You are on page 1of 6

Nhìn chung, hệ thống pháp luật của Hoa Kỳ được hình thành và phát triển trên

những nền tảng của hệ thống pháp luật Ănglô - xắcxông và đặc biệt chịu ảnh
hưởng mạnh mẽ của pháp luật chung nước Anh.
Hệ thống pháp luật hình sự Mỹ rất đa dạng, phức tạp. Nguồn của pháp luật hình
sự liên bang là Hiến pháp năm 1787, các văn bản luật (do Quốc hội Mỹ ban
hành) và các văn bản dưới luật của liên bang (do Tổng thống, các bộ và các cơ
quan của Chính phủ Mỹ ban hành); còn các nguồn của pháp luật hình sự các bang
là các Hiến pháp, các đạo luật hình sự (chủ yếu là các Bộ luật Hình sự) và các văn
bản dưới luật của các bang có chứa đựng một số quy định có tính chất pháp lý
hình sự. Hiến pháp Mỹ năm 1787 hiện hành là văn bản có hiệu lực pháp lý cao
nhất vì tính tối thượng của nó trên toàn bộ lãnh thổ đất nước.

 Nguồn của pháp luật Mỹ chủ yếu là luật thành văn, Hiến pháp Mỹ (1787) là
hiến pháp thành văn đầu tiên trong lịch sử lập hiến thế giới và là Hiến pháp lâu
đời nhất đến nay vẫn còn hiệu lực. Hiến pháp Mỹ không chỉ có giá trị nghi thức
mà trên thực tế là cơ sở của hệ thống pháp luật Mỹ. 

1. Hệ thống pháp luật Liên Bang


 Hệ thống pháp luật Hoa Kỳ có nhiều cấp, có thể là nhiều hơn hầu hết các
nước khác. Nguyên nhân một phần là do có sự phân chia giữa luật liên bang và
bang. Đẻ hiểu được điều đó, cần nhắc lại rằng lịch sử Hoa Kỳ không phải hình
thành từ một quốc gia, mà là một liên minh 13 khu vực thuộc địa, mỗi khu vực
đều độc lập tách khỏi Anh Quốc. Do đó, Tuyên ngôn độc lập (1776) có nói đến
"Dân tộc các khu vực thuộc địa", nhung đồng thời cũng thừa nhận "Các khu vực
thuộc địa Hợp chúng quốc là, và có quyền được làm, CÁC BANG TỰ DO VÀ
ĐỘC LẬP ". Sự giằng kéo giữa một dân tộc và nhiều bang là một vấn đề bao
trùm lịch sử pháp lý Mỹ. Như giải thích ỏ dưới, Hiến pháp Mỹ (thông qua năm
1787, phê chuẩn năm 1788) bắt đầu một quá trình chuyển đổi đầy tranh cãi, chậm
chạp và gián đoạn, từ chỗ quyền lực và thẩm quyền pháp lý nằm trong tay các
bang, đã chuyển giao cho nhà nước liên bang. Tuy nhiên, đến nay các bang vẫn
giữ nhiều thẩm quyền lớn. Các sinh viên nghiên cứu hệ thống pháp luật Mỹ phải
hiểu được tại sao phạm vi thẩm quyền lại được phân chia giữa chính quyền liên
bang và các bang.
 Hiến pháp đã xác định nhiều ranh giới giữa luật liên bang và bang. Nó cũng
phân chia quyền lực liên bang thành các ngành lập pháp, hành pháp và tư pháp
(tạo ra cái gọi là "tam quyền phân lập" và gìn giữ một cách thiêng liêng hệ thống
"kiềm chế và đối trọng", nhằm ngăn chặn không cho một ngành nào đó có thể lạm
dụng quyền lực của các ngành khác); và mỗi ngành có đóng góp riêng biệt vào hệ
thống pháp lý. Trong hệ thống đó, Hiến pháp quy định những loại luật mà Quốc
hội có thể thông qua.
