You are on page 1of 14

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TIỀN GIANG

KHOA KINH TẾ-LUẬT

QUYỀN CON NGƯỜI


ĐỀ TÀI: QUYỀN CON NGƯỜI VÀ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI


Giảng viên: Nhóm 4:


Huỳnh Thị Lệ Hoa 1. Đặng Ngọc Ân Quý - 022154009 (NT)
2. Nguyễn Hoàng Gia Ngọc - 022154049
3. Nguyễn Thị Cẩm Tú - 022154060
4.Phan Thị Mỹ Hương - 022154034
5.Phạm Thái Bảo Duy – 020154071

Tiền Giang, ngày tháng năm 2023


TRƯỜNG ĐẠI HỌC TIỀN GIANG

KHOA KINH TẾ-LUẬT

Lời mở đầu
Quyền con người là một trong những giá trị được đánh giá cao, là sự kết tinh
từ nền văn hóa của các dân tộc quốc gia trên thế giới và không bị tước bỏ bởi bất
cứ ai và bất cứ chính thể nào. Quyền con người là các đặc quyền tự nhiên, bắt
nguồn từ phẩm giá vốn có của tất cả mọi người, được cộng đồng quốc tế và quốc
gia thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm bằng hệ thống pháp luật quốc gia và
quốc tế.
Trong báo cáo phát triển con người của UNDB đã đánh giá quyền con người
và phát triển con người có cùng quan điểm và mục đích chung là đảm bảo tự do,
hạnh phúc và phẩm giá của con người. Phát triển con người là nền tảng phát triển
quyền con người, còn quyền con người làm cơ sở để phát triển con người một cách
đầy đủ.
Hiện nay, quyền con người ngày càng trở thành vấn đề quan trọng trong đời
sống chính trị thế giới, là một trong các trụ cột hoạt động của Liên hợp quốc, cùng
với hòa bình, an ninh và phát triển.
Liên Hợp Quốc đã khẳng định và ghi nhận tất cả những nổ lực của Việt Nam
trong việc thúc đẩy phát triển và bảo vệ quyền con người cũng như phát triển con
người trong trong suốt thời gian vừa qua.
Về việc nghiên cứu nội dung về "Quyền con người và phát triển con người "
cho thấy quyền con người quy định chặt chẽ về phát triển con người trong tất cả
các lĩnh vực kinh tế -xã hội -chính trị, nâng cao giá trị tốt đẹp của con người.
Con người cần có trách nhiệm với xã hội trong việc thúc đẩy sự phát triển con
người về mọi mặt . Từ đó làm rõ mối quan hệ giữa quyền con người và phát triển
con người: các tổ chức xã hội của con người, các mối quan hệ cá nhân - xã hội,
quan hệ con người - văn hoá, quan hệ con người - môi sinh, các hoạt động sống,
bản chất của con người, tính toàn vẹn sinh vật - lịch sử - xã hội của con người,
nguồn lực con người, vấn đề nhân cách và sự phát triển con người bền vững, toàn
diện, v.v..
Con người và phát triển con người trong quan niệm của chủ nghĩa Marx xem
xét định nghĩa kinh điển về con người, tư tưởng về quan hệ con người với tự nhiên,
tư tưởng về tiến bộ xã hội và phát triển con người.
Phát triển con người là yếu tố trung tâm, trọng điểm, cần nhấn mạnh đến vấn
đề xây dựng các hệ giá trị cốt lõi làm mục tiêu cho quá trình xây dựng. Trong đó
cần chú trọng hơn giáo dục đạo đức, nhân cách, năng lực sáng tạo và các giá trị cốt
lõi, nhất là giáo dục tinh thần yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc, truyền thống và lịch
sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ;
giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc tốt đẹp của con người Việt Nam…
I/KHÁI NIỆM QUYỀN CON NGƯỜI

Quyền con người là toàn bộ các quyền, tự do và đặc quyền được công nhận
dành cho con người do tính chất nhân bản của nó, sinh ra từ bản chất con người
chứ không phải được tạo ra bởi pháp luật hiện hành. Đây là những quyền tự nhiên,
thiêng liêng và bất khả xâm phạm do đấng tạo hóa ban cho con người như quyền
sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc, những quyền tối thiểu của con người mà
bất kỳ chính phủ nào cũng phải bảo vệ.

Quyền con người được hiểu là những đảm bảo pháp lý toàn cầu có tác dụng
bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà
làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và sự tự do cơ bản của con người.

Phát triển con người - là quan điểm về phát triển, trong đó lấy con người làm
trung tâm. Đó là phát triển của con người, vì con người và do con người.

Phát triển của con người có nghĩa là đầu tư vào phát triển tiềm năng của con
người như giáo dục, y tế, kỹ năng… để con người có thể làm việc một cách sáng
tạo và có năng suất cao nhất.

