You are on page 1of 26

ĐẠI HỌC BÁCH KHOA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA

BÁO CÁO BÀI TẬP LỚN

MÔN PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG

CHỦ ĐỀ 3

BÀN VỀ NGƯỜI THỪA KẾ KHÔNG PHỤ THUỘC VÀO NỘI DUNG DI


CHÚC THEO BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015

GV : Lê Mộng Thơ

LỚP L12 - NHÓM 13

TP.HCM, 10/2021

SP1007
BÁO CÁO PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ VÀ KẾT QUẢ

STT Họ và tên MSSV Nhiệm Vụ Kết Quả

1. Lê Ngọc Minh Tâm 2012009 Phần mở đầu, kết luận; phần 2.3 Chương II; 100%
chỉnh sửa nội dung tổng hợp.

2. Nguyễn Bông Rin 2014342 Chương I 100%

3. Lai Cẩm Tài 2014407 Phần 2.1 Chương II 100%

4. Nguyễn Hồng Sơn 1914956 Phần 2.2 Chương II 100%

5. Phan Nguyễn Phước Tài 2011999 Tổng hợp, chỉnh word 100%

NHÓM TRƯỞNG (ghi rõ họ tên, ký tên)

SP1007
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU…………………………………………………………………………….…... 1

i. Lý do chọn đề tài …………..………………………………………………………….… 1

ii. Nhiệm vụ của đề tài ………………………………………………………..……..…….. 2

PHẦN NỘI DUNG ..………………………………………………………….. ………..…….... 3

i. CHƯƠNG 1 ..……………..…….…………………………………..…………….…...… 3

1. Chế định thừa kế theo di chúc trong Bộ luật Dân sự ..……………………..…….… 3

2. Khái quát chung về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc…….… 9

3. Cơ sở và ý nghĩa của việc quy định những người thừa kế không phụ thuộc

vào nội dung di chúc ..……………………………………………………………...….. 13

ii. CHƯƠNG 2 ………..…….………………………………………..………………..…... 15

1. Vấn đề pháp lý phát sinh trong sự việc và quan điểm của các cấp Tòa án ..…..…. 15

2. Nhận xét của nhóm nghiên cứu về tranh chấp và một số kiến nghị

hoàn thiện quy định pháp luật hiện hành …………………..……………………….. 17

3. Thực tiễn ......................................................................................................................... 19

PHẦN KẾT LUẬN ………………………………………………………………………..…… 21

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..……………………………………………..…...… 22

SP1007
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài:

Đề tài “Bàn về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc theo Bộ luật Dân sự năm
2015” thuộc lĩnh vực “Thừa kế”, được điều chỉnh bởi “Luật thừa kế” và hướng tới các đối tượng bắt
buộc thừa kế mà không có trong di chúc.

Quyền thừa kế là quyền cơ bản của công dân được pháp luật các quốc gia công nhận và quy định.
Thừa kế là việc thực thi chuyển giao tài sản, lợi ích, nợ nần, các quyền và nghĩa vụ từ người đã chết
sang cho một cá nhân hoặc tổ chức (còn sống) có quyền thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật.
Thừa kế từ lâu đã có vai trò quan trọng trong đời sống của con người, được quy định theo các chế
định pháp luật và thay đổi liên tục tùy theo cơ cấu xã hội nên nó phản ánh được phần nào bản chất
chế độ, thực trạng và sự phát triển của xã hội lúc bấy giờ. Ở Việt Nam, pháp luật thành văn cũng đã
có quy định về vấn đề này. Việc thực hiện tốt các quy định đó tạo thuận lợi cho công dân trong việc
thừa kế cũng như tạo điều kiện để phát triển luật thừa kế trong hệ thống pháp luật nước ta. Nguyên
tắc cơ bản của thừa kế có di chúc là tôn trọng quyền định đoạt của người để lại tài sản đối với tài sản
của cá nhân người đó nhưng đồng thời cũng bảo hộ những quyền lợi về thừa kế hợp pháp của thân
nhân sau khi người đó mất. Đây là một đề tài cần được nghiên cứu sâu để đáp ứng việc bảo vệ quyền
lợi của những người thừa kế hợp pháp không có trong di chúc, đồng thời điều chỉnh và hoàn thiện
hơn những quy định của pháp luật về vấn đề thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc này.

Hoàn thành tốt đề tài này góp phần vào việc hoàn thiện hệ thống khoa học pháp lý trong lĩnh vực
thừa kế nói riêng và trong lĩnh vực dân sự nói chung; xác định được tầm quan trọng của định chế
pháp luật này trong đời sống thực tiễn và trong hệ thống pháp luật về thừa kế của nước ta; phát hiện
những thiếu sót và những lỗ hổng đang còn trong pháp luật hiện hành để kịp thời đưa ra những kiến
nghị bổ sung và sửa đổi về những vấn đề chưa được quy định phù hợp. Qua đó hoàn thiện hơn những
quy định của pháp luật về thừa kế.

Vậy nên, nhóm em thực hiện việc nghiên cứu đề tài “Bàn về người thừa kế không phụ thuộc vào
nội dung di chúc theo Bộ luật Dân sự năm 2015” cho Bài tập lớn trong chương trình học môn Pháp
luật Việt Nam Đại cương.1

2. Nhiệm vụ của đề tài


1
Wikipedia bách khoa toàn thư ,thừa kế
SP1007 1
Một là, làm rõ những vấn đề lý luận chung về thừa kế, quyền thừa kế theo quy định của Bộ luật
Dân sự năm 2015. Đặc biệt trong đó là quyền thừa kế theo di chúc.
Hai là, làm sáng tỏ từng trường hợp và những điều kiện để được hưởng thừa kế không phụ thuộc
vào nội dung di chúc được quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2015.
Ba là, làm rõ phần di sản được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc theo quy
định của Bộ luật Dân sự năm 2015.
Bốn là, phân tích để làm sáng tỏ cơ sở và ý nghĩa của việc pháp luật quy định những người thừa
kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc.
Năm là, nhận xét vấn đề từ góc độ thực tiễn, phát hiện những bất cập của quy định hiện hành.
Sáu là, kiến nghị hoàn thiện pháp luật về chế định thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di
chúc theo Bộ luật Dân sự 2015

SP1007 2
PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG I

LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGƯỜI THỪA KẾ KHÔNG PHỤ THUỘC VÀO NỘI DUNG DI
CHÚC THEO BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015
1.1. Chế định thừa kế theo di chúc trong Bộ luật Dân sự
1.1.1. Khái niệm thừa kế, quyền thừa kế:
Thừa kế là một chế định quan trọng của ngành luật Dân sự, là tổng hợp các quy phạm pháp luật
về việc chuyển dịch tài sản của người đã chết cho người còn sống theo di chúc hoặc theo pháp luật,
đồng thời quy định về quyền, nghĩa vụ và bảo vệ quyền, nghĩa vụ của người thừa kế. (Được điều
chỉnh, quy định bởi Bộ luật Dân sự 2015)

