You are on page 1of 21

6.2.2.

Quyền nhân thân theo pháp luật của một số quốc gia

6.2.2.1. Quyền nhân thân theo pháp luật Hoa Kỳ

Trải qua hơn 200 năm, Hiến pháp Hoa Kỳ đã trở thành một văn bản nền tảng
với mục đích duy trì những nguyên tắc cơ bản mà dựa trên đó Hoa Kỳ đã được hình
thành và cùng lúc đó thay đổi cùng với sự phát triển của đất nước, thể hiện qua các Tu
chính án. Trong khi Hiến pháp Hoa Kỳ đưa ra cấu trúc tổng thể đối với Chính quyền
Liên bang, 27 Tu chính án ngoài việc bổ sung những vấn đề khác còn chủ yếu tập
trung vào các quyền của các cá nhân công dân Hoa Kỳ. Những quyền đó được mở
đường và ghi nhận trong Tuyên ngôn Nhân quyền, bao gồm 10 Tu chính án đầu tiên.
Tuyên ngôn Nhân quyền là văn bản thể hiện ý chí của các tiểu bang trong việc sửa đổi
các nội dung ở trong Hiến pháp khi các tiểu bang đó cảm thấy cần thiết điều chỉnh các
nội dung về tự do cá nhân cũng như cấu trúc Chính phủ. Từ đó, Hiến pháp Hoa Kỳ bắt
đầu phát triển và tiến hóa khi nó được sửa đổi và liên tục như vậy thông qua các Tu
chính án dựa trên ý chí của người dân và cách giải thích của Tòa án tối cao Hoa Kỳ.
Do vậy, những Tu chính án này chính là hệ thống văn bản đầy đủ nhất quy định về các
quyền của một cá nhân nói chung, trong đó bao gồm cả các quyền nhân thân.

Một trong những quyền quan trọng được ghi nhận trong Tu chính án thứ nhất
đó là quyền tự do tôn giáo. Cụ thể, Tu chính án này đã bảo vệ sự tự do tôn giáo theo
hai cách: Cấm Quốc hội thành lập một tôn giáo quốc gia riêng và thông qua bất kỳ
luật nào ngăn cản sự tự do của người dân Hoa Kỳ để thực hành niềm tin tôn giáo mà
họ theo đuổi. Có thể nói rằng Tú chính án thứ nhất đã tạo ra một sự tách biệt giữa hệ
thống nhà thờ và nhà nước. Sở dĩ đây là một điểm mấu chốt đối với thế hệ sáng lập
nhà nước Hoa Kỳ là do chính tôn giáo là nguyên nhân đã xé nát Châu Âu trong suốt
những thế kỷ 16 và 17. Thời kỳ đó, gần như mọi quốc gia đều có những nhà thờ được
thành lập, và người nào không gia nhập sẽ bị từ chối các quyền cơ bản, thậm chí bị
trục xuất, bỏ tù, tra tấn hoặc giết hại. Đối với Hoa Kỳ, trong thời điểm chưa thống
nhất hoàn toàn thì các thuộc địa cũng đã thành lập những nhà thờ chính thức được tài
trợ bởi tiền thuế của các công dân, ngay cả khi họ không phải là thành viên của các
nhà thờ này. Những tổ chức tôn giáo nhỏ dần dần bị loại trừ khỏi cộng đồng, thông
qua các quy định pháp luật hoặc bạo lực. Tuy nhiên vào thời điểm cuộc Cách mạng
Hoa Kỳ nổ ra, các tổ chức tôn giáo mới lần lượt vùng dậy và dần dần dẫn tới sự đa
dạng hơn về tôn giáo trong các thuộc địa. Khi Hiến pháp được xây dựng, tự do tôn
giáo được xem là một quyền cơ bản để duy trì một xã hội tự do và cần được bảo vệ ở
mức cao nhất. Trong đó, việc tách biệt giữa nhà thờ và nhà nước là để bảo vệ tôn giáo
khỏi sự tham nhũng chính trị và bảo vệ chính phủ khỏi sự can thiệp của tôn giáo.

Một quyền thứ hai quan trọng được ghi nhận trong Tu chính án thứ nhất đó
chính là Quyền tự do ngôn luận & báo chí. Trong đó, Tu chính án bảo vệ sự thể hiện
cá nhân bằng việc đảm bảo sự tự do ngôn luận. Tòa án tối cao đã mở rộng giải thích
“ngôn luận” bao gồm cả các hoạt động giao tiếp trên Internet, nghệ thuật, âm nhạc,
thời trang và ngay cả thông qua các “biểu tượng”, ví dụ như đốt lá cờ. Hầu hết các
hình thức ngôn luận được bảo vệ bởi Tu chính án thứ nhất nhưng vẫn tồn tại các ngoại
lệ không được thể hiện công khai hoặc có thể gây hại. Chúng bao gồm các hình thức
khiêu dâm, phỉ báng, kích động bạo lực, quấy rối, trao đổi các bí mật kinh doanh, bản
quyền, sáng chế, tài sản liên quan đến quân đội và thương mại. Thêm vào đó, các hình
thức ngôn luận liên quan đến một hành vi được xem là tội phạm cũng không được bảo
vệ bởi Tu chính án. Ví dụ như các nhà xuất bản không được phân phối các tạp chí liên
quan đến khiêu dâm trẻ em vì bất kỳ hành vi sản xuất, phân phối, sở hữu các tài liệu,
sách báo khiêu dâm trẻ em đều là bất hợp pháp. Trong trường hợp này, việc bảo vệ trẻ
em khỏi bị lạm dụng được xem là quan trọng hơn bất kỳ nội dung nào trong các tạp
chí.

Còn sự tự do báo chí nói chung cho phép các tờ báo, radio, truyền hình và các
nguồn trực tuyến xuất bản các tin tức và thể hiện quan điểm đại diện cho công chúng
mà không có sự can thiệp hay cưỡng ép từ Chính phủ. Chính phủ chỉ có thể hạn chế
nội dung của các hình thức ngôn luận trong những trường hợp có các lợi ích quan
trọng cần được ưu tiên, như khi hình thức ngôn luận đó tạo ra sự nguy hiểm rõ ràng
đối với an ninh của công chúng. Đây là một tiêu chí tương đối khó đáp ứng đối với
Chính phủ. Trong vụ việc New York Times Co. v. United States (1971), Daniel
Ellsberg, một cựu nhân viên an ninh quốc gia, đã có ý định can thiệp vào chiến tranh
Việt Nam bằng cách tiết lộ với tờ báo New York Times thông tin quan trọng về chính
sách của Chính phủ. Tòa án tối cao đã ra phán quyết rằng Tu chính án thứ nhất bảo vệ
quyền của tờ báo New York Times để được xuất bản những thông tin này. Tòa án cho
rằng Chính phủ không có những bằng chứng thuyết phục về nguy hiểm đối với công
chúng của việc tiết lộ những thông tin đó.

Ngoài ra, một quy định giới hạn thời gian, địa điểm và cách thức ngôn luận
nhưng không giới hạn thông điệp mà người nói muốn truyền tải, cũng có thể được cho
phép trong một số trường hợp. Trong vụ việc giữa Frisby v. Schultz (1988), Hội đồng
thị trấn Brookfield đã thông qua một luật cấm bất kỳ người nào có hành vi biểu tình
“trước hoặc tại nơi ở hoặc nơi cư trú của bất kỳ cá nhân nào” trong phạm vi thị trấn.
Tòa án tối cao đã thực thi quy định, cho rằng bảo vệ sự riêng tư tại nơi cư trú quan
trọng hơn bất kỳ quyền nào mà người biểu tình có nhằm tránh nơi cư trú khỏi phải
nhận những ngôn từ không phù hợp. Nói tóm lại, vượt lên trên tất cả, Tu chính án thứ
nhất cho thấy Chính phủ không có quyền hạn chế sự thể hiện của cá nhân liên quan
đến thông điệp, ý tưởng, chủ đề hay nội dung của chúng.