Mục tiêu của sự phát triển không chỉ là phát triển xã hội mà chính là phát triển
con người, là cần phải tạo ra một môi trường đảm bảo cho con người phát huy khả
năng sáng tạo, được hưởng một cuộc sống khoẻ mạnh, được học hành và trường
thọ, các quyền tự do chính trị, quyền con người và cá nhân được bảo đảm.
II/ KHÁI NIỆM PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI

*Quyền con người có một số đặc điểm sau:


Tính phổ quát, thể hiện ở chỗ quyền con người là quyền bẩm sinh, gắn với bản
chất con người, là di sản chung của loài người. Quyền con người mang tính phổ
quát vì con người ở đâu trên trái đất này cũng đều là thành viên của cộng đồng
nhân loại;
Tính đặc thù, thể hiện ở việc quyền con người mang những đặc trưng, bản sắc
riêng tuỳ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội, truyền thống văn hoá, lịch
sử ở từng khu vực, quốc gia, vùng lãnh thổ. Sự thừa nhận tính đặc thù của quyền
con người cho phép các quốc gia có quyền đưa ra những quy định pháp luật cụ thể,
không trái với các chuẩn mực quốc tế ghi trong các điều ước quốc tế về nhân
quyền, như quy định hạn chế đối với một số quyền dân sự, chính trị hoặc mức độ
bảo đảm các quyền kinh tế, văn hoá, xã hội;
Tính giai cấp, tuy không phải nằm trong nội dung các quyền mà được thể hiện
trong việc thực thi quyền con người. Với tư cách là chế định pháp lý, quyền con
người gắn liền với nhà nước và pháp luật - là những hiện tượng mang tính giai cấp
sâu sắc. Quyền con người có thể được phân loại dựa theo chủ thể quyển và nội
dung quyền. Theo chủ thể quyển: gồm quyền của cá nhân, quyền của nhóm (như
phụ nữ, trẻ em) và quyền quốc gia (quyền của quốc gia, dân tộc thiểu số, quyền
phát triển). Quyền của nhóm là quyền cá nhân được quy định cho một nhóm xã hội
dựa trên một số đặc điểm chung nào đó, ví dụ như dễ bị tổn thương hoặc bị thiệt
thòi như phụ nữ, trẻ em, người tj nạn, người lao động nhập cư, người bị giam giữ
theo thủ tục tố tụng hình sự... Quyền phát triển là quyền của các quốc gia, dân tộc,
đồng thời cũng là quyển của cá nhân. Theo nội dung quyển gồm nhóm quyển dân
sự, chính trị (quyền bầu cử, ứng cử, tham gia quản lý nhà nước, xã hội; quyền tự
do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do tôn giáo...) và nhóm quyền kinh tế, văn hoá, xã
hội (quyền sở hữu, quyền làm việc, quyền được bảo vệ sức khỏe; quyền học tập,
quyền hưởng thụ văn hoá...).
III/ QUAN ĐIỂM CỦA VIỆT NAM VỀ QUYỀN CON NGƯỜI

Lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc; truyền thống, bản sắc văn
hóa Việt Nam; nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh; những nguyên tắc và tiêu chuẩn quốc tế về quyền con người được hầu hết
các dân tộc trên thế giới thừa nhận và thực tiễn và những yêu cầu đặt ra trong
công cuộc đổi mới, hội nhập kinh tế quốc tế và xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Các quan điểm này được thể hiện
trong các văn kiện của Đảng như: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991, (bổ sung, phát triển năm 2011); Chỉ thị số
12-CT/TW ngày12/7/1992 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa VII. Đặc biệt,
Chỉ thị số 44-CT/TW ngày 20/7/2010 của Ban Bí thư Trung ương Đảng Khóa X
về công tác nhân quyền trong tình hình mới đã đúc kết những quan điểm cơ bản
về quyền con người.
Theo đó, quyền con người là giá trị chung của toàn thể nhân loại. Quan
điểm này về cơ bản cũng là quan điểm chung của cộng đồng quốc tế, được phản
ánh trong hệ thống văn kiện pháp lý về quyền con người do Liên hợp quốc và
các tổ chức liên chính phủ khác thông qua từ trước tới nay, thể hiện ở việc xác
định tính phổ biến của quyền con người. Xét về bản chất, quyền con người là
những giá trị chung của toàn nhân loại, là sự kết tinh của những giá trị văn hóa
tốt đẹp nhất của tất cả các dân tộc sau một quá trình phát triển lịch sử lâu dài.
Song, ở trong xã hội có phân chia giai cấp, khái niệm quyền con người cũng
mang tính giai cấp. Quyền con người gắn với quyền dân tộc cơ bản và thuộc
phạm vi chủ quyền quốc gia.
Quan điểm kể trên xuất phát từ thực tế trong suốt chiều dài lịch sử dựng
nước, dân tộc Việt Nam đã nhiều lần bị các thế lực nước ngoài đô hộ và phải
gánh chịu những hy sinh to lớn trong những cuộc đấu tranh bất khuất, kiên
cường qua nhiều thế kỷ để giành độc lập dân tộc và tự do của Tổ quốc. Chính vì
vậy, người dân Việt Nam tin rằng, nước mất độc lập thì không thể có cá nhân tự
do, không thể có quyền con người. Để giành quyền con người thì phải giải phóng
dân tộc khỏi áp bức ngoại bang và bảo vệ quyền tự quyết của dân tộc.
Liên quan đến vấn đề trên, ở cấp độ quốc tế, quyền tự quyết dân tộc đã được
khẳng định trong Hiến chương Liên hợp quốc và tại Điều 1 của cả hai Công ước
quốc tế cơ bản nhất của Liên hợp quốc về quyền con người là ICCPR và
ICESCR. Ngoài ra, Đảng ta cũng khẳng định, quyền con người là mục tiêu, bản
chất, động lực của chế độ xã hội chủ nghĩa, trong đó, quyền dân chủ, tự do của
mỗi cá nhân kết hợp hài hòa với quyền tập thể và không tách rời nghĩa vụ, trách
nhiệm công dân.
Quyền con người, quyền công dân được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo
đảm bằng Hiến pháp, pháp luật. Trách nhiệm của Nhà nước, của tất cả các
ngành, các địa phương, cơ sở là phải tích cực, chủ động thực hiện nhằm ngày
càng hoàn thiện và nâng cao các quyền con người.
IV/NGUỒN GỐC CỦA QUYỀN CON NGƯỜI

