêu nước
truyền thống thành chủ nghĩa yêu nước xã hội chủ nghĩa, kết hợp lòng yêu nước với yêu
chủ nghĩa xã hội.
- Hồ Chí Minh đánh giá cao vai trò đoàn kết quốc tế, đoàn kết giữa các nước xã hội chủ
nghĩa. Người chăm lo bảo vệ sự đoàn kết thống nhất giữa các nước xã hội chủ nghĩa, giữa
các đảng cộng sản anh em. Khi trong phong trào có sự chia rẽ, Hồ Chí Minh đã hoạt động
không mệt mỏi để khôi phục sự đoàn kết quốc tế trên cơ sở những nguyên tắc của chủ
nghĩa Mác – Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Giữ vững độc lập tự chủ, dựa vào sức mình là chính, tranh thủ sự giúp đỡ của các
nước xã hội chủ nghĩa, sự ủng hộ của nhân loại tiến bộ, đồng thời không quên nghĩa
vụ quốc tế cao cả của mình.
- Trong mối quan hệ giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, Hồ Chí Minh coi
nguồn lực bên trong giữ vai trò quyết định, nguồn lực bên ngoài là quan trọng, nó chỉ
phát huy sức mạnh thông qua nguồn lực bên trong. Người nêu cao khẩu hiệu “tự lực cánh
sinh, dựa vào sức mạnh là chính”
- Kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh còn là
tích cực thực hiện nghĩa vụ quốc tế cao cả của mình
Mở rộng tối đa quan hệ hữu nghị, hợp tác, sẵn sàg làm bạn với tất cả các nước dân
chủ.
- Trên con đường đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã đặt nền móng cho tình đoàn
kết hữu nghị giữa nhân dân và cách mạng Việt Nam với nhân dân và cách mạng thế giới.
- Sau khi giành được độc lập, Người đã nhiều lần tuyên bố: “Chính sách ngoại giao của
Chính phủ thì chỉ có một điều tức là thân thiện với tất cả các nước dân chủ trên thế giới
để giữ gìn hòa bình”; “Thái độ nước Việt Nam đối với những nước Á châu là một thái độ
anh em, đối với ngũ cường là một thái độ bạn bè”.
- Đối với nước Pháp, Hồ Chí Minh tuyên bố: “Việt Nam sẵn sàng cộng tác thân thiện với
nhân dân Pháp. Những người Pháp tư bản hay công nhân, thương gia hay trí thức, nếu họ
muốn thật thà cộng tác với Việt Nam thì sẽ được nhân dân việt Nam hoan nghênh họ như
anh em bầu bạn”(17).
- Với các nhà tư bản, Người nói: Bất kỳ nước nào (gồm cả nước Pháp) thật thà muốn đưa
tư bản đến kinh doanh ở Việt Nam, với mục đích làm lợi cho cả hai bên thì Việt Nam sẽ
rất hoan nghênh, còn nếu mong đưa tư bản đến để ràng buộc, áp chế Việt Nam thì Việt
Nam cương quyết cự tuyệt.
- Hồ Chí Minh đã dành ưu tiên cho mối quan hệ với các nước láng giềng gần gũi trong
khu vực, nhất là các nước Lào, Campuchia cùng nhau đoàn kết chống kẻ thù chung.
- Đối với Trung Quốc, Hồ Chí Minh đã bằng những hoạt động liên tục, không mệt mỏi để
xây đắp mối quan hệ “vừa là đồng chí, vừa là anh em”.
- Hồ Chí Minh coi trọng thiết lập mối quan hệ hữu nghị với các nước trong khu vực và
trên thế giới có chế độ chính trị khác nhau. Người đã đi thăm Ấn Độ, Mianma, Inđônêxia,
nhiều nước khác nhau, góp phần xây dựng và phát triển sự đoàn kết các nước thuộc thế
giới thứ ba, nâng cao uy tín, vị thế của nước ta trên trường quốc tế.
Như vậy, từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa quốc tế, từ niềm tin vào sức mạnh của dân
tộc đi đến nhận thức đầy đủ về sức mạnh của thời đại, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại, Hồ Chí Minh không chỉ là lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Việt Nam mà còn là
chiến sĩ lỗi lạc trong phong trào cộng sản quốc tế, lãnh tụ của phong trào giải phóng dân
tộc và danh nhân văn hóa thế giới
C. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐỘC LẬP DÂN TỘC
VÀ CNXH
 
1. Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc với tiến lên chủ nghĩa xã hội
1.1. Độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước hết, là cơ sở tiền đề để tiến lên chủ
nghĩa xã hội
Theo Hồ Chí Minh, con đường cách mạng Việt Nam có hai giai đoạn: cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong cách mạng dân tộc dân chủ có
hai nhiệm vụ chiến lược cơ bản, trong đó giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, nhiệm
vụ dân chủ được rải ra thực hiện từng bước và phục tùng nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Vì
thế, ở giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ thì độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước
mắt, cấp bách. Kết luận này được Hồ Chí Minh rút ra từ sự phân tích tình hình thực tế và
những mâu thuẫn khách quan tồn tại của xã hội Việt Nam thuộc địa nửa phong kiến.
Lịch sử phát triển loài người chứng tỏ, độc lập dân tộc là khát vọng mang tính phổ biến.
Với dân tộc Việt Nam, đó còn là một giá trị thiêng liêng, được bảo vệ và giữ gìn bởi máu
xương, sức lực của biết bao thế hệ người Việt Nam.
Với Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc bao hàm trong đó cả nội dung dân tộc và dân chủ. Đó
là nền độc lập thật sự, độc lập hoàn toàn, chứ không phải là thứ độc lập giả hiệu, độc lập
nửa vời, độc lập hình thức. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải gắn liền
với thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, độc lập dân tộc bao giờ
cũng gắn với tự do, dân chủ, ấm no hạnh phúc của nhân dân lao động.
Khi nhấn mạnh mục tiêu độc lập dân tộc, Hồ Chí Minh không bao giờ coi đó là mục tiêu
cuối cùng của cách mạng Việt Nam. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, giành độc lập để đi tới
xã hội cộng sản; độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc là
mục tiêu cốt yếu, trực tiếp của cách mạng dân tộc dân chủ, là mục tiêu trước hết của quá
trình cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo, đồng thời là điều kiện hàng đầu,
quyết định để cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân chuyển sang giai đoạn kế tiếp - cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Do vậy, cách mạng dân tộc dân chủ càng triệt để thì những điều
kiện tiến lên chủ nghĩa xã hội càng được tạo ra đầy đủ. Tính chất tạo tiền đề của cách
mạng dân tộc dân chủ được thể hiện:
- Về chính trị: xác định và xây dựng các yếu tố của hệ thống chính trị do giai cấp công
nhân lãnh đạo.
- Về kinh tế: bước đầu xây dựng được các cơ sở kinh tế mang tính chất xã hội chủ nghĩa,
từng bước cải thiện đời sống nhân dân.
- Về văn hoá, xã hội, đời sống tinh thần: trong cách mạng dân tộc dân chủ, khối quần
chúng công - nông - trí thức và các giai tầng xã hội khác đã có ý thức giác ngộ, đoàn kết
trong một mặt trận dân tộc thống nhất; những nhân tố mới của văn hoá, giáo dục đã được
hình thành dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tóm lại, độc lập dân tộc tạo tiền đề, điều kiện để nhân dân lao động tự quyết định con
đường đi tới chủ nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, trong thời đại mới chủ nghĩa xã hội là xu hướng phát triển
tất yếu của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Điều này làm cho con đường cứu nước
giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh khác biệt về chất với con đường cứu nước những
năm đầu thế kỷ ở nước ta và nhiều nhân vật nổi tiếng trên thế giới.
Cách mạng Việt Nam thuộc phạm trù cách mạng vô sản. Điều đó quyết định vai trò
lãnh đạo cách mạng tất yếu thuộc về giai cấp công nhân mà đội tiên phong của nó là
Đảng Cộng sản Việt Nam. Lực lượng tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc là toàn dân
Việt Nam yêu nước mà nòng cốt là khối liên minh công - nông - trí thức. Những nhân tố
này lại quy định tính tất yếu dẫn đến phương hướng phát triển lên chủ nghĩa xã hội của
cách mạng giải phóng dân tộc. Rõ ràng định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội của cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam được chi phối và chế định bởi các nhân tố
bên trong của cuộc cách mạng đó.
1.2. Chủ nghĩa xã hội là con đường củng cố vững chắc độc lập dân tộc, giải phóng dân
tộc một cách hoàn toàn triệt để
Về lý luận, độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội thể hiện mối quan hệ giữa mục tiêu
trước mắt và mục tiêu cuối cùng; mối quan hệ giữa hai giai đoạn của một quá trình cách
mạng. Logic lịch sử khách quan cho thấy: thực hiện mục tiêu trước mắt là điều kiện tiên
quyết để đi tới mục tiêu cuối cùng và chỉ thực hiện được mục tiêu cuối cùng thì mục tiêu
trước mắt mới củng cố vững chắc một cách hoàn toàn, triệt để. Giữa hai giai đoạn cách
mạng không có bức tường ngăn cách, cách mạng dân tộc dân chủ xác lập cơ sở, tiền đề
cho cách mạng xã hội chủ nghĩa, cách mạng xã hội chủ nghĩa khẳng định và bảo vệ vững
chắc nền độc lập dân tộc.
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc bao giờ cũng gắn liền với đời sống ấm no, hạnh
phúc của quần chúng nhân dân, những người đã trực tiếp làm nên thắng lợi của cách
mạng dân tộc dân chủ. Để đảm bảo vững chắc độc lập dân tộc, để không rơi vào lệ thuộc,
đói nghèo lạc hậu, chặng đường tiếp theo chỉ có thể là đi lên chủ nghĩa xã hội. Do những
đặc trưng nội tại của mình, chủ nghĩa xã hội sẽ củng cố những thành quả đã giành được
trong cách mạng dân tộc dân chủ, tạo điều kiện để bảo đảm cho độc lập và phát triển dân
tộc.
Tư tưởng độc lập dân tộc của Hồ Chí Minh mang một nội dung sâu sắc, triệt để: độc lập
tự do, ấm no, hạnh phúc. Chủ nghĩa xã hội không chỉ củng cố những giá trị nêu trên, mà
còn làm phong phú thêm về mặt nội dung, xác lập các điều kiện để hiện thực hóa các nội
dung đó. Hồ Chí Minh khẳng định: chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải
phóng triệt để các dân tộc bị áp bức khỏi ách nô lệ; chỉ có cách mạng xã hội chủ nghĩa
mới bảo đảm cho một nền độc lập thật sự, chân chính.
Chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh là một xã hội tốt đẹp, xoá bỏ mọi áp bức,
bóc lột; công bằng hợp lý - làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không
hưởng; bảo đảm phúc lợi cho người già, trẻ mồ côi; một xã hội có nền sản xuất phát triển
gắn liền với sự phát triển khoa học - kỹ thuật và không ngừng nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần của nhân dân lao động. Đó là một xã hội có kỷ cương, đạo đức, văn minh trong
đó người với người là bạn bè, đồng chí, anh em, mọi người được phát triển hết khả năng
của mình; hòa bình hữu nghị, làm bạn với các nước; một xã hội do nhân dân lao động
làm chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Theo Hồ Chí Minh, xây dựng chủ nghĩa xã hội chính là xây dựng tiềm lực phát triển của
dân tộc trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. Với các thiết chế đó và
nền tảng tinh thần riêng có, chủ nghĩa xã hội có khả năng vận động liên tục, tự bảo vệ
vững chắc các thành quả cách mạng của nhân dân. Trên phạm vi quốc tế, chủ nghĩa xã
hội lớn mạnh sẽ có sức hấp dẫn thu hút các dân tộc, đặc biệt các dân tộc chậm phát triển
đi theo con đường chủ nghĩa xã hội; mặt khác chủ nghĩa xã hội sẽ là bệ đỡ của hòa bình
thế giới, hạn chế và ngăn chặn các cuộc chiến tranh đế quốc, chiến tranh xâm lược, xóa
bỏ tình trạng dân tộc này đi áp bức dân tộc khác.
Hồ Chí Minh chỉ rõ, chủ nghĩa xã hội càng phát triển, càng đạt đến độ chín muồi thì các
tiềm lực, nhất là tiềm lực vật chất kỹ thuật của dân tộc càng mạnh, đất nước càng có điều
kiện củng cố độc lập của mình, tăng cường khả năng phòng thủ. Không có một chế độ xã
hội nào có thể đảm bảo vững chắc độc lập dân tộc bằng chủ nghĩa xã hội. Trong toàn bộ
cấu trúc nội tại của mình, chủ nghĩa xã hội thể hiện khả năng tự bảo vệ và biết cách bảo
vệ.
Hồ Chí Minh khẳng định, trong chủ nghĩa xã hội, nhân dân lao động là người chủ duy
nhất. Đó là sự khác biệt về chất giữa chủ nghĩa xã hội với các chế độ xã hội trước đó. Chế
độ dân chủ là chế độ do nhân dân làm chủ, dân chủ là vấn đề thuộc bản chất của nhà nước
ta. Theo Hồ Chí Minh, dân chủ xã hội chủ nghĩa phải được phát huy trên tất cả các lĩnh
vực, phải được thể chế hoá bằng pháp luật, được hoàn thiện, nâng cao trong quá trình
phát triển kinh tế, xã hội và nâng cao dân trí. Đây là điều kiện cơ bản và quyết định vận
mệnh của dân tộc, tạo ra sức đề kháng trên phạm vi xã hội, loại trừ và có khả năng chống
trả bất kỳ một hành động nào đe dọa độc lập, tự do của dân tộc. Thực hiện được một xã
hội như vậy thì độc lập dân tộc mới thực sự vững chắc, sự nghiệp giải phóng dân tộc mới
thắng lợi một cách hoàn toàn và triệt để.
 
2. Những điều kiện bảo đảm cho độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong
quá trình cách mạng Việt Nam
Độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một tất yếu lịch sử. Nhưng để
hiện thực hóa tính tất yếu này, theo Hồ Chí Minh cần phải có những điều kiện cơ bản sau
đây:
Trước hết, Hồ Chí Minh khẳng định, xác lập, tăng cường vai trò lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng Cộng sản là điều kiện cơ bản để độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội. Không có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản thì cách mạng Việt Nam không
thể vận động theo cách mạng vô sản và chắc chắn sự nghiệp độc lập dân tộc sẽ đi theo vết
xe đổ của các phong trào cứu nước trước đó. Một khi Đảng Cộng sản đánh mất vai trò
lãnh đạo thì chế độ xã hội chủ nghĩa sẽ sụp đổ, cách mạng bị phản bội và hoàn toàn chệch
hướng. Thực tiễn ở Liên Xô và các nước Đông Âu, đầu những năm 90 của thế kỷ XX đã
chứng tỏ điều đó.
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, với tư cách là điều kiện cơ bản bảo đảm để độc lập dân tộc tiến
lên chủ nghĩa xã hội, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản được thể hiện trên các mặt chủ
yếu sau đây:
- Hoạch định cương lĩnh, đường lối, chủ trương để đưa sự nghiệp của dân tộc phát triển
đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Lãnh đạo xã hội, trước hết là lãnh đạo nhà nước thực hiện thắng lợi cương lĩnh độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội bằng cách thông qua tổ chức và đội ngũ cán bộ,
đảng viên của mình.
- Thông qua công tác kiểm tra, kể cả kiểm tra trong nội bộ Đảng và lãnh đạo công tác
kiểm tra trong các tổ chức của hệ thống chính trị để lãnh đạo toàn dân giành độc lập dân
tộc đi lên chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh chỉ rõ vai trò lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam mang tính
khách quan. Để hoàn thành sứ mệnh của mình, Đảng phải trong sạch, vững mạnh và
thường xuyên chỉnh đốn để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, đủ trí tuệ, đủ bản
lĩnh vượt qua những thử thách gay gắt nhất, phải thực hiện xây dựng Đảng về mọi mặt:
chính trị, tư tưởng và tổ chức, trong đó công tác cán bộ bao giờ cũng là vấn đề cốt tử.
Hai là, xây dựng, củng cố và tăng cường khối liên minh giai cấp công nhân, nông
dân và trí thức làm nền tảng khối đại đoàn kết dân tộc.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về lực lượng cách mạng Việt Nam trong quá trình thực hiện
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội là hết sức sáng tạo. Người
xác định: công - nông là gốc, là chủ lực của cách mạng, các giai tầng, cá nhân yêu nước
là bầu bạn của cách mạng. Khi đất nước bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội Người đòi
hỏi công nông trí thức đoàn kết lại. Tất cả được tập hợp trong Mặt trận dân tộc thống
nhất.
Hồ Chí Minh cho rằng trong cách mạng dân tộc dân chủ cũng như cách mạng xã hội chủ
nghĩa đều cần đến và không thể thiếu được Mặt trận dân tộc thống nhất. Mặt trận được
xây dựng theo tư tưởng Hồ Chí Minh có hạt nhân cốt lõi là liên minh công - nông và trí
thức để đoàn kết toàn dân thành một khối. Hạt nhân và toàn dân là mối quan hệ biện
chứng được Hồ Chí Minh quan tâm đúng mức cả hai, không coi nhẹ hoặc thiên lệch bên
nào. Mặt trận đó được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ba là, Hồ Chí Minh chỉ rõ Việt Nam là một bộ phận của thế giới, cách mạng Việt
Nam và cách mạng thế giới liên hệ chặt chẽ với nhau. Suốt cuộc đời hoạt động cách
mạng của mình, Hồ Chí Minh luôn có những chủ trương, đường lối và biện pháp phù hợp
để tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của các lực lượng cách mạng, hoà bình dân chủ trên thế
giới. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam Tháng Tám 1945, trong những năm chống
Pháp, chống Mỹ, trong thời kỳ hoà bình, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều không tách rời
sự ủng hộ, giúp đỡ quốc tế.
Ba nhân tố nêu trên gắn bó chặt chẽ với nhau tạo nên sức mạnh tổng hợp quyết định mọi
thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh kết luận: “Đó là ba bài học lớn mà mỗi
cán bộ và đảng viên ta cần ghi sâu vào lòng và phát huy thêm mãi”.
Như vậy, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan. Tính
tất yếu đó chỉ được hiện thực hoá khi gắn liền với những điều kiện bảo đảm, trong đó yếu
tố quan trọng nhất là xác lập và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam.
 