Người thừa kế là người có quyền được hưởng tài sản và thực hiện các nghĩa vụ còn lại của người
đã mất. Tại Điều 613 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về người thừa kế là “cá nhân phải là người còn
sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành
thai trước khi người để lại di sản chết. Trường hợp người thừa kế theo di chúc không là cá nhân thì
phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.” Tuy nhiên người thừa kế vẫn có quyền từ chối nhận di sản
được thừa kế Điều 620 Bộ luật Dân sự 2015 quy định như sau: Thứ nhất người thừa kế có quyền từ
chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của
mình đối với người khác. Thứ hai việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản và gửi đến
người quản lý di sản, những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản để biết.
Thứ ba việc từ chối nhận di sản phải được thể hiện trước thời điểm phân chia di sản. Điều 621 Bộ
luật Dân sự 2015 quy định ,người được hưởng di sản thừa kế bị mất quyền thừa hưởng phần di sản
những trường hợp sau đây: Thứ nhất người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe
hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh
dự, nhân phẩm của người đó; Thứ hai người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại
di sản; Thứ ba người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng
một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng; Thứ tư người có hành vi
lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa
di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của
người để lại di sản. Những người quy định tại khoản 1 Điều này vẫn được hưởng di sản, nếu người để
lại di sản đã biết hành vi của những người đó, nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc.Điều 612

SP1007 3
Bộ luật Dân sự 2015 quy định về phần tài sản được coi là di sản của người đã mất là “ Di sản bao gồm
tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác.”

Pháp luật Việt Nam quy định người thừa kế có thể là cá nhân, tổ chức, tập thể hay thậm chí là
Nhà nước. Việc thừa kế của một người chỉ diễn ra khi xác định được người đó đã chết. Sau khi chủ
thể chết sẽ xác định người thừa kế dựa theo việc người đó có để lại di chúc hay không. Nếu có để lại
di chúc thì việc chia di sản sẽ theo như di chúc của người đã mất, nếu không để lại di chúc hoặc di
chúc được xác định là không hợp pháp thì sẽ tiến hành chia di sản theo pháp luật.

Quyền thừa kế đã quy định tại điều 609 Bộ luật Dân sự 2015 như sau: “Cá nhân có quyền lập di
chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng
di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật. Người thừa kế không là cá nhân có quyền hưởng di sản theo
di chúc.” Người thừa kế chỉ được hưởng di sản thừa kế do người chết để lại khi đáp ứng được yêu
cầu của pháp luật, phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế, đây là quy định thể hiện ý nghĩa
của việc dịch chuyển tài sản của một người đã chết sang cho người còn sống để xác lập quyền sở hữu
đối với phần di sản mà họ được hưởng khi người này nhận được di sản thừa kế. Sẽ là vô nghĩa khi tài
sản của một người đã chết lại dịch chuyển cho một người đã chết khác. Cá nhân là thai nhi  đòi hỏi
khi được sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế. Căn cứ vào quy định tại Điều 613 của Bộ luật
Dân sự 2015, người đã thành thai trước khi người để lại di sản thừa kế chết thì vẫn được hưởng di sản
thừa kế như những cá nhân khác cùng hàng thừa kế.
Ngoài ra, tại Điều 660 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định về người được hưởng di sản thừa kế theo
pháp luật. Theo đó, khi phân chia di sản thừa kế, nếu có người thừa kế cùng hàng đã thành thai nhưng
chưa sinh ra thì phải để lại một phần di sản bằng phần của những người thừa kế khác. Thứ nhất nếu
thai nhi đó còn sống sau khi sinh ra thì sẽ được hưởng phần di sản thừa kế này; Thứ hai nếu người đó
chết trước khi sinh ra thì những người thừa kế khác được hưởng phần di sản thừa kế này. Thai nhi
thành thai trong bụng mẹ trước khi người để lại di sản chết và sinh ra sau khi người để lại di sản chết
và còn sống tại thời điểm phân chia di sản thì cũng được hưởng thừa kế. Nhìn chung, quy định này
được lập ra để đảm bảo quyền lợi của đứa bé dù chưa được sinh ra, dù chưa chào đời nhưng vẫn là
con huyết thống của người để lại di sản, vẫn có quyền được hưởng thừa kế. So với Bộ luật Dân sự
2005, thì quy định về người thừa kế vẫn không thay đổi: “Người thừa kế là cá nhân phải là người còn
sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành
thai trước khi người để lại di sản chết.”.
Tính tới thời điểm hiện tại, quy định về người thừa kế trong Bộ luật Dân sự 2015 đã đáp ứng
được hầu hết các trường hợp phát sinh trên thực tế. Mặc dù vậy, có trường hợp thực tế xảy ra mà hiện
SP1007 4
tại không được pháp luật dự liệu. Đó là trường hợp sinh con với người đã chết. Khi người để lại di
sản chết, thì con (về mặt sinh học) của người này được sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế.
Sự tiến bộ của y học mà khoa học pháp lý chưa bắt kịp với sự tiến bộ này, sự tiến bộ đó đã cho phép
con người áp dụng những kỹ thuật hỗ trợ sinh sản để trữ tinh trùng/ trứng của người đã chết và sau đó
tiến hành thụ tinh trong ống nghiệm. Vậy, trẻ sinh ra trong trường hợp này có được xem là người
thừa kế hợp pháp của người đã mất hay không? Việc xác định tư cách được hưởng thừa kế của người
thành thai sau thời điểm mở thừa kế là điều khá mới mẻ ở Việt Nam. Do đó, để thuận lợi hơn cho
công tác xét xử của Tòa án, Bộ luật Dân sự 2015 nên bổ sung thêm những chi tiết về thừa kế của
những người thành thai sau thời điểm mở thừa kế.
Người để lại di sản thừa kế là người có tài sản sau khi chết để lại cho người còn sống theo ý chí
của họ được thể hiện trong di chúc hay theo quy định của pháp luật. Người để lại di sản chỉ có thể là
cá nhân, không phân biệt bất cứ điều kiện nào (thành phần xã hội, mức độ năng lực hành vi...). Công
dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở... Khi còn sống họ có quyền đưa
các loại tài sản này vào lưu thông dân sự hoặc lập di chúc cho người khác hưởng tài sản của mình sau
khi chết. Trường hợp công dân có tài sản thuộc quyền sở hữu riêng, không lập di chúc sau khi chết,
tài sản này sẽ chia theo quy định của pháp luật. Di chúc có hiệu lực kể từ khi người lập di chúc qua
đời, được quy định tại Điều 643 Bộ luật Dân sự 2015, tuy nhiên không có nghĩa là tại thời điểm
người lập di chúc mất thì di chúc phải được đem ra thi hành. Tại thời điểm chủ thể mất, sẽ tiến hành
mở di chúc tại thời điểm và địa điểm như Điều 611 Bộ luật Dân sự 2015 đã quy định : Thứ nhất thời
điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trường hợp Tòa án tuyên bố một người là đã
chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định tại khoản 2 Điều 71 của Bộ luật này. Thứ hai địa
điểm mở thừa kế là nơi cư trú cuối cùng của người để lại di sản; nếu không xác định được nơi cư trú
cuối cùng thì địa điểm mở thừa kế là nơi có toàn bộ di sản hoặc nơi có phần lớn di sản.