Về nguồn gốc của quyền con người, có hai trường phái cơ bản đưa ra hai quan
điểm trái ngược nhau. Những người theo học thuyết về quyền tự nhiên (natural
rights219) cho rằng quyền con người là những gì bẩm sinh, vốn có mà mọi cá nhân
sinh ra đều được hưởng chỉ đơn giản bởi họ là thành viên của gia đình nhân loại.
Các quyền con người, do đó, không phụ thuộc vào phong tục, tập quán, truyền
thống văn hóa hay ý chí của bất cứ cá nhân, giai cấp, tầng lớp, tổ chức, cộng đồng
nhà nước nào. Vì vậy, không một chủ thể nào, kể cả nhà nước, có thể ban phát hay
tước bỏ các quyền con người bẩm sinh, vốn có của các cá nhân.
Hai học giả tiêu biểu cho học thuyết về quyền pháp lý có thể kể là Edmund
Burke (1729-1797) và Jeremy Bentham (1748-1832). Edmund Burke, trong tác
phẩm Suy nghĩ về Cách mạng Pháp(Reflections on the Revolution in France,1770)
và Jeremy Bentham, trong tác phẩm Phê phán học thuyết về các quyền tự nhiên,
không thể tước bỏ(Critique of the Doctrine of Inalienable, Natural Rights, 1843)
cùng cho rằng ý tưởng về các quyền tự nhiên là vô nghĩa (nonsense uponstilts) và
chẳng có quyền nào lại không thể tước bỏ (inalienable).
Như vậy Quyền con người được hình thành từ hai nguồn gốc: Nguồn gốc tự
nhiên và nguồn gốc xã hội. Xét về mặt lịch sử, quyền con người được nhận thức và
được thúc đẩy do thực tiễn bị áp bức, bóc lột và bị tước đoạt về quyền trong các xã
hội có giai cấp. Theo nghĩa này, quyền con người chỉ tồn tại trong xã hội có giai
cấp và chỉ mất đi khi các giai cấp và điều kiện tồn tại giai cấp không còn; do đó,
quyền con người là một phạm trù lịch sử. Theo nghĩa rộng, quyền con người bắt
nguồn từ phẩm giá vốn có của con người. Chính phẩm giá con người làm nảy sinh
những nhu cầu về quyền. Nhưng chỉ khi nào những nhu cầu về quyền này được xã
hội thừa nhận và bảo vệ mới trở thành quyền.Với cách hiểu này, quyền con người
sẽ tồn tại mãi mãi, gắn liền với sự tồn tại của con người và phát triển cùng với tiến
trình văn minh nhân loại.
V/TƯ TƯỞNG QUA NHIỀU THỜI KÌ
Dù ít được nhắc tới trong các công trình nghiên cứu ở tầm quốc tế, song xét về
mặt nội dung, bộ luật Hồng Đức (Quốc triều Hình Luật (1470-1497) thời Hậu Lê
của Việt Nam cũng xứng đáng được xếp vào danh sách những bộ luật cổ tiêu biểu
của thế giới về quyền con người, bởi lẽ, nó đã chứa đựng nhiều quy định có tính
nhân văn sâu sắc, trong đó bao gồm cả các quy định cụ thể về quyền của phụ nữ,
trẻ em, v.v.. mà được nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đánh giá rất cao.
Tuy nhiên, trong lịch sử phát triển của nhân loại, các tư tưởng về quyền con người
không chỉ được thể hiện trong các đạo luật, mà còn được phản ánh (một cách sâu
sắc và cụ thể hơn) trong các tư tưởng, học thuyết tôn giáo, chính trị và pháp lý.
Trước hết, xét về các học thuyết tôn giáo, tư tưởng về quyền con người từ lâu đã
được thấm nhuần trong giáo lý của hầu hết các tôn giáo trên thế giới. Trên thực tế,
trong số những tài liệu được cho là cổ xưa và toàn diện nhất xét về tư tưởng quyền
con người mà nhân loại còn giữ lại được cho đến ngày nay; ngoài đạo luật
Hammurabi và bộ Văn tuyển Nho giáo (Luận ngữ) , các tài liệu còn lại đều là
những kinh điển của tôn giáo , bao gồm: Kinh Vệ Đà của đạo Hinđu ở Ấn Độ,
Kinh Phật của đạo Phật; Kinh Thánh của đạo Thiên chúa và Kinh Kôran của đạo
Hồi.
VI/LIÊN HỆ THỰC TIỄN VỚI PHÁP LUẬT
Liên hệ pháp luật VN về quyền con người những thành tựu đạt được :
Trong quá trình xây dựng, phát triển đất nước, vấn đề quyền con người,
pháp luật về quyền con người là một nội dung rất quan trọng trong chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Trong Cương lĩnh chính trị đầu
tiên năm 1930, Đảng ta xác định, mục tiêu của cách mạng Việt Nam là “làm tư
sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng
sản”(1). Nhiệm vụ của Đảng là tập hợp lực lượng toàn dân, tiến hành đấu tranh
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Cách mạng Tháng
Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Đảng, Nhà
nước Việt Nam tập trung quan tâm sâu sắc đến vấn đề quyền con người, hướng
tới mục tiêu bảo vệ, bảo đảm quyền con người. Từ đó, quyền con người được ghi
nhận trong Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959.
Trong hoàn cảnh phải tiến hành các cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc,
nhà nước Việt Nam bước đầu tham gia vào hệ thống pháp luật quốc tế; năm
1957, Việt Nam tham gia 4 Công ước Giơ-ne-vơ của Luật Nhân đạo quốc tế(2).
Sau khi đất nước thống nhất, trở thành thành viên của Liên hợp quốc năm 1977,
Việt Nam tích cực tham gia vào hệ thống pháp luật quốc tế về quyền con người.
Thực hiện công cuộc đổi mới, từ năm 1986 đến nay, Việt Nam có bước phát
triển ấn tượng về kinh tế - xã hội, cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần
của nhân dân. Đổi mới kinh tế đặt ra nhu cầu công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo
đảm quyền con người trên lĩnh vực kinh tế, đồng thời, tác động đến quyền con
người trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Hiến pháp năm 2013 quy định bản
chất quyền lực của Nhà nước Việt Nam là “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân… Tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về Nhân dân… Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân
dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân”
(Điều 1, Điều 2, Điều 3, Hiến pháp năm 2013).
VII/QUYỀN CON NGƯỜI TỪ GÓC ĐỘ PHÁP LÝ
Chỉ thị số 12-CT/TW, ngày 12-7-1992, của Ban Bí thư Trung ương Đảng
khóa VII, “Về vấn đề quyền con người và quan điểm, chủ trương của Đảng
ta” xác định những nội dung cốt lõi nhất về quyền con người và quan điểm, chủ
trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề quan trọng này; tiếp tục xây
dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về quyền con người. Phương
pháp tiếp cận dựa trên quyền con người, đặt con người vào “vị trí trung tâm”,
“mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng,
quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân” trở thành một nguyên tắc trong hoạch
định chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Quyền con người, hay nhân quyền, là một giá trị cơ bản và quan trọng của
nhân loại. Đó là thành quả của sự phát triển lịch sử, là đặc trưng của xã hội văn
minh. Quyền con người cũng là một quy phạm pháp luật, đương nhiên nó đòi hỏi
tất cả mọi thành viên của xã hội, không loại trừ bất cứ ai, đều có quyền và nghĩa
vụ phải tôn trọng các quyền và tự do của mọi người.
Được chính thức pháp điển hóa trong luật quốc tế từ sau Chiến tranh thế
giới thứ hai, quyền con người đã trở thành một hệ thống các tiêu chuẩn pháp luật
quốc tế có tính chất bắt buộc với mọi quốc gia, và việc tôn trọng, bảo vệ các
quyền con người đã trở thành thước đo về trình độ văn minh của các nước và các
dân tộc trên thế giới.
Ở Việt Nam, kể từ khi giành độc lập năm 1945, việc phổ biến và giáo dục
nhân quyền ngày càng được Đảng và Nhà nước quan tâm, khuyến khích. Tuyên
ngôn độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa do Chủ tịch Hồ Chí Minh
đọc ngày 2/9/1945 được coi là một văn kiện có tính lịch sử trên phương diện
quốc tế về quyền con người. Trên cơ sở đó, quyền con người đã được ghi nhận
trong các bản Hiến pháp nước ta: Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959,
Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 2013.
Là một phạm trù đa diện, song quyền con người có mối liên hệ gần gũi hơn
cả với pháp luật. Điều này trước hết là bởi cho dù quyền con người có là bẩm