 Nhưng ngoài ra còn nhiều vấn đề phức tạp khác: luật Mỹ không chỉ là các
đạo luật do Quốc hội thông qua. Trong một số lĩnh vực, Quốc hội có thể cho phép
các cơ quan hành pháp được ban hành các quy tắc chi tiết hoá luật định. Và toàn
bộ hệ thống được dựa trên các quy tắc pháp lý truyền thống của Thông luật Anh.
Mặc dù Hiến pháp và các đạo luật đều có giá trị cao hơn thông luật, toà án vẫn
tiếp tục áp dụng các nguyên tắc thông luật bất thành văn để lấp các chỗ trống
chưa được Hiến pháp đề cập, cũng như không được Quốc hội luật hoá.
2. Nguồn luật Liên Bang:
2.1 Hiến pháp Hoa Kỳ:
 Trong giai đoạn 1781-1788, đã có một thoả thuận gọi là Hiến chương liên
minh điều chỉnh mối quan hệ giữa 13 bang. Một Quốc hội toàn quốc tương đối
lỏng lẻo được thành lập. Mặc dù mỗi bang đều cam kết danh dự sẽ tuân thủ phán
quyết toà án của các bang khác (theo cơ chế "tin cậy và tín nhiệm hoàn toàn"),
nhưng Hiến chương không có quy định nào về thẩm quyền pháp lý liên bang, trừ
thông qua một đạo luật hồi tố "ex post facto" (luật áp dụng hồi tố, "sau khi sự
kiện đã diễn ra"), hoặc áp đặt thuế xuất khẩu. Điều I, Mục 8 liệt kê các lĩnh vực
Quốc hội được làm luật. Một số nội dung khá là cụ thể (như "Xây dựng Bưu
điện"), nhung nhiều nội dung khác thì lại rất chung chung, nổi bật nhất là quy
định "được điều chỉnh thương mại với nước ngoài, và giữa các bang". Tất nhiên,
quyền diễn giải các quy định thẩm quyền kém chính xác là cực kỳ quan trọng. Do
đó, trong giai đoạn đầu của lịch sử nền cộng hoà, nhờ nắm được vai trò diễn giải,
nên ngành tư pháp đã nắm thêm một vai trò cực kỳ quan trọng trong hệ thống
pháp luật Hoa Kỳ.
2.2 Tư pháp
 Cũng như các ngành khác, quyền của ngành tư pháp Hoa Kỳ được quy định
trong Hiến pháp. Hiến pháp chỉ quy định thẩm quyền xét xử liên bang trong một
số loại tranh chấp nhất định. Điều III, Mục 2 liệt kê những nội dung này. Hai loại
tranh chấp quan trọng nhất là các vụ việc liên quan đến nghi vấn luật liên bang
("Tất cả các vụ việc về luật và công bằng, phát sinh từ Hiến pháp, các đạo luật
của Hợp chúng quốc và các hiệp ước đã ký kết...") và các vụ việc "đa chủng", tức
là các vụ tranh chấp giữa công dân của hai bang khác nhau. Thẩm quyền xét xử
này cho phép mỗi bên có thể tránh đưa vấn đề ra trước các toà án của bang của
nhau.
 Quyền xét xử thứ hai xuất hiện trong những năm đầu của nền cộng hoà. Như
giải thích trong Chương 2, phán quyết của Toà án tối cao Hoa Kỳ trong
vụ Marbury kiện Madison (1803) đã giải thích thẩm quyền (được Hiến pháp uỷ
quyền) của nó là được phép xác định một đạo luật vi hiến, và tuyên bố luật vô
hiệu. Một đạo luật có thể vi hiến nếu nó xâm phạm các quyền của người dân được
Hiến pháp bảo vệ, hoặc nếu Điều I không cho phép Quốc hội được thông qua loại
luật đó.