Sau khi mở di chúc, nếu những người được thừa kế hoặc không được thừa kế có tranh chấp hoặc
không chấp nhận nội dung di chúc thì có thể khởi kiện theo quy định tại Điều 623 Bộ luật Dân sự
2015 như sau: Thứ nhất thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động
sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người
thừa kế đang quản lý di sản đó. Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản
được giải quyết như sau: Một là di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định
tại Điều 236 của Bộ luật này. Và hai là di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu quy
định tại điểm a khoản này. Thứ hai thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của
mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế. Thứ ba thời

SP1007 5
hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 03 năm, kể từ thời
điểm mở thừa kế.

1.1.2. Khái niệm về thừa kế theo di chúc


“Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi
chết” được quy định tại Điều 624 Bộ luật Dân sự 2015. Di chúc mang những đặc điểm sau đây: Thứ
nhất việc lập di chúc là giao dịch đơn phương, việc lập di chúc là giao dịch đơn phương vì những lý
do sau: Di chúc là sự thể hiện ý chí của một cá nhân nhằm làm phát sinh hậu quả pháp lý; người thừa
kế (một bên chủ thể trong quan hệ thừa kế) chỉ có thể thể hiện ý chí của mình sau khi người lập di
chúc chết. Cá nhân lập di chúc có quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc bất cứ khi nào.
Những đặc trưng này cho thấy, việc lập di chúc khác về bản chất so với khế ước (hợp đồng – giao
dịch nhiều bên). Thứ hai nội dung di chúc thể hiện mục đích dịch chuyển di sản của người chết cho
người còn sống (đã được xác định trong di chúc). Ý chỉ của cá nhân khi lập di chúc sẽ không thể được
pháp luật điều chỉnh nếu không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của các chủ thể khác. Do đó, nội dung
của di chúc cần phải đảm bảo sự dịch chuyển tài sản và hệ quả pháp sinh quyền sở hữu đối với chủ
thể nào đó.(Di chúc giúp chuyển tài sản của người đã mất sang cho người có quyền thừa kế mà họ đã
xác định. Thông qua quyền thừa kế, tài sản của một người có thể truyền từ đời này sang đời khác.
Pháp luật tôn trọng quyền tự định đoạt của một người đối với tài sản của họ ngay cả khi họ đã mất)
Thứ ba di chúc là loại giao dịch Dân sự chỉ phát sinh hiệu lực khi người lập di chúc đã chết. Di chúc
là phương tiện phản ánh ý chí, mong muốn định đoạt di sản của cá nhân sau khi chết. Di chúc phản
ánh quá trình hình thành chế định thừa kế theo di chúc. Quan hệ về thừa kế chỉ phát sinh khi có sự
kiện một người chết nên việc lập di chúc chỉ có thể phát sinh hiệu lực khi người lập chết. 1

Theo Bộ luật Dân sự 2015, tại Điều 625, người lập di chúc được định nghĩa như sau: Thứ nhất
người thành niên có đủ điều kiện theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 630 của Bộ luật này có
quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình. Theo điểm a khoản 1 Điều 630 của Bộ luật Dân sự
2015: “Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng
ép”. Điều đó cho thấy người lập di chúc phải tự làm chủ được suy nghĩ của mình, không bị một bất kì
ai ép buộc, đe doạ bởi một bất kì ai khác. Thứ hai người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám
tuổi được lập di chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc. Quy định
như vậy là bởi vì theo pháp luật Việt Nam thì công dân từ 15 tuổi trở lên có thể tham gia quan hệ lao
động. Khi đó, họ đã có khả năng nhận thức, làm chủ hành vi một cách tương đối, họ có thể có tài sản
riêng, có ý chí riêng của mình nên họ hoàn toàn đủ điều kiện lập di chúc.
1
Nguyễn Tiến Đạt, “Di chúc là gì? Di chúc hợp pháp?”, https://azlaw.vn/di-chuc-la-gi.htm truy cập ngày 10/9/20210
SP1007 6
Theo Điều 626 Bộ luật Dân sự 2015, người lập di chúc có những quyền sau đây: Thứ nhất được
chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế: Người lập di chúc có quyền
được chỉ định, được truất quyền hưởng di sản thừa kế theo ý chí của riêng người đó và nội dung này
phải có trong di chúc. Như vậy những người bị truất quyền hưởng di sản thừa kế theo di chúc thì
không được hưởng di sản thừa kế theo di chúc (trừ trường hợp người được hưởng di sản thừa kế
không phụ thuộc vào nội dung của di chúc). Thứ hai được phân định phần di sản cho từng người thừa
kế: Người lập di chúc có quyền để lại tài sản của mình cho mỗi người theo ý chí của họ mà pháp luật
không bắt buộc phải chia đều. Người lập di chúc có quyền phân chia một cách cụ thể di sản của mình
cho người thừa kế, có quyền phân chia di sản cho mỗi người không nhất thiết phải ngang nhau mà
không cần phải nêu lý do. Người lập di chúc cũng có thể chỉ định nhiều người thừa kế và di sản được
chia đều cho những người có tên trong di chúc. Nếu những người này có sự thỏa thuận về việc hưởng
di sản thì việc phân chia di sản sẽ tuân theo sự thỏa thuận đó. Người lập di chúc cũng có thể phân
định di sản theo tỷ lệ mà không xác định rõ phần di sản mà từng người thừa kế được hưởng và mỗi
người thừa kế được hưởng phần di sản theo tỷ lệ đã được xác định trên tổng giá trị khối tài sản đang
còn vào thời điểm phân chia. Hoặc người lập di chúc có thể phân định rõ trong di chúc người thừa kế
nào được hưởng di sản là hiện vật gì; khi di sản được phân chia, những người thừa kế được nhận hiện
vật theo sự xác định trong di chúc. Thứ ba được dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng,
thờ cúng: Người được di tặng có thể là cá nhân và cũng có thể là cơ quan, tổ chức. Đối tượng di tặng
có thể là bất động sản hoặc động sản. Người lập di chúc có dành một phần làm di sản thờ cúng thì
phần di sản đó giao cho người được chỉ định trong di chúc hoặc do những người thừa kế thỏa thuận
giao cho một người quản lí. Thứ tư được giao nghĩa vụ cho người thừa kế: Người lập di chúc có
quyền giao nghĩa vụ cho người thừa hưởng di sản thực hiện công việc mà lẽ ra người đó phải hoàn
thành khi còn sống. Nghĩa vụ ở đây là nghĩa vụ về tài sản và chỉ tối đa tương ứng với số tài sản mà
người lập di chúc để lại. Thứ năm được chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân
chia di sản: Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác
sau khi chết. Để tránh việc thất lạc, hư hỏng di chúc, cũng như để đảm bảo ý nguyện của mình không
bị người khác xâm phạm, người lập di chúc có thể gửi di chúc ở cơ quan công chứng nhà nước hoặc
bất kỳ người nào mà mình tin tưởng giữ bản di chúc. Người lập di chúc cũng có quyền chỉ định người
phân chia di sản, việc phân chia di sản phải tuân theo di chúc. Trường hợp di chúc không xác định
cách phân chia di sản thì phải chia theo sự thỏa thuận của những người thừa kế. Người phân chia di
sản chỉ được hưởng thù lao đối với công việc chia di sản và theo mức mà người để lại di sản đã xác
định, nếu trong di chúc có cho phép hưởng thù lao. Trường hợp di chúc không xác định điều này,