sinh, vốn có (nguồn gốc tự nhiên) hay phải do các nhà nước quy định (nguồn gốc
pháp lý), thì việc thực hiện các quyền vẫn cần có pháp luật. Hầu hết những nhu
cầu vốn có, tự nhiên của con người (các quyền tự nhiên) không thể được bảo
đảm đầy đủ nếu không được ghi nhận bằng pháp luật, mà thông qua đó, nghĩa vụ
tôn trọng và thực thi các quyền không phải chỉ tồn tại dưới dạng những quy tắc
đạo đức mà trở thành những quy tắc ứng xử chung, có hiệu lực bắt buộc và thống
nhất cho tất cả mọi chủ thể trong xã hội. Chính vì vậy, quyền con người gắn liền
với các quan hệ pháp luật và là một phạm trù pháp lý.
Thực tế cho thấy, với tư cách là chủ thể của pháp luật, con người – cùng với
quyền, tự do và nghĩa vụ, những thuộc tính xã hội gắn liền với nó – luôn là đối
tượng phản ánh của các hệ thống pháp luật. Pháp luật xác lập và bảo vệ sự bình
đẳng giữa các cá nhân con người trong xã hội và sự độc lập tương đối của các cá
nhân với tập thể, cộng đồng, nhà nước, thông qua việc pháp điển hóa các quyền
và tự do tự nhiên, vốn có của cá nhân. Theo nghĩa này, pháp luật có vai trò đặc
biệt, không thay thế trong việc ghi nhận, bảo vệ và thúc đẩy các quyền con
người. Vai trò của pháp luật với quyền con người thể hiện ở những đặc điểm như
sau:
Pháp luật là công cụ sắc bén của Nhà nước trong việc thực hiện bảo vệ
quyền con người, thể hiện ở các quy định về quyền con người trong pháp luật
được đảm bảo bằng bộ máy, cách thức tác động quyền lực của Nhà nước. Nhà
nước sử dụng các biện pháp cưỡng chế trên cơ sở giáo dục, thuyết phục bảo đảm
cho quyền con người được thực hiện và bảo vệ, nhờ đó mọi hành vi vi phạm về
quyền con người đều có khả năng bị phát hiện và xử lý.
Pháp luật là phương tiện chính thức hóa, pháp lý hóa giá trị xã hội của các
quyền tự nhiên. Về nguyên tắc, các nhà nước trên thế giới chỉ bảo đảm thực hiện
những quyền pháp lý – tức là có nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của con người
đã được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Như vậy, chỉ khi mang tính pháp lý, các
quyền tự nhiên mới chuyển thành những quyền con người có đầy đủ giá trị hiện
thực. Pháp luật chính là phương tiện để thực hiện quá trình chuyển hóa đó.
Pháp luật là phương tiện đảm bảo giá trị thực tế của các quyền con người vì
chỉ khi được quy định trong pháp luật, việc tuân thủ và thực hiện các quyền con
người mới mang tính bắt buộc với mọi chủ thể trong xã hội. Pháp luật đóng vai
trò là công cụ giúp Nhà nước bảo đảm sự tuân thủ, thực thi các quyền con người
của các chủ thể khác nhau trong xã hội, đồng thời cũng là công cụ của các cá
nhân trong việc bảo vệ các quyền con người của chính họ thông qua việc vận
dụng các quy phạm và cơ chế pháp lý quốc gia và quốc tế có liên quan.
Thực tế cho thấy, tư tưởng đề cao pháp luật, coi pháp luật là phương tiện
hữu hiệu để bảo đảm các quyền con người đã được khẳng định từ rất sớm. Từ
nhiều thế kỷ trước Công nguyên, một vị vua vĩ đại của xứ Babylon là
Hammurabi (1810 – 1750 TCN) đã tuyên bố rằng, mục đích của ông trong việc
ban hành đạo luật cổ nổi tiếng (mang tên ông) là để “…ngăn ngừa những kẻ
mạnh áp bức người yếu” [3]. Vào thế kỷ thứ VI trước Công nguyên, một nhiếp
chính quan La Mã là Arokhont Salon đã tuyên bố ý định giải phóng cho tất cả
mọi người bằng quyền lực của pháp luật, bằng sự kết hợp sức mạnh với pháp
luật.
Trong giai đoạn sau này, tư tưởng đề cao pháp luật với việc bảo đảm quyền
con người cũng được phát triển nhiều bởi nhà tư tưởng nổi tiếng của nhân loại,
và được chứng minh bằng sự ra đời của ngày càng nhiều các văn bản pháp luật
quốc gia và quốc tế về quyền và tự do của con người, từ Đại Hiến chương Magna
Carta (the Magna Carta, 1251), Bộ luật về các quyền (the Bill of Rights, 1689)