3. Sự thể hiện trên thực tế tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ra đời và phát
triển ở thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới. Tư
tưởng đó hình thành ở Hồ Chí Minh từ đầu những năm 20 và đến mùa xuân năm 1930
với sự kiện Hồ Chí Minh sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam thì con đường cách mạng
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đã thành ngọn cờ dẫn dắt giai cấp công
nhân và toàn thể dân tộc Việt Nam liên tục giành những thắng lợi lịch sử suốt hơn 70
năm qua. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội được
thể hiện trên thực tế, có thể chia ra làm ba thời kỳ.
3.1. Thời kỳ 1930-1945: ở thời kỳ này tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội được thể hiện qua những hoạt động lý luận và thực tế chủ yếu sau đây của Hồ Chí
Minh:
- Xác định tính chất cách mạng Việt Nam: giải phóng dân tộc bằng con đường cách mạng
vô sản, gắn giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, nhân dân lao động, với toàn thể
dân tộc bị nô lệ dưới ách đế quốc Pháp và tay sai của chúng; xác định nhiệm vụ, mục tiêu
của cách mạng Việt Nam “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi
tới xã hội cộng sản”. Con đường cách mạng Việt Nam được Hồ Chí Minh thể hiện rõ nét
trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
- Xác định đối tượng đấu tranh của cách mạng Việt Nam là đế quốc xâm lược, phong
kiến tay sai, tầng lớp tư sản và địa chủ chống lại độc lập dân tộc.
- Xác định rõ lực lượng cách mạng Việt Nam là toàn thể nhân dân, bao gồm công nhân,
nông dân, tầng lớp tiểu tư sản, tư sản dân tộc, trung, tiểu địa chủ, các cá nhân yêu nước,
trong đó nòng cốt là liên minh công - nông. Lực lượng cách mạng hùng hậu này được tập
hợp dưới ngọn cờ giải phóng dân tộc do đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo.
- Xác định đúng đắn cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam là một bộ phận của cách
mạng vô sản thế giới, có mối quan hệ khăng khít với cách mạng vô sản “chính quốc”,
cách mạng giải phóng dân tộc có tính chủ động, có thể giành thắng lợi trước cách mạng
vô sản “chính quốc", tác động tích cực tới cách mạng “chính quốc".
Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Hồ Chí Minh, Cách mạng Tháng Tám 1945 đã giành
thắng lợi. Đó là thắng lợi lịch sử đầu tiên của tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách
mạng giải phóng dân tộc thuộc phạm trù cách mạng vô sản. Thắng lợi này đã mở ra kỷ
nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
 
3.2. Thời kỳ 1945-1954: thời kỳ bảo vệ độc lập dân tộc và xây dựng những cơ sở đầu tiên
của chủ nghĩa xã hội, thực hiện “kháng chiến và kiến quốc”.
Ở thời kỳ này Hồ Chí Minh tiếp tục bổ sung, phát triển những quan điểm lý luận về con
đường cách mạng Việt Nam. Nội hàm khái niệm cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân,
chế độ dân chủ mới đã được Hồ Chí Minh làm rõ bằng cách xác định mục tiêu, động lực,
các điều kiện bảo đảm thắng lợi của từng giai đoạn cách mạng, trong mỗi giai đoạn đều
kết hợp giải quyết các nhiệm vụ dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội, tạo tiền đề đẩy
cách mạng phát triển lên giai đoạn cao hơn nhưng cũng khó khăn phức tạp hơn. Để thực
hiện mục tiêu cách mạng, Hồ Chí Minh kiên trì quan điểm phát huy cao độ ý thức độc lập
tự chủ, tự lực tự cường, đi đôi với ra sức tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ quốc tế.
Nét độc đáo, đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam ở
thời kỳ này là Người đã đề ra và thực thi nhất quán đường lối “vừa kháng chiến, vừa kiến
quốc”. Đường lối đó phù hợp với quy luật phát triển lịch sử dân tộc: dựng nước đi đôi với
giữ nước, bảo vệ độc lập của Tổ quốc và xây dựng từng bước chế độ mới.
Trong hoàn cảnh hiểm nghèo, Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách linh hoạt, mềm dẻo
phương pháp “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc, phân hoá, cô
lập kẻ thù, tăng cường sức mạnh đoàn kết toàn dân, tranh thủ được sự giúp đỡ, ủng hộ
của quốc tế. Tài thao lược, bản lĩnh kiên cường, khả năng quyết đoán của Hồ Chí Minh
dựa trên sự hiểu biết thấu đáo thực tiễn đất nước, quy luật và xu thế phát triển của dân
tộc, thời đại, vững vàng lái con thuyền cách mạng Việt Nam đến bến bờ thắng lợi huy
hoàng.
3.3. Thời kỳ 1954-1975: thời kỳ Hồ Chí Minh tiếp tục hoàn thiện, bổ sung, phát triển tư
tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong điều kiện mới. Ở thời kỳ này
sáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh thể hiện tập trung trong việc xây dựng và chỉ đạo
đường lối tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa
cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Quan điểm, tư tưởng nêu trên được thể hiện ở các nội
dung chính sau đây:
- Trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã giải quyết đúng đắn thành
công mối quan hệ giữa cách mạng hai miền. Trong mối quan hệ này, Hồ Chí Minh xác
định rất rõ vị trí, vai trò nhiệm vụ cách mạng từng miền và tác động lẫn nhau của chúng.
Về thực chất, đây là sự cụ thể hoá nội dung con đường cách mạng vô sản, sự gắn bó chặt
chẽ giữa nhiệm vụ dân tộc, dân chủ với chủ nghĩa xã hội - con đường mà Hồ Chí Minh đã
đề xuất và kiên trì bảo vệ.
- Hồ Chí Minh tiếp tục hoàn chỉnh và phát triển lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc,
xác định rõ kẻ thù số một mà dân tộc ta cần tập trung mọi lực lượng để đánh đổ là đế
quốc Mỹ. Hồ Chí Minh nêu tư tưởng “không có gì quý hơn độc lập tự do” thể hiện ý chí,
quyết tâm lớn lao của cả dân tộc trong việc bảo vệ giá trị thiêng liêng, bất khả xâm phạm.
Về tập hợp lực lượng, Hồ Chí Minh có những quan niệm và cách làm sáng tạo, trên cơ sở
đánh giá đúng vị trí, vai trò của chiến lược đại đoàn kết trong chiến tranh cách mạng. Hồ
Chí Minh đã xây dựng cho cách mạng Việt Nam cái nền sức mạnh của “ba tầng mặt
trận”: Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam chống Mỹ, cứu nước; Mặt trận ba nước
Đông Dương cùng chống Mỹ; Mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ nhân dân Việt Nam
chống Mỹ. Sức mạnh của “ba tầng mặt trận" đã tạo cho cách mạng Việt Nam trở thành vô
địch.
- Hồ Chí Minh tiếp tục hoàn thiện lý luận cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên
chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh đã xây dựng một quan niệm tương đối hoàn chỉnh, thống
nhất về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Quan niệm của
Hồ Chí Minh chủ nghĩa xã hội mang tính hệ thống, có nhiều nội dung phát triển sáng tạo,
nhưng vẫn trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin. Hồ Chí Minh đã làm rõ đặc điểm lớn
nhất của Việt Nam khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, mối quan hệ giữa
tính phổ biến và tính đặc thù của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong phạm vi một
nước. Đặc biệt, Hồ Chí Minh đã có những chỉ dẫn khoa học về những cách thức, phương
thức, biện pháp, bước đi thực hiện công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Ngày 2-9-1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời. Biến đau thương thành hành động cách
mạng, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta quán triệt sâu sắc quan điểm của Người tiếp tục
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, giải phóng miền Nam thống nhất tổ quốc. Thông
qua chiến dịch mang tên Hồ Chí Minh, sự nghiệp cách mạng đó đã giành thắng lợi trọn
vẹn vào ngày 30-4-1975.
 
D. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN
VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI
1. Thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội đi đôi với bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa
Trong quan hệ quốc tế phức tạp, chằng chéo như hiện nay, để thực hiện thắng lợi hai
nhiệm vụ chiến lược của cách mạng nước ta, đòi hỏi phải có nhận thức sâu sắc các yếu tố
tác động đến độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Chiến tranh lạnh trên thế giới kết thúc, hoà bình, hợp tác phát triển là xu thế chung,
nhưng cuộc đấu tranh dân tộc và giai cấp vẫn diễn biến phức tạp, gay gắt. Nguy cơ xung
đột vũ trang và chiến tranh cục bộ vẫn chưa bị loại trừ; mâu thuẫn dân tộc, sắc tộc, tôn
giáo, tranh chấp lãnh thổ nổ ra ở nhiều nơi và gây mất ổn định nhiều khu vực. Chủ nghĩa
đế quốc đang lợi dụng ưu thế về kinh tế và kỹ thuật, nhân danh chống khủng bố, để thực
hiện chiến lược “diễn biến hoà bình” can thiệp vào công việc nội bộ các nước, buộc các
nước xã hội chủ nghĩa, các nước đang phát triển đi vào quỹ đạo của chúng. Hiện nay giao
lưu kinh tế, giao lưu văn hoá giữa các dân tộc tăng lên. 
Trong khi giao lưu văn hoá phát triển mạnh mẽ, thì các nước đang phát triển cũng đứng
trước sự “xâm lăng văn hoá” từ phía các nước đế quốc. Trong bối cảnh hiện nay, quan
niệm về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội phải được chú ý toàn diện từ độc lập về lãnh
thổ, về chủ quyền an ninh quốc gia đến độc lập, tự do về kinh tế, chính trị, văn hóa, lối
sống và đạo đức xã hội. Không thể có và không thể chấp nhận quan niệm nhân quyền cao
hơn chủ quyền quốc gia.
Để thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược hiện nay cần chú ý một số nguyên tắc có tính
chất phương pháp luận: lệ thuộc vào bên ngoài, nhưng phải biết tranh thủ các điều kiện
quốc tế thuận lợi để gia tăng nguồn lực phát triển quốc gia. Kết hợp sức mạnh dân tộc và
sức mạnh thời đại theo tư tưởng Hồ Chí Minh để thực hiện thành công hai nhiệm vụ
chiến lược.
- Trên cơ sở nhận thức toàn cầu hoá, khu vực hoá và kinh tế là một tất yếu khách quan, từ
đó xác định rõ các bước đi và chủ động hội nhập phù hợp với năng lực của đất nước. Hội
nhập phải làm tăng sức mạnh đất nước và làm giàu bản sắc dân tộc.
- Độc lập dân tộc gắn bó chặt chẽ với chủ nghĩa xã hội phải được thể hiện trong suốt quá
trình cách mạng trên mọi lĩnh vực của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
2. Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong tiến trình đổi mới
Ngày nay, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội chỉ có thể có được nếu Đảng và nhân dân
ta giải quyết thành công hàng loạt vấn đề trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn
hoá, xã hội, đối nội và đối ngoại theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trung thành với con
đường Hồ Chí Minh đã vạch ra. Đảng ta khẳng định trong bất kỳ tình huống nào, cũng
phải giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, kiên quyết đề phòng và chống nguy cơ chệch
hướng xã hội chủ nghĩa.
Hiện nay, đang xuất hiện nhiều vấn đề lý luận nằm trong tổng thể quan niệm chung về
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nhu cầu phát triển đất nước đang đặt ra, đòi lại phải nhận
diện và hiểu biết về chủ nghĩa xã hội vừa mang tính tổng thể, vừa trong những chi tiết,
đường nét cụ thể. Do vậy, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa theo tư tưởng Hồ Chí
Minh, trước hết cần làm sáng tỏ các vấn đề cơ bản sau:
- Cả trong lý luận và thực tiễn cần khẳng định vấn đề định hướng đưa đất nước đi lên chủ
nghĩa xã hội là duy nhất đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của dân tộc và xu thế thời
đại.
- Làm rõ và cụ thể hóa mục tiêu của đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa là dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
- Xác định rõ bản chất đặc trưng và mô hình cấu trúc của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
- Làm rõ các động lực phát triển của chủ nghĩa xã hội, trong đó động lực con người với
nhu cầu và lợi ích của họ giữ vị trí trung tâm. Mặt khác việc phát hiện động lực, có chính
sách phát huy và kết hợp các động lực phát triển sẽ làm cho chủ nghĩa xã hội sinh động,
năng động và mang tính thực tiễn.
- Xác định rõ bước đi và cách làm chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Trong bối cảnh hiện nay. Độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội là nhu cầu sống còn,
là sự lựa chọn duy nhất đúng của Việt Nam.

Câu 3: Chương 4: Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản

(*) Nguyên tắc 1: Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lê nin làm nền tảng tư tưởng và kim
chỉ hành động.
Xét về tổng thể, chủ nghĩa Mác Lê – nin là thành tựu vĩ đại của nhân loại do
C.Mác và Ph. Ăng ghen đặt nền móng vào đầu thế kỷ XIX, được V.I.Lê nin kế tục phát
triển từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Chủ nghĩa Mác Lê – nin phơi bày bản chất sâu
xa nhất, những mâu thuẫn cố hữu nhất tồn tại trong chế độ tư bản chủ nghĩa và dự đoán
chính xác xu hướng vận động của các hình thái kinh tế - xã hội để đi đến khẳng định
tương lai của nhân loại là chế độ cộng sản chủ nghĩa. Vì vậy, đây là học thuyết khoa học,
cách mạng và nhân văn duy nhất đề ra mục tiêu giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội,
giải phóng con người và chỉ rõ lực lượng, con đường, phương thức nhằm đạt được mục
tiêu đó.
1. Vai trò của chủ nghĩa Mác Lê – nin trong Đảng Cộng sản Việt Nam
Chủ nghĩa Mác Lê – nin đóng vai trò là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi
hảnh động của Đảng, vũ trang lý luận cho con đường đấu tranh cách mạng của quần
chúng nhân dân, giúp họ thực hiện khát vọng giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do,
ấm no, hạnh phúc.
Chủ nghĩa Mác Lê – nin là nguồn gốc lý luận trực tiếp quyết định bước phát triển mới về
chất trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Nếu không có chủ nghĩa Mác Lê – nin, chưa đọc Luận
cương của Lê – nin thì Hồ Chí Minh cũng chỉ là một nhà yêu nước như bao nhà yêu nước
khác ở Việt Nam đầu thế kỷ 20 (Chung một khát vọng giải phóng dân tộc, mong muốn
giành lấy tự do, độc lập nhờ vào sự giúp đỡ của nước ngoài), tư tưởng cách mạng của
lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chưa thể tạo ra bước ngoặt cách mạng, không có điều kiện để
truyền bá Chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam và do đó, Người không thể đặt nền móng
cho tư tưởng mác-xít đâm chồi, nảy lộc, đơm hoa kết trái trên quê hương Tổ quốc Việt
Nam. Chính Chủ nghĩa Mác-Lênin đã trang bị cho lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc thế giới
quan, nhân sinh quan và phương pháp luận khoa học, cách mạng để Người tìm ra con
đường cứu nước mới, đưa Người vượt lên phía trước mọi thiên kiến hẹp hòi, khắc phục
căn bản sự khủng hoảng về chính trị, sự bế tắc về đường lối đấu tranh giải phóng dân tộc,
“gieo mầm cộng sản” trên quê hương Việt Nam.
    Sự phát triển tư tưởng mác-xít ở Việt Nam vào đầu thế kỷ 20 là kết quả tất yếu của quá
trình xâm nhập, thẩm thấu Chủ nghĩa Mác-Lênin ở Việt Nam, gắn liền với công lao to
lớn của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc; nhờ đó mà tư tưởng yêu nước gắn liền với tư tưởng
quốc tế vô sản. Mục tiêu cứu nước, cứu dân ở Việt Nam đầu thế kỷ 20 được dẫn dắt bởi
một lý luận khoa học, cách mạng soi sáng, dẫn đường. 

2. Trang bị sự hiểu biết, học tập về chủ nghĩa Mác lê với Đảng viên
Đối với sự phát triển xã hội và lịch sử cách mạng Việt Nam, lý luận Mác - Lê-nin có vai
trò cực kỳ quan trọng. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc lại câu nói của Lê-nin “không có lý
luận cách mạng thì không có cách mệnh vận động”. Sự vận động của cách mạng Việt
Nam trong hơn 80 năm qua đều chịu sự tác động trực tiếp của lý luận Mác - Lê-nin. Do
đó, để có thể vận dụng một cách đầy đủ chủ nghĩa Mác Lê – nin vào công cuộc xây dựng
đất nước thì cần phải trang bị cho mọi người, nhất là các cán bộ và Đảng viên những
kiến thức về chủ nghĩa Mác - Lê-nin, về đường lối, quan điểm của Đảng, nâng cao phẩm
chất cách mạng và năng lực hoạt động thực tiễn của họ, hướng dẫn họ vận dụng những
hiểu biết ấy vào cuộc sống.
Thứ nhất, tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh cho phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Vì bối cảnh thực tiễn đã có nhiều thay đổi, đặt ra nhiều vấn đề mới cần giải quyết nên cần
đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu lớn về những vấn đề cơ bản, nền tảng nhằm tiếp tục
khẳng định những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Bên cạnh đó, cần chắt lọc, đề xuất những vấn đề cần bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho phù hợp với thực tiễn nước ta giai đoạn hiện nay. 