SP1007 7
nhưng nếu có sự thỏa thuận của những người thừa kế thì người phân chia di sản vẫn được hưởng thù
lao theo sự thỏa thuận đó. Đồng thời, người được xác định phân chia tài sản có thể từ chối công việc
đó nếu muốn và trong những trường hợp này những người thừa kế tự thỏa thuận để cử ra người phân
chia di sản.

Theo Điều 625 của Bộ luật Dân sự 2015, quy định về độ tuổi của người lập di chúc: Thứ nhất
người thành niên có đủ điều kiện theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 630 của Bộ luật này
có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình. Thứ hai người từ đủ mười lăm tuổi đến
chưa đủ mười tám tuổi được lập di chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về
việc lập di chúc.

Theo Điều 630 của Bộ luật Dân sự 2015, điều kiện để một di chúc hợp pháp gồm có 5 Điều: Thứ
nhất di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây: Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong
khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép và nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm
của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật. Thứ hai di chúc
của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập thành văn bản và phải được
cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc. Thứ ba di chúc của người bị hạn chế về thể
chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng
hoặc chứng thực. Thứ tư di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp
pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này. Thứ năm di chúc miệng được coi
là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người
làm chứng và ngay sau khi người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép
lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể
hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực
xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng. Tại Điều 627 của Bộ luật Dân sự 2015, di chúc
phải được lập thành văn bản; nếu không thể lập được di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng.

Theo Điều 628, di chúc bằng văn bản bao gồm 4 Điều: Thứ nhất di chúc bằng văn bản không có
người làm chứng. Căn cứ theo Điều 633 Bộ luật Dân sự, di chúc bằng văn bản không có người
làm chứng sẽ có hiệu lực khi thỏa mãn hai tiêu chí sau: (1) người lập di chúc phải tự viết
tay hoặc đánh máy và ký vào bản di chúc; (2) nội dung của di chúc phải phù hợp với quy định
tại Điều 631 như ngày, tháng, năm lập di chúc; Họ, tên người lập di chúc; Họ tên, cơ quan
được hưởng di sản,… Thứ hai di chúc bằng văn bản có người làm chứng. Theo Điều 634 của Bộ
luật Dân sự 2015: “Trường hợp người lập di chúc không tự mình viết bản di chúc thì có thể tự mình

SP1007 8
đánh máy hoặc nhờ người khác viết hoặc đánh máy bản di chúc, nhưng phải có ít nhất là hai người
làm chứng. Người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm
chứng; những người làm chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc và ký vào bản di
chúc” Thứ ba di chúc bằng văn bản có công chứng. Theo Điều 635 của Bộ luật Dân sự 2015: “Người
lập di chúc có thể yêu cầu công chứng hoặc chứng thực bản di chúc”. Thứ tư di chúc bằng văn bản có
chứng thực..1

1.2. Khái quát chung về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc
1.2.1. Quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 về người được hưởng thừa kế và không được
hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc

Để bảo vệ quyền của những người được thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc nói
riêng và quyền của những người thừa kế khác trong việc hưởng di sản thừa kế của cá nhân nói chung,
sự thống nhất trong cách hiểu và áp dụng quy định tại Điều 644 Bộ luật Dân sự năm 2015 cần phải
được chú trọng. Theo Điều 644 của Bộ luật Dân sự 2015 quy định về những người thừa kế không phụ
thuộc vào nội dung di chúc như sau: Thứ nhất những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản
bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật,
trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản
ít hơn hai phần ba suất đó:(1) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng; (2) Con đã thành niên mà
không có khả năng lao động. Thứ hai quy định tại khoản 1 Điều này không áp dụng đối với người từ
chối nhận di sản theo quy định tại Điều 620 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản
theo quy định tại khoản 1 Điều 621 của Bộ luật này.

1.2.2. Điều kiện hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc theo quy định của Bộ
luật Dân sự năm 2015

Điều kiện chung để hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc cũng giống như những
người thừa kế hợp pháp khác của người để lại di sản, người thuộc diện thừa kế bắt buộc phải tuân thủ
các yêu cầu của một người thừa kế sau đây: Thứ nhất không từ chối hưởng di sản thừa kế theo Điều
620 Bộ luật Dân sự năm 2015: Người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ
chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác. Việc từ chối nhận
di sản phải được lập thành văn bản và gửi đến người quản lý di sản, những người thừa kế khác, người
được giao nhiệm vụ phân chia di sản để biết.Việc từ chối nhận di sản phải được thể hiện trước thời
1
https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Quyen-dan-su/Bo-luat-dan-su-2015-296215.aspx Bộ luật Dân sự 2015

SP1007 9
điểm phân chia di sản. Thứ hai không bị mất quyền thừa kế di sản theo Điều 621 Bộ luật Dân sự năm
2015:Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi
nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người
đó. Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản. Người bị kết án về hành vi
cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà
ngườih từa kế đó có quyền hưởng. Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di
sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm
hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản. Thứ ba cá nhân còn sống
vào thời điểm mở thừa kế.1