Sau thời kỳ nội chiến kéo dài từ năm 1861 đến 1865, các Tu chính án thứ 13,
14 và 15 tiếp tục ra đời và ghi nhận những quyền quan trọng đối với các cá nhân. Tu
chính án thứ 13 quy định rằng các hành vi nô lệ hoặc phục vụ một cách không tự
nguyện sẽ không được phép tồn tại tại Hoa Kỳ hoặc bất kỳ nơi nào khác áp dụng pháp
luật Hoa Kỳ. Điều này hàm ý rằng Tu chính án 13 bảo vệ tất cả mọi người tại Hoa Kỳ
- tất cả mọi chủng tộc, tín ngưỡng, dù có là công dân Hoa Kỳ hay không, trẻ em và
người lớn – khỏi cảnh nô lệ ép buộc. Mọi hành vi ép buộc người khác làm nô lệ dưới
bất kỳ hình thức nào đều được xem là vi hiến. Có thể thấy rằng Tu chính án 13 đã đặt
dấu chấm hết cho chế độ nô lệ đối với người Hoa Kỳ gốc Phi. Theo đó, không người
nào, bất kể chủng tộc hay yếu tố cá nhân nào, bị buộc phải lao động trái với ý chí của
họ. Nói cách khác, các hành vi đe dọa gây thiệt hại nghiêm trọng, kiện tụng, tống tiền
hoặc sử dụng các biện pháp về mặt tài chính sẽ được xem là bất hợp pháp nếu ép buộc
người khác phải phục dịch. Do hệ quả của Tu chính án 13 trong việc bảo đảm chống
lại lao động cưỡng bức, các Tòa án thường sẽ từ chối yêu cầu thực hiện các biện pháp
cụ thể như là cách thức bù đắp cho các hành vi vi phạm hợp đồng dịch vụ. Ví dụ như
nếu một người giao kết một hợp đồng dọn dẹp cho một khách sạn nhưng không thực
hiện đúng nghĩa vụ, khách sạn đó có thể kiện vi phạm hợp đồng, nhưng Tòa án gần
như chắc chắn sẽ áp đặt các biện pháp về tài chính hơn là yêu cầu bên vi phạm phải
hoàn thành nhiệm vụ dọn dẹp khách sạn.

Tiếp nối điều này, Tu chính án 14 đã ghi nhận điều khoản về bảo vệ quyền bình
đẳng giữa các cá nhân, nghiêm cấm việc phân biệt đối xử với người khác dựa trên
những yếu tố không thể thay đổi như chủng tộc, quốc tịch và giới tính. Tòa án tối cao
cũng đã áp đặt một nghĩa vụ tương tự lên Chính phủ liên bang thông qua quy định
trong Tu chính án thứ 5. Ngay sau khi Tu chính án thứ 14 được thông qua, việc phân
biệt đối xử giữa các bang đã trở nên lan rộng. Vào năm 1896, việc phân biệt chủng tộc
một cách “tách biệt nhưng bình đẳng” đã được tuyên bố là chấp nhận được trong vụ
việc Plessy v. Ferguson. Homer Plessy, người mang 1/8 dòng máu của người da đen,
đã lên một toa tàu “chỉ dành cho người da trắng” như là một hành vi chống lại quy
định của bang Louisiana ngăn cấm người da đen lên những toa tàu khác ngoài những
toa tàu dành cho “người da màu”. Trong vụ việc này, Tòa án tối cao Hoa Kỳ đã phán
quyết rằng quy định về việc tách biệt chủng tộc như vậy là phù hợp miễn là hệ thống
cơ sở vật chất, hạ tầng với chất lượng như nhau là luôn có sẵn cho tất cả mọi người.
Các toa tàu đều có chất lượng tương đồng, và do đó luật của bang Louisiana được
thực thi. Phán quyết này đã tạo ra động lực để hoạt động phân biệt chủng tộc diễn ra
ngày một mạnh mẽ hơn.

Mặc cho khẩu hiệu là “tách biệt nhưng bình đẳng”, rất nhiều hệ thống cơ sở hạ
tầng trên thực tế còn xa mới đạt được sự bình đẳng. Vụ việc giữa Brown v. Board of
Education (1954) là một minh chứng. Cụ thể, 13 phụ huynh đại diện cho 20 học sinh
đứng lên cho rằng hệ thống tách biệt chủng tộc của nhà trường đã tạo ra những bất lợi
cả về mặt xã hội và tâm lý, bên cạnh những yếu tố chênh lệch về chỗ ăn ở sinh hoạt,
dịch vụ và cách đối xử. Tòa án tối cao đã ra phán quyết đồng ý với nhóm phụ huynh
này, tuyên bố rằng hệ thống giáo dục tách biệt như vậy là bất công và vi phạm sự bảo
vệ về bình đẳng. Mặc dù vụ việc này chỉ là thiểu số trong hệ thống các trường học
công lập, nó vẫn được xem là một bước đi quan trọng trong tiến trình hoàn thiện các
quyền dân sự.

Cuối cùng, một quyền cực kỳ cần thiết được ghi nhận không chỉ trong Hiến
pháp mà cả Tu chính án thứ 5 và thứ 14, đó là quyền về công bằng thủ tục. Cụ thể,
quyền này cho phép bảo vệ tất cả mọi người, dù là công dân Hoa Kỳ hay không, bằng
cách yêu cầu Chính phủ liên bang cũng như tiểu bang phải tuân thủ các quy định về
mặt trình tự, thủ tục khi tìm cách tước đoạt mạng sống, sự tự do hay tài sản của một cá
nhân. Những trình tự, thủ tục này sẽ cho phép các cá nhân có cơ hội được lắng nghe
và do đó ảnh hưởng đến hậu quả các hành vi mà Chính phủ sẽ thực hiện. Điều này
đóng vai trò như một công cụ chống lại sự tước đoạt một cách thiếu công bằng. Ngay
từ cách đây hơn một thế kỷ thì các quyết định của Tòa án tối cao đã ghi nhận rõ khi
nào thì một thủ tục về cá nhân hóa sẽ được áp dụng, điều gì sẽ hàm chứa sự bảo vệ đối
với sự tự do và lợi ích về mặt tài sản và những quy trình nào sẽ được thực hiện để có
được một sự xét xử công bằng.

Các Tu chính án thứ 5 và 14 đã liệt kê tính mạng, sự tự do và tài sản như là


những lợi ích cần thiết phải được bảo vệ theo quyền về công bằng thủ tục. Các thủ tục
về tố tụng dẫn đến hình phạt tù hoặc tử hình là những hành vi phổ biến nhất của Chính
phủ có thể dẫn đến sự tước đoạt về cuộc sống. Các quy trình liên quan đến công bằng
về thủ tục quan trọng đến mức hầu hết chúng được quy định ngay trong Hiến pháp,
bao gồm quyền được xét xử trước phiên tòa, quyền được hỏi ý kiến, quyền chống lại
sự buộc tội… Mặt khác, việc xác định lợi ích liên quan đến sự tự do và tài sản, cũng
như làm rõ các thủ tục phù hợp để áp dụng sẽ thuộc về thẩm quyền của Tòa án. Sự tự
do đã được mở rộng định nghĩa theo hướng bao gồm các quyền được xem là cần thiết
với sự theo đuổi hạnh phúc, ví dụ quyền đối với hợp đồng, kết hôn, xây nhà, nuôi dạy
trẻ em, tâm linh và tiếp thu kiến thức. Tương tự như vậy đối với tài sản. Tài sản bao
gồm các dạng truyền thống của tài sản như tiền, bất động sản và các tài sản hữu hình,
bên cạnh các dạng tài sản khác như giấy phép lái xe, phúc lợi xã hội…

6.2.2.2. Quyền nhân thân theo pháp luật của Liên minh Châu Âu

Trước hết, cần phải hiểu rằng thuật ngữ được sử dụng phổ biến và chủ yếu ở
Liên minh Châu Âu đó là “quyền cơ bản” chứ không phải là các thuật ngữ khác như
“nhân quyền”, “tự do cơ bản”, “tự do dân sự” hay “quyền dân sự”. Tuy vậy, về mặt
bản chất, dưới cách tiếp cận của Liên minh Châu Âu thì các thuật ngữ này đều được
áp dụng đối với những các giá trị liên quan đến nhân quyền. Điều này cũng đồng thời
được làm rõ từ cách tiếp cận của Tòa án Công lý Liên minh Châu Âu khi đưa ra các
Hiệp ước về nhân quyền, cũng như Hiến chương Quyền cơ bản của Liên minh Châu
Âu, trong đó chủ yếu được xây dựng từ các quyền con người. Hơn nữa, ngay cả Cơ
quan Quyền cơ bản của Liên minh Châu Âu cũng được hầu hết hướng dẫn bởi các
Hiệp ước nhân quyền của Liên hợp quốc, trong quá trình đưa ra các tiêu chuẩn để áp
dụng giữa Liên minh Châu Âu với các quốc gia thành viên. Trong tất cả những trường
hợp trên, không có bất kỳ quy định nào hay các án lệ nào phân biệt giữa quyền con
người, quyền cơ bản hoặc bất kỳ thuật ngữ nào khác.