Thứ hai, kiên quyết đấu tranh chống lại những âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc, chống
phá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh của các thế lực thù địch, phản
động, cơ hội chính trị.
Tiếp tục đấu tranh chống lại những âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc, chống phá của các thế
lực thù địch. Trước hết, cần hệ thống hóa các nội dung đang bị các thế lực chống phá, từ
đó xây dựng luận cứ đấu tranh phản bác trên từng vấn đề cụ thể. Đồng thời, chuyển trọng
tâm của việc đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trên mặt trận tư tưởng, lý luận truyền thống là chủ yếu sang
đấu tranh trên internet và mạng xã hội. 

Thứ ba, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ nội dung chương trình, phương pháp giảng dạy
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Tùy theo yêu cầu của mỗi cấp học, bậc học, cần đổi mới nội dung chương trình giảng dạy
các môn chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh theo hướng “khoa học, sáng tạo,
hiện đại và gắn lý luận với thực tiễn”. Nội dung chương trình cần bố trí hợp lý giữa kiến
thức lý luận với những vấn đề thực tiễn, tăng cường bồi dưỡng kỹ năng vận dụng những
kiến thức lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để giải quyết những
vấn đề thực tiễn đặt ra. 

Thứ tư, mỗi cán bộ, đảng viên phải nêu cao tinh thần tự giác, ý thức trách nhiệm,
tính sáng tạo trong việc học tập, nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh.
Để tiếp tục kiên định, phát triển và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, mỗi cán bộ, đảng viên cần không ngừng tự học tập, tự nghiên cứu để nâng
cao trình độ lý luận chính trị; có ý thức khắc phục triệt để bệnh “lười” học tập lý luận
chính trị. Ngoài ra, cần quán triệt quan điểm biện chứng và nguyên lý phát triển khi học
tập, nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là vừa không ngừng
củng cố, nâng cao kiến thức để tăng “sức đề kháng”, khả năng “miễn dịch” trước những
âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch song cũng vận dụng
sáng tạo, không ngừng bổ sung, phát triển những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh lịch sử - cụ thể; tránh tư duy
dập khuôn, máy móc, giáo điều làm xơ cứng, nghèo nàn những quan điểm, tư tưởng của
các bậc tiền bối.

3. Vận dụng sao cho xây dựng Đảng trong sạch và có hiệu quả
a) Xây dựng Đảng về chính trị
- Đảng phải có một đường lối chính trị đúng đắn, khoa học, kết tinh được những giá trị
của học thuyết Mác Lê – nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và kinh nghiệm quý báu của nhân
loại, phù hợp thực tiễn Việt Nam và thực tiễn thế giới, tôn trọng quy luật khách quan, đáp
ứng được khát vọng lòng dân. Đồng thời đáp ứng được yêu cầu cơ bản, trước mắt vừa
đảm bảo sự phát triển lâu dài, thể hiện tầm nhìn, dự báo và thích ứng với mọi diễn biến
phức tạp của tình hình.
- Đảng và cán bộ, đảng viên phải có một bản lĩnh chính trị vững vàng trước mọi tình
huống khi tình hình thế giới còn nhiều diễn biến rất phức tạp, khó lường. Điều quan trọng
của một đảng cách mạng là nắm vững phương châm “dĩ bất biến ứng vạn biến”, kiên định
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định đường lối đổi mới vì mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh;
kiên định những nguyên tắc trong công tác xây dựng Đảng. Đảng phải cứng rắn về
nguyên tắc, mềm dẻo về sách lược. Trong đường lối và mọi hoạt động, Đảng phải luôn
luôn quán triệt quan điểm bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở những nguyên tắc
cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, cùng có lợi.
- Chú trọng xây dựng văn hóa chính trị, tức là đường lối chính trị, hoạt động chính trị, tổ
chức chính trị, con người chính trị phải hàm chứa những giá trị. Điều quan trọng nhất,
xuyên suốt là Đảng phải thể hiện rõ là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là
đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi
ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. 
b) Xây dựng Đảng về tư tưởng
- Tư tưởng Hồ Chí Minh tập trung vào việc lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm cốt. Hiện nay,
nội dung đó vẫn là cái gốc. Trên cơ sở kiên định, phải bảo vệ vững chắc nền tảng tư
tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; bảo vệ cương lĩnh, lý
luận, đường lối đổi mới.
- Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, học tập chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, ổi mới nội dung, phương
thức, đảm bảo tính đảng, tính khoa học, tính chiến đấu, tính thực tiễn, tính nhạy bén, tính
phát hiện, tính hiệu quả. Nhiệm vụ của công tác tư tưởng là làm cho mọi người hiểu thấu
và làm đúng.
- Ngoài ra, các cơ quan và người làm công tác tư tưởng luôn phải chủ động đi trước để
ngăn chặn, tránh những thông tin bịa đặt, xuyên tạc tư tưởng và đường lói của Đảng ta.
Đưa ra những biện pháp ngăn chặn phù hợp trước những hành động chống phá Đnagr và
Nhà nước của các thế lực thù địch, phản động.
c) Xây dựng Đảng về tổ chức
- Về tổ chức bộ máy, đảm bảo tinh gọn, hoạt động đồng bộ, liên thông, thống nhất, có
hiệu lực, hiệu quả, phù hợp với tiến trình đổi mới, với những vấn đề do thực tiễn đặt ra. 
- Về công tác chi bộ, cần vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh. Nội dung, phương
thức hoạt động của chi bộ hiện nay không như thời của Bác, cần đổi mới, sáng tạo, nhưng
những quan điểm về vai trò, vị trí, chức năng của chi bộ thì vẫn nguyên giá trị, tiếp tục
soi sáng công tác chi bộ hiện nay. Ví dụ, phải đảm bảo chất lượng sinh hoạt chi bộ, trong
đó có những khía cạnh về dân chủ, tự phê bình và phê bình. Nội dung mới nhưng cốt lõi
vẫn phải là những vấn đề cụ thể, có ý nghĩa, tác dụng đối với hoạt động, phát triển của
chính quyền và đơn vị.
- Về đảng viên và đội ngũ cán bộ các cấp, cần không ngừng nâng cao chất lượng Đảng
viên và cán bộ các cấp, thông qua việc đánh giá, xếp loại đảng viên, các bước trong phát
triển đảng viên, quy trình trong công tác cán bộ, nhất là chuẩn bị cán bộ nguồn các cấp.
d) Xây dựng Đảng về đạo đức
- Trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng, tuy chưa dùng cụm từ “xây dựng Đảng về đạo
đức”, nhưng Hồ Chí Minh thật sự quan tâm tới xây dựng Đảng về đạo đức từ khi vạch ra
con Đường cách mệnh. Năm 1927, để chuẩn bị thành lập Đảng, Người đã bàn đến tư
cách của một người cách mạng. Đến Di chúc, Người khẳng định lại quan điểm đảng cầm
quyền, mỗi cán bộ, đảng viên phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần
kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch. Phải xứng đáng là
người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
- Xây dựng Đảng về đạo đức hiện nay phải thực hiện sáng tạo theo tư tưởng, tấm gương
Hồ Chí Minh. Trên cơ sở kiên quyết, kiên trì thực hiện các nghị quyết của Đảng về xây
dựng Đảng như Nghị quyết Trung ương sáu (lần 2) khóa VIII, Nghị quyết Trung ương 4
khóa XI, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh, thì nội dung xuyên suốt là mỗi cán bộ, đảng viên phải xác định
rõ bổn phận công bộc của mình, tận tâm, tận lực phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
Phải thường xuyên, nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình, hoan nghênh nhân dân phê
bình, giám sát; tự giác tu dưỡng, rèn luyện, tu thân, chính tâm. Trong mọi việc lớn, việc
nhỏ, hằng ngày, suốt đời phải đặt lợi ích của nhân dân và đất nước lên trên hết, trước hết.
Phải chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, không dính líu gì với vòng danh lợi; ngăn
chặn, đẩy lùi “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Cùng với việc thực hiện trách nhiệm nêu
gương, phải giữ nghiêm kỷ luật Đảng, pháp luật Nhà nước. Tóm lại phải xây dựng văn
hóa chính trị, lõi cốt là văn hóa đảng, xây đi đôi với chống, nói đi đôi với làm với quyết
tâm chính trị cao, thật sự vì nước, vì dân.

4. Cách học tập chủ nghĩa Mác của HCM: có những điểm gì giống và khác=> thể
hiện sự linh hoạt của HCM
Dưới ánh sáng chủ nghĩa Lênin, Hồ Chí Minh đúc kết được nhiều điều quan trọng, trong
đó đáng chú ý: Thứ nhất, khi phân chia các thứ cách mạng, nếu lấy tư tưởng làm tiêu chí
thì có ba loại: tư bản cách mạng, dân tộc cách mạng, giai cấp cách mạng; nếu lấy mục
tiêu của từng dân tộc và nhân loại thì có hai loại: dân tộc cách mạng và thế giới cách
mạng. Thứ hai, lý luận do phân tích kinh nghiệm cách mạng ở các nước và trong nước ta
từ trước đến nay kết luận thành. Vì vậy, “Học chủ nghĩa Mác-Lênin không phải nhắc
như con vẹt “Vô sản thế giới liên hiệp lại” mà phải thống nhất chủ nghĩa Mác-Lênin với
thực tiễn cách mạng Việt Nam. Hay nói cách khác, Hồ Chí Minh khẳng định chúng ta
phải làm dân tộc cách mạng là vì mâu thuẫn dân tộc giữa một bên là toàn thể dân tộc
Việt Nam sống thân phận nô lệ với một bên là bọn cướp nước là mâu thuẫn vừa cơ bản
vừa chủ yếu của xã hội Việt Nam thuộc địa. Giải quyết mâu thuẫn ấy để giành lại độc
lập, tự do là nhiệm vụ hàng đầu, không giành được độc lập dân tộc thì không có gì hết.
Do đó, Hồ Chí Minh chỉ rõ giải phóng dân tộc trước hết nhưng theo con đường cách
mạng vô sản, tức là độc lập dân tộc, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên CNXH.
Cách làm này vừa tránh được “vết xe đổ” của con đường phong kiến và tư sản ở Việt
Nam vừa không trở thành người bắt chước. Thực chất đây là sự vận dụng và phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Lênin trong giải quyết mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, độc lập
dân tộc và CNXH trong điều kiện cụ thể của nước ta. Kết hợp sáng tạo giữa “quy luật
nhất định” và “con đường khác nhau”, Hồ Chí Minh cho thấy có nhiều con đường để đi
tới mục tiêu duy nhất là CNXH (cộng sản). Đó là “sự gặp gỡ giữa dân tộc và thời đại”.
Độc lập dân tộc và CNXH có mối quan hệ biện chứng. “Nếu nước độc lập mà dân không
hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Nước độc lập là điều kiện
tiên quyết để đi lên CNXH. Còn CNXH là thước đo giá trị của độc lập dân tộc.
a) Hồ Chí Minh vận dụng, phát triển sáng tạo về Đảng Cộng sản
- V.I.Lênin đưa ra quan điểm Đảng Cộng sản ra đời là sự kết hợp CNXH khoa học và
phong trào công nhân. Hồ Chí Minh khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự
kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt
Nam, “Đảng ta là Đảng của giai cấp, đồng thời cũng là của dân tộc, không thiên tư,
thiên vị”.
=> Sự sáng tạo của Hồ Chí Minh so với chủ nghĩa Lênin không chỉ bổ sung yếu tố phong
trào yêu nước vào sự ra đời của Đảng Cộng sản mà còn cho thấy phong trào yêu nước có
khả năng kết hợp với phong trào công nhân, vì cả hai phong trào cùng một nhiệm vụ và
mục tiêu trước mắt là chống xâm lược, giành độc lập dân tộc. Sự xuất hiện một yếu tố
mới là phong trào yêu nước không những không hạ thấp vai trò của CNXH khoa học,
ngược lại tỏ rõ rằng ở các nước thuộc địa như Việt Nam, chủ nghĩa Mác-Lênin có một
mảnh đất màu mỡ, “lực lượng vật chất” không chỉ là phong trào công nhân mà còn có cả
phong trào yêu nước. Ngược lại, phong trào yêu nước phải được tiếp nhận lý luận khoa
học của chủ nghĩa Mác-Lênin mới thành phong trào yêu nước triệt để. Sáng tạo ở vế
“đồng thời là Đảng của dân tộc” ở chỗ: Thứ nhất, cơ sở xã hội của Đảng không chỉ là giai
cấp công nhân mà là toàn thể dân tộc. Thứ hai, Đảng không chỉ vì lợi ích của giai cấp
công nhân mà vì lợi ích cả dân tộc. Thứ ba, Đảng không chỉ trong tim của người đảng
viên đảng cộng sản, mà phải “gần gũi tận trong lòng của mỗi đồng bào ta”.
- Từ những chỉ dẫn quan trọng của Lênin phải luôn quan tâm tới lợi ích của giai cấp vô
sản, Hồ Chí Minh khẳng định: “Ngoài lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc, thì Đảng không
có lợi ích gì khác”. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, mỗi đảng viên và cán bộ phải thật
sự thấm nhuần, giữ vững đạo đức cách mạng, “cao nhất là chí công vô tư”. Người nhấn
mạnh: “Hy sinh lợi ích cá nhân, thậm chí hăng hái vui vẻ hy sinh tính mệnh của mình cho
Đảng, cho giai cấp, cho dân tộc, cho loài người, đó là nguyên tắc tối cao, đạo đức tối cao
của mỗi đảng viên”.
- Liên quan tới tư cách của người cách mạng, theo định hướng của Lênin chống tha hóa
quyền lực, Hồ Chí Minh có những chỉ dẫn sớm rất cụ thể về vấn đề này. Ngay sau cách
mạng thành công, Người đã chỉ ra “Những người trong các công sở đều có nhiều hoặc ít
quyền hành. Nếu không giữ đúng Cần, Kiệm, Liêm, Chính thì dễ trở nên hủ bại, biến
thành sâu mọt của dân”. Theo Người, cán bộ có quyền phải đặc biệt chú trọng thực hành
chữ “liêm”: “Trước nhất là cán bộ các cơ quan, các đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp
thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có
dịp ăn của đút, có dịp “dĩ công vi tư”.
- Về quan liêu, nếu Lênin tập trung chỉ ra nguy hại của bệnh này, thì Hồ Chí Minh vạch
rõ biểu hiện, tác hại và quan hệ với tham ô, lãng phí. Theo Người, những người và những
cơ quan lãnh đạo mắc bệnh quan liêu là “có mắt mà không thấy suốt, có tai mà không
nghe thấu, có chế độ mà không giữ đúng, có kỷ luật mà không nắm vững. Kết quả là
những người xấu, những cán bộ kém tha hồ tham ô, lãng phí. Thế là bệnh quan liêu đã ấp
ủ, dung túng, che chở cho nạn tham ô, lãng phí. Vì vậy, muốn trừ sạch nạn tham ô, lãng
phí, thì trước mắt phải tẩy sạch bệnh quan liêu”.
b) Vận dụng, phát triển sáng tạo về lực lượng cách mạng
Trong giai đoạn ĐQCN, V.I.Lênin nêu khẩu hiệu “Giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp
bức, đoàn kết lại!”. Hồ Chí Minh nhấn mạnh:
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công”.
Khẩu hiệu đoàn kết của Hồ Chí Minh chứa đựng ba tầng đoàn kết: đoàn kết trong Đảng,
đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế và tỷ lệ thuận giữa sức mạnh đoàn kết và khả năng
thành công. Người chỉ rõ: “Vì bị áp bức mà sinh ra cách mệnh, cho nên ai mà bị áp bức
càng nặng thì lòng cách mệnh càng bền, chí cách mệnh càng quyết”. Khái niệm “dân tộc
cách mệnh” trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh chứa đựng một hàm lượng khoa học,
sáng tạo lớn trong việc tổ chức lực lượng cách mạng, chính xác là xây dựng chiến lược
đại đoàn kết toàn dân tộc. Toàn thể dân tộc Việt Nam bị áp bức đồng tâm hiệp lực đánh
đuổi thực dân Pháp, “thà chết được tự do hơn sống làm nô lệ”. Người cũng luôn khẳng
định tinh thần “bốn phương vô sản đều là anh em”.
c) Vận dụng, phát triển nhận thức lý luận về thời kỳ quá độ
Việt Nam cùng loại hình phương thức quá độ gián tiếp như nước Nga, nhưng với những
đặc điểm một nước thuộc địa, tiến trình cách mạng Việt Nam từ giải phóng dân tộc đến
dân chủ nhân dân, xây dựng CNXH là sự kế tục một cách mật thiết, đan xen, đồng thời,
mặt này trong mặt kia trong cùng một quá trình vận động các mặt kinh tế-xã hội theo
định hướng XHCN. Tất nhiên có trọng tâm, ở mỗi bước có mặt nổi lên chi phối, không
thể “vượt bỏ giai đoạn”, nhưng cũng không thể “từ từ từng bước”. Đặc điểm đó của chế
độ dân chủ nhân dân, đồng thời cũng liên quan đến đặc điểm của thời kỳ quá độ của một
thứ cách mạng điển hình. Quá độ lên CNXH ở Việt Nam là như thế và nhất định phải như
thế. Chế độ dân chủ nhân dân có thể gọi là “quá độ của quá độ”. Nó không phải là một
chặng đường của thời kỳ quá độ, nhưng là một chế độ có tính chất quá độ, ít nhiều làm
chức năng của thời kỳ quá độ.
Theo Hồ Chí Minh, “đặc điểm to nhất của ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông
nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư
bản chủ nghĩa”. Nói đặc điểm to nhất có thể hiểu là khó khăn, phức tạp nhất, một cuộc
chiến đấu khổng lồ. Nói tiến thẳng là theo tinh thần của chủ nghĩa Lênin về con đường
phát triển bỏ qua chế độ TBCN trong những điều kiện lịch sử cho phép. Nhưng bỏ qua
không có nghĩa là đốt cháy giai đoạn, chủ quan, nóng vội, phiêu lưu làm ẩu, duy ý chí.
Đặc điểm to nhất chứa đựng trong đó mâu thuẫn cơ bản của thời kỳ quá độ ở nước ta là
mâu thuẫn giữa một bên là yêu cầu, đòi hỏi tất yếu của CNXH phải có một nền công
nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, văn hóa khoa học tiên tiến với một bên là trình độ
thấp kém, lạc hậu do thực dân, phong kiến để lại. Thực tế lạc hậu của xã hội Việt Nam
cho thấy thời kỳ quá độ ở nước ta xuất hiện hệ thống mâu thuẫn đan xen, phức tạp, vừa
mang tính đối kháng vừa mang tính không đối kháng, xét đến cùng đó là mâu thuẫn giữa
con đường XHCN và con đường tự phát TBCN.
Quá độ lên CNXH ở Việt Nam trong điều kiện đồng thời tiến hành hai chiến lược cách
mạng, thực hiện hai quy luật trên một ý nghĩa nào đó là “trái ngược” nhau: xóa bỏ và xây
dựng. Chúng ta phải vừa cải tạo vừa xây dựng, vừa sản xuất vừa chiến đấu. Điều này
chưa có tiền lệ. Theo Giáo sư Nhật Bản, Singô Sibata, “một trong những cống hiến quan
trọng của Cụ Hồ Chí Minh và của Đảng Lao động Việt Nam là đã đề ra lý luận về xây
dựng chủ nghĩa xã hội trong khi vẫn tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân. Theo tôi được
biết, Đảng Lao động Việt Nam là đảng đầu tiên trong các đảng mácxít trên thế giới áp
dụng lý luận này”.
d) Bổ sung, phát triển đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội
- Di sản tư tưởng Hồ Chí Minh cho thấy có hai đặc trưng bản chất của xã hội XHCN ở
Việt Nam, đó là đặc trưng kinh tế và đặc trưng văn hóa. Sáng tạo của Hồ Chí Minh là cụ
thể hóa quan điểm có ý nghĩa phương pháp luận của V.I.Lênin trong điều kiện cụ thể của
một nước nông nghiệp lạc hậu, kinh tế kém phát triển.
- Về đặc trưng kinh tế. Theo V.I.Lênin, bản chất của CNXH trước hết phải làm cho mọi
người dân sung sướng, ấm no, tức phải đặt yếu tố kinh tế lên hàng đầu. Cách diễn đạt của
Hồ Chí Minh cho thấy rõ điều này: “Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển
kinh tế và văn hóa. Vì sao không nói phát triển văn hóa và kinh tế? Tục ngữ ta có câu: Có
thực mới vực được đạo; vì thế kinh tế phải đi trước”. “Nói một cách tóm tắt, mộc mạc,
chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho
mọi người có công ăn việc làm được ấm no và sống một đời hạnh phúc”.
- Về đặc trưng văn hóa. Dân chủ và dân làm chủ là vấn đề cốt tử của cách mạng. Theo Hồ
Chí Minh, trong một nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân; bao nhiêu quyền hành và lực
lượng đều ở nơi dân. Người đã làm sáng tỏ quan hệ giữa dân với Đảng, Chính phủ và cán
bộ, đảng viên. Nhân dân có quyền kiểm soát đại biểu của mình, còn những người trong
bộ máy cách mạng đều được phân công làm đày tớ cho dân. “Nếu Chính phủ làm hại dân
thì dân có quyền đuổi Chính phủ”. “Đảng không phải làm quan, sai khiến quần chúng mà
phải làm đầy tớ cho quần chúng và phải làm cho ra trò, nếu không quần chúng sẽ đá đít”.
- Hồ Chí Minh bàn nhiều đến mối quan hệ giữa người với người và công bằng, bình
đẳng. Công bằng và bình đẳng không hoàn toàn có sự phân biệt rạch ròi, mà thể hiện sự
ngang bằng về bổn phận và quyền lợi, cống hiến và hưởng thụ. Người chỉ rõ “chủ nghĩa
xã hội là công bằng hợp lý: Làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm thì không
được hưởng. Những người già yếu hoặc tàn tật sẽ được Nhà nước giúp đỡ chăm nom”.
Khi bàn về công bằng, Hồ Chí Minh chỉ rõ lòng tin của nhân dân là điều đáng quan tâm
nhất: “- Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng; - Không sợ nghèo, chỉ sợ lòng dân
không yên”.
- Khía cạnh “văn minh” trong đặc trưng văn hóa cũng hàm chứa một tư duy sâu sắc. Theo
Hồ Chí Minh, trong chế độ chính trị một đảng cầm quyền duy nhất lãnh đạo, muốn xã hội
văn minh thì Đảng phải văn minh. Từ văn minh của Đảng lan tỏa ra toàn xã hội. Chính
sức mạnh văn minh của Đảng, của dân tộc, mỗi con người và toàn xã hội với hạt nhân là
lòng dạ trong sáng, không sa vào chủ nghĩa cá nhân sẽ làm nên thắng lợi của cách mạng.