của nước Anh; Tuyên ngôn về các quyền của con người và của công dân (the
Declaration of the Rights of Man and of the Citizen, 1789) của nước Pháp;
Tuyên ngôn Độc lập (the Declaration of Independence, 1776) và Bộ luật về các
quyền (the Bill of Rights, 1789/1791) của Mỹ cho tới Tuyên ngôn toàn thế giới
về quyền con người năm 1948 và hệ thống đồ sộ hàng trăm văn kiện quốc tế về
quyền con người do Liên Hợp quốc và các tổ chức quốc tế khác thông qua từ đầu
thế kỷ XX đến nay. Tất cả đã cho thấy vai trò không thể thay thế của pháp luật
trong việc bảo đảm các quyền con người.
VIII/MỐI LIÊN HỆ GIỮI QUYỀN CON NGƯỜI VÀ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI
Khái niệm phát triển con người (human development), theo Chương trình
phát triển liên hợp quốc (UNDP), là một tiến trình mở rộng các quyền lựa chọn
cho mọi người, trao cho họ những cơ hội tốt hơn trong các vấn đê giáo dục,
chăm sóc y tế, thu nhập, việc làm.. Cũng theo UNDP, phát triển con người và
quyền con người có mối liên hệ chặt chẽ cả về động cơ và mục đích, có tác động
bổ trợ lẫn nhau, tuy có những khác biệt nhất định về chiến lược hành động. Cụ
thể, về những điểm tương đồng, phát triển con người và quyền con người đều
nhằm thúc đẩy cuộc sống và hạnh phúc của con người trên cơ sở khuyến khích
sự tôn trọng nhân phẩm vốn có của các cá nhân và sự bình đẳng giữa các dân tộc.
Phát triển con người và quyền con người đều nhằm hiện thực hóa tự do vốn có
của con người thông qua việc tăng cường các cơ hội và năng lực cho mọi người.
Cả phát triển con người và quyền con người đều lấy con người làm trung tâm,
đều nhằm tăng cường các tiêu chuẩn sống của con người không chỉ qua việc
nâng cao thu nhập, mà còn qua việc cải thiện các thiết chế xã hội theo hướng dân
chủ hóa và tôn trọng nhân quyền Điểm khác biệt cơ bản giữa phát triển con
người và quyền con người là chiến lược hành động. Trong khi các hoạt động về
phát triển con người, cụ thể như: Các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của Liên
Hợp Quốc được tổ chức thực hiện theo cách tiếp cận từ trên xuống dưới (top-
down approach), do đó chủ yếu tác động đến kiến trúc thượng tầng của các nhà
nước, còn các chương trình về quyền con người có cách tiếp cận cân bằng hơn,
theo đó không chỉ các nhà nước mà cả các cộng đồng, các tô’ chức xã hội dân sự
cũng đều được huy động tham gia một cách đồng thời. Cho dù có những điểm
khác biệt, song các chương trình và hoạt động về phát triển con người và quyền
con người có mối liên hệ chặt chẽ, tác động hỗ trợ lẫn nhau. Đơn cử, các hoạt
động bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người về kinh tế, xã hội, văn hóa bổ trợ
và góp phần thúc đẩy việc triêh khai và đạt được tám mục tiêu phát triển thiên
niên kỷ (trong đó có sáu mục tiêu gắn liền với các quyền kinh tế, xã hội, văn
hóa). Ngược lại, những hoạt động nhằm thực hiện tám mục tiêu phát triển thiên
kỷ cũng góp phần quan trọng vào việc bảo vệ và thúc đẩy các quyền kinh tế, xã
hội và văn hóa. Về vấn đề này, có một thuật ngữ được sử dụng phổ biến bởi các
cơ quan Liên Hợp Quốc, đó là tiếp cận dựa trên quyền (right-based approach -
RBA, hoặc human rights-based approach). Các đặc trưng cốt lõi của RBA là: +
Coi việc hỗ trợ thực hiện, thụ hưởng các quyền con người là mục tiêu chính
trong các chính sách và chương trình phát triển; + Lấy các nguyên tắc và tiêu
chuẩn quốc tế về quyền con người làm định hướng trong việc thiết lập và thực
hiện các chương trình phát triển.
+ Làm rõ những chủ thể của quyền, chủ thể có trách nhiệm và các quyền,
trách nhiệm, nghĩa vụ của họ, từ đó hỗ trợ họ tăng cường năng lực trong việc
thực hiện các quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm.
IX/ GIẢI PHÁP VỀ QUYỀN CON NGƯỜI