Những người sau đây sẽ được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc theo quy
định của Bộ luật Dân sự 2015:
Thứ nhất cha, mẹ của người để lại di chúc: Cha, mẹ được hiểu là cha, mẹ đẻ và cha, mẹ nuôi. Tuy
nhiên nếu là cha, mẹ nuôi thì phải là cha, mẹ nuôi hợp pháp, tuân thủ các quy định về nhận nuôi theo
quy định của pháp luật hiện hành. Cha, mẹ là những đối tượng được đưa vào để hưởng thừa kế không
phụ thuốc vào nội dung di chúc là bởi vì có những lý do sau: trước hết, chưa nói đến yếu tố pháp luật,
chúng ta nên nhìn nhận vấn đề một cách nhân văn hơn. Từ xưa đến nay, ông cha ta luôn nhấn mạnh
công lao của cha mẹ, các bậc sinh thành đã vất vả nuôi dưỡng ta khôn lớn, đó là lý do do họ ví von
“Công cha như núi Thái Sơn – Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”. Cha mẹ không chỉ có công
mang nặng đẻ đau mà họ còn hy sinh rất nhiều vì con cái, làm lụng vất vả và luôn lo lắng, suy nghĩ
cho tương lai của con mình. Luật thừa kế Việt Nam ra đời căn cứ trên đạo lý quý báu mà ông bà xưa
để lại, do đó, việc quy định cha mẹ phải được hưởng thừa kế của con cái là hợp tình, hợp lý, mang
tính nhân văn sâu sắc. Như vậy có thể thấy quyền thừa kế của cha mẹ được đặt lên hàng đầu. Mọi tài
sản, của cải vật chất mà con cái chết đi để lại sẽ được ưu tiên phân chia cho cha mẹ và những người
nuôi dưỡng con cái như cha, mẹ nuôi.
Thứ hai vợ, chồng của người để lại di chúc: Đối tượng được hưởng di sản thừa không phụ thuộc
vào nội dung di chúc tiếp theo là vợ hoặc chồng của người để lại di sản. Để có thể nhận tài sản thừa

11
TCKS số 01/2019, “Quyền của người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc”, truy cập ngày 12/9/2021

https://kiemsat.vn/quyen-cua-nguoi-thua-ke-khong-phu-thuoc-vao-noi-dung-cua-di-chuc-57198.html
2
Văn Phòng Luật Sư Quang Thái, “Thừa kế không theo nội dung di chúc”, truy cập ngày 12/9/2021

,http://luatthuake.vn/thua-ke-khong-phu-thuoc-noi-dung-di-chuc-111-a8ia.html

3
Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 1(281), tháng 1/2015, “Thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc theo Bộ luật
Dân sự năm 2005”, truy cập ngày 12/9/202 http://lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=208285
SP1007 10
kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc thì vợ, chồng phải là vợ, chồng hợp pháp, được pháp
luật công nhận. Tại khoản 5 Điều 3 Luật Hôn nhân và Gia đình khẳng định, kết hôn là việc nam và nữ
xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật này về điều kiện kết hôn và đăng ký kết
hôn. Theo đó, điều kiện đăng ký kết hôn được nêu cụ thể Điều 8 Luật Hôn nhân và Gia đình gồm: (1)
nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên; (2) việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết
định; (3) không bị mất năng lực hành vi dân sự; (4) việc kết hôn không thuộc một trong các trường
hợp cấm kết hôn như kết hôn giả tạo; tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn; kết
hôn với người đã có vợ hoặc có chồng; kết hôn với người cùng dòng máu về trực hệ, giữa người có
họ trong phạm vi ba đời; yêu sách của cải trong kết hôn… Từ xưa đến nay,  tình cảm vợ chồng được
cha ông ta đúc kết từ ngàn đời vẫn luôn có những giá trị vô cùng sâu sắc và tốt đẹp “Râu tôm nấu với
ruột bầu/ Chồng chan vợ húp, gật đầu khen ngon”. Trong tình yêu chung thủy là 1 trong những đức
tính luôn phải có để tình yêu luôn bền vững và đi cùng nhau tới suốt cuộc đời. Có ai bên cạnh ta gần
hết cuộc đời, mất đi một người từng chung sống, từng trao nhau những lời yêu thương, người từng
cùng nhau đi qua những đắng cay, ngọt bùi là một điều rất đáng tiếc thương. Việc quy định vợ, chồng
được hưởng thừa kế của chồng, vợ đã mất là hợp tình, hợp lí, mang tính nhân văn.

Thứ ba con chưa thành niên: Căn cứ quy định tại khoản 1, Điều 21 Bộ luật Dân sự 2015,
người chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành niên, chưa có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Vì
chưa có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo Điều 19 Bộ luật này, nên khi tiến hành giao dich
dân sự: Giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi do người đại diện theo pháp luật của
người đó xác lập, thực hiện. Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi khi xác lập, thực
hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch dân sự
phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi . Người từ đủ mười lăm tuổi đến
chưa đủ mười tám tuổi tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, trừ giao dịch dân sự liên
quan đến bất động sản, động sản phải đăng ký và giao dịch dân sự khác theo quy định của luật
phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý. Trong trường hợp người chết có con chưa
thành niên và để lại di chúc cho con dưới 18 tuổi thì con sẽ được hưởng di sản theo di chúc.
Nếu người có tài sản không để lại di chúc thì con dưới 18 tuổi vẫn được hưởng di sản mà
không phụ thuộc vào nội dung của di chúc. Viện dẫn khoản 1 Điều 644 Bộ luật Dân sự 2015,
những người vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo
pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di
chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó đối với con
chưa thành niên. Con chưa thành niên để được hưởng di sản không phụ thuộc nội dung di chúc
SP1007 11
phải là người không từ chối nhận di sản theo Điều 620 Bộ luật Dân sự hoặc không thuộc đối
tượng không có quyền hưởng di sản tại khoản 1 Điều 621 Bộ luật Dân sự 2015.

Thứ tư con thành niên mà không có khả năng lao động: Theo quy định tại Điều 20 Bộ luật dân sự
2015: Người thành niên là người từ đủ mười tám tuổi trở lên. Hiện tại chưa có một định nghĩa chính
xác nào cho cụm từ không có khả năng lao động. Tuy nhiên dựa vào thực tế, có thể tạm hiểu người
thành niên mà không có khả năng lao động tự nuôi sống bản thân là người đã thành niên (vào thời
điểm mở thừa kế) nhưng mắc các bệnh tâm thần hoặc bệnh khác dẫn đến mất khả năng nhận thức,
không làm chủ hành vi của mình như bị bại liệt toàn thân, liệt cột sống, liệt đốt cổ, liệt hai chi trở lên,
mù mắt, mất sức lao động từ 81% trở lên.