Câu 4: Chương 5 
TTHCM về  Đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế

I. Đại đoàn kết dân tộc

a. Vai trò
Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, quyết định sự thành công của cách mạng
 Đại đoàn kết dân tộc nhằm tập hợp mọi lực lượng: Đó là chiến lược tập hợp mọi
lực lượng có thể tập hợp được nhằm hình thành sức mạnh to lớn của toàn dân tộc
trong cuộc đấu tranh với kẻ thù dân tộc. “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, thành
công, thành công, đại thành công”.
 Đại đoàn kết dân tộc luôn luôn được khẳng định là vấn đề sống còn: Đại đoàn kết
là vấn đề sống còn của dân tộc, là một chiến lược cách mạng - chiến lược huy
động, tập hợp mọi lực lượng có thể tập hợp được, hình thành sức mạnh to lớn của
toàn dân tộc trong đấu tranh CM. “Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi”;
“Đoàn kết là điểm mẹ: Điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt”.
Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, của dân tộc
 Đại đoàn kết phải được khẳng định là nhiệm vụ hàng đầu của mọi giai đoạn cách
mạng: Đại đoàn kết dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, đồng thời cũng là
nhiệm vụ hàng đầu của mọi giai đoạn cách mạng. Nhấn mạnh vấn đề này là nhấn
mạnh tới vai trò của thực lực cách mạng. Bởi cách mạng muốn thành công nếu chỉ
có đường lối đúng chưa đủ mà trên cơ sở của đường lối đúng, Đảng phải cụ thể
hoá thành những mục tiêu, nhiệm vụ và phương pháp cách mạng phù hợp với từng
giai đoạn lịch sử để lôi kéo, tập hợp quần chúng, tạo thực lực cho cách mạng.
 Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc: Hồ Chí Minh
còn chỉ ra rằng, đại đoàn kết dân tộc không phải chỉ là mục tiêu của Đảng, mà còn
là nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc. Bởi vì, cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng, phải do quần chúng, vì quần chúng.

b. Lực lượng
Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân
 “Dân, nhân dân” vừa là một tập hợp đông đảo quần chúng vừa là mỗi con người
Việt Nam cụ thể, cả hai đều là chủ thể của đại đoàn kết dân tộc. Đó là “mọi con
dân nước Việt”, “mỗi một người con rồng cháu Tiên”, không phân biệt dân tộc đa
số hay thiểu số, có tín ngưỡng hay không có tín ngưỡng, không phân biệt “già,
trai, gái, trai, giàu nghèo, quý tiện”. Đại đoàn kết dân tộc thực chất là đại đoàn kết
toàn dân.
 Nòng cốt của khối đại đoàn kết dân tộc là liên minh công – nông: Không có liên
minh công - nông vững mạnh thì không thể xây dựng được khối đại đoàn kết toàn
dân vững chắc bởi liên minh công - nông là cơ sở, là nền tảng của khối đại đoàn
kết toàn dân ở nước ta. 
Điều kiện thực hiện đại đoàn kết dân tộc
 Phải kế thừa truyền thống yêu nước - nhân nghĩa - đoàn kết của dân tộc. Truyền
thống này đã được hình thành, củng cố và phát triển trong suốt quá trình dựng
nước và giữ nước, trở thành giá trị bền vững, thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm, tâm
hồn của mỗi con người Việt Nam yêu nước. Truyền thống đó là cội nguồn sức
mạnh vô địch để cả dân tộc chiến đấu và chiến thắng mọi thiên tai địch họa, làm
cho đất nước được trường tồn, bản sắc dân tộc được giữ vững.
 Phải có lòng khoan dung, độ lượng với con người. Hồ Chí Minh chỉ rõ, trong mỗi
cá nhân cũng như mỗi cộng đồng đều có những ưu điểm, khuyết điểm, mặt tốt,
mặt xấu. Cho nên, vì lợi ích của cách mạng, cần phải có lòng khoan dung độ
lượng, trân trọng cái phần thiện dù nhỏ nhất ở mỗi con người mới có thể tập hợp,
quy tụ rộng rãi mọi lực lượng. Lòng khoan dung độ lượng ở Hồ Chí Minh là sự
tiếp nối và phát triển truyền thống nhân ái, bao dung của dân tộc, từ chính mục
tiêu của cuộc cách mạng mà Người suốt đời theo đuổi.
 Để thực hiện đại đoàn kết rộng rãi, cần có niềm tin vào nhân dân, yêu nhân dân,
tin nhân dân, dựa vào dân, sống đấu tranh vì hạnh phúc của nhân dân là nguyên tắc
tối cao. Dân là chỗ dựa vững chắc của Đảng, nguồn sức mạnh vô tận, vô địch của
khối đại đoàn kết dân tộc, quyết định mọi thắng lợi của CMVN.
 Trong xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc phải lấy lợi ích chung làm điểm quy tụ
đồng thời phải tôn trọng các lợi ích khác biệt chính đáng 
 Lợi ích tối cao của dân tộc Việt Nam là nguyên tắc bất di bất dịch của cách mạng
Việt Nam. Và lợi ích đó chính là độc lập tự do. 

c. Hình thức tổ chức 


Hình thức tổ chức của khối đại đoàn kết dân tộc là mặt trận dân tộc thống nhất
Đại đoàn kết dân tộc phải được thực hiện bằng sức mạnh của quần chúng nhân dân, có tổ
chức, có lãnh đạo. Vì vậy, Người rất chú ý đến việc đưa quần chúng nhân dân vào những
tổ chức yêu nước, mà bao trùm lên tất cả là tổ chức mặt trận dân tộc thống nhất. Tuy
nhiên, tùy theo từng thời kì, từng giai đoạn cách mạng mà có những hình thức tổ chức
mặt trận cho phù hợp.
Một số nguyên tắc cơ bản về xây dựng và hoạt động của mặt trận dân tộc thống nhất
 Mặt trận dân tộc thống nhất phải được xây dựng trên nền tảng khối liên minh công
– nông - trí thức, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng
 Mặt trận dân tộc thống nhất phải hoạt động trên cơ sở bảo đảm lợi ích tối cao của
dân tộc, quyền lợi cơ bản của các tầng lớp nhân dân.
 Mặt trận dân tộc thống nhất phải hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ
bảo đảm đoàn kết ngày càng rộng rãi và bền vững.
 Mặt trận dân tộc thống nhất là khối đoàn kết chặt chẽ, lâu dài, thật sự, chân thành,
thân ái giúp đỡ  nhau cùng tiến bộ.

d. Phương thức xây dựng


 Làm tốt công tác dân vận
 Thành lập đoàn thể, tổ chức phù hợp vs từng đối tượng để tập hợp quần chúng.
Xây dựng, kiện toàn, không ngừng phát triển hệ thống chính trị cách mạng, từ
Đảng, Nhà nước đến các đoàn thể quần chúng. Sự thống nhất và bền vững của hệ
thống chính trị cách mạng, theo Hồ Chí Minh, chính là nhân tố quyết định sự tồn
tại và sức mạnh của đại đoàn kết dân tộc
 Các đoàn thể, tổ chức quần chúng được tập hợp và đoàn kết trong Mặt trận dân tộc
thống nhất (thêm bạn bớt thù): đoàn kết và phát huy sức mạnh các lực lượng cách
mạng, xóa bỏ thành kiến để trọng dụng các lực lượng trung gian, cô lập và tiêu
diện các thế lực thù địch, tranh thủ những nhân tố có thể tranh thủ

II. Đoàn kết quốc tế


a. Nội dung
Sự cần thiết xây dựng đoàn kết quốc tế
 Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại,
tạo sức mạnh tổng hợp cho cách mạng Việt Nam: Tập hợp lực lượng bên ngoài,
tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của bạn bè quốc tế, kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh của các trào lưu cách mạng thế giới tạo ra sức mạnh tổng
hợp cho cách mạng chiến thắng kẻ thù. 
 Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm góp phần cùng nhân dân thế giới thực hiện thắng
lợi các mục tiêu cách mạng của thời đại: Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, chủ nghĩa yêu
nước chân chính phải được gắn liền với chủ nghĩa quốc tế vô sản, đại đoàn kết dân
tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế; thực hiện đoàn kết quốc tế không phải chỉ
vì thắng lợi của cách mạng mỗi nước, mà còn vì sự nghiệp chung của nhân loại
tiến bộ trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và các thế lục phản động
quốc tế vì các mục tiêu cách mạng của thời đại
Lực lượng đoàn kết và hình thức tổ chức
 Lực lượng cần đoàn kết:
+Phong trào cộng sản và công nhân thế giới – lực lượng nòng cốt của đoàn kết
quốc tế, sự đoàn kết giữa giai cấp vô sản quốc tế là một bảo đảm vững chắc cho
thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản.
+ Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc: từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã kiến nghị
“làm cho các dân tộc thuộc địa, từ trước tới nay vẫn cách biệt nhau, hiểu biết nhau
hơn và đoàn kết lại”
+ Các lực lượng tiến bộ, những người yêu chuộng hòa bình, dân chủ, tự do và
công lý: Hồ Chí Minh cũng tìm mọi cách để thực hiện đoàn kết. Hồ Chí Minh đã
nhiều lần 
tuyên bố: “chính sách ngoại giao của chính phủ thì chỉ có một điều tức là thân
thiện với tất cả các nước dân chủ trên thế giới để giữ gìn hòa bình”

 Hình thức tổ chức: tư tưởng đại đoàn kết vì thắng lợi cách mạng của Hồ Chí Minh
đã định hướng cho việc hình thành bốn tầng mặt trận
+Mặt trận đại đoàn kết dân tộc: khơi dậy sức mạnh và quyền tự quyết mỗi dân tộc 
+Mặt trận đoàn kết Việt – Miên – Lào: phối hợp và giúp đỡ nhau cùng chiến
thắng 
+Mặt trận nhân dân Á – Phi đoàn kết với Việt Nam: củng cố qhe đoàn kết hữu
nghị 
+Mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam chống đế quốc xâm lược:
tranh thủ sự đồng tình của các nc XHCN, bạn bè quốc tế, tạo thế dựa cho CMVN

b. Nguyên tắc đoàn kết quốc tế


Đoàn kết trên cơ sở thống nhất mục tiêu và lợi ích, có lý, có tình
 Để đoàn kết với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, Hồ Chí Minh giương
cao ngọn cờ độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, thực hiện đoàn kết thống
nhất trên nền tảng của chủ nghĩa Mác – Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý,
có tình.
 Để đoàn kết với các dân tộc trên thế giới, Hồ Chí Minh giương cao ngọn cờ độc
lập, tự do và quyền bình đẳng giữa các dân tộc.
 Để đoàn kết với các lực lượng tiến bộ trên thế giới, Hồ Chí Minh giương cao ngọn
cờ hòa bình trong công lý.
Đoàn kết trên cơ sở độc lập, tự chủ, tự lực tự cường
Đoàn kết quốc tế là để tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ của các lực lượng quốc tế,
nhằm tăng nội lực, tạo sức mạnh thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ cách mạng đặt ra. Để
đoàn kết tốt phải có nội lực tốt. Nội lực là nhân tố quyết định còn nguồn lực ngoại sinh
chỉ có thể phát huy tác dụng thông qua nguồn lực nội sinh. Chính vì vậy, trong đấu tranh
cách mạng, Hồ Chí Minh luôn nêu cao khẩu hiệu: “Tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là
chính”

 Tư tưởng HCM về thêm bạn bớt thù trong thời chiến


Thực tiễn chứng minh, sự đúng - sai trong việc tập hợp lực lượng luôn là một nhân tố
quyết định sự thành - bại của cuộc đấu tranh. Với mục đích tập hợp lực lượng rộng rãi, cô
lập kẻ thù, tạo nên tương quan lực lượng có lợi cho cách mạng, Hồ Chí Minh đã tìm ra
phương pháp xác định bạn - thù chính xác và sử dụng linh hoạt các phương cách đạt trình
độ nghệ thuật.  

