Có thể nói rằng, lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật nói chung và luật quốc tế nói riêng song hành với quá trình phát triển và chuyển hóa từ luật tập quán thành luật thành văn. Hầu hết quy phạm pháp luật quốc tế từ thời kỳ chiếm hữu nô lệ đến thười kỳ phong kiến là những quy phạm tập quán. Cùng với sự phát triển của quan hệ quốc tế, các điều ước quốc tế đã dần dần thay thế các tập quán. Mặc dù vậy, cho đến nay, cùng với điều ước quốc tế, tập quán quốc tế vẫn là công cụ cơ bản và chủ yếu để điều chỉnh quan hệ quốc tế. 3.1. Khái niệm tập quán quốc tế Theo nghĩa là nguồn của luật quốc tế, tập quán quốc tế là những quy tắc xử xự hình thành trong thực tiễn quan hệ quốc tế, được các quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế thừa nhận rộng rãi là những quy phạm pháp luật quốc tế để điều chỉnh quan hệ quốc tế. Về phương diện khoa học pháp lý, tập quán quốc tế được tạo thành từ hai yếu tố vật chất và tinh thần. Yếu tố vật chất là những hành vi xử xự được áp dụng lặp đi lặp lại nhiều lần trong thực tiễn khách quan hệ giữa các quốc gia tạo ra những quy tắc xử xự thống nhất. Những hành vi này có thể phát sinh từ hành vi lập pháp, hành pháp, tư pháp của quốc gia. Yếu tố tâm lý được tạo thành khi các chủ thể của luật pháp quốc tế thừa nhận rằng, việc áp dụng các quy tắc thực tiễn ấy là đúng về mặt pháp lý, sự không tôn trọng các quy tắc này được xem là vi phạm các nghĩa vụ pháp lý quốc tế. 3.2. Điều kiện trở thành nguồn của luật quốc tế của tập quán quốc tế Cũng như điều ước quốc tế, không phải tất cả các tập quán quốc tế đều là nguồn của luật quốc tế mà chỉ có các tập quán quốc tế thỏa mãn các điều kiện sau mới được công nhận là nguồn của luật quốc tế: - Thứ nhất, tập quán quốc tế đó phải là những quy tắc xử sự được áp dụng một thời gian dài trong quan hệ quốc tế. Có nghĩa là, tập quán đó phải được các chủ thể của luật quốc tế áp dụng lặp đi lặp lại nhiều lần, trong một quá trình lâu dài, liên tục trong thực tiễn với quan hệ quốc tế. - Thứu hai, tập quán quốc tế đó phải được thừa nhận rộng rãi như những quy phạm có tính chất bắt buộc. Để được công nhận là tập quán quốc tế, ít nhất một nguyên tắc xử xự phải được hai chủ thể quốc tế thừa nhận tính bắt buộc và áp dụng trong nhiều tập quán được hình thành nhưng chỉ những tập quán nào được nhiều chủ thể thừa nhận và áp dụng, đồng thời phải tin rằng xử xự như vậy là đúng về mặt pháp lý và có tính chất bắt buộc. Chính vì vậy, thực tế có nhiều quy tắc xử xự áp dụng nhưng chưa được các quốc gia thừa nhận có giá trị pháp lý bắt buộc chung như nghi thức đón, tiễn đại biểu của các nước thăm viếng lẫn nhau, các quy định về lễ tân ngoại giao... Các quy tắc này không phải là tập quán quốc tế mà chỉ là các quy tắc lễ nhượng quốc tế. - Thứ ba, tập quán quốc tế phải có nội dung phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế. Điều kiện này được áp dụng từ khi có Hiến chương LHQ và hệ thống các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế được xác lập. Với tính chất là xương sống của hệ thống pháp luật quốc tế, tất cả các điều ước và tập quán quốc tế chỉ được coi là nguồn của luật quốc tế nếu nội dung của chúng không trái với nội dung các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế. Nếu các quy phạm tập quán truyền thống phải trải qua quá trình hình thành lâu dài thì các quy phạm tập quán hiện đại lại được hình thành rất nhanh chóng, trong một thời gian ngắn, từ việc thực hiện các điều ước quốc tế. Các quốc gia không phải là thành viên của điều ước quốc tế có thể lựa chọn khuôn mẫu xử xự nào đó đã được quy định trong các điều ước quốc tế để áp dụng cho các quy phạm của điều ước quốc tế phổ cập như Công ước của LHQ về Luật Biển quốc tế năm 1982; Công ước Vienna về Luật Điều ước quốc tế năm 1969. Một số quốc gia không phải là thành viên của các điều ước này nhưng trong quan hệ với các quốc gia khác, họ vẫn áp dụng những quy phạm trong các điều ước quốc tế đó với tư cách là quy phạm tập quán. Tập quán quốc tế cũng có thể được hình thàn thông qua những hành vi đơn phương của quốc gia, trong đó đáng chú ý nhất là những hành vi đơn phương của quốc gia. Ví dụ, trong thực tiễn pháp lý quốc tế từ trước đến nay, khi xác lập chủ quyền quốc gia bộ hay biên giới trên biển. Có nghĩa là, các quốc gia mặc nhiên thừa nhận biên giới trên không và biên giới trong lòng đất đã được thiết lập và hoạc định thông qua việc thiết lập và hoạch định biên giới trên bộ và biên giới trên biển. 3.3. So sánh điều ước quốc tế với tập quán quốc tế Hai loại nguồn điều ước quốc tế và tập quán quốc tế có một số điểm giống nhau và khác nhau. 3.3.1. Những điểm giống nhau giữa điều ước quốc tế và tập quán quốc tế Điều ước quốc tế và tập quán quốc tế giống nhau ở 4 điểm chính: - Thứ nhất, chủ thể của điều ước quốc tế và tập quán quốc tế đều là chủ thể của luật quốc tế. Chủ thể ký kết và thực hiện điều ước quốc tế về phương diện pháp luật quốc tế là các nước độc lập có chủ quyền, các tổ chức quốc tế liên chính phủ, các dân tộc đang đấu tranh giành quyền tự quyết và các vùng lãnh thổ có quy chế pháp lý đặc biệt. - Thứ hai, cả điều ước quốc tế và tập quán quốc tế đều chứa đựng các quy tắc xử xự có chức năng điều chỉnh các quan hệ phát sinh giữa các chủ thể của luật quốc tế. - Thứ ba, điều ước quốc tế và tập quán quốc tế đều hình thành trên cơ sở thỏa thuận giữa các quốc gia. Thỏa thuận chính là bản chất của luật quốc tế, trên cơ sở cân nhắc về nội dung và lợi ích của chính mình mà các chủ thể của luật quốc tế ký kết, tham gia các điều ước quốc tế, cũng như áp dụng một tập quán quốc tế nào đó. Tuy nhiên, nếu sự thỏa thuận để ký kết các điều ước quốc tế luôn là sự thảo thuận trực tiếp , thông qua quá trình đàm phán, ký kết giữa các chủ thể luật quốc tế thì thỏa thuận thừa nhận các quy tắc tập quán quốc tế là sự thỏa thuận ngầm và được mặc nhiên thừa nhận trong thực tiễn quan hệ quốc tế. - Thứ tư, khi đã được các chủ thể của luật quốc tế ký kết hoặc thừa nhận áp dụng để điều chỉnh các quan hệ quốc tế.