1.2.3. Phần di sản được hưởng của người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc
Con số 2/3 là một mức tối thiểu để thể hiện trách nhiệm của người đã mất với con cái hoặc cha,
mẹ, vợ và chồng của mình. Bên cạnh đó, phần di sản này cũng như một lời chúc cho người ở lại sẽ có
một cuộc sống đầy đủ, sung túc. Có thể nói, Nhà nước Việt Nam đã rất tinh tế trong việc soạn ra Bộ
luật Dân sự, con số 2/3 nhìn qua thì có thể thấy là không ít và cũng không nhiều, vừa đủ để đảm bảo
tính công bằng, rõ ràng cho nhân dân trong việc phân chia di sản thừa kế. Trong thực tế khi áp dụng
Điều 644 Bộ luật Dân sư 2015, để đảm bảo cho quyền lợi của những người thừa kế được quy định
trong đó, vấn đề đầu tiên là phương pháp xác định “hai phần ba của một suất thừa kế theo pháp luật”.
Đây là một vấn đề hết sức khó khăn trong quá trình giải quyết những vụ tranh chấp về thừa kế. Theo
quy định ở Điều 644 BLDS 2015 thì cách tính 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật được
tính theo công thức sau:

=   2/3      x    Tổng di sản gốc :  Những người thừa kế gốc tại hàng thừa kế thứ nhất 2

Trong đó: Tổng di sản gốc là phần di sản còn lại để chia thừa kế sau khi đã thanh toán toàn bộ nghĩa
vụ về tài sản của người chết để lại theo thứ tự ưu tiên thanh toán được quy định tại Điều 658 BLDS
2015. Tuy nhiên việc tính 2/3 suất gặp không ít khó khăn do quy định của luật có nhiều cách hiểu đối
với cách chưa thừa kế không phụ thuộc nội dung di chúc. Theo đó, có thể hiểu tổng suất thừa kế bao
gồm toàn bộ những người hưởng thừa kế theo pháp luật. Tuy nhiên cũng có ý kiến cho rằng tổng suất
thừa kế trừ các trường hợp từ chối nhận di sản hoặc không có quyền thừa kế theo Điều 621 Bộ luật
Dân sự năm 2015.1
1
https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Quyen-dan-su/Bo-luat-dan-su-2015-296215.aspx Bộ luật Dân sự 2015

2
Nguyễn Hương, “Cách tính 2/3 của một suất thừa kế theo pháp luật”, truy cập ngày 18/9/202 https://luatvietnam.vn/dan-su/tinh-2-
3-cua-mot-suat-thua-ke-theo-phap-luat-568-29824-article.html
SP1007 12
1.3. Cơ sở và ý nghĩa của việc quy định những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc
Nguyên tắc pháp luật thừa kế là những tư tưởng, quan điểm chỉ đạo xuyên suốt trong quá trình
xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật thừa kế. Qua đó góp phần phản ánh bản chất cùng những đặc
trưng cơ bản của pháp luật ở nước ta. Vì vậy, từ khi hình thành đến nay, những nguyên tắc pháp luật
thừa kế ở nước ta có sự thay đổi phù hợp với bản chất của nhà nước ở từng giai đoạn lịch sử.
Những nguyên tắc pháp luật thừa kế ở Việt Nam đã thể hiện rõ bản chất và những đặc trưng pháp
luật về thừa kế ở nước ta. Theo Khoản 1 và 4 Điều 3 của Bộ luật dân sự 2015: (1) Mọi cá nhân, pháp
nhân đều bình đẳng, không được lấy bất kỳ lý do nào để phân biệt đối xử; được pháp luật bảo hộ như
nhau về các quyền nhân thân và tài sản. (Khoản 1 Điều 3 của Bộ luật Dân sự 2015); (2) Việc xác lập,
thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự không được xâm phạm đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi
ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. (Khoản 4 Điều 3 của Bộ luật Dân sự 2015)
Mục đích của quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 về người được hưởng thừa kế và không
được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc này nhằm bảo vệ quyền lợi của cha, mẹ,
vợ, chồng, con của người để lại di sản trước những quyết định bất lợi đối với họ. Đây đều là những
người có mối quan hệ thân thiết gần gũi nhất với người để lại di sản. Cả phương diện pháp lý cũng
như đạo lý đều quy định rằng: việc chăm sóc, nuôi dưỡng những người này là bổn phận của người để
lại di sản. Bổn phận ấy không chỉ được thực hiện khi người để lại di sản còn sống, mà ngay cả khi họ
chết đi thì bổn phận ấy sẽ vẫn tiếp tục được thực hiện bằng việc người để lại di sản để lại một phần tài
sản của mình cho cha, mẹ vợ chồng con cái của họ. Nếu vì một lý do nào đó mà họ không thực hiện
hoặc thực hiện không đầy đủ bổn phận của mình thì pháp luật bằng những quy định của mình sẽ ấn
định cho những người có quan hệ gần gũi với người này luôn được hưởng một phần di sản từ khối di
sản của người đó để lại. Đó chính là phần di sản thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc.
Mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền thừa kế, là một nguyên tắc cơ bản trong pháp luật thừa kế
ở Việt Nam. Nó không những phản ánh chế độ chính trị nói chung mà điều quan trọng là nhằm đảm
bảo sự bình đẳng của mọi công dân trong lĩnh vực thừa kế, tạo được sự đoàn kết tốt giữa các thành
viên trong gia đình, góp phần xây dựng một gia đình ấm no, hạnh phúc, bền vững. Quy định về người
thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc trong Bộ luật Dân sự hướng tới bảo vệ quyền lợi của
các chủ thể là cha, mẹ của người lập di chúc, vợ hoặc chồng của người lập di chúc, con của người lập
di chúc mà chưa thành niên hoặc đã thành niên nhưng không có khả năng lao động. Mặc dù không
được di chúc chia phần di sản để lại nhưng những người thân thích của người để lại di sản vẫn được
pháp luật bảo đảm quyền lợi của mình trong việc thụ hưởng phần tài sản của người lập di chúc để lại.
Xuất phát từ tinh thần đạo lí, truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta, trong gia đình các con phải kính

SP1007 13
trọng, nuôi dưỡng cha mẹ. Ngược lại, cha mẹ phải nuôi dưỡng các con; vợ, chồng phải thương yêu,
giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống.