Tư tưởng “thêm bạn, bớt thù” chỉ có thể thực hiện trên cơ sở xác định đúng mâu thuẫn vì
nhận thức đó sẽ giúp người cách mạng xác định đúng nhiệm vụ, xác định chính xác
những lực lượng nòng cốt của cách mạng. Với nhãn quan chính trị sắc bén và tinh thần
dân tộc cao cả, Hồ Chí Minh xác định mâu thuẫn xã hội bằng cách đặt các quyền dân tộc
cơ bản: độc lập, tự do, toàn vẹn lãnh thổ lên trên hết. Từ đó, Người nhận ra mâu thuẫn
chủ yếu, nổi bật trong xã hội Việt Nam luôn là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam
với thế lực đế quốc xâm lược và vì vậy, kẻ thù chính yếu của nhân dân Việt Nam là đế
quốc cướp nước, áp bức bóc lột dân ta.      
Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn làm cách mạng thắng lợi thì phải phân biệt rõ ai là bạn
ai là thù, phải thực hiện thêm bầu bạn, bớt kẻ thù”. Đó là nguyên tắc chung của mọi cuộc
cách mạng, đối với một dân tộc nhỏ lại phải đối đầu với các kẻ thù mạnh và thâm độc thì
việc “làm cho nước mình ít kẻ thù hơn hết và nhiều bạn đồng minh hơn hết” càng trở nên
cấp thiết.

Với sự thông tuệ, V.I.Lê-nin từng chỉ dẫn kế sách: “Chỉ có thể thắng một kẻ thù mạnh
hơn bằng một nỗ lực hết sức lớn và với một điều kiện bắt buộc là phải lợi dụng một cách
hết sức tỷ mỷ..., hết sức khôn khéo bất cứ một “rạn nứt “bé nhỏ giữa các kẻ thù... cũng
như phải lợi dụng mọi khả năng dù bé nhỏ nhất để có được một bạn đồng minh mạnh về
số lượng, dù đó là bạn đồng minh tạm thời, bấp bênh, ít chắc chắn và ít tin cậy”.       

Không chỉ thâu thái và thấm nhuần những chỉ dẫn đó, Hồ Chí Minh còn phát triển thêm
những phương cách mới phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam để rồi tư tưởng
“thêm bạn, bớt thù” của Người đi vào thực tiễn cách mạng với những chủ trương hết sức
linh hoạt và phong phú như lợi dụng mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù; nhân nhượng có
nguyên tắc để lôi kéo đồng minh; phân biệt chính phủ hiếu chiến với nhân dân yêu
chuộng hòa bình của nước đối phương; độ lượng, khoan dung, lôi kéo những người con
của dân tộc đã lầm lạc đi theo đế quốc... Như vậy, đối với Hồ Chí Minh, “thêm bạn, bớt
thù” vừa là tư tưởng trong dạng thức các luận điểm lý luận, vừa là phương pháp với tư
cách là “là hợp điểm giữa lý luận và thực tiễn, giữa nhận thức và hành động”, vừa là nghệ
thuật khi phương pháp đã đạt tới sự uyển chuyển để mang lại những hiệu quả to lớn,...
Tất cả đã hòa quyện làm một để khắc họa nhân cách, tài năng, bản lĩnh kiệt xuất Hồ Chí
Minh.           

Lợi dụng triệt để mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù là chủ trương, biện pháp quan trọng
mà Hồ Chí Minh đã thực hiện để “thêm bạn, bớt thù”. Trở về lãnh đạo cách mạng Việt
Nam sau 30 năm bôn ba ở nước ngoài, tại Hội nghị Trung ương 8 (5 -1941), Hồ Chí
Minh xác định nguyên nhân của Chiến tranh thế giới II là do chính sách hiếu chiến, phản
động của lực lượng phát xít và trong cuộc chiến tranh này, “phe phát xít nhất định sẽ thất
bại, phe đồng minh sẽ chiến thắng”. Từ đó, Người xác định cách mạng giải phóng dân tộc
ở Việt Nam lúc này “là một bộ phận trong phe dân chủ chống phát xít” và quyết định
thành lập Mặt trận Việt Nam Độc lập Đồng minh.   

Việc lựa chọn con đường đúng đắn thuận lợi cho dân tộc bằng cách đứng về phe chính
nghĩa để chống phe phi nghĩa, trên cơ sở tiên tri chính xác diễn tiến lịch sử đã thể hiện
tầm nhìn sáng suốt và hành động mau lẹ, khôn ngoan của Hồ Chí Minh.           

Từ đó, Hồ Chí Minh chủ động tranh thủ tìm bạn đồng minh cho Mặt trận Việt Minh non
trẻ. Việc thiết lập quan hệ với Quốc dân Đảng Trung Hoa và Mỹ trước thềm Cách mạng
Tháng Tám đã tạo ra những điều kiện quốc tế thuận lợi cho chính quyền cách mạng, vì
theo Hồ Chí Minh, “các nước Đồng minh... không thể không công nhận quyền độc lập
của dân Việt Nam... một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy
năm nay dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!”.     

Sau Cách mạng Tháng Tám, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đứng trước muôn
vàn khó khăn, trong đó khó khăn lớn nhất là “nguy cơ giặc ngoại xâm” khi trên mảnh đất
Việt Nam nhỏ bé cùng hiện diện quân đội của các quốc gia hùng mạnh như Nhật, Anh,
Pháp và quân đội Tưởng Giới Thạch. Trong tình thế đó, Hồ Chí Minh khẳng định:
“Không nên cùng một lúc đánh tay 5, tay 6 với lũ cướp nước và bán nước. Đấm bằng cả
hai tay một lúc là không mạnh’’. Chân lý hiển nhiên đó như một lẽ phải thông thường của
cuộc sống đã được Hồ Chí Minh vận dụng, cụ thể hóa vào thực tiễn và trở thành “mẫu
mực tuyệt vời của sách lược lêninnít về lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ  địch”.   

Nhìn rõ mâu thuẫn giữa hai tập đoàn đế quốc là Anh - Pháp và Mỹ - Tưởng, chỉ trong
vòng hơn một năm, nền ngoại giao non trẻ Việt Nam dưới sự chèo lái của Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã thực hiện các sách lược ngoại giao khác nhau, thậm chí trái ngược nhau như
lúc thì hòa với Tưởng để tập trung chống Pháp ở miền Nam (8-1945 đến 3-1946), lúc thì
hòa với Pháp để đuổi Tưởng về nước (3-1946 đến 12-1946).  

Sự linh hoạt đó đã giúp cách mạng Việt Nam thoát khỏi tình thế “bị kẹp cả 2 phía: Bọn
Pháp và bọn Quốc dân Đảng”. Hồ Chí Minh thấu hiểu nghệ thuật ngoại giao là nghệ thuật
làm cho mình ít kẻ thù nhất. Vì vậy, Người không chỉ triệt để lợi dụng mâu thuẫn giữa
hai tập đoàn đế quốc là Anh - Pháp và Mỹ - Tưởng mà còn khơi sâu mâu thuẫn trong nội
bộ quân Tưởng và quân Pháp để làm giảm sức mạnh của những đội quân đông đúc, hùng
mạnh.

Sau này, tại Đại hội III của Đảng (1960), Hồ Chí Minh và Đảng ta xác định: Lợi dụng
mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù “là một nguyên tắc chiến lược chứ không chỉ là vấn đề
sách lược”. Từ đó, Đảng đưa ra chủ trương: “Đoàn kết bất cứ người nào có thể đoàn kết
được, tranh thủ bất cứ người nào có thể tranh thủ được, trung lập bất cứ người nào có thể
trung lập, cốt nhằm phân hóa kẻ thù đến cao độ và cô lập chúng”. Thực hiện chủ trương
đó, Đảng ta đã có nhiều biện pháp khéo léo nhằm khoét sâu mâu thuẫn giữa đế quốc Mỹ
và các đồng minh của họ; giữa phái chủ chiến với phái chủ hòa; giữa Mỹ với các nước
phụ thuộc; giữa Mỹ và chính quyền tay sai ở miền Nam Việt Nam... Kết quả là chiến
tranh Việt Nam ngày càng trở thành gánh nặng cả về vật chất lẫn tinh thần đối với Mỹ
khi bị nhân loại tiến bộ phản đối, nên cuối cùng, Mỹ đành chấp nhận xuống thang chiến
tranh.      

Để thực hiện tư tưởng “thêm bạn, bớt thù”, người cách mạng phải biết thỏa hiệp, biết
nhân nhượng để bảo toàn lực lượng, để lôi kéo đồng minh; thấy cuộc đối đầu trực diện là
không thể thắng do tương quan lực lượng bất lợi mà vẫn cứ đối đầu thì “đó là tội ác”.
Lênin từng chỉ rõ: “Tinh thần tuyệt đối trung thành với lý tưởng cộng sản phải được kết
hợp với nghệ thuật biết thỏa hiệp” để tránh ngọn đòn của kẻ địch, bảo toàn lực lượng, tiếp
tục cuộc đấu tranh trong tương lai. Vận dụng sáng tạo quan điểm của Lê-nin, trong giai
đoạn 1945-1946, để hòa hoãn với quân Tưởng ở miền Bắc khi cần tập trung chống Pháp
ở miền Nam,  Hồ Chí Minh đã sử dụng những các biện pháp tổng hợp như tiến hành các
cuộc tiếp xúc ngoại giao với tinh thần trọng thị và chấp nhận nhân nhượng cho quân
Tưởng một số quyền lợi về kinh tế, chính trị và quân sự... Chỉ 8 ngày sau khi Tưởng và
Pháp ký Hiệp ước Trùng Khánh (28-2-1946), Hồ Chí Minh đã ký kết được Hiệp định Sơ
bộ 6-3-1946 với Pháp trên tinh thần “cương quyết giữ quyền độc lập” nhưng liên minh
với Pháp, nhân nhượng cho Pháp một số quyền lợi về kinh tế, văn hóa... để “Pháp phải
thừa nhận quyền dân tộc tự quyết của ta”.           

Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, có lúc Hồ Chí Minh và
Đảng ta phải chấp nhận những điểm dừng tạm thời, những khúc quanh mang tính sách
lược.

Kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, ta đã chấp nhận đất nước tạm thời bị
chia cắt làm hai miền để đạt được mục đích quan trọng là buộc các nước tham gia Hiệp
định Giơnevơ cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của
Việt Nam, Pháp phải rút khỏi Đông Dương, miền Bắc Việt Nam được hoàn toàn giải
phóng, đặt cơ sở pháp lý quốc tế cho cuộc đấu tranh thống nhất đất nước sau này. Trong
kháng chiến chống Mỹ, sau gần 5 năm đấu tranh tại Hội nghị Pari, cuối cùng  ta và Mỹ đã
cùng nhân nhượng để mỗi bên đạt được mục mục tiêu quan trọng. Mục tiêu số một của
Việt Nam lúc này là “đánh cho Mỹ cút” để rồi sau đó sẽ tiến tới “đánh cho ngụy nhào”.
Sự thỏa hiệp đó đã có tác dụng thu hẹp lực lượng cần đánh đổ khi gạt ra khỏi miền Nam
Việt Nam hàng chục vạn lính viễn chinh Mỹ và đồng minh. Biết thỏa hiệp để bảo toàn
lực lượng là sáng suốt; biết nhân nhượng đúng mức, không quá “tả” để phá vỡ đàm phán,
không quá “hữu” để tổn hại đến lợi ích cơ bản của dân tộc là khôn khéo.        

Để “thêm bạn, bớt thù”, Hồ Chí Minh phân biệt tường minh giữa nhân dân yêu chuộng
hòa bình với bọn phản động, hiếu chiến trong chính phủ của nước đối phương. Trả lời
phỏng vấn của nhà báo Ôxtrâylia W.Bớcsét tháng 8-1963 và tháng 4-1964, Hồ Chí Minh
khẳng định: “Trước đây, chúng tôi đã chú ý phân biệt thực dân Pháp và nhân dân Pháp
yêu chuộng hòa bình, thì ngày nay chúng tôi cũng chú ý phân biệt nhân dân Mỹ vĩ đại có
truyền thống tự do, với bọn can thiệp Mỹ và bọn quân phiệt ở Hoa Thịnh Đốn”, “chúng
tôi phân biệt nhân dân Mỹ với đế quốc Mỹ. Chúng tôi muốn có những quan hệ hữu nghị
và anh em với nhân dân Mỹ mà chúng tôi rất kính trọng...”. Trong lực lượng của đối
phương thì “thêm bạn” chính là “bớt thù”, vì khi đó nhân dân Việt Nam chỉ phải chống
chính phủ hiếu chiến của Pháp và Mỹ chứ không phải chống toàn bộ nước Pháp và nước
Mỹ. Tương quan lực lượng vì thế đã xoay chuyển theo chiều hướng có lợi cho ta. Chủ
trương đó đã làm kẻ thù bị cô lập trên thế giới và đặc biệt là ngay trong nội bộ đất nước
mình. Làm cho cả nhân loại, kể cả nhân dân nước đi xâm lược vượt lên tình cảm dân tộc
thông thường, thuần túy để  trở thành bạn và ủng hộ hết mình cho Việt Nam thì đó quả
thật là kỳ tích mà Hồ Chí Minh và Đảng ta đã làm được.  
Để “thêm bạn, bớt thù”, Hồ Chí Minh có chủ trương khoan hồng, đại độ với những người
Việt Nam đã từng làm tay sai cho đế quốc, thực dân. Trong quá trình xâm lược nước ta,
các đế quốc, thực dân luôn cấu kết với lực lượng phản động trong nước, thi hành chính
sách thâm độc “dùng người Việt đánh người Việt”. Vì vậy, để chống chủ nghĩa thực dân,
đặc biệt là chủ nghĩa thực dân mới với sự trá hình, Hồ Chí Minh có chủ trương cô lập kẻ
thù đế quốc bằng cách cảm hóa, lôi kéo những người Việt lầm đường đó trở về với chính
nghĩa, với dân tộc; loại bỏ “vây cánh”, phần tử tay sai của chúng. Xuất phát từ quan điểm
đó, Người chủ trương: “Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hoà bình, thống nhất, độc lập, dân
chủ thì dù những người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn
kết với họ”). Người khẳng định: “Sự đồng tâm của đồng bào ta đúc thành bức tường 
đồng xung quanh Tổ quốc” nên mọi ý đồ đen tối của ngoại bang sẽ đều thất bại.

Nếu không có tư tưởng khoan hồng, đại độ thì khi chiến tranh kết thúc rất dễ xảy ra
những bi kịch mới như nội chiến, tạo cơ hội cho kẻ thù ngoại bang quay lại - điều đã và
đang xảy ra ở rất nhiều quốc gia khác. Vì vậy, chủ trương khoan dung, đại độ của Hồ Chí
Minh vừa có tính nhân văn, vừa là phương cách hiệu quả để bẻ gãy những âm mưu thâm
độc của kẻ thù. Vì thế, nó cũng là phương cách quan trọng để “thêm bạn, bớt thù”.           

Để đưa “con thuyền cách mạng đang luồn những mỏm đá ghềnh”, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã sử dụng linh hoạt, hiệu quả các phương pháp, chủ trương khác nhau, trong đó chủ
trương “thêm bạn, bớt thù” trong đấu tranh cách mạng vẫn là một viên ngọc lấp lánh
trong di sản tư tưởng của Người.     

Là một dân tộc nhỏ, trong cuộc đấu tranh bảo vệ các quyền lợi chân chính của dân tộc,
Việt Nam nhất thiết phải thực hiện tư tưởng “thêm bạn, bớt thù”, phải coi đó là một
nguyên tắc chiến lược chứ không phải là sách lược hay thủ đoạn chính trị. 

*Tư tưởng “ Việt Nam là bạn với các quốc gia”  thể hiện qua các kỳ đại hội:
Đại hội VII của Đảng diễn ra trong bối cảnh thế giới có những biến động lớn. Bên cạnh
mưu đồ “thế giới một cực” của Mỹ, khoảng trống quyền lực sau khi hệ thống XHCN sụp
đổ đã tạo ra những cơ hội cho một số nước nhăm nhe thế chỗ; bên cạnh đó, cơ hội cho
yếu tố đa cực cũng dần trở thành xu thế nổi trội trong quá trình tập hợp lực lượng của các
nước thông qua hoạt động ngày càng mạnh hơn của các tổ chức khu vực và các phong
trào cách mạng thế giới. Việc các nước XHCN Đông Âu sụp đổ cũng khiến cho chỗ dựa
vững chắc của chúng ta không còn nữa.

Quan điểm, chủ trương “thêm bạn, bớt thù” trong quá trình thực thi đã làm xuất hiện
những tình huống mới,trong đó khái niệm “bạn”,“thù” cần được hiểu rộng hơn. Đại hội
VII khẳng định: “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới,
phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển” và từ chủ trương đó, hình thành nên chính
sách đối ngoại theo hướng “đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại”. Nhận thức
mới trong tư duy lý luận về nội hàm khái niệm “bạn” và “thù” được thể hiện cụ thể trong
việc thực thi chính sách đa dạng hóa, đa phương hóa các mối quan hệ quốc tế, mở rộng
quan hệ với tất cả các quốc gia, các tổ chức quốc tế và khu vực, các phong trào chính trị
thế giới trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Đại hội IX (2001) đánh dấu bước tiến trong tư duy của Đảng về đối ngoại đa phương khi
chuyển từ “muốn là bạn” sang“sẵn sàng là bạn”, là “đối tác tin cậy của các nước trong
cộng đồng quốc tế” trong chủ trương đối ngoại của Đảng giai đoạn này. Điều Này cho
thấy sự chủ động, tích cực, đồng thời ngày càng khẳng định được vị thế, vai trò của Việt
Nam trong các mối quan hệ quốc tế.