 Do đó, quyền diễn giải các quy định hiến pháp mô tả lĩnh vực nào Quốc hội
được làm luật là rất quan trọng. Theo truyền thống, Quốc hội thường chứng minh
rằng các đạo luật là cần thiết nhằm điều chỉnh "thương mại ... giữa một số bang",
hay còn gọi là thương mại xuyên bang. Đây là một khái niệm mềm dẻo, khó mô
tả chính xác. Thực tế, mỗi người đều có thể cho rằng gần như tất cả các đạo luật
đều có sự ràng buộc hợp lý giữa mục đích của nó với việc điều chỉnh thương mại
xuyên bang. Nhưng nhiều lúc ngành tư pháp diễn giải "điều khoản thương mại"
một cách bó hẹp. Ví dụ, năm 1935, Toà án tối cao đã vô hiệu hoá một đạo luật
liên bang quy định số giờ làm và mức lương của người lao động ở các lò mổ New
York, vì tất cả thịt gà được xử lý ở đây đều được bán cho các cửa hàng và quầy
thịt ở New York và do vậy không có yếu tố thương mại xuyên bang. Tuy nhiên,
ngay sau đó, Toà án tối cao bắt đầu ủng hộ các chương trình thuộc Chính sách
mới (New Deal) của Tổng thống Franklin D. Roosevelt một cách rộng rãi hơn, và
ngày nay các toà án liên bang vẫn tiếp tục diễn giải quyền thương mại theo nghĩa
rộng, mặc dù không rộng đến mức có thể cho phép Quốc hội có thể thông qua bất
cứ loại luật nào.
2.3 Hành pháp
 Điều II trao "Quyền hành pháp" cho Tổng thống Hợp chúng quốc. Trong
nhiệm kỳ của Tổng thống George Washington (1789-1801), toàn bộ ngành hành
pháp bao gồm một Tổng thống, một Phó tổng thống, và các bộ Ngoại giao, Ngân
khố, Chiến tranh và Tư pháp. Nhung khi đất nước lớn mạnh lên, ngành hành pháp
cũng phát triển thêm. Ngày nay, có đến 15 bộ cấp nội các. Mỗi bộ có một sô tông
cục, cục và các cơ quan khác. Ngoài ra còn có một phần ngành hành pháp nằm
ngoài các bộ. Tất cả đều thực thi quyền hành pháp do Tống thống ủy nhiệm và
chịu trách nhiệm cuối cùng trước Tổng thống.
 Trong một số Enh vực, mối quan hệ giữa hành pháp và hai ngành kia là
không rõ ràng. Giả sử có một hoặc một số người cướp ngân hàng. Quốc hội thông
qua một đạo luật quy định hành vi cướp ngân hàng là phạm tội. Cục điều tra liên
bang (FBI), một cục thuộc Bộ Tư pháp, có thể sẽ điều tra vụ việc. Khi nó phát
hiện một hoặc một số người tình nghi, một viên Công tố liên bang (cũng thuộc Bộ
Tư pháp) có thể cố gắng chứng minh người tình nghi là tội phạm trong một phiên
xét xử do một Toà án sơ thẩm cấp hạt Hoa Kỳ tiến hành.