Ở khía cạnh tích cực, có thể thấy rằng Liên minh Châu Âu cũng như các quốc
gia thành viên đã đảm bảo tốt việc thực hiện các biện pháp bảo vệ nhân quyền. Đầu
tiên, Tòa án Công lý Liên minh Châu Âu đã có sự ghi nhận các quyền con người như
là một điều kiện của sự hợp pháp trong pháp luật của Liên minh Châu Âu, bảo đảm
rằng cho dù có áp dụng các biện pháp nào đi chăng nữa thì cũng không vi phạm các
quyền con người với tư cách là “những nguyên tắc chung” của pháp luật Liên minh
Châu Âu. Nội dung của “những nguyên tắc chung” được xây dựng bằng cách đưa ra
các Hiệp ước mà các quốc gia thành viên phải tuân thủ, đặc biệt là Công ước Châu Âu
về nhân quyền và ở một góc độ giới hạn hơn, là các Hiệp ước nhân quyền của Liên
hợp quốc. Thứ hai, Liên minh Châu Âu đã phát triển hệ thống luật nội dung liên quan
đến chống phân biệt đối xử, vốn được xem là nền tảng cho hệ thống nhân quyền. Chế
độ chống phân biệt đối xử của Liên minh Châu Âu vốn được xem là công cụ để giải
quyết các vấn đề kinh tế, nhằm bảo đảm các lợi thế cạnh tranh không thể bị sử dụng
bởi các quốc gia thành viên để đưa ra những điều kiện bảo vệ kém và tốn ít chi phí
hơn đối với phụ nữ tại nơi làm việc. Kể từ năm 2000, các biện pháp bảo vệ trong lĩnh
vực này đã phát triển với tốc độ rất nhanh và các quy định của Liên minh Châu Âu đã
cung cấp sự bảo vệ chống lại phân biệt đối xử trong lĩnh vực lao động ở các khía
cạnh: giới tính, chủng tộc, nguồn gốc dân tộc, tuổi tác, tôn giáo tín ngưỡng, xu hướng
tính dục và sự khuyết tật. Việc bảo vệ chống lại phân biệt đối xử bên ngoài lĩnh vực
lao động cũng được đưa ra nhưng chỉ chủ yếu liên quan đến những khía cạnh trên.

Mặc dù đã đưa ra được những khía cạnh tích cực, vẫn còn một vài vấn đề cần
phải được giải quyết để đảm bảo các quy định của pháp luật Liên minh Châu Âu
tương thích với các tiêu chuẩn nhân quyền được bảo đảm bởi Hiến chương Liên hợp
quốc và các Hiệp ước nhân quyền của Liên hợp quốc. Nói chung, các phương pháp
ghi nhận về quyền con người hiện tại trong phạm vi Liên minh Châu Âu không cung
cấp đầy đủ mức độ bảo vệ được yêu cầu bởi các quốc gia thành viên dưới góc độ là
các nghĩa vụ theo Hiến chương Liên hợp quốc và các Hiệp ước nhân quyền.

Thứ nhất, vấn đề nằm ở giới hạn của “những nguyên tắc chung” trong pháp
luật Liên minh Châu Âu. Phạm vi quyền con người được ghi nhận bởi “những nguyên
tắc chung” của pháp luật Liên minh Châu Âu được chủ yếu dựa trên Công ước Châu
Âu về nhân quyền. Vai trò của Công ước được phản ánh trong việc xây dựng quy định
tại Điều 6(3) của Hiệp ước về Liên minh Châu Âu, cụ thể: “Các quyền cơ bản, như đã
được đảm bảo bởi Công ước Châu Âu về Bảo vệ nhân quyền và Tự do cơ bản và xuất
phát từ những truyền thống từ trong Hiến pháp phổ biến với tất cả quốc gia thành
viên, sẽ tạo thành những nguyên tắc chung của pháp luật Liên minh”. Như vậy, bản
thân Tòa án Công lý Liên minh Châu Âu đã phải sử dụng các nội dung của Công ước
Châu Âu để có thể xây dựng và phát triển bộ quyền con người để làm cơ sở tuân thủ
cho tất cả các quốc gia thành viên. Tuy nhiên, bản thân Công ước Châu Âu chủ yếu
chỉ giới hạn trong phạm vi các quyền dân sự và quyền chính trị và do vậy, rất nhiều
những nhóm quyền kinh tế, xã hội và văn hóa cũng như các quyền liên quan đến
nhóm người dễ bị tổn thương như trẻ em và phụ nữ cũng có xu hướng bị loại bỏ khỏi
sự bảo vệ.

Bản thân việc Tòa án Công lý Châu Âu có xu hướng tiếp thu các quy định từ
Công ước Châu Âu nhiều hơn các Hiệp ước khác trong việc phát triển những nguyên
tắc chung đã thậm chí mở rộng sự loại bỏ hiệu lực của việc giải thích các điều khoản
về nhân quyền của các cơ quan giám sát Liên hợp quốc trong một số trường hợp. Ví
dụ như vụ việc Grant, Tòa án Công lý đã từ chối chấp nhận rằng việc cấm phân biệt
đối xử dựa trên giới tính sẽ bao gồm cả “xu hướng tính dục”. Tức là luận điểm cho
rằng xu hướng tính dục được xem như một căn cứ cần được bảo vệ theo Luật Nhân
quyền Quốc tế thông qua thẩm quyền của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc là
không được thông qua. Trong khi Tòa án Công lý đưa ra kết luận rằng “giới tính”
không thể bao gồm cả “xu hướng tính dục”, điều đó đồng nghĩa với việc loại bỏ vai
trò của các nghiên cứu từ Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc, cho rằng đây không
phải là một cơ quan tư pháp và các nghiên cứu này không có giá trị pháp lý mang tính
chất bắt buộc.

Như vậy, nhìn chung việc Tòa án Công lý của Liên minh Châu Âu phát triển
các nguyên tắc chung cho dù đã đánh dấu một góc độ tích cực, nhưng vẫn chỉ tiếp thu
các Hiệp ước nhân quyền của Liên hợp quốc một cách tương đối hạn chế và chưa
tương thích, từ đó dẫn đến hậu quả là một số lượng lớn các nghĩa vụ ghi nhận trong
các Hiệp ước có thể sẽ không được bảo vệ trong hệ thống pháp luật Liên minh Châu
Âu.

6.2.2.3. Quyền nhân thân theo pháp luật Đức

Theo quy định của pháp luật Đức, những quyền nhân thân và một số các quyền
quan trọng khác được gộp vào dưới cái tên là quyền cơ bản và được ghi nhận trong
Hiến pháp 1949 – còn gọi là Luật cơ bản. Những quyền cơ bản này được ưu tiên và có
hiệu lực cao hơn tất cả các luật khác. Một mặt những quyền này bản chất là những
quyền mà mỗi công dân có đặt trong mối quan hệ với nhà nước, mặt khác chúng quy
định cách mà chúng ta phải xử sự trong xã hội. Nhà nước có trách nhiệm bảo vệ
những quyền cơ bản của tất cả mọi người đang sinh sống và làm việc tại Đức, không
quan trọng họ đã sống ở đây qua nhiều thế hệ hay chỉ vừa mới có mặt tại đây. Những
quyền cơ bản có gắn với nhân thân của con người được thể hiện qua một số điều
khoản sau đây:

Thứ nhất, giá trị con người là không thể bị xâm phạm.

(1) Giá trị con người là không thể bị xâm phạm. Chính quyền các cấp có trách
nhiệm tôn trọng và bảo vệ những giá trị đó.