Cùng với quá trình triển khai các nội dung cụ thể trong đường lối đối ngoại với chủ
trương hội nhập kinh tế quốc tế, tư duy của Đảng về “bạn”, “thù” dần được hoàn thiện,
thay thế bằng cụm từ “đối tác”, “đối tượng” với nội hàm cụ thể hơn. Nghị quyết Trung
ương  8 khóa IX chỉ rõ: “Đối tác của chúng ta là bất kể ai tôn trọng độc lập, chủ quyền,
mong muốn thiết lập và xây dựng quan hệ hữu nghị, bình đẳng, cùng có lợi với Việt
Nam; đối tượng ta cần kiên quyết đấu tranh là những ai tìm cách chống lại sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc của ta. Trong mỗi đối tượng vẫn có thể có những mặt cần tranh
thủ và trong một số đối tác vẫn có thể có những khác biệt, mâu thuẫn với lợi ích của ta”

Đại hội XI của Đảng (2011) đánh dấu bước chuyển quan trọng trong tư duy về đối ngoại
đa phương khi đưa ra định hướng:“thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự
chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và
tích cực hội nhập quốc tế; Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm
trong cộng đồng quốc tế…”. Đại hội cũng nhấn mạnh sự kết hợp chặt chẽ giữa hội nhập
quốc tế và đối ngoại đa phương với yêu cầu giữ vững an ninh,quốc phòng để bảo vệ chủ
quyền của Tổ quốc.
Câu 5: Chương 6: Tư tưởng HCM về văn hóa, đạo đức và con người
*Khái niệm: Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện
của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi
của sự sinh tồn
*Một số nội dung cơ bản về văn hóa trong tư tưởng Hồ Chí Minh
 Văn hoá vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng
Hồ Chí Minh cho rằng, văn hoá nói chung, chủ nghĩa Mác-Lênin nói riêng đóng
vai trò quan trọng tạo bước nhảy vọt triệt để trong tư duy, hành động của con
người và của các dân tộc bị áp bức, bị tha hoá đến vương quốc của con người phát
triển tự do và toàn diện.
Văn hoá như một động lực thúc đẩy các dân tộc đoàn kết và hiểu biết lẫn nhau.
Với nhận thức như vậy, bằng sự nỗ lực hoạt động không mệt mỏi trên mặt trận văn
hoá thông qua sách, báo, văn thơ... Hồ Chí Minh làm cho các dân tộc hiểu rõ bản
chất của chủ nghĩa thực dân ở các nước thuộc địa và con đường cách mạng chân
chính cần phải thực hiện. 
Hồ Chí Minh cho rằng, văn hoá có tác dụng “sửa đổi tham nhũng, lười biếng, phù
hoa, xa xỉ, sửa xã hội cũ, xây xã hội mới”. Văn hoá tạo sức mạnh để chiến thắng
ngoại xâm theo tinh thần “văn minh thắng bạo tàn”. Kinh tế nâng cao đời sống vật
chất, còn văn hoá có tác dụng nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân.
Nếu hiểu “văn hoá là tất cả những gì không phải thiên nhiên, nghĩa là tất cả những
gì do con người, ở trong con người và liên quan trực tiếp nhất đến con người” thì
khi chúng ta bàn tới con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh là thể hiện rõ rệt nhất
cả khái niệm văn hoá, cả bản chất của văn hoá theo ý nghĩa vừa là động lực, vừa là
mục tiêu của sự nghiệp cách mạng. Hồ Chí Minh dạy: “Vì lợi ích mười năm thì
phải trồng cây. Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. “Bồi dưỡng thế hệ cách
mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”… Con người có đạo
đức, trí tuệ, văn hoá, sức khoẻ vừa là động lực xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa là
mục tiêu của sự nghiệp cách mạng.
 Giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại
Hồ Chí Minh có ý thức rõ ràng về giá trị văn hoá dân tộc, văn hoá tinh thần và văn
hoá vật chất. Người cho rằng, “càng thấm nhuần chủ nghĩa Mác-Lênin càng phải
coi trọng những truyền thống tốt đẹp của cha ông”. Người ca ngợi truyền thống
yêu nước, thương người, tinh thần dân chủ, tinh thần quốc tế, đoàn kết, yêu đời,
lạc quan, ngợi ca các anh hùng và danh nhân Việt Nam. Người giáo dục: “Dân ta
phải biết sử ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”. Hồ Chí Minh đòi hỏi phải
“phát huy vốn cũ quý báu của dân tộc”, tức là khôi phục cái gì tốt, cái gì không tốt
thì phải loại dần ra, tránh tình trạng khôi phục cả đồng bóng, rước xách thần thánh.
Người khẳng định truyền thống “nhân dân ta từ lâu đã sống với nhau có tình có
nghĩa”.
Bảo tồn và phát triển văn hoá dân tộc đồng thời cần triệt để tẩy trừ mọi di hại
thuộc địa và ảnh hưởng nô dịch của văn hoá đế quốc, tôn trọng phong tục tập
quán, văn hoá các dân tộc ít người.
Nói đến văn hoá dân tộc và để văn hoá dân tộc có điều kiện phát triển, Hồ Chí
Minh cho rằng: “Văn hoá Việt Nam ảnh hưởng lẫn nhau của văn hoá Đông
phương và Tây phương chung đúc lại (...). Tây phương hay Đông phương có cái gì
tốt ta phải học lấy để phải tạo ra một nền văn hoá Việt Nam. Nghĩa là lấy kinh
nghiệm tốt của văn hoá xưa và văn hoá nay, trau dồi cho văn hoá Việt Nam thật có
tinh thần thuần túy Việt Nam để hợp với tinh thần dân chủ”
Theo Hồ Chí Minh, văn hoá dân tộc và văn hoá nhân loại quan hệ chặt chẽ với
nhau. Nhưng văn hoá trước hết là sự tồn tại và phát triển của một cộng đồng dân
cư bền vững. Yếu tố dân tộc là yếu tố quyết định nhất của một nền văn hoá. Dựa
trên cơ sở gốc là văn hoá dân tộc, lấy đó là điều kiện, cơ sở để tiếp thu văn hoá
nhân loại.

=> Quan điểm của Đảng về phát triển văn hóa hiện nay
Mục tiêu phấn đấu của Đảng và nhân dân ta hiện nay là vì sự nghiệp “Dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” chính là đã chú trọng giải quyết các
mối quan hệ cơ bản này trên cơ sở quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh. Ở đây, chúng ta không nhắc lại toàn bộ Nghị quyết của
Đảng ta về vấn đề văn hoá và con người mà chỉ đề cập đến một số vấn đề trọng
tâm cần chú ý hiện nay.
Những vấn đề văn hoá và con người là vấn đề trọng tâm phản ánh sự ưu việt của
chế độ chính trị xã hội, phản ánh chất lượng và mục đích cuối cùng của sự tăng
trưởng kinh tế trong chế độ xã hội chủ nghĩa. Những vấn đề này gắn bó, thống
nhất hữu cơ với nhau đảm bảo cho sự phát triển bền vững của đất nước. Trong đó,
năm quan điểm chỉ đạo cơ bản trong quá trình xây dựng và phát triển sự nghiệp
phát triển văn hoá nước ta là:
- Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực
thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội.
- Nền văn hoá mà chúng ta đang xây dựng là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc.
- Nền văn hoá Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng
đồng các dân tộc Việt Nam.
- Xây dựng và phát triển văn hoá là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh
đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.
- Văn hoá là một mặt trận; xây dựng và phát triển văn hoá là một sự nghiệp
cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì thận
trọng.
Năm quan điểm chỉ đạo xây dựng và phát triển văn hóa này đã thể hiện sự phát
triển tư duy lý luận của Đảng về văn hóa ở bình diện khái quát cao, bao quát được
toàn bộ những vấn đề cốt lõi của việc xây dựng và phát triển văn hóa trong thời kỳ
mới. Sự sáng tạo của Đảng không chỉ dừng lại ở việc nhận thức sâu sắc và toàn
diện hơn vai trò của văn hóa trong sự nghiệp đổi mới mà còn thể hiện ở việc xác
định rõ phương hướng, đặc trưng, tính chất, động lực và đặc thù của hoạt động xây
dựng và phát triển văn hóa. Đây cũng là sự đúc kết lý luận, tổng kết thực tiễn, vận
dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào
xác định quan điểm chỉ đạo xây dựng và phát triển văn hóa trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế.

ĐẠO ĐỨC
Vấn đề ĐĐCM và giáo dục ĐĐCM cho đội ngũ CBĐV được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề
cập tới trong nhiều tác phẩm quan trọng. Trong thời kỳ mở đầu cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp, “vừa kháng chiến vừa kiến quốc”, vào năm 1947, Người viết tác phẩm
“Sửa đổi lối làm việc” và “Đời sống mới”. Sau đó, vào năm 1949, Người viết tác phẩm
“Cần kiệm liêm chính” và “Dân vận”, nêu bật yêu cầu đạo đức trong tiêu chuẩn cán bộ.
Hơn mười năm sau, kể từ khi viết “Sửa đổi lối làm việc” và “Đời sống mới”, vào năm
1958, Người viết tác phẩm “Đạo đức cách mạng”.
Cho đến cuối đời, vào năm 1969, Người viết “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch
chủ nghĩa cá nhân” và “Di chúc”, lại một lần nữa, Người đặt lên hàng đầu ĐĐCM, theo
đó, phải ra sức quét sạch “giặc nội xâm” là chủ nghĩa cá nhân – kẻ thù nguy hiểm nhất,
ẩn nấp trong lòng mỗi người. 
*Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
a.Quan điểm về vai trò và sức mạnh của đạo đức
Đạo đức là cái gốc của người cách mạng
Đạo đức là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội
=> Biểu hiện ở những giá trị đạo đức cao đẹp, phẩm chất người cộng sản ưu tú, bằng tấm
gương sống và hành động của mình, chiến đấu cho lý tưởng đó trở thành hiện thực.
b.Quan điểm về chuẩn mực đạo đức cách mạng
Trung với nước, hiếu với dân
+ Trung với nước: tuyệt đối trung thành với sự nghiệp dựng nước và giữ nước, trung
thành với con đường đi lên của đất nước, suốt đời phấn đấu cho Đảng cho cách mạng
+ Hiếu với dân: thương dân, tin dân, phục vụ nhân dân hết lòng
Đối với cán bộ: Hồ Chí Minh yêu cầu phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, thường
xuyên quan tâm cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
+ Chế độ phong kiến: đã nêu ra cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư nhưng không thực
hiện mà bắt nhân dân tuân theo để phụng sự quyền lợi cho chúng
+ Ngày nay: cán bộ thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư để đem lại hạnh phúc
cho nhân dân
Thương yêu con người sống có tình nghĩa
+ Dành tình cảm rộng lớn cho những người nghèo khổ, bị mất quyền, bị áp bức, bóc lột,
không phân biệt chủng tộc màu da
+ Xây dựng tình đồng chí, anh em, bạn bè…
Có tinh thần quốc tế trong sáng
+ Đó là sự thương yêu, đoàn kết với giai cấp vô sản toàn thế giới, tất cả các dân tộc và
nhân dân các nước, 
+ chống lại mọi sự chia rẽ, hằn thù, bất bình đẳng và phân biệt chủng tộc
+ chống lại chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, biệt lập và chủ nghĩa bành trướng bá quyền
Mục tiêu: hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, tiến bộ xã hội, hợp tác và hữu nghị theo tinh
thần: “bốn phương vô sản, bốn bể đều là anh em”
c.Quan điểm về những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới
Nói đi đôi với làm, phải nêu gương đạo đức
Nói đi đôi với làm Hồ Chí Minh coi đây là nguyên tắc quan trọng bậc nhất trong xây
dựng một nền đạo đức. Điều này được Hồ Chí Minh khẳng định từ giữa những năm 20
của thế kỷ XX trong tác phẩm Đường Cách Mệnh Bản thân Hồ Chí Minh là tấm gương
trong sáng lời nói đi đôi với việc làm. Nói đi đôi với làm  là bản chất của tư tưởng đạo
đức Hồ Chí Minh – Đạo đức cách mạng.  Nói đi đôi với làm đối lập hoàn toàn với thói
đạo đức giả của giai cấp bóc lột, nói một đàng làm một nẻo, thậm chí nói mà không làm.
Ngay sau khi thắng lợi của Cách Mạng Tháng Tám. Hồ Chí Minh đã chỉ ra những biểu
hiện của thói đạo đức giả ở một số cán bộ, "vác mặt làm quan cách mạng", nói mà không
làm. Sau này, Người đã nhiều lần bàn đến việc tẩy sạch căn bệnh quan liêu, coi thường
quần chúng của một số cán bộ, đảng viên "miệng thì nói dân chủ, nhưng làm việc thì họ
theo lối "quan" chủ. Miệng thì nói "phụng sự quần chúng". nhưng họ làm trái ngược với
lợi ích của quần chúng, trái ngược với phương châm và chính sách của Đảng và Chính
phủ" , làm tổn hại uy tín của Đảng và Chính phủ trước nhân dân.
[3]