 Cướp ngân hàng là một vụ việc đơn giản. Nhưng khi đất nước ngày càng
phát ưiển và hiện đại hoá, mối quan hệ giữa ba ngành trong hệ thống luật pháp
cũng phát triển để giải quyết các vấn đề phức tạp hơn của xã hội công nghiệp và
hậu công nghiệp. Vai trò của ngành hành pháp thay đổi nhiều nhất. Trong ví dụ
cướp ngân hàng, Quốc hội hầu như không cần đến chuyên môn để có thể dự thảo
một đạo luật quy định hành vi cướp ngân hàng là tội phạm. Hãy giả sử các nhà
làm luật muốn cấm các loại dược phẩm "nguy hiểm" trên thị trường, hay hạn chế
lượng ô nhiễm "độc hại" trong không khí. Quốc hội có thể chọn cách quy định
chính xác định nghĩa của các thuật ngữ đó. Đôi lúc Quốc hội cũng làm vậy,
nhung có xu thế là Quốc hội ngày càng tăng cường trao bớt một phần thẩm quyền
của nó cho các cơ quan hành chính công trong ngành hành pháp. Do đó, Cục quản
lý thực phẩm và thuốc (FDA) là cơ quan giám sát độ tinh sạch của thực phẩm và
dược phẩm quốc gia, còn Cơ quan bảo vệ môi trường (EPA) là cơ quan điều
chỉnh vấn đề tác động môi trường đất, nước và không khí của các ngành công
nghiệp.
 Mặc dù các cơ quan nhà nước chỉ nắm giữ những thẩm quyền được Quốc
hội uỷ quyền theo luật, nhưng phạm vi thẩm quyền đó có thể khá lớn. Nó có thể
bao gồm quyền được ban hành các quy tắc quy định chính xác các thuật ngữ
chung chung trong luật. Luật có thể cấm lượng ô nhiễm "nguy hiếm" trong không
khí, còn EPA sẽ quy định loại chất và hàm lượng của mỗi loại chất được coi là
nguy hiểm. Đôi lúc luật trao quyền cho một cơ quan nhà nước được phép điều tra
các hành vi vi phạm các quy tắc của nó, phán xử các vi phạm đó, và thậm chí là
cả việc áp dụng lệnh trừng phạt.
 Các toà án sẽ vô hiệu hoá một đạo luật trao quá nhiều quyền cho một cơ
quan. Một đạo luật quan trọng là Đạo luật thủ tục hành chính (Bộ luật Hoa
Kỳ, Tiêu mục 5, Mục 551, và mục tiếp theo) đã giải thích các thủ tục mà một cơ
quan phải tuân thủ khi ban hành các quy tắc, đánh giá vi phạm và áp dụng chế tài.
Nó cũng qùy định các bên được phép đưa một quyết định của cơ quan hành pháp
ra xem xét trước toà như thế nào.
2.4 Các nguồn luật khác
 Nguồn rõ ràng nhất của luật pháp Mỹ là các đạo luật do Quốc hội thông qua,
được bổ sung bằng các quy định hành chính. Đôi khi những nguồn này quy định
rõ ràng ranh giới giữa hành vi hợp pháp và phạm pháp - như trong ví dụ cướp
ngân hàng - nhưng không có nhà nước nào có thể ban hành đủ luật để khép kín
được tất cả các tình huống. Rất may là đã có một thực thể khác quy định các
nguyên tắc và chuẩn mực nước liên bang hoặc chính quyền tiểu bang luôn là một
bên liên quan. Nhà nước, thay mặt cho nhân dân, truy tố bị can bị cáo buộc là đã
vi phạm luật cấm một hành vi nào đó vì gây tổn thất cho lợi ích chung. Hai doanh
nghiệp có thể tiến hành một vụ kiện vì vi phạm hợp đồng, nhưng chỉ có nhà nước
mới có quyền khởi tố một người vì tội giết người.
 Tiêu chuẩn bằng chứng và khả năng chế tài cũng khác nhau. Một bị can hình
sự chỉ có thể bị kết tội dựa trên quyết định có tội "không còn nghi ngờ hợp lý gì
nữa". Còn trong một vụ dân sự, bên nguyên chỉ cần chỉ ra "ưu thế về chứng cứ",
tức là chỉ cần một cấu thành yếu hơn mang nghĩa "có xác suất lớn hơn không".
Một tội phạm bị kết án có thể bị tù, trong khi bên thua kiện trong vụ án dân sự chỉ
chịu trách nhiệm phải khắc phục pháp lý hoặc công bằng, như giải thích dưới đây.

You might also like