(2) Người dân Đức luôn nhận thức các quyền con người là không thể xâm
phạm và không thể chuyển giao, với tư cách là nền tảng của mọi cộng đồng, của hòa
bình và công lý trên thế giới

(3) Các quyền cơ bản sẽ ràng buộc các nhà lập pháp, hành pháp và tư pháp như
là luật áp dụng trực tiếp.
Như vậy, việc bảo vệ giá trị con người là nguyên tắc quan trọng nhất trong hệ
thống Luật cơ bản của Đức vì một lý do đơn giản: trước đây chế độ Xã hội chủ nghĩa
Quốc gia đã ngược đãi, lạm dụng, tra tấn và giết hại hàng triệu người Đức và trên toàn
Châu Âu chỉ vì tôn giáo, nguồn gốc, quan điểm chính trị và những yếu tố khác của họ.
Chế độ này đã cướp đi giá trị của con người theo nhiều cách khác nhau. Giá trị con
người được xem là yếu tố cơ bản của Hiến pháp Đức để bảo đảm rằng những tội ác
như vậy sẽ không bao giờ lặp lại trên đất nước. Vì thế bảo vệ giá trị con người là ưu
tiên hàng đầu và là nền tảng cuar mọi quyền khác trong Luật cơ bản của Đức. Tại
Đức, một cuộc sống tử tế và có giá trị nghĩa là tất cả mọi người đều được hưởng các
quyền và được bảo vệ, bất kể màu da, nguồn gốc, tôn giáo, độ tuổi, giới tính, địa vị xã
hội hoặc khả năng thể chất và tinh thần. Điều đó có nghĩa là mỗi người cần phải được
ăn uống đầy đủ, có nơi cư trú, nhận được sự hỗ trợ khi ốm đau và có quyền đi học.

Thứ hai, tự do cá nhân.

(1) Mỗi người có quyền tự do phát triển bản thân miễn là không xâm phạm đến
quyền của những người khác hoặc chống lại lệnh của Hiến pháp hoặc luật đạo đức.

(2) Mỗi người có quyền trọn vẹn đối với cuộc sống và thể chất của bản thân.
Tự do của mỗi người là không thể xâm phạm. Những quyền này chỉ có thể bị can
thiệp theo các quy định của pháp luật.

Quyền cơ bản đối với tự do cá nhân cũng là một câu trả lời đối với kỷ nguyên
của chế độ Xã hội chủ nghĩa Quốc gia. Mục đích là để ngăn cản trong mọi trường hợp
bất kỳ sự tái diễn của bạo lực, khủng bố hoặc bỏ tù một cách có hệ thống đối với tất cả
mọi người. Ngày nay, mỗi bản án phạt tù phải được xem xét theo đúng quy định pháp
luật. Việc đối xử ngược đãi hoặc tra tấn bất kỳ ai trong tù là hành vi bị cấm, đồng thời
hình phạt tử hình cũng đã bị bãi bỏ. Điều 2 của Luật cơ bản nói trên cũng nhắc đến sự
tự do phát triển bản thân. Điều này có nghĩa là mỗi cá nhân có quyền sống cuộc sống
mà họ cảm thấy phù hợp. Mỗi người có quyền lựa chọn công việc, sở thích, bạn đời
mà không có sự can thiệp từ bên ngoài của những người khác. Đó là lý do tại sao quan
hệ đồng tính tại Đức được bảo vệ giống như với quan hệ dị tính. Mỗi người đàn ông
hoặc phụ nữ cũng đồng thời được tự quyết định liệu họ mong muốn mặc quần áo dài,
ngắn hay những loại quần áo khác.

Nhưng tất nhiên cũng có những giới hạn nhất định đối với sự phát triển của
mỗi cá nhân, cụ thể là hành xử cá nhân không được phép gây nguy hiểm, gây thiệt hại
hoặc gây tổn thương cho những người khác. Ví dụ đơn giản như chỉ bởi vì một người
thích lái xe với tốc độ cao không có nghĩa họ được quyền đua xe trong thành phố. Họ
được yêu cầu phải tuân thủ giới hạn về tốc độ để bảo vệ những người tham gia giao
thông khác. Hoặc chúng ta cũng không được phép hút thuốc ở bất kỳ nơi nào chúng ta
muốn, vì điều này sẽ xâm phạm đến quyền của những người khác được sống một cuộc
sống khỏe mạnh và lành mạnh.

Thứ ba, bình đẳng trước pháp luật.

(1) Tất cả mọi người đều có quyền bình đẳng trước pháp luật

(2) Đàn ông và phụ nữ có quyền bình đẳng như nhau. Nhà nước bảo đảm việc
thực hiện quyền bình đẳng đối với đàn ông và phụ nữ, và tìm cách loại bỏ những bất
lợi đang còn tồn tại.

(3) Không ai được thiên vị hoặc bị đối xử bất công bởi các yếu tố giới tính,
dòng dõi, chủng tộc, ngôn ngữ, quê hương và nguồn gốc, niềm tin hoặc tôn giáo hoặc
quan điểm chính trị. Đồng thời không ai bị đối xử bất công vì là người khuyết tật.

Trước hết, Luật cơ bản của Đức đã quy định rõ “tất cả mọi người đều có quyền
bình đẳng trước pháp luật”. Điều này có nghĩa là trước Tòa án, lời nói của một người
nghèo cũng có trọng lượng tương tự như lời nói của người giàu, và không có sự khác
biệt giữa lời khai của một người đàn ông hay phụ nữ. Ở Đức, nhân viên của một cơ
quan có thể tiến hành các thủ tục tố tụng và thắng kiện, trong khi những nhà quản lý
có thể bị buộc tội và đứng trước vành móng ngựa. Các Tòa án là hoàn toàn độc lập và
không thể bị ảnh hưởng bởi các chính trị gia. Tất cả các quyết định được đưa ra dựa
trên pháp luật và áp dụng công bằng với tất cả mọi người. Nguyên tắc “bình đẳng
trước pháp luật” cũng áp dụng trong mọi lĩnh vực của đời sống. Ví dụ như những đứa
trẻ sinh ra ngoài giá thú không được phép bị đối xử một cách bất lợi so với những đứa
trẻ sinh ra trong giá thú. Những người đồng tính chung sống với nhau cũng có quyền
để lại thừa kế, miễn là họ sống chung theo mối quan hệ dân sự đã được đăng ký với
văn phòng đăng ký dân sự. Bình đẳng trước pháp luật cũng có nghĩa là những người tị
nạn có quyền viện dẫn Luật cơ bản, cũng như có quyền tranh luận với các quyết định
đưa ra bởi Chính phủ Đức.

Đối với nội dung về quyền bình đẳng giữa đàn ông và phụ nữ, có thể thấy rằng
cựu nữ Thủ tướng Đức Angela Merkel là một ví dụ tiêu biểu cho việc ngay cả phụ nữ
cũng có thể tiến lên đỉnh cao của quyền lực, giống như đàn ông. Phụ nữ có thể tự
quyết định nghề nghiệp nào họ muốn theo đuổi, cho dù là một y tá, một kỹ sư hay một
người lính. Họ cũng có thể quyết định sẽ kết hôn với ai và muốn có con hay không.
Đổi lại, rất nhiều người đàn ông cũng có thể đóng vai trò chủ động trong công việc
nhà và nuôi dạy trẻ em. Đây là sự thể hiện tiêu biểu của cái mà chúng ta gọi là bình
đẳng giới. Xã hội Đức đã phải trải qua nhiều giai đoạn để bảo đảm rằng phụ nữ cũng
có những cơ hội tương tự như đàn ông. Rất nhiều hạn chế vẫn còn tồn tại cho đến thập
kỷ 70 như phụ nữ không được đi làm nếu không có sự đồng ý của người chồng, cũng
như không được sở hữu tài sản riêng. Những sự đấu tranh đòi quyền tự do cho phụ nữ
cuối cùng cũng mang lại kết quả và kể từ đó, vai trò của phụ nữ không còn bị giới hạn
ở những bà nội trợ hoặc những người mẹ đơn thuần nữa.

Sự bình đẳng cũng đồng thời được thể hiện qua quy định cấm phân biệt đối xử
với người khác tại Đức. Không người nào bị đặt vào tình thế bất lợi đơn giản chỉ vì họ
sinh ra ở nước ngoài hoặc vì họ là người da đen. Cho dù liên quan đến công việc
chúng ta tìm kiếm, ngôi nhà chúng ta muốn thuê hay nhà hàng chúng ta muốn đến ăn,
vấn đề nằm ở con người chứ không phải ở giới tính, nguồn gốc, niềm tin, xu hướng
tính dục, quan điểm chính trị hay sự khuyết tật. Tuy nhiên, ngay cả xã hội Đức cũng
không phải là xã hội hoàn toàn không có sự phân biệt đối xử. Nhưng mọi người có
quyền yêu cầu đối xử một cách bình đẳng: Bất kỳ ai cảm thấy bị phân biệt đối xử có
thể tìm kiếm sự giúp đỡ từ Văn phòng chống phân biệt đối xử của Chính phủ Đức
(ADS).