Xây đi đôi với chống


+ Giáo dục những phẩm chất, chuẩn mực đạo đức mới phù hợp với từng giai đoạn, lứa
tuổi, ngành nghề, giai cấp và tầng lớp
+ Xây dựng mục tiêu chống chủ nghĩa đế quốc, chống thói quen, tập quán lạc hậu và loại
trừ chủ nghĩa các nhân
=> Người cho rằng: “Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng.Ta phải biết làm cho
phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó
là thái độ của người cách mạng”.
Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời
+ HCM nhấn mạnh: mỗi người tự nhận thấy việc trau dồi đạo đức cách mạng là “ sung
sướng và vẻ vang nhất trên đời”
+ Đạo đức cách mạng là đạo đức dấn thân, đạo đức trong hành động vì độc lập tự do của
dân tộc, hạnh phúc của nhân dân
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI VÀ XÂY DỰNG CON NGƯỜI
Tư tưởng HCM là một bước phát triển mới của chủ nghĩa Mác-lê nin, được vận dụng một
cách sáng tạo và thực tiễn giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Điều cốt lõi của tư tưởng HCM là độc lập dân tộc gắn liền với giải quyết xã hội và giải
phóng con người. Trong đó, vấn đề con người là vấn đề lớn, được đặt lên hàng đầu và là
vấn đề trung tâm, xuyên suốt trong toàn bộ nội dung và tư tưởng của người. 
I. Tư tưởng HCM về con người.
1. Con người được nhìn nhận như một chỉnh thể 
Tư tưởng HCM về con người được dựa trên thế giới quan duy vật triệt để của chủ nghĩa
Mác- Lênin. Chính vì xuất phát từ thế giới quan duy vật triệt để ấy, nên khi nhìn nhận và
đánh giá vai trò của bản thân mình, Người không bao giờ cho mình là người giải phóng
nhân dân. Tư tưởng này đã vượt xa và khác về chất so với tư tưởng “chăn dân” của
những người cầm đầu nhà nước phong kiến có tư tưởng yêu nước xưa kia. 
Người xem xét con người như một chỉnh thể thống nhất về tâm lực, thể lực và các hoạt
động của nó.con người luôn hướng đến cái Chân- Thiện- Mỹ, mặc dù “có thế này, thế
khác”. Người xem xét con người trong sự thống nhất của của hai mặt đối lập: thiện-ác,
hay-dở, tốt-xấu,… Người quan niệm con người có tốt, có xấu, nhưng dù là “ tốt hay xấu,
văn minh hay dã man đều có tình”.
Hồ Chí Minh có cách nhìn nhận, xem xét con người trong tính đa dạng của nó: đa dạng
trong các mối quan hệ xã hội; đa dạng trong tính cách, khát vọng, phẩm chất, khả năng; 
Con người, với tư cách là những cá nhân, không tồn tại biệt lập mà tồn tại trong mối quan
hệ biện chứng với cộng đồng dân tộc và với các loài người trên toàn thế giới. Người nêu
một định nghĩa về con người: "Chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu
bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả loài người”. Người chưa bao giờ
nhìn nhận con người một cách chung chung, trừu tượng. 
2. Con người cụ thể lịch sử 
Trong những văn kiện ghi chép về tư tưởng Hồ Chí Minh, con người không được tồn tại
như một phạm trù mang tính trừu tượng hoá, khái quát mà được đề cập một cách cụ thể,
đó là dân tộc Việt Nam, nhân dân Việt Nam. 
Lôgíc phát triển tư tưởng của Người là xuất phát từ chủ nghĩa yêu nước để đến với chủ
nghĩa Mác - Lênin, đến với chủ nghĩa quốc tế chân chính. Theo lôgíc phát triển tư tưởng
ấy, khái niệm "con người" của Hồ Chí Minh tiếp cận với khái niệm "giai cấp vô sản cách
mạng". Người đề cập đến giai cấp vô sản cách mạng và sự thống nhất về lợi ích căn bản
của giai cấp đó với các tầng lớp nhân dân lao động khác (đặc biệt là nông dân). Người
nhận thức một cách sâu sắc rằng, chỉ có cuộc cách mạng duy nhất và tất yếu đạt tới được
mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và toàn thể nhân loại khỏi mọi sự nô
dịch, áp bức. 
Như trong bài “Nông dân đoàn kết”, Người có viết: 
Nông dân đoàn kết, cả nước một nhà,
Đủ cả dân tộc, đủ cả trẻ già;
Ai cũng cố gắng thi đua tăng gia,
Kế hoạch nông nghiệp chắc là thành công.
Phần lớn, Người đặt phần lớn vấn đề con người trong các mối quan hệ xã hội, quan hệ
giai cấp, theo giới tính (thanh niên, phụ nữ), theo lứa tuổi (phụ lão, nhi đồng), nghề
nghiệp (công nhân, nông dân, trí thức...), trong khối thống nhất của cộng đồng dân tộc (sĩ,
nông, công, thương) và quan hệ quốc tế (bầu bạn năm châu, các dân tộc bị áp bức, bốn
phương vô sản).  Đó là con người hiện thực, cụ thể, khách quan. 
3.  Bản chất con người mang tính xã hội
Để sinh tồn, con người phải hoạt động sản xuất. Đó là quy luật hiển nhiên. Trong quá
trình lao động sản xuất, con người dần nhận thức được những hiện tượng, quy luật của tự
nhiên, xã hội, hiểu mình và hiểu biết lẫn nhau, tạo nên mối quan hệ giữa người với người.
Vì vậy, con người có tính xã hội, là con người xã hội, thành viên của một cộng đồng xã
hội. 
Với phương pháp biện chứng duy vật, triết học Mác nhận thức vấn đề con người một
cách toàn diện, cụ thể, trong toàn bộ tính hiện thực xã hội của nó, mà trước hết là lao
động sản xuất ra của cải vật chất.
“Có thể phân biệt con người với súc vật, bằng ý thức, bằng tôn giáo, nói chung bằng bất
cứ cái gì cũng được. Bản thân con người bắt đầu bằng sự tự phân biệt với súc vật ngay
khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình – đó là một bước tiến
do tổ chức cơ thể của con người quy định. Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình,
như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thường đặt mỗi cá nhân con người trong mối quan hệ ba chiều:
Quan hệ với một cộng đồng xã hội nhất định trong đó mỗi con người là một thành viên;
quan hệ với một chế độ xã hội nhất định trong đó con người được làm chủ hay bị áp bức
bóc lột; quan hệ với tự nhiên trong đó con người là một bộ phận không thể tách rời
II. Quan niệm của HCM về vai trò của con người và xây dựng con người
A. Quan niệm HCM về vai trò của con người
1. Con người là mục tiêu cách mạng
Theo Hồ Chí Minh, “trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân, trong thế giới này
không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Vì vậy, “vô luận việc gì đều
do người làm ra, và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa đều thế cả”.Người cho rằng “việc dễ
mấy không có dân cũng chịu, việc khó mấy có dân liệu cũng xong. Nhân dân là yếu tố
quyết định thành công của cách mạng.“Lòng yêu nước và sự đoàn kết của nhân dân là
một lực lượng vô cùng to lớn,không ai thắng nổi’’. Vậy nên con người vừa là mục tiêu,
vừa là động lực của cách mạng, phải coi trọng chăm sóc, phát huy nhân tố con người.
 Mục tiêu của cách mạng: là giải phóng dân tộc, giải phóng lao động xã hội,giải phóng
con người, thực hiện độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Người xác định rõ trách nhiệm
của Người cũng là của Đảng và Chính phủ là“làm sao cho nước ta hoàn toàn được độc
lập, nhân dân ta hoàn toàn được tự do,đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng
được học hành’’. Người xác định con người là mục tiêu trong điều kiện cụ thể của từng
giai đoạn cách mạng. khi đất nước còn nô lệ, lầm than thì mục tiêu trước hết, trên hếtlà
giải phóng dân tộc, giành độc lập dân tộc. Con người là mục tiêu của cách mạng nên mọi
chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng đều vì lợi ích chính đáng của con người.
Việc gì hại cho dân - dù nhỏ đến mấy – ta phải hết sức tránh. 
2. Con người là động lực cách mạng 
Con người là động lực cách mạng, đặc biệt giai cấp công-nông trí là nền tảng cho sự
nghiệp giải phóng đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội, 
Theo HCM "Cách mệnh thành công phải công nông làm gốc" - Trích Đường Cách mệnh,
và về sau này là liên minh Công-nông-trí "Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự
kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Thành
phần chủ chốt trong Đảng là các phần tử ưu tú trong giai cấp công nhân, nông dân và
tầng lớp trí thức trong các phong trào yêu nước và cách mạng.” 
Bài học này được HCM rút ra từ thất bại của Công xã Paris khi không kết nối được mối
quan hệ chặt chẽ giữa lực lượng công nhân và lực lượng nông dân, cũng như không được
sự ủng hộ từ nhiều giai cấp khác. Điều này cũng đi khác so với nhiều khuynh hướng canh
tân cách mệnh cùng thời như Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh chỉ hướng chủ thể của
cách mạng về giai cấp tri thức mà chưa có phương hướng cụ thể với các giai cấp khác.
Không phải con người nào cũng có thể trở thành động lực cách mạng mà  họ phải
là những con người có giác ngộ và có tổ chức. Họ phải có trí tuệ, bản lĩnh, văn hoá, đạo
đức, được nuôi dưỡng trên nền truyền thống lịch sử và văn hoá hàng ngàn năm của dân
tộc.
Ngay từ khi thành lập Đảng, Hồ Chí Minh đã vạch ra nhiệm vụ vận động công
nhân, nông dân, trí thức đoàn kết lại đứng lên làm cách mạng. Với các chính sách: Công
nông trí thức hoá; trí thức công nông hoá (anh em trí thức cũng biết trọng lao động, cũng
biết làm lao động, hợp thành một khối với công nông, nâng cao trình độ công nông về
văn hóa, lý luận), Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vai trò là tổ chức xây dựng và lãnh đạo
khối liên minh công - nông - trí.
B. Quan niệm của Hồ Chí Minh về xây dựng con người
1. Ý nghĩa của tư tưởng HCM về xây dựng con người
“Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”
Trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trồng cây và trồng người đều mang ý nghĩa
vô cùng quan trọng. Trồng cây và trồng người đều là vì lợi ích của quốc gia, vì lợi ích
dân tộc.
a. “Trồng người” trở thành yêu cầu khách quan, là vấn đề chiến lược vừa cấp
bách, vừa lâu dài, là quy luật của cách mạng Việt Nam. 
Trên cơ sở khẳng định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng. Hồ
Chí Minh rất quan tâm đến sự nghiệp giáo dục, đào tạo và rèn luyện con người.
Sinh thời, dù bận trăm công ngàn việc nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn luôn quan tâm
đến sự nghiệp giáo dục.  "Trồng người" là một trong những mối quan tâm hàng đầu của
Chủ tịch Hồ Chí Minh trong sự nghiệp cách mạng của mình. Đó  cũng "là tài sản tinh
thần vô cùng to lớn  và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp
cách mạng của Nhân dân ta giành thắng lợi"
Người nói đến “lợi ích trăm năm” và mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội là những quan
điểm mang tầm vóc chiến lược, cơ bản, lâu dài, nhưng cũng rất cấp bách. Con người
được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước với nghĩa
rộng, vừa nằm trong chiến lược giáo dục đào tạo theo nghĩa hẹp. Trồng người phải được
tiến hành song song với nhiệm vụ phát triển lực lượng sản xuất và quan hệ xã hội chủ
nghĩa. Đặc biệt, chiến lược trồng người vừa mang tính thường xuyên, cấp bách, vừa
mang tính lâu dài, phải công phu, tỉ mỉ như người làm vườn.

b. Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hôi, trước hết phải có những con người xã hội
chủ nghĩa
Trong chiến lược “Trồng người”, quan điểm của Người rất rõ ràng: “Ta xây dựng con
người cũng phải có ý định rõ ràng như nhà kiến trúc. Định xây dựng ngôi nhà như thế
nào rồi mới dùng gạch, vữa, vôi, cát, tre, gỗ... mà xây nên”. Một nước Việt Nam độc lập,
đi lên chủ nghĩa xã hội thì phải có những con người phù hợp với nó. Trong kháng chiến,
thì cần phải xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, “xúc tiến công tác văn hoá để đào tạo con
người mới và cán bộ mới cho công cuộc kháng chiến kiến quốc”. Trong xây dựng xã hội
chủ nghĩa, Người khẳng định: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì trước hết cần có
những con người xã hội chủ nghĩa”. Không phải chờ cho kinh tế, văn hóa cao rồi mới xây
dựng con người xã hội chủ nghĩa, cũng không phải xây dựng con người xhcn rồi mới xây
dựng xhcn. Việc xây dựng con người phải đặt ra từ đầu và quan tâm suốt quá trình. 
“Con người mới”, “Con người xã hội chủ nghĩa” trong chiến lược “Trồng người” của Hồ
Chí Minh là những con người phát triển toàn diện, vừa kế thừa những giá trị tốt đẹp của
con người truyền thống, vừa hình thành được những phẩm chất và năng lực mới. Họ có
thể xuất hiện trong công nhân, nông dân, lao động trí óc, và các tầng lớp xã hội khác; họ
có thể là thiếu niên, nhi đồng, là thanh niên, là  phụ nữ, trong lực lượng vũ trang và nhất
là đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng… 
c. Chiến lược trồng người là một trọng tâm, bộ phận hợp thành của chiến lược phát
triển kinh tế-xã hội. 
Trồng người, xây dựng con người mới phải được thường xuyên đẩy mạnh trong suốt tiến
trình đi lên chủ nghĩa xã hội và phải đạt được kết quả cụ thể trong từng thời kỳ quá độ.
Bởi vì, nếu sao nhãng việc trồng người, nhất định sẽ dẫn đến những bất cập, hơn nữa là
những suy thoái về con người có thể dẫn đến hậu quả khôn lường. R. Tagorre nói “ một
ngày mà quên giáo hóa, ta lùi gần về thú tính hơn”. 
Để thực hiện chiến lược "trồng người", cần có nhiều biện pháp, nhưng giáo dục và đào
tạo là biện pháp quan trọng bậc nhất. Bởi vì giáo dục tốt sẽ tạo ra tính thiện, đem lại
tương lai tươi sáng cho thanh niên. Ngược lại, giáo dục tồi sẽ ảnh hưởng xấu đến thanh
niên.
“ Ngủ thì ai cũng như lương thiện
Tỉnh dậy phân ra kẻ dữ, hiền
Hiền, dữ phải đâu là tính sẵn 
Phần nhiều do giáo dục mà nên”
Tư tưởng Hồ Chí Minh về "trồng người", được hình thành và phát triển trong quá trình
đấu tranh cách mạng của Nhân dân ta. Nó không chỉ là  sợi chỉ đỏ "soi đường" chỉ đạo sự
nghiệp “trồng người” của Đảng và Nhà nước ta mà còn thể hiện tình cảm của Bác : “Tôi
chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập,
dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học
hành”  Ngoài ra, do nhận thức sâu sắc rằng “một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Vậy
.

nên, giáo dục con người là điều vô cùng quan trọng. 


2. Nội dung của xây dựng con người 
- Đào tạo được những người có đạo đức cách mạng: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô
tư, có ý thức làm chủ, có tinh thần tập thể, có tư tưởng mình vì mọi người, có tinh thần
dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, không tham ô, tham nhũng, lãng phí, quan
liêu.
- Đào tạo ra những con người có đạo đức và lối sống xã hội chủ nghĩa: trung với nước,
hiếu với dân, thương yêu con người, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Có tinh thần
quốc tế trong sáng, có lối sống lành mạnh, trong sáng.
- Đào tạo ra những người có tác phong xã hội chủ nghĩa: có ý chí học hỏi, cầu tiến bộ,
làm việc có kế hoạch, có kỷ luật, có kỹ thuật, có năng suất, chất lượng hiệu quả. Lao
động quên mình, không sợ khó, không sợ khổ, làm việc vì lợi ích của xã hội, tập thể và
bản thân mình.
- Đào tạo ra những người có năng lực để làm chủ: bản thân, gia đình và công việc mình
đảm nhiệm, có đủ sức khỏe và tư cách tham gia làm chủ nhà nước và xã hội, thực hiện có
kết quả quyền công dân: phải không ngừng nâng cao trình độ chính trị, văn hóa, khoa học
- công nghệ, chuyên môn nghiệp vụ để làm chủ. 
3. Phương pháp 
- Mỗi người tự rèn luyện, tu dưỡng ý thức, kết hợp chặt chẽ với xây dựng cơ chế, tính
khoa học của bộ máy và tạo dựng nền dân chủ.
- Việc nêu gương, nhất là người đứng đầu, có ý nghĩa rất quan trọng.
- Chú trọng vai trò của tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể quần chúng.
- Tác động vào nhu cầu, lợi ích, giá trị của con người
 
- Giáo dục là phương pháp quan trọng bậc nhất:
+ Giáo dục phải hướng đến mục tiêu đào tạo ra những công dân có ích cho xã hội, phát
triển hoàn toàn những năng lực có sẵn.
+ Nội dung giáo dục phải hướng đến con người phát triển toàn diện cả “đức” lẫn “tài”
cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. 
+ Trong giáo dục, vai trò của người thầy là truyền thụ kiến thức, hướng dẫn cách học cho
người học. Mỗi thầy cô giáo phải không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao năng lực,
trình độ chuyên môn và phẩm chất đạo đức của người giáo viên. Với việc xây dựng đội
ngũ giáo viên như vậy sẽ là một nhân tố quan trọng quyết định sự thành công trong chiến
lược “trồng người”.”
III. Vận dụng