Bảo đảm thực hiện quyền con người được đặt ra trước hết xuất phát từ mục
tiêu,bản chất của chế độ; đó cũng là một trong những nội dung và đặc trưng rất cơ
bản và quan trọng của Nhà nước pháp quyền XHCN mà chúng ta đang xây dựng;
đồng thời, trước xu thế dân chủ hóa, giao lưu và hội nhập quốc tế ngày càng gia
tăng, đòi hỏi quyền con người và các quyền tự do cơ bản của cá nhân công dân
phải được tôn trọng và tăng cường hơn nữa. Trước yêu cầu đó, trong điều kiện
nước ta hiện nay, bảo đảm hiện thực hóa quyền con người cần phải áp dụng một hệ
thống đồng bộ các nhóm giải pháp.
1/Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo cơ sở pháp lý cho việc bảo
vệ,thúc đẩy và phát triển quyền con người, quyền công dân
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta và
trong các Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX, X
đều xác định: Nhà nước ta định ra các đạo luật quy định quyền con người, quyền
công dân, trong đó bên cạnh các luật về kinh tế, Nhà nước cần ưu tiên xây dựng
các luật về
quyền công dân.’ nước ta, tồn tại một nguyên tắc Hiến định: các quyền con
người, quyền và nghĩa vụ của công dân được quy định trong Hiến pháp và Luật.
Như thế, các quyền được quy định trong Hiến pháp tạo thành hệ thống các quyền
và nghĩa vụ cơ bản có tính nguyên tắc nền tảng. Các quyền được quy định trong
luật, một mặt, là cụ thể hóa các quyền trong Hiến pháp, mặt khác, phát triển và bổ
sung thêm những quyền mới. Vì vậy, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
bảo đảm quyền con người, quyền công dân đòi hỏi tăng cường hoạt động lập pháp
của Quốc hội như là điều kiện tiên quyết để bảo đảm quyền con người.
2/Xây dựng chế độ trách nhiệm của cán bộ, công chức nhà nước và hoàn thiện
cơ chế kiểm tra, giám sát bảo đảm nhân dân tham gia thực sự công việc nhà nước
Quyền và nghĩa vụ qua lại giữa Nhà nước và công dân bảo đảm tính ràng buộc
hai chiều, trước hết nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ, công chức là phục
vụ nhân dân, chứ không phải “làm quan cách mạng”. Trong điều kiện nước ta hiện
nay, đòi hỏi chuyển mạnh từ “nền hành chính cai trị sang nền hành chính phục vụ”.
Phát huy dân chủ, bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và tạo điều kiện
để nhân dân tham gia tích cực, chủ động vào công việc nhà nước, công việc xã hội,
trong đó có việc nhân dân tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của Nhà nước,
hoạt động của cán bộ, công chức nhà nước. Kiểm tra và giám sát hoạt động của
Nhà nước và cán bộ, công chức nhà nước – những người phục vụ nhân dân, đòi hỏi
Nhà nước phải báo cáo hoạt động trước nhân dân, bảo đảm quyền của công dân
được cung cấp thông tin một cách chân thực và chính xác từ phía cơ quan công
quyền. Những người trực tiếp do nhân dân bầu ra, phải thường xuyên tiếp xúc với
nhân dân. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát cán bộ, công chức nhà nước,
tăng cường hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở, nhất là tổ, khu dân phố nơi cán
bộ, vợ con của cán bộ, công chức sinh sống và làm việc.
3/Xóa đói, giảm nghèo, thực hiện công bằng xã hội, giảm sự phân hóa giàu
nghèo, nền tảng cho phát triển bền vững.
Bảo đảm thực hiện quyền con người trong nhà nước pháp quyền XHCN tự
bản thân đã đòi hỏi nghèo đói phải được giải quyết về căn bản. Điều đó cho thấy,
bảo đảm quyền kinh tế cho mọi người, quyền bình đẳng trong lĩnh vực kinh tế, đòi
hỏi chiến lược xóa đói, giảm nghèo, thực hiện công bằng xã hội và dần dần giảm
sự phân cách giàu nghèo là rất quan trọng.
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN phải là một xã hội người giàu với
số lượng ngày càng đông và người nghèo số lượng ngày càng giảm. Để thực hiện
được điều đó, vấn đề quan trọng hiện nay là Nhà nước với vai trò điều tiết vĩ mô,
quản lý nền kinh tế, dùng công cụ, sức mạnh thông qua chính sách thuế, thực hiện
việc điều tiết, phân phối lợi ích và bảo đảm phúc lợi xã hội, trong đó chú trọng đến
các đối tượng hưởng chính sách xã hội, đến vùng sâu, vùng xa; đồng thời, có chiến
lược phát triển kinh tế vùng miền, bảo đảm vùng sâu, vùng xa dần tiến kịp với các
thành phố, đô thị…
Tăng cường bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự: Trong
điều kiện nước ta hiện nay, đòi hỏi xây dựng được một đội ngũ cán bộ tư pháp tận
tâm, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, có khả năng hoàn thành nhiệm vụ;
đồng thời hoàn thiện kể cả về tổ chức với một cơ chế giám sát, chỉ đạo điều hành
chặt chẽ từ phía Đảng, cơ quan nhà nước, đoàn thể, nhân dân là rất cần thiết.
– Trước hết, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cơ quan tư pháp. Bảo
đảm sự lãnh đạo của Đảng không phải là can thiệp vào hoạt động điều tra, truy tố,
xét xử, mà bảo đảm sự lãnh đạo chỉ đạo bằng đường lối, chủ trương lớn ở tầm vĩ
mô; về xây dựng tổ chức, bộ máy, về công tác cán bộ…
– Tăng cường sự giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp đối với
cơ quan tư pháp.
– Tăng cường sự giám sát của đoàn thể quần chúng, các tổ chức chính trị xã
hội đối với hoạt động tư pháp; bảo đảm sự tham gia trong lĩnh vực đấu tranh phát
giác tội phạm và tham gia hoạt động xét xử (cơ chế hội thẩm).
– Cuối cùng, nhưng chiếm vị trí quan trọng là nâng cao vị trí, vai trò của luật
sư trong hoạt động tư pháp. Luật sư phải là người đại diện thực sự cho thân chủ.
Sự tham gia của luật sư là để giúp cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quá
trình tiến hành tố tụng, nhanh chóng làm sáng tỏ bản chất thật sự của vụ án, tránh
và giảm thiểu đến mức thấp nhất oan sai, không vô tư, khách quan trong hoạt động
tố tụng.
Kết luận:
Để có thể thực hiện tốt quyền con người thì chính phủ và người dân là điểm
xuất phát của mục tiêu xây dựng và thực hiện quyền con người. Đây cũng là một
trong các nội dung cơ bản của Đảng và Nhà nước ta đang tiến hành xây dựng.