Thứ tư, tự do tín ngưỡng và tôn giáo.

(1) Sự tự do tín ngưỡng, tự do theo đuổi một tôn giáo sẽ không bị xâm phạm.

(2) Việc thực hành tôn giáo mà không bị can thiệp sẽ được đảm bảo

(3) Không ai bị ép buộc phục vụ quân đội liên quan đến việc sử dụng vũ khí mà
đi ngược lại với đức tin của mình. Chi tiết được quy định của pháp luật liên bang.

Bản thân Đức là một quốc gia thế tục, nghĩa là có sự tách biệt giữa nhà thờ và
nhà nước. Nhà nước không gia nhập vào bất kỳ tôn giáo nào và cũng không yêu cầu
các công dân phải làm vậy. Trong khi đó, Luật cơ bản quy định rằng nhà nước phải
bảo đảm cho mỗi người ở Đức được thực hành tín ngưỡng, tôn giáo mà không bị can
thiệp cho dù đức tin của họ là gì đi chăng nữa. Gần như 60% người Đức thuộc về hai
dòng Cơ đốc chính, bao gồm Thiên chúa giáo và Đạo Tin lành. Điều này có nghĩa là
Cơ đốc giáo phổ biến ở Đức hơn những tôn giáo khác. Phần lớn các tổ chức xã hội, ví
dụ như bệnh viện hay trường mầm non, thuộc về những tổ chức có liên quan đến Cơ
đốc giáo. Hầu hết những ngày nghỉ lễ tại Đức có nguồn gốc từ Cơ đốc, trong đó bao
gồm Lễ phục sinh và Giáng sinh.
Ở Đức, tự do tín ngưỡng tôn giáo có nghĩa là mọi người có quyền chuyển đổi
sang bất kỳ tôn giáo nào theo cách họ mong muốn. Vì thế, không tồn tại sự ép buộc
thuộc về bất kỳ tôn giáo nào. Một phần ba người Đức không phải là thành viên của bất
kỳ nhà thờ nào, cũng như tín ngưỡng không đóng vai trò thiết yếu trong đời sống của
nhiều người. Đức vốn là một mảnh đất của nhập cư, do vậy rất nhiều những tôn giáo
khác nhau cũng đã ra đời tại đây. Ngày nay, hầu hết người Đức đều quen thuộc với
những ngày lễ hoặc kỷ niệm như Hanukkah hoặc Kurban Bayram. Hội đạo Do Thái
hoặc các nhà thờ Hồi giáo cũng là một phần không thể thiếu tại nhiều đô thị. Mặc dù
chỉ chiếm 5% toàn dân số, Hồi giáo lại là tôn giáo phổ biến thứ hai chỉ sau Cơ đốc
giáo, ngoài ra Đức còn là nơi tập hợp của cộng đồng người Do Thái, Phật tử và Hindu.

Thứ năm, tự do ngôn luận và tự do báo chí.

(1) Mỗi người có quyền tự do thể hiện và phổ biến quan điểm của mình bằng
miệng, văn bản và tranh ảnh, và tự cập nhật thông tin cho bản thân mà không bị ngăn
cản bởi những nguồn được phép tiếp cận. Tự do báo chí và tự do báo cáo bởi những
phương tiện phát thanh và phim ảnh sẽ được bảo đảm và không có kiểm duyệt.

(2) Những quyền này sẽ bị giới hạn theo quy định của luật chung, trong trường
hợp để bảo vệ trẻ em và danh dự cá nhân.

Tại Đức, mọi người được phép tự do thể hiện quan điểm của mình. Điều này có
nghĩa là họ có thể nói những gì mình nghĩ và chỉ trích những gì họ không thích. Đó là
lý do vì sao việc các hội nhóm xã hội, chính trị biểu tình ở trên đường phố hay những
nơi công cộng là hết sức bình thường. Tương tự như vậy đối với tự do báo chí. Hàng
ngày mọi người có thể sử dụng trên 350 tờ báo hàng ngày và xấp xỉ 1500 tạp chí, hàng
loạt kênh radio và kênh truyền hình cũng như Internet là nguồn thông tin. Các chính
trị gia không được quyết định thông tin nào sẽ được xuất bản và thông tin nào sẽ bị
bảo mật khi Luật cơ bản đã quy định rất rõ: “không có kiểm duyệt”. Các nghệ sỹ có
thể tự do thể hiện bản thân mình trong nền dân chủ Đức, kể cả các hoạt động mỉa mai
cà khịa.

Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là người dân ở Đức có thể nói và xuất bản
bất kỳ những gì mình thích. Ví dụ như người nào thể hiện hoặc đưa ra quan điểm trực
tiếp xúc phạm tới một người khác hoặc kích động sự thù ghét, bạo lực sẽ bị trừng
phạt. Để có thể bảo vệ trẻ em, những quyển sách hoặc phim ảnh có chứa những hình
ảnh bạo lực đặc biệt có thể chỉ được cung cấp cho người lớn.

Thứ sáu, hôn nhân và gia đình.


(1) Quyền đối với hôn nhân và gia đình nhận được sự bảo vệ đặc biệt từ nhà
nước

(2) Nuôi dạy con cái là quyền tự nhiên và đồng thời là trách nhiệm của cha mẹ

(3) Trẻ em có thể tách khỏi gia đình của mình trái với ý chí của cha mẹ hoặc
người giám hộ chỉ trong trường hợp luật có quy định

(4) Người mẹ sẽ luôn có quyền được bảo vệ và chăm sóc từ cộng đồng

(5) Trẻ em sinh ra ngoài giá thú sẽ luôn được cung cấp cơ hội để phát triển cả
về mặt thể chất và tinh thần cũng như vị trí trong xã hội luôn ngang bằng với những
đứa trẻ sinh ra trong giá thú.

Cha mẹ và hai đứa con: đây vốn là một kiểu gia đình mẫu tồn tại ở Đức trong
nhiều năm. Tuy nhiên hiện nay thì đây không còn là hình mẫu duy nhất mà chúng ta
có những cặp đôi không kết hôn, những cặp đôi đồng tính sinh sống cùng nhau có
hoặc không có con, những bà mẹ hoặc ông bố đơn thân hoặc rất nhiều những trường
hợp gọi là gia đình kết hợp, theo đó một bên cha hoặc mẹ mang những đứa trẻ từ
những mối quan hệ trước vào gia đình mới. Những gia đình có nhiều chủng tộc hoặc
nhiều tôn giáo cũng không phải là không phổ biến tại Đức. Thậm chí việc mọi người
lựa chọn sống một mình cũng là điều rất bình thường. Tuy nhiên, một gia đình trung
bình sẽ bao gồm hai người và những gia đình lớn là tương đối hiếm gặp.

Cha mẹ có trách nhiệm đối với con cái của mình. Họ phải chăm sóc một cách
cần thiết và nuôi dạy những đứa trẻ. Cha mẹ cũng được yêu cầu phải cho con đi học
cũng như bảo đảm các điều kiện chăm sóc sức khỏe phù hợp. Bạo lực thể chất đối với
trẻ em và bên còn lại trong quan hệ hôn nhân bị cấm theo quy định pháp luật. Trong
hầu hết mọi trường hợp thì nhà nước sẽ không can thiệp vào việc nuôi dạy trẻ em, trừ
khi sức khỏe của chúng có vấn đề và gặp nguy hiểm.

6.2.2.4. Quyền nhân thân theo pháp luật Vương quốc Anh

Các quyền nhân thân nói riêng tại Vương quốc Anh nhìn chung cũng không
được tách riêng thành một phần độc lập mà được tích hợp vào nhóm các quyền con
người và được ghi nhận trong Đạo luật Nhân quyền 1998. Các nội dung chính trong
Đạo luật này được quy định chủ yếu dựa trên các điều khoản của Công ước Châu Âu
về Nhân quyền, từ đó nâng tầm hiệu lực đối với các quyền và sự tự do được đảm bảo
theo Công ước. Một số quyền quan trọng được ghi nhận trong Đạo luật Nhân quyền
1998 như sau:
Một là, quyền đối với sự sống (Điều 2).