1. Cuộc cách mạng về công nghiệp lần thứ tư và những yêu cầu về phẩm chất, năng
lực của con người Việt Nam hiện nay. 
(*) Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư:
Công nghiệp 4.0 đã và đang trở thành xu hướng biến đổi của bối cảnh xã hội toàn
cầu. Chúng mở ra một chặng đường mới mang tính chuyển đổi về lối sống, cách làm việc
và các mối quan hệ giao tiếp hàng ngày. Với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ trong
CMCN 4.0, nó sẽ làm thay đổi bản chất của công việc một cách đáng kể đối với tất cả các
ngành, nghề. Yêu cầu về trình độ lao động, kĩ năng lao động đặt lên hàng đầu để thích
ứng với máy móc, phương tiện kĩ thuật hiện đại, đi kèm với đó là mức độ chuyên môn
hóa ngày càng cao, đòi hỏi khả năng làm việc độc lập và khả năng làm việc nhóm, ý thức
kỉ luật lao động. 
Vậy nên, con người Việt Nam-chủ thể xây dựng đất nước cần phải có những phẩm
chất như sau:
(*) Những yêu cầu về phẩm chất, năng lực của con người Việt Nam hiện nay:
Đứng trước sự phát triển nhanh chóng và tác động của Cuộc cách mạng Công
nghiệp lần thứ tư, con người Việt Nam hiện nay cần có những yêu cầu về phẩm chất và
năng lực sau:
Về phẩm chất: 
-  Có phẩm chất đạo đức, lối sống trung thực, thẳng thắn, có ý chí tiến thủ và
khiêm tốn. 
Con người Việt Nam ngày nay phải thẳng thắng lên án những hành vi, những hiện
tượng vi phạm chuẩn mực xã hội. Cần sống có đức tính khiêm tốn, nhã nhặn, biết ứng xử
khóe léo, không tự mãn, không quá tự đề cao mình. Cần phải am hiểu pháp luật, sống và
làm việc theo pháp. 
- Có cái nhìn chuẩn mực về văn hóa giữa các thế hệ.
Bởi trong thời kỳ bùng nổ về công nghệ, sự phát triển nhanh chóng của internet,
tuy giúp con người có thể cập nhật thông tin dễ dàng, khả năng chia sẻ, kết nối cao…thì
có cũng có thể  khiến mỗi cá nhân chìm trong một không gian khép kín thiếu sự gắn kết,
chia sẻ giữa các thành viên trong gia đình và cộng đồng. Những rạn nứt trong cung cách
ứng xử, lối sống tạo ra những rào cản, xung đột ngầm giữa các thế hệ trong bối cảnh
chuyển đổi, tìm kiếm và thiết lập những mô hình gia đình phù hợp. 
- Tích cực, chủ động, nghiên cứu, học tập, biết sáng tạo, nhạy bén với các mới,
tích cực chủ động hội nhập.
Con người trong thời đại này nếu có thể tồn tại được thì cần phải sẵn sàng học hỏi
và đổi mới, đặc biệt là những tiến bộ khoa học công nghệ và kỹ năng ứng dụng vào thực
tiễn.
- Có tinh thần tự giác, tình nguyện, trách nhiệm trong công việc và giúp đỡ mọi
người.
Con người Việt Nam hiện nay cần phải hướng đến lợi ích xã hội, lợi ích quốc gia;
họ phải nhận thức được sứ mệnh của mình bằng trách nhiệm cống hiến cho xã hội. 
- Cần sống có lý tưởng, hoài bão
Đây là vấn đề không thể thiếu đối với con người Việt Nam hiện nay, nhất là khi
nguy cơ một bộ phận đang dần chạy theo lối sống thực dụng, vọng ngoại, chủ nghĩa cá
nhân. 
Về năng lực:
-  Yêu cầu về trình độ lao động, kĩ năng lao động, có tác phong công nghiệp
Trước yêu cầu của sự phát triển, giai cấp công nhân nước ta còn nhiều hạn chế, bất
cập, chẳng hạn như: Sự phát triển của giai cấp công nhân chưa đáp ứng được yêu cầu về
trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế; Thiếu nghiêm trọng các chuyên gia kỹ thuật, cán bộ
quản lý giỏi, công nhân lành nghề; Tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động còn nhiều
hạn chế; Đa phần công nhân từ nông dân, chưa được đào tạo cơ bản và có hệ thống.
- Khả năng làm việc độc lập và khả năng làm việc nhóm
Cơ sở tri thức của thời đại 4.0 luôn thay đổi và cập nhật liên tục. Bên cạnh đó,
cũng cần phải biết phối hợp với các công việc của nhóm, bởi việc tổng hợp kiến thức tập
thể, giải quyết vấn đề và thực hiện đòi hỏi khả năng làm việc nhóm tốt và linh hoạt trong
việc đảm nhận nhiệm vụ hoặc giải quyết các vấn đề có thể nằm ngoài định nghĩa công
việc hẹp nhưng cần thiết để thành công. 
- Khả năng thực hành, khả năng ngoại ngữ và khả năng thích nghi môi trường
cạnh tranh công nghiệp của con người Việt Nam.
Cuộc CMCN 4.0 làm cho các quốc gia, dân tộc xích lại gần nhau hơn, do đó, đòi
hỏi các cá nhân phải thông hiểu ngoại ngữ để trao đổi, liên kết trong công việc. Trong khi
đó khả năng ngoại ngữ của chúng ta còn khá thấp. Trong công tác xây dựng chương trình
giảng dạy còn thiếu các chương trình thực tế. Với tâm lí bằng cấp, hầu hết người học đều
lựa chọn học đại học hoặc sau đại học mà không chú trọng đến nhu cầu nhân lực cũng
như học nghề, điều này dẫn đến tình trạng thừa thầy thiếu thợ hiện nay và tình trạng
người lao động có bằng đại học nhưng chấp nhận làm những công việc không cần chuyên
môn kĩ thuật,...
- Ý thức kỷ luật nghiêm túc, khả năng chịu đựng được áp lực công việc
Trong một thế giới đầy cạnh tranh như hiện nay, để có hoàn thiện tốt bản thân và
công việc thì chính bản thân mối người cần phải chấp hành nghiêm túc các luật lao động,
cũng như rèn luyện cho mình khả năng chịu đựng được áp lực trước mọi nhiệm vụ được
giao.
2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào phát triển con người Việt Nam đáp ứng
yêu cầu cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. 
Quan điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề con người, trước hết, là “Nhìn nhận đặc điểm con
người Việt Nam với những điều kiện lịch sử cụ thể, những cấu trúc kinh tế, xã hội cụ
thể”. Như vậy, đối với thời đại Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, cần phải dựa vào đặc
điểm của thời đại này có thể vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh một cách phù hợp. 
Nhìn nhận về vận dụng tư tưởng của Hồ Chí Minh về phát triển con người trong thời đại
này có một số vấn đề liên hệ thực tế như sau. 
Thứ nhất, Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng con người chủ nghĩa xã hội, là xây dựng
con người toàn diện, “vừa hồng vừa chuyên”. Thời đại ngày nay chúng ta nhìn nhận một
con người vừa hồng vừa chuyên là như thế nào? Thứ nhất, là con người vừa có sức mạnh
về thể chất vừa có sức khỏe về tinh thần. Thứ hai, là con người nắm vững về chuyên môn
nghiệp vụ và có đời sống xã hội phong phú. Mấu chốt cần chú ý ở vấn đề này chính là
cách con người cân bằng như thế nào giữa công việc và cuộc sống cá nhân. 
Thứ hai, Hồ Chí Minh phải phát triển con người có mục đích sống cao đẹp, có bản lĩnh
chính trị vững vàng; có tư tưởng, tác phong và đạo đức xã hội chủ nghĩa và năng lực làm
chủ. 
Thứ ba, Cần kiệm xây dựng đất nước, hăng hái bảo vệ Tổ quốc. Ở Việt Nam, ý thức dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa yêu nước, khác hẳn với chủ nghĩa dân tộc cực đoan vốn hẹp
hòi, ích kỷ, mù quáng. Ý thức dân tộc cũng như chủ nghĩa yêu nước ở Việt Nam hiện nay
đã trở thành ý thức dân tộc hòa bình, luôn gắn kết Tổ quốc với các nước láng giềng và thế
giới, gắn kết dân tộc với nhân loại, cùng chia sẻ và cùng chịu trách nhiệm. 
Thứ tư, có phương pháp làm việc khoa học (work smarter not harder). Một trong những
tinh hoa mà chủ tịch Hồ Chí Minh học hỏi từ chủ nghĩa Mác Lê-nin là tinh thần làm việc
biện chứng. Trong thời đại khoa học dữ liệu thực, có phong cách làm việc khoa học là cơ
bản để có thể tồn tại và phát triển. 
Thứ năm, cần xây dựng hệ giá trị chuẩn của con người Việt Nam trong thời đại CMCN
4.0. Phải xây dựng được hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt
Nam trong thời đại mới thì mới có căn cứ để xây dựng con người. Văn hóa là nền tảng
tinh thần của xã hội, văn hóa còn nuôi dưỡng các giá trị của con người, là thước đo trình
độ phát triển con người, làm cho con người phát triển toàn diện
3. Sinh viên Ngoại giao trong học tập, làm theo tư tưởng HCM về phát triển con
người 
Dựa theo tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người, sinh viên Việt Nam nói
chung và sinh viên Ngoại giao nói riêng cần phải học tập và rèn luyện mỗi ngày để hoàn
thiện bản thân. Là những thế hệ lãnh đạo mới, sinh viên Ngoại giao phải vừa có đức vừa
có tài. 
Riêng với vấn đề đạo đức, Hồ Chí Minh có đưa ra một vài đức tính cần có để phát
triển con người: “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; khiêm tốn, trung thực”. Ngành
Ngoại giao và sinh viên Ngoại giao cần phải theo sát tư tưởng ấy, không tham lam, liêm
khiết chính trực, đặt việc công ra khỏi việc tư. Gần đây, vụ nhận hối lộ tại Cục Lãnh sự
để xét duyệt cấp phép cho các công ty thực hiện chuyến bay đưa Công dân Việt Nam từ
nước ngoài về nước nhằm trục lợi cá nhân là một câu chuyện đáng buồn của ngành Ngoại
giao, làm trái với tư tưởng Hồ Chí Minh, sinh viên Ngoại giao cần lấy đó làm bài học đắt
giá để rút kinh nghiệm trong tương lai. 
Thứ hai, sinh viên Ngoại giao cần học tập và làm việc có trách nhiệm với bản
thân, gia đình và xã hội. Hồ Chí Minh có đặt ra hai câu hỏi để sinh viên Việt Nam tự trả
lời: “Học để làm gì? Học để phục vụ ai?”. Thông thường, sinh viên đi học để có thể có đủ
kiến thức cho công việc tương lai, phục vụ cho cuộc sống cá nhân của mình. Điều này là
đúng và hoàn toàn hợp lý, nhưng đối với sinh viên Ngoại giao, đặc biệt những người có ý
định đi theo ngành chính trị, vào công tác ở các bộ phận của Bộ Ngoại giao, thì học
không chỉ để phát triển bản thân mà từ đó còn xây dựng và phát triển đất nước, lấy ngoại
giao phục vụ cho đất nước. Bởi khi là một nhà Ngoại giao, tiếng nói của họ sẽ đại diện
cho cả một quốc gia, do đó trách nhiệm của họ cũng lớn lao hơn.
Thứ ba, bản lĩnh chính trị vững vàng là một điều kiện quan trọng đối với sinh viên
Ngoại giao - những chính trị gia tương lai. Bản lĩnh chính trị được hình thành từ vốn kiến
thức sâu rộng, khách quan, từ đó ta sẽ có lòng tin vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước,
đặt lợi ích quốc gia - dân tộc trên hết để phục vụ đất nước. Đối với sinh viên khi chưa có
cơ hội thực chiến ở những bàn đàm phán thực sự, bản lĩnh chính trị đơn giản thể hiện ở
việc sinh viên có cái nhìn đa chiều và không bị những báo lề trái hay những thông tin sai
lệch dẫn dắt. 
Hiện nay thế giới đã bước tới cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đòi hỏi sinh
viên Ngoại giao cần có hiểu biết nhiều hơn về công nghệ kĩ thuật số, dùng truyền thông
để quảng bá về văn hóa truyền thống của Việt Nam - còn gọi là ngoại giao văn hóa. Về
phần này, sinh viên Ngoại giao đặc biệt các sinh viên ở khoa Truyền thông có một thế
mạnh rất lớn và tiềm năng, do khoa Truyền thông và Văn hóa đối ngoại của Học viện
Ngoại giao vừa trang bị nền tảng tốt về ngoại giao mà vừa đổi mới chương trình tân tiến
hiện đại phù hợp với sự phát triển của khoa học công nghệ. 
Ngoài ra trong cách mạng công nghiệp 4.0, nghiên cứu khoa học cũng phải được
chú trọng, khuyến khích sáng tạo khoa học, giúp đất nước phát triển toàn diện cả về chiều
rộng và chiều sâu. Ở Học viện Ngoại giao đã có Hội sinh viên Nghiên cứu khoa học, tập
trung nghiên cứu chuyên sâu các vấn đề chính trị quốc tế nổi bật trên thế giới, tạo cơ hội
cho sinh viên nghiên cứu khoa học thông qua các cuộc thi, nhằm tìm ra nhân tài ngoại
giao để làm việc trong tương lai ở các Viện nghiên cứu. 
Một vấn đề nữa đặc biệt trở nên quan trọng trong thời đại mới là phong cách làm
việc khoa học, phân bổ thời gian hợp lý, học ra học chơi ra chơi. Sinh viên Ngoại giao
thực hiện rất tốt tư tưởng này, vì ở Ngoại giao không chỉ học nhiều mà các hoạt động
ngoại khóa cũng nhiều, do đó sinh viên đều phải học cách để cân bằng thời gian cho từng
công việc.
Và cuối cùng, tư tưởng Hồ Chí Minh nêu ra: “Ý chí và nghị lực tinh thần to lớn,
quyết tâm vượt qua mọi thử thách, gian nguy để đạt được mục đích cuộc sống”. Riêng
với tư tưởng này, sinh viên Ngoại giao được rèn luyện 4 năm trong một môi trường áp
lực, với khối lượng kiến thức bài tập lớn, hướng tới phát triển mọi kĩ năng, do đó có thể
tự tin rằng sinh viên Ngoại giao được trang bị đầy đủ cả kiến thức và tinh thần để làm
việc ở bất cứ đâu. 
4. Vai trò của giáo dục trong tư tưởng HCM/trong sự nghiệp trồng người.

Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Nhiệm vụ giáo dục là rất quan trọng và vẻ vang, nếu
không có thầy giáo thì không có giáo dục… không có giáo dục, không có cán bộ thì
không nói gì đến kinh tế - văn hóa”.  Thầy, cô giáo là người định hướng, dẫn dắt thế hệ
trẻ từng bước nắm bắt chân lý thời đại, cho nên mọi tài liệu, giáo trình dù hay đến đâu
nếu không có thầy giáo hướng dẫn thì không phát huy hết tác dụng đối với thế hệ trẻ.
Người thầy là yếu tố quyết định đến chất lượng giáo dục, sản phẩm của dạy học là tương
lai của dân tộc. 
Đất nước ta đang trong thời kỳ đổi tiến tới hội nhập quốc tế, đòi hỏi sự nghiệp giáo dục -
đào tạo phải đi trước một bước nhằm chuẩn bị nhân tài, lực lượng lao động đáp ứng yêu
cầu trong giai đoạn mới. Trước những đòi hỏi đó, hơn ai hết mỗi giáo viên, cán bộ quản
lý giáo dục cần thấm nhuần sâu sắc tư tưởng của Bác Hồ kính yêu về nghề dạy học; từ đó
vận dụng sáng tạo và tổ chức tốt việc học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức
của Người.   
 Tư tưởng Hồ Chí Minh trong quá trình đi lên CNXH ( có cả đại hội XIII)
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người, trong Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định:
Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn
trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền của con người với quyền và lợi ích của dân
tộc, đất nước và quyền làm chủ nhân dân. Kết hợp và phát huy đầy đủ vai trò của xã hội,
gia đình, nhà trường, từng tập thể lao động, các đoàn thể, cộng đồng dân cư trong việc
chăm lo xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ, sức khỏe,
lao động giỏi; sống có văn hóa, nghĩa tình; có tinh thấn quốc tế chân chính. Xây dựng
gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường
quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách. Đơn vị sản xuất, học
tập, chiến đấu phải là môi trường rèn luyện phong cách làm việc có kỷ luật, có kỹ thuật,
có năng suất và hiệu quả cao, bồi đắp tình bạn, tình đồng chí, đồng đội, hình thành nhân
cách con người và nền văn hóa Việt Nam.
 Đến Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 9/6/2014 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI
(Nghị quyết 33) về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu
phát triển bền vững đất nước, xác định rõ các đặc trưng xây dựng con người Việt Nam có
nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung
thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo. Chăm lo xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn
diện, trọng tâm là bồi dưỡng tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, đạo đức, lối sống và
nhân cách. Tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức tôn trọng pháp luật, mọi
người Việt Nam đều hiểu biết sâu sắc, tự hào, tôn vinh lịch sử, văn hóa dân tộc. Các hoạt
động văn hóa, giáo dục, khoa học vào việc xây dựng con người có thế giới quan khoa
học, hướng tới chân – thiện – mỹ. Gắn xây dựng, rèn luyện đạo đức với thực hiện quyền
con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Nâng cao trí lực, bồi dưỡng tri thức
cho con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế, của nền kinh tế tri thức và xã hội học tập. Đúc kết và xây dựng
hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập quốc tế. Xây dựng và phát huy lối sống “Mỗi người vì mọi người, mọi người vì
mỗi người”; hình thành lối sống có ý thức tự trọng, tự chủ, sống và làm việc theo Hiến
pháp và pháp luật, bảo vệ môi trường; kết hợp hài hòa tính tích cực cá nhân và tính tích
cực xã hội; đề cao trách nhiệm cá nhân đối với bản thân, gia đình và xã hội. Khẳng định,
tôn vinh cái đúng, cái đẹp, tích cực, cao thượng, nhân rộng các giá trị cao thượng, nhân
văn. Tăng cường giáo dục nghệ thuật, nâng cao năng lực cảm thụ thẩm mỹ cho nhân dân,
đặc biệt là thanh niên, thiếu niên. Phát huy vai trò của văn học, nghệ thuật trong việc bồi
dưỡng tâm hồn, tình cảm con người. Bảo đảm quyền hưởng thụ và sáng tạo văn hóa của
mỗi người dân và của cộng đồng. Nâng cao thể lực và tầm vóc con người Việt Nam, giáo
dục thể chất với giáo dục tri thức, đạo đức, kỹ năng sống, đáp ứng yêu cầu xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái ác, cái xấu, thấp hèn, lạc hậu, chống các
quan điểm, hành vi sai trái, tiêu cực, ảnh hưởng xấu đến xây dựng nền văn hóa, làm tha
hóa con người.
Gần đây, Bộ Chính trị có Kết luận số 76-KL/TW, ngày 4/6/2020 tiếp tục thực hiện Nghị
quyết Trung ương 9 khóa XI (Nghị quyết 33) “về xây dựng và phát triển văn hóa, con
người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”, trong đó đề cập cụ thể
việc xây dựng con người Việt Nam, với các nội dung: Tập trung xây dựng con người Việt
Nam phát triển toàn diện. Khẩn trương hoàn thiện việc xây dựng hệ giá trị văn hóa và
chuẩn mực con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc
tế. Hướng các hoạt động văn hóa, giáo dục, khoa học vào việc xây dựng con người Việt
Nam có thế giới quan khoa học, có nhân cách, lối sống đẹp với các đặc tính cơ bản “yêu
nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo”. Tăng cường giáo dục
thẩm mỹ, gắn giáo dục thể chất với giáo dục tri thức, đạo đức, kỹ năng xã hội cho các
tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thanh niên, thiếu niên. Xây dựng lối sống tuân thủ pháp
luật, tôn trọng đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, “đền ơn đáp nghĩa”, “tương thân tương
ái”. Khẳng định, tôn vinh, nhân rộng các giá trị tốt đẹp, nhân văn. Chấn chỉnh kịp thời
việc lợi dụng hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo để truyền bá tư tưởng duy tâm thần bí, thực
hành mê tín dị đoan, gây mất an ninh trật tự. Đấu tranh loại trừ các sản phẩm văn hóa độc
hại, các hành vi tiêu cực, cơ hội, vi phạm pháp luật, truyền bá tư tưởng sai trái, lối sống
thực dụng, trái thuần phong mỹ tục của dân tộc, ảnh hưởng xấu đến xây dựng và phát
triển văn hóa, con người Việt Nam.
 Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người, Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Nghị quyết
33, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nêu ra những nội dung cụ thể, rõ hơn về các đặc
trưng, chuẩn mực của con người Việt Nam: Xây dựng con người Việt Nam phát triển
toàn diện, có sức khỏe, năng lực, trình độ, có ý thức, trách nhiệm cao đối với bản thân,
gia đình, xã hội và Tổ quốc. Xây dựng con người Việt Nam giàu lòng nhân ái, khoan
dung, chân thành, tín nghĩa, trọng đạo lý, cần cù, chăm chỉ, tiết kiệm, sáng tạo, hiện đại.
Phát huy tinh thần yêu nước, ý chí tự cường, tự hào dân tộc, lòng nhân ái, tinh thần đoàn
kết, đồng thuận xã hội, tính cộng đồng và khơi dậy mạnh mẽ khát vọng phát triển của dân
tộc; đề cao ý thức, trách nhiệm, đạo đức xã hội, sống và làm việc theo pháp luật. Đào tạo
con người theo hướng có đạo đức, kỷ luật, kỷ cương, ý thức trách nhiệm công dân, xã
hội; có kỹ năng sống; kỹ năng làm việc, ngoại ngữ, công nghệ thông tin, công nghệ số, tư
duy sáng tạo và hội nhập quốc tế (công dân toàn cầu). Nâng cao chất lượng dân số, sức
khỏe người dân cả về thể chất, tinh thần, tầm vóc, tuổi thọ cũng như chất lượng cuộc
sống.

You might also like