Trong thời đại giao lưu giữa các nước ngày càng phát triển thì quyền con
người càng phải được tôn trọng và bảo vệ nhiều hơn nữa. Từ đó giúp cho việc phát
triển và tiếp thu những kiến thức, nét văn hóa và giá trị tiến bộ từ các nước khác
được tốt hơn. Phát triển con người là yếu tố trung tâm, trọng điểm, cần nhấn mạnh
đến vấn đề xây dựng các hệ giá trị cốt lõi làm mục tiêu cho quá trình xây dựng,
quán triệt, nhận thức một cách đầy đủ, toàn diện về vị trí, vai trò của quyền con
người trong từng chiến lược, chính sách phát triển kinh tế - xã hội trong toàn bộ hệ
thống chính trị, các cơ quan, ban, ngành, các tổ chức xã hội.
Từ đó, tạo nên sự thống nhất trong nhận thức và hành động của hệ thống
chính trị, hướng đến mục tiêu phát triển con người. Đẩy mạnh công tác thông tin,
tuyên truyền chính sách, thành tựu bảo đảm quyền con người của Việt Nam. Tận
dụng thế mạnh của các kênh ngoại giao, đối thoại, hợp tác làm cho cộng đồng quốc
tế, kiều bào ta ở nước ngoài hiểu đúng quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước và thành tựu đã đạt được trong bảo đảm quyền con người. Vì vậy,
xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa
giá trị truyền thống và giá trị hiện đại là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu.
Coi trọng giáo dục tinh thần yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc, lòng nhân ái,
tinh thần đoàn kết, đồng thuận xã hội. Bảo vệ và phát huy các giá trị tốt đẹp, bền
vững trong truyền thống văn hóa dân tộc. Thường xuyên chăm lo giáo dục đạo
đức, nhân cách, năng lực sáng tạo và các giá trị cốt lõi, ý thức trách nhiệm xã hội
cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ.
Kế hoạch làm việc nhóm
STT Họ và Tên Mã số sinh viên Mức độ tham gia Nội dung phân công
1 Đặng Ngọc Ân Quý 022154009 100% Phần IV,V và tìm nội
dung
2 Nguyễn Hoàng gia Ngọc 022154049 100% Phần VIII,IX và tìm
nội dung
3 Nguyễn Thị Cẩm Tú 022154060 100% Phần I,II,III và tìm nội
dung
4 Phan Thị Mỹ Hương 022154034 100% Phần VI,VII và tìm
nội dung
5 Phạm Thái bảo Duy 020154071 100% Lời mở đầu và kết
luận

You might also like