Điều này nghĩa là không có ai, bao gồm cả Chính phủ, có thể kết thúc cuộc
sống của mỗi cá nhân. Đồng thời, Chính phủ cần phải tiến hành những biện pháp phù
hợp để bảo đảm sự sống thông qua các quy định pháp luật để bảo vệ các cá nhân và
trong một số trường hợp đặc biệt, cần tiến hành các biện pháp cần thiết nếu cuộc sống
của một cá nhân đang trong tình trạng bị đe dọa. Bản thân Chính quyền các cấp nên
cân nhắc quyền đối với sự sống của một cá nhân khi đưa ra các quyết định có thể đặt
cá nhân đó vào tình trạng nguy hiểm hoặc ảnh hưởng sinh mạng của người này. Nếu
thành viên trong gia đình của một cá nhân chết trong những hoàn cảnh có liên quan
đến nhà nước, cá nhân đó có quyền yêu cầu điều tra. Nhà nước cũng sẽ phải tiến hành
điều tra đối với những cái chết có sự nghi ngờ và chết trong quá trình tạm giam. Tuy
nhiên cần lưu ý rằng các Tòa án đã ra quyết định rằng quyền đối với sự sống không
bao gồm quyền được chết.

Quyền đối với sự sống theo quy định tại Điều 2 có thể được xem là một quyền
tuyệt đối, theo đó không bao giờ chịu sự can thiệp bởi nhà nước. Tuy nhiên vẫn tồn tại
những trường hợp theo đó không được áp dụng. Ví dụ như quyền đối với sự sống của
một người sẽ không bị xâm phạm nếu người đó chết trong trường hợp chính quyền sử
dụng vũ lực cần thiết để (1) ngăn cản người đó tiến hành bạo lực bất hợp pháp; (2)
tiến hành bắt giữ hợp pháp; (3) ngăn cản người đó thoát khỏi sự giam giữ hợp pháp và
(4) ngăn cản một cuộc bạo loạn hoặc nổi dậy. Tất nhiên là ngay cả trong những trường
hợp này thì việc dùng vũ lực phải được xem là cần thiết và tương xứng. Tương xứng
nghĩa là chỉ sử dụng khi phù hợp và không vượt quá mức độ cần thiết để giải quyết
vấn đề gặp phải.

Hai là, quyền không bị tra tấn hoặc phải chịu sự đối xử vô nhân đạo (Điều 3)

Tra tấn xảy ra khi một người nào đó cố ý khiến người khác phải chịu đựng về
thể chất hoặc tinh thần một cách nghiêm trọng và tàn nhẫn. Điều này có thể nhằm mục
đích để trừng phạt hoặc đe dọa hoặc đạt được thông tin nào đó từ người này. Trong
khi đó đối xử vô nhân đạo có thể hiểu là sự đối xử gây ra những tổn thương về thể
chất hoặc tinh thần một cách bất thường, khiến cho người bị đối xử trở nên nhục nhã
hoặc mất hoàn toàn giá trị của bản thân. Việc đánh giá một hành vi có phải là vô nhân
đạo hay không sẽ còn phụ thuộc vào thời gian thực hiện hành vi, mức độ tổn thương
thể chất hoặc tinh thần, giới tính, độ tuổi, sức khỏe của nạn nhân…

Quyền của một cá nhân không bị tra tấn hoặc đối xử theo cách thức vô nhân
đạo là quyền tuyệt đối, tức là không bao giờ bị giới hạn theo bất kỳ cách thức nào. Ví
dụ như một nhân viên công vụ không thể sử dụng lý do là thiếu nguồn lực để tự vệ
trong một vụ bắt giữ để đối xử với một cá nhân theo cách thức vô nhân đạo hoặc hạ
thấp giá trị của người đó. Chính quyền các cấp phải có trách nhiệm bảo vệ một cá
nhân nếu một người khác đối xử với cá nhân đó theo những cách thức như vậy. Khi
quyền này bị xâm phạm thì chính quyền phải can thiệp để ngăn cản những hành vi đó.
Nhà nước cũng sẽ phải tiến hành điều tra đối với những cáo buộc về những hành vi
như vậy.

Ba là, quyền không bị ép buộc làm nô lệ hoặc lao động cưỡng bức (Điều 4)

Nô lệ là tình trạng một người nào đó sở hữu một cá nhân khác giống như một
loại tài sản vậy. Lao động cưỡng bức là tình trạng một người bị ép buộc phải làm
những công việc mà họ không mong muốn thực hiện, trong tình trạng bị đe dọa trừng
phạt.

Quyền được bảo vệ khỏi tình trạng nô lệ luôn là quyền tuyệt đối, không bị giới
hạn trong mọi trường hợp. Tuy nhiên, quyền liên quan đến lao động cưỡng bức, mặc
dù cũng là quyền tuyệt đối nhưng lại không áp dụng đối với những công việc:

- Một cá nhân phải làm như là một phần của hình phạt tù hoặc lao động công
ích

- Chính phủ yêu cầu cá nhân đó phải làm trong trạng thái khẩn cấp, ví dụ như
sau thảm họa thiên nhiên hoặc thảm họa do con người gây ra

- Là một phần của nghĩa vụ dân sự thông thường, ví dụ như dịch vụ bồi thẩm
đoàn.

Bốn là, quyền tự do và bảo đảm an toàn (Điều 5)

Điều luật này tập trung vào bảo vệ sự tự do của một cá nhân khỏi sự bắt giữ
một cách vô lý cũng như bảo vệ sự an toàn của cá nhân. Một người luôn có quyền đối
với sự tự do của chính mình, do vậy người đó không thể bị bỏ tù hoặc bắt giữ nếu
không có lý do chính đáng. Nếu một người bị bắt giữ, họ có những quyền sau đây:

- Được trao đổi bằng ngôn ngữ mà người đó hiểu về lý do tại sao bị bắt giữ và
những tội danh nào họ có thể phải đối mặt

- Được đưa tới Tòa án một cách nhanh chóng

- Được tiến hành bảo lãnh (tạm thời được giải phóng trong khi các thủ tục tố
tụng tiếp tục) theo những điều kiện nhất định
- Đưa ra xét xử trong thời gian hợp lý

- Được bồi thường thiệt hại nếu bị bắt giữ một cách trái phép.

Có những trường hợp mà trong đó chính quyền các cấp có thể giam giữ một cá
nhân theo đúng thời hạn quy định trong luật, cụ thể như sau:

- Họ đã bị tuyên bố là có tội và đưa tới nhà tù

- Họ đã không thực hiện yêu cầu theo đúng nội dung mà Tòa án buộc họ phải
thực hiện

- Họ có vấn đề về nhận thức đến mức cần thiết phải giam giữ

- Họ có khả năng lây lan dịch bệnh

- Họ đang cố gắng tiến vào khu vực của quốc gia một cách bất hợp pháp…

Năm là, quyền được tôn trọng sự riêng tư và cuộc sống gia đình (Điều 8)

Điều luật này bảo vệ quyền của một cá nhân đối với cuộc sống riêng tư, cuộc
sống gia đình của họ. Trước hết, mỗi cá nhân có quyền sống một cuộc sống riêng tư
mà không có sự can thiệp từ bất kỳ ai. Các Tòa án thường giải thích thuật ngữ “cuộc
sống riêng tư” một cách khá rộng. Nó bao gồm tất cả mọi thứ như quyền của một cá
nhân được lựa chọn xu hướng tính dục, phong cách sống, vẻ bề ngoài và quần áo. Nó
cũng bao gồm cả quyền cho phép một người khác nhìn và chạm vào cơ thể của họ.
Khái niệm cuộc sống riêng tư cũng bao hàm quyền được phát triển nhận dạng cá nhân
và tạo dựng các mối quan hệ bạn bè hoặc các quan hệ khác, quyền được tham gia vào
các hoạt động kinh tế, xã hội, văn hóa và giải trí. Quyền này sẽ đồng nghĩa với việc
truyền thông và những người khác có thể bị ngăn cản khỏi việc can thiệp vào cuộc
sống của một cá nhân. Các thông tin riêng tư của cá nhân đó (bao gồm học bạ, ảnh,
thư từ, nhật ký và các hồ sơ bệnh án) sẽ được giữ bảo mật và không được chia sẻ nếu
không được sự cho phép của chủ sở hữu. Trong khi đó quyền liên quan đến cuộc sống
gia đình sẽ bao gồm quyền được sống với gia đình của một người cũng như liên lạc
thường xuyên với gia đình của người đó nếu việc sống chung với nhau là không khả
thi. “Cuộc sống gia đình” có thể bao gồm cả mối quan hệ giữa những cặp đôi không
kết hôn, giữa con nuôi và cha mẹ nuôi.