Qua Điều 644 Bộ luật Dân sự 2015, có thể thấy: Pháp luật tôn trọng ý chí của người để lại di
sản, nhưng pháp luật hạn chế quyền định đoạt ấy nếu người để lại di sản còn có những người mà khi
họ còn sống họ có nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc. Luật thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di
chúcđã đảm bảo được tính công bằng, bình đẳng; bảo vệ được quyền lợi, lợi ích của công dân trong
xã hội; đề cao tình cảm gia đình, cha mẹ và con cái, vợ chồng.1

CHƯƠNG II.
NGƯỜI THỪA KẾ KHÔNG PHỤ THUỘC VÀO NỘI DUNG DI CHÚC THEO BỘ LUẬT
DÂN SỰ NĂM 2015- TỪ THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP ĐẾN KIẾN
NGHỊ HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT
2.1. Vấn đề pháp lý phát sinh trong vụ việc và quan điểm của các cấp Tòa án

1
Nguyễn Vinh Hưng, “Về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc”, Nghiên cứu lập pháp, truy cập ngày 12/9/2021
https://tapchitoaan.vn/bai-viet/nghien-cuu/ve-nguoi-thua-ke-khong-phu-thuoc-vao-noi-dung-cua-di-chuc
2
Trần Nguyễn Nam Phương(2005), Luận văn Thạc sĩ Luật học về Người thừa kế không theo nội dung di chúc theo Bộ luật Dân sự 2005,
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội
SP1007 14
2.1.1. Vấn đề pháp lý phát sinh trong vụ việc
Vụ án trên được xét xử sơ thẩm tại Tòa án nhân dân Quận 5. Dựa theo bản án số 176/2017/DS-
PT ngày 10/8/2017 thì cấp xét xử của bản án trên là Tòa án phúc thẩm. Đồng thời, bản án cũng đã đề
cập đến Tòa án xét xử vụ án đó là Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh. Sau khi
nghiên cứu về bản án số 176/2017/DS-PT, nhóm xác định được yêu cầu của nguyên đơn trong vụ án
trên chính là nguyên đơn (Nguyễn Hữu B) đã yêu cầu Tòa án sơ thẩm và phúc thẩm xem lại tính hợp
pháp của di chúc tặng cho căn nhà tại Quận 5, TP.HCM mà hai cụ Nguyễn Hữu T (chết năm 2012) và
Nguyễn Thị R (chết năm 2011) đã lập ra trước khi chết là tặng cho bị đơn (Nguyễn Thị Mỹ D).
Căn cứ vào khoản 5 Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì trường hợp này cụ thể là vụ án
tranh chấp về việc thừa kế tài sản, cụ thể là việc ông B yêu cầu Tòa án xem lại tính hợp pháp của di
chúc và đưa ra quyết định việc phân chia tài sản thừa kế. Điều này sẽ thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tòa án. Tiếp theo, về thẩm quyền theo cấp căn cứ tại điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2015 thì Tòa án nhân dân cấp huyện sẽ là cơ quan có thẩm quyền giải quyết vụ việc trên. Về
phần lãnh thổ, căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì đối tượng
tranh chấp là bất động sản (cụ thể căn nhà tại Quận 5), điều này chỉ có Tòa án nơi bất động sản có
quyền giải quyết. Trong tình huống này, theo quy định thì Tòa án nhân dân Quận 5 sẽ có thẩm quyền
giải quyết tranh chấp được nêu trên. Bằng các dữ liệu hiện có trong Bản án, nhóm chia hai yêu cầu
nhằm phân tích đa chiều về yêu cầu của Nguyên đơn (Nguyễn Hữu B): Yêu cầu 1: di chúc không hợp
pháp thì đề nghị hủy di chúc chia di sản thừa kế theo pháp luật; Yêu cầu 2: di chúc hợp pháp thì đề
nghị chia ông Nguyễn Hữu B 2/3 của một suất thừa kế theo pháp luật không phụ thuộc vào di chúc
(vì ông Nguyễn Hữu B đã trình lên Tòa án lý do mình bị bệnh mãn tính không có khả năng lao động
để được thừa hưởng phần thừa kế như ông đã yêu cầu). Theo yêu cầu do ông Nguyễn Hữu B đã đề
nghị Tòa án là được chia di sản theo pháp luật mà không phụ thuộc vào di chúc trên cả hai phương
diện : nếu di chúc hợp pháp và nếu cả khi di chúc không hợp pháp thì vẫn sẽ chia phần di sản của hai
cụ Nguyễn Hữu T (chết năm 2012) và Nguyễn Thị R ( chết năm 2011) theo pháp luật mà không phụ
thuộc vào di chúc tặng cho Nguyễn Thị Mỹ D; do đó, phần yêu cầu trên của ông Nguyễn Hữu B cũng
được xem là chủ đề của bài tập lớn này nói đến : “ Bàn về người thừa kế không phụ thuộc vào nội
dung của di chúc “.
Theo quan điểm của nhóm, việc sử dụng văn bản quy phạm pháp luật là Bộ luật Dân sự 2015 thì
Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 cũng sẽ được sử dụng để giải quyết tranh chấp trên vì hai bộ luật mang
tính bổ trợ cho nhau dựa trên nguyên tắc của hai bộ luật đó là Bộ luật Dân sự 2015 quy định về nội
dung đồng thời Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 là căn cứ hình thức.

SP1007 15
2.1.2. Quan điểm của các cấp Toà án xét xử vụ việc
Vì nguyên đơn (Nguyễn Hữu B) đã gửi yêu cầu cho hai cấp xét xử đó là sơ thẩm và phúc thẩm
nên trong việc nêu lên quan điểm cũng như phương hướng giải quyết vụ án sẽ có của từng Tòa án
thuộc hai cấp xét xử. Dựa trên nội dung đã được tóm tắt của bản án số 176/2017/DS-PT, sẽ có việc
xét xử của Tòa án sơ thẩm và Tòa án phúc thẩm do ông Nguyễn Hữu B yêu cầu giải quyết lại vụ án
sau khi ông B đã nhận bản án quyết định của Tòa án sơ thẩm như sau :
Tại Tòa án sơ thẩm đã đưa ra hai phán quyết : Thứ nhất đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện
của ông Nguyễn Hữu B không yêu cầu hủy di chúc của hai cụ cho bà Nguyễn Thị Mỹ D căn nhà
Quận 5, TP.HCM. Thứ hai không chấp nhận yêu cầu của ông Nguyễn Hữu B đòi bà Nguyễn Thị Mỹ
D chia cho ông 2/3 của một suất thừa kế căn nhà ở Quận 5, TP.HCM. Dựa trên phán quyết mà Tòa án
sơ thẩm đã đưa ra thì ta có thể kết luận rằng Tòa án sơ thẩm đã không chấp nhận yêu cầu của nguyên
đơn (Nguyễn Hữu B).
Tại Tòa án phúc thẩm cũng đã đưa ra hai phán quyết : Thứ nhất thừa nhận tính hợp pháp của di
chúc vì trước khi qua đời, vào ngày 01/6/2009 tại Phòng công chứng NLQ10; hai cụ Nguyễn Hữu T,
Nguyễn Thị R đã lập di chúc cho bà Nguyễn Thị Mỹ D được hưởng toàn bộ quyền sở hữu nhà ở và
quyền sử dụng đất của căn nhà tại Quận 5, TP.HCM. Thứ hai không chấp nhận yêu cầu kháng cáo
của ông Nguyễn Hữu B đó là yêu cầu bà Nguyễn Thị Mỹ D phải chia cho ông 2/3 của một suất thừa
kế theo pháp luật không phụ thuộc vào di chúc. Vì khi ông Nguyễn Hữu B yêu cầu chia tài sản thì
ông đã lấy lý do đó là ông bị bệnh mãn tính, không còn khả năng lao động nhưng khi qua giám định
của Hội đồng giám định Y khoa Thành phố Hồ Chí Minh tại biên bản Giám định số 1050/GĐYK-
KNLĐ ngày 28/5/2015 đã có những kết luận như sau : tăng huyết áp giai đoạn I; hen phế quản hiện
tại ổn định - Hội chứng hạn chế mức độ nhẹ; mất 08 răng, hư 01 răng; nha chu viêm; định tỷ tệ tổn
thương cơ thể là 58%. Qua kết quả giám định này cho thấy ông Nguyễn Hữu B vẫn còn khả năng lao
động, không thuộc trường hợp bị mất sức lao động hoàn toàn, nên không được hưởng di sản theo quy
định tại Điều 669 Bộ luật Dân sự năm 2005 (nay là Điều 644 Bộ luật Dân sự năm 2015) như ông
Nguyễn Hữu B yêu cầu. Từ nhận định trên Tòa án không chấp nhận yêu cầu của ông Nguyễn Hữu B
đòi bà Nguyễn Thị Mỹ D chia 2/3 của một suất thừa kế căn nhà ở Quận 5, TP.HCM. Do đó, yêu cầu
kháng cáo này của ông Nguyễn Hữu B không được chấp nhận.