Có những trường hợp mà chính quyền có thể can thiệp vào quyền của một cá
nhân đối với cuộc sống riêng tư và cuộc sống gia đình. Điều này chỉ được phép khi
chính quyền chỉ ra rằng hành vi này là hợp pháp, cần thiết và tương xứng nhằm mục
đích như sau:
- Bảo vệ an ninh quốc gia, an toàn công cộng

- Bảo vệ nền kinh tế

- Bảo vệ sức khỏe hoặc các giá trị đạo đức

- Ngăn cản sự mất trật tự hoặc tội ác

- Bảo vệ quyền và sự tự do của những người khác.

Sáu là, quyền đối với tự do tư tưởng, tín ngưỡng tôn giáo (Điều 9)

Quyền này cho phép một cá nhân có thể thay đổi tín ngưỡng hoặc tôn giáo bất
kỳ lúc nào. Một cá nhân cũng có quyền biến suy nghĩ và tín ngưỡng thành hành động.
Điều này bao gồm quyền của cá nhân được mặc những trang phục tôn giáo, quyền
được nói về tín ngưỡng hoặc tham gia vào những hành vi tôn giáo. Chính quyền
không thể ngăn cản cá nhân đó thực hành tôn giáo nếu không có lý do thực sự chính
đáng. Quyền này cũng đồng thời bảo vệ các loại niềm tin mang tính chất phi tôn giáo
như thuyết vô thần, thuyết bất khả tri, thuyết ăn chay và chủ nghĩa hòa bình. Với một
tín ngưỡng được bảo vệ theo Điều luật này thì phải được xem là nghiêm túc, liên quan
đến các khía cạnh quan trọng trong đời sống con người, được tổ chức trang trọng và
tôn trọng trong xã hội dân chủ.

Chính quyền các cấp không thể can thiệp vào quyền của một cá nhân trong việc
giữ hoặc thay đổi tín ngưỡng tôn giáo nhưng có những hoàn cảnh mà chính quyền có
thể can thiệp để biểu lộ hoặc chứng minh suy nghĩ, niềm tin và tôn giáo của người đó.
Điều này chỉ được cho phép khi chính quyền chứng minh được hành vi đó là hợp
pháp, cần thiết và tương xứng nhằm mục đích bảo vệ sự an toàn công cộng, trật tự
công, sức khỏe hoặc giá trị đạo đức cũng như quyền và sự tự do của những người
khác.

Bảy là, quyền được kết hôn (Điều 12)

Điều 12 bảo vệ quyền của đàn ông và phụ nữ được phép kết hôn và bắt đầu xây
dựng gia đình khi đã đạt độ tuổi kết hôn theo quy định pháp luật.

Quyền của một cá nhân được kết hôn sẽ phải tuân thủ theo quy định của pháp
luật về hôn nhân gia đình, bao gồm cả những trường hợp hôn nhân không hợp pháp
giữa một số đối tượng nhất định (như giữa họ hàng gần với nhau). Mặc dù chính phủ
có thể hạn chế quyền được kết hôn, bất kỳ sự hạn chế nào cũng không được mang tính
độc đoán chuyên quyền và không can thiệp vào khi không cần thiết. Đối với những
người chuyển giới, Tòa án Nhân quyền Châu Âu đã ra phán quyết vào năm 2002 rằng
quyền này được mở rộng cả đối với người chuyển giới. Những người này có thể kết
hôn hoặc tham gia vào mối quan hệ dân sự theo giới tính đã chuyển đổi theo quy định
tại Đạo luật nhận dạng giới 2004, Đạo luật kết hôn đồng giới 2013 và Đạo luật mối
quan hệ dân sự và hôn nhân 2014 (Scotland).

Tám là, quyền được bảo vệ khỏi sự phân biệt đối xử (Điều 14)

Sự phân biệt đối xử xảy ra khi một cá nhân bị đối xử ít thuận lợi hơn người
khác trong một hoàn cảnh giống nhau và sự đối xử này không có tính khách quan hoặc
hợp lý. Phân biệt đối xử cũng có thể diễn ra khi một người bị đối xử tương tự như
những người khác trong khi hoàn cảnh có sự khác biệt (ví dụ như người khuyết tật
hoặc phụ nữ mang thai). Trước hết cần hiểu rằng Đạo luật Nhân quyền không bảo vệ
các cá nhân khỏi sự phân biệt đối xử trong mọi lĩnh vực của đời sống – vẫn còn tồn tại
những đạo luật khác có sự bảo vệ tổng quát hơn như Đạo luật Bình đẳng 2010. Những
gì mà Điều 14 đưa ra sự bảo vệ đó là tránh khỏi sự phân biệt đối xử từ những nội dung
đưa ra trong Công ước Nhân quyền Châu Âu. Điều 14 được xây dựng dựa trên nền
tảng cốt lõi đó là tất cả chúng ta, không phân biệt chúng ta là ai, đều phải được hưởng
các quyền con người và nên có sự tiếp cận công bằng đối với các quyền này. Để sử
dụng được quyền này, một cá nhân cần phải chỉ ra được rằng sự phân biệt đối xử đó
đã ảnh hưởng đến việc thụ hưởng một hoặc nhiều quyền khác trong Đạo luật, mặc dù
không cần chứng minh rằng những quyền này đã bị vi phạm.

Đạo luật Nhân quyền quy định rằng sẽ là bất hợp pháp nếu phân biệt đối xử
dựa trên các yếu tố bao gồm giới tính, chủng tộc, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính
trị, nguồn gốc quốc gia hoặc xã hội, tài sản, nơi sinh hoặc các vấn đề khác. Một số án
lệ liên quan đến quyền này đã chỉ ra rằng thuật ngữ “các vấn đề khác” bao gồm xu
hướng tính dục, sinh con ngoài giá thú, tình trạng hôn nhân, chuyển đổi giới tính và
chịu án phạt tù. Các Tòa án cũng đã ra phán quyết rằng việc bảo vệ nhân quyền khỏi
sự phân biệt đối xử bao gồm cả sự phân biệt một cách gián tiếp. Điều này xảy ra khi
một chính sách, được cho là áp dụng với tất cả mọi người một cách công bằng, thật ra
lại tạo ra sự bất lợi cho một hoặc nhiều nhóm. Ví dụ như một yêu cầu rằng tất cả mọi
nhân viên phải cao từ 6 feet trở lên có thể được xem là phân biệt đối xử gián tiếp. Phụ
nữ và một vài người khuyết tật sẽ phải chịu bất lợi và để đáp ứng được yêu cầu này sẽ
là một nội dung rất khó khăn đối với những nhóm người này.

6.2.2.5. Quyền nhân thân theo pháp luật Trung Quốc

Khác với những quốc gia Âu Mỹ vốn có xu hướng gom tất cả các quyền nhân
thân vào nhóm quyền con người thì hệ thống pháp luật của Trung Quốc lại đang tách
riêng các nội dung về quyền nhân thân thành một phần độc lập. Cụ thể Bộ luật dân sự
Trung Quốc 2020, có hiệu lực kể từ 1/1/2021 bao gồm 7 phần, trong đó phần thứ 4
của Bộ luật dân sự chỉ tập trung nói về các quyền nhân thân.

Trái ngược với rất nhiều các nội dung khác ở trong Bộ luật dân sự, Phần 4 –
Quyền nhân thân không hề dựa trên một đạo luật đã tồn tại từ trước rồi sau đó được
đưa vào trong Bộ luật dân sự. Thay vào đó, các quy định về quyền nhân thân vốn nằm
rải rác trong rất nhiều đạo luật đã được tập hợp lại, đồng thời được bổ sung thêm bởi
các điều khoản trong các văn bản hành chính và giải thích của các Tòa án. Sự tích hợp
của các quyền nhân thân trong Bộ luật dân sự Trung Quốc đã cho thấy một sự phát
triển quan trọng và đổi mới của hệ thống pháp luật Trung Quốc nói chung. Về mặt cấu
trúc, Phần 4 của Bộ luật dân sự về quyền nhân thân bao gồm 6 chương, từ các điều
khoản chung cho đến các quyền nhân thân cụ thể như quyền đối với sự sống, toàn vẹn
thể chất và sức khỏe; quyền đối với họ tên; quyền đối với hình ảnh; quyền đối với uy
tín, danh dự và quyền riêng tư và bảo vệ dữ liệu cá nhân.

Thứ nhất, các điều khoản chung về quyền nhân thân.

Các quyền nhân thân cấu thành nên các quyền cơ bản trong phạm vi điều chỉnh
của luật dân sự, sẽ được quy định chi tiết hơn trong Bộ luật dân sự. Với tư cách là chủ
thể của luật dân sự, pháp nhân cũng có những quyền nhân thân phát sinh từ sự tự do
cá nhân và giá trị con người. Các quyền nhân thân không được phép vi phạm bởi các
cá nhân hay tổ chức. Hơn nữa các quyền nhân thân cũng không thể bị từ bỏ, chuyển
nhượng hay để lại thừa kế cho những chủ thể khác.

Thứ hai, quyền đối với sự sống, toàn vẹn thể chất và sức khỏe

Chương này nhắc lại một nguyên tắc cơ bản đó là không một cá nhân hay tổ
chức nào được gây nguy hiểm đến cuộc sống của một người hoặc gây tổn hại đến sức
khỏe thể chất hoặc tinh thần của một cá nhân. Điều tương tự cũng được áp dụng với
các trường hợp bắt giữ trái phép một người hoặc tìm kiếm một người không hợp pháp.
Trong tất cả mọi trường hợp, nạn nhân có thể yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với
người đã có hành vi vi phạm.

Trong trường hợp quấy rối tình dục, nạn nhân có quyền yêu cầu bồi thường đối
với người đã thực hiện hành vi. Khi đó, các cơ quan, trường học, doanh nghiệp… có
trách nhiệm xây dựng và thực hiện các nội quy đã đưa ra liên quan đến việc bảo vệ
chống lại hoạt động quấy rối tình dục, giải quyết các khiếu nại tố cáo, giáo dục và hợp
tác với các cơ quan điều tra và chính quyền địa phương.
Thêm vào đó, chương này còn quy định các điều khoản liên quan đến hiến các
cơ quan nội tạng, vì mục đích nghiên cứu y học, đồng thời nghiêm cấm hành vi mua
bán nội tạng.

Thứ ba, quyền đối với hình ảnh

Mọi cá nhân đều có quyền đối với hình ảnh của chính mình. Nếu không được
sự đồng ý của chủ sở hữu quyền đối với hình ảnh, hình ảnh của một người không
được phép sử dụng hoặc đưa lên công khai thông qua xuất bản, sao chép lại, chỉnh
sửa, cho thuê, tiến hành triển lãm… Các trường hợp ngoại lệ chỉ được chấp nhận theo
quy định của pháp luật, ví dụ như đối với các cơ quan nhà nước hoặc vì mục đích duy
trì quyền lợi ích hợp pháp của công chúng.

Thứ tư, quyền đối với uy tín và danh dự.

Theo quy định từ các điều luật trong chương này, không ai được phép gây hại
đến uy tín và danh dự của bất kỳ ai, ví dụ như lan truyền các tin đồn. Trong trường
hợp đối với các thông tin sai sự thật, ví dụ như các bài báo, người có liên quan có thể
yêu cầu đính chính thông tin.

Các quyền nhân thân trong chương này đóng vai trò quan trọng đối với địa vị
xã hội của các cá nhân, trong đó bao gồm quyền tiếp cận thông tin cũng như quyền
phản đối và sửa chữa các mục sai sót. Tổ chức chịu trách nhiệm đối với những mục
sai sót này có nghĩa vụ phải sửa chữa ngay lập tức.

Thứ năm, quyền riêng tư và bảo vệ dữ liệu cá nhân

Mọi cá nhân đều có quyền riêng tư. Không tổ chức hay cá nhân nào được vi
phạm quyền riêng tư của người khác thông qua các hành vi theo dõi, xâm nhập, tiết lộ
hoặc xuất bản các thông tin có liên quan hoặc bằng bất kỳ phương tiện nào khác.

Thêm vào đó, Bộ luật dân sự cũng quy định việc bảo vệ dữ liệu cá nhân. Điều
này bao gồm tất cả các loại thông tin, được ghi lại bằng điện tử hoặc cách thức khác,
mà có thể được sử dụng để nhận diện một cách độc lập một cá nhân cụ thể hoặc kết
hợp với các thông tin khác để nhận diện một cá nhân, bao gồm họ tên, ngày tháng năm
sinh, số giấy tờ cá nhân, thông tin nhân trắc học, địa chỉ, số điện thoại, email, tình
trạng sức khỏe, địa điểm…

Các dữ liệu cá nhân chỉ có thể được xử lý khi có sự đồng ý của chủ thể dữ liệu
hoặc người đại diện của họ. Khi xử lý các thông tin này, các luật và quy định có liên
quan cần phải được áp dụng. Quá trình xử lý dữ liệu cá nhân bao gồm thu thập, lưu
trữ, sử dụng, truyền tải, cung cấp và tiết lộ các dữ liệu đó… Việc thu thập và lưu trữ
dữ liệu cá nhân không được phép tiến hành công khai hoặc làm giả mạo. Những dữ
liệu này chỉ có thể được tiết lộ khi có sự đồng ý của chủ thể dữ liệu, trừ trường hợp dữ
liệu đã được xử lý theo cách thức mà việc nhận diện người đó hoặc khôi phục dữ liệu
đã trở nên bất khả thi.

Mọi cá nhân có quyền tiếp cận dữ liệu cá nhân của chính mình đã được thu
thập và có quyền yêu cầu chỉnh sửa đối với bất kỳ dữ liệu nào không chính xác.

Thứ sáu, một số gợi mở khác

Những quyền nhân thân quy định trong Phần 4 của Bộ luật dân sự Trung Quốc
có thể tạo ra những ảnh hưởng đáng kể đối với các doanh nghiệp và tổ chức, vì họ cố
thể áp dụng những quy định này trong mối quan hệ với người lao động.

Tuy nhiên, các điều khoản về bảo vệ dữ liệu cá nhân không phải là những quy
định mang tính chất đột phá trong hệ thống pháp luật Trung Quốc, vì vốn những quy
định này đã được ghi nhận trước trong Luật an ninh mạng và các văn bản khác có liên
quan. Dù vậy, các doanh nghiệp và tổ chức có thể sử dụng những điều khoản trong Bộ
luật dân sự như là một cơ hội để xem xét điều chỉnh các quy định nội bộ và tiếp thu
trong trường hợp cần thiết.

Ngoài ra cũng cần thiết dành sự chú ý đối với những quy định liên quan đến
quấy rối tình dục. Các quy định này nhằm mục đích buộc người sử dụng lao động có
trách nhiệm thực hiện các nguyên tắc nội bộ để bảo vệ chống lại sự xâm hại tình dục
cũng như giải quyết các khiếu nại tố cáo và điều tra đối với các hành vi đó. Do vậy,
các doanh nghiệp và tổ chức nên xem xét lại các quy định nội bộ như Bộ quy tắc ứng
xử và sổ tay nhân viên trong hoàn cảnh này và điều chỉnh, bổ sung nếu cần thiết. Nếu
trong trường hợp những quy định này không được ghi nhận, một doanh nghiệp hay tổ
chức có thể phải chịu trách nhiệm với những thiệt hại xảy ra bên cạnh người trực tiếp
có hành vi gây thiệt hại.

Danh mục tài liệu tham khảo

1. https://www.roedl.com/insights/china-civil-code/part-4-personality-rights

2. https://www.bamf.de/SharedDocs/Anlagen/EN/Integration/Grundgesetz/
broschuere-das-grundgesetz.pdf?__blob=publicationFile&v=15, ngày truy cập
21/2/2022

3. https://www.equalityhumanrights.com/en/human-rights/human-rights-act
4. https://europe.ohchr.org/Documents/Publications/EU_and_International_Law.pdf

5. https://www.europarl.europa.eu/workingpapers/soci/pdf/104_en.pdf

6. https://www.justice.gov/sites/default/files/usao-mn/legacy/2011/09/16/MN
%20Civil%20Rights%20FINAL.pdf

You might also like