Kết luận :Yêu cầu của nguyên đơn ( ông Nguyễn Hữu B ) đã không được cả hai cấp xét xử ( Tòa
án sơ thẩm và Tòa án phúc thẩm ) chấp nhận.

SP1007 16
2.2. Nhận xét của nhóm nghiên cứu về tranh chấp và một số kiến nghị hoàn thiện quy định
pháp luật hiện hành
Theo quy định tại điểm b, khoản 1, Điều 644 Bộ luật Dân Sự năm 2015 thì một trong các chủ thể
thừa kế mà không phụ thuộc vào nội dung di chúc là con thành niên mà không có khả năng lao động.
Chủ thể này theo pháp luật sẽ được hưởng phần di sản 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật
nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di
sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn 2/3 suất đó mà không kèm điều kiện nào khác. Tuy nhiên
cho tới này nay, hiện vẫn chưa có một văn bản chính thức nào hướng dẫn áp dụng trực tiếp quy phạm
“con thành niên không có khả năng lao động”. Cho nên có ý kiến cho rằng nên ta có thể áp dụng theo
Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hướng
dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Dân Sự năm 2005 về bồi thường thiệt trong trường hợp
“mất khả năng lao động”, theo đó, “người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần có người thường
xuyên chăm sóc(người bị thiệt ại không còn khả năng lao động do bị liệt cột sống, mù hai mắt, liệt hai
chi, bị tâm thần nặng và các trường hợp khác do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định bị suy
giảm khả năng lao động vĩnh viễn từ 81% trở lên…”). Do vậy, nếu như người thành niên, mà thường
xuyên cần phải có người chăm sóc và rơi vào những trường hợp như Nghị quyết số 03/2006 đã liệt kê
ở trên thì mới xác định họ “không còn khả năng lao động”.
Xuất phát từ các quan điểm xác định người “không còn khả năng lao động” theo ý kiến ở trên,
cũng có hai quan điểm chính về việc xác định “con thành niên không có khả năng lao động” như sau:
Thứ nhất, con thành niên mà không có khả năng lao động là con thành niên (đủ 18 tuổi trở lên) suy
giảm khả năng lao động (tổn thương cơ thể từ) từ 81% trở lên do thương tích, do bệnh, tật, do bệnh
nghề nghiệp, do già yếu; Thứ hai, con thành niên mà không có khả năng lao động là con thành niên
(đủ 18 tuổi trở lên) đang trong độ tuổi lao động theo quy định của pháp luật lao động mà tỷ lệ suy
giảm khả năng lao động (tổn thương cơ thể từ) 81% trở lên do thương tích, do bệnh, tật, do bệnh nghề
nghiệp hoặc con đã quá tuổi lao động (trên 60 tuổi đối với nam, trên 55 tuổi đối với nữ).
Nhóm không đồng tình với quan điểm thứ nhất, vì không nhất thiết quá tuổi lao động là “không
còn khả năng lao động”. Tuy nhiên, để trở thành người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc
đối với trường hợp con thành niên (đủ 18 tuổi trở lên) mà không có khả năng lao động tỷ lệ suy giảm
khả năng lao động (tổn thương cơ thể) từ 81% trở lên do thương tích, do bệnh, tật, do bệnh nghề
nghiệp, do già yếu phải có kết luận giám định của Hội đồng giám định Y khoa hoặc Hội đồng giám
định Pháp y tâm thần. Theo quan điểm của nhóm, việc bác bỏ kháng cáo đòi quyền hưởng di sản với
tư cách là một người “con thành niên mất khả năng lao động” của ông B là hoàn toàn hợp lý, vì theo

SP1007 17
như giám định của Hội đồng giám định Y khoa Thành phố Hồ Chí Minh và áp dụng linh hoạt Nghị
quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao về khái niệm
“mất khả năng lao động” như đã nêu ở trên, ta hoàn toàn có thể thấy được ông Nguyễn Hữu B là một
người còn khả năng lao động và ông không được phép hưởng thừa kế với tư cách là “con thành niên
mất khả năng lao động”.
Bất cập và kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật hiện hành
Mặc dù quy định trên mang tính nhân đạo của Pháp luật Việt Nam, tuy nhiên, trong quá trình
triển khai, thi hành vẫn còn bất cập, hạn chế như sau: Thứ nhất, luật nên quy định cụ thể hơn về di sản
được chia theo pháp luật để xác định 2/3 của một suất thừa kế theo pháp luật là "di sản" nào, là di sản
được định đoạt trong di chúc hay là toàn bộ di sản. Ví dụ: "Những người sau đây vẫn được hưởng
phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được định đoạt
trong di chúc/toàn bộ di sản được chia theo pháp luật...". Thứ hai, thừa kế không phụ thuộc vào nội
dung của di chúc không phải là một quy định của chế định thừa kế theo pháp luật. Do vậy, mặc dù
luật không quy định là một người có thể vừa được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của
di chúc vừa được hưởng thừa kế theo pháp luật, nhưng cũng không có quy định nào về việc một
người đã được hưởng di sản do được thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc rồi thì không
được hưởng di sản thừa kế theo pháp luật nữa, và cũng không có văn bản hướng dẫn cách chia di sản
thừa kế, nên chúng ta không thể đồng nhất hai vấn đề trên. Như vậy sẽ không thể hiện được tính chất
bảo vệ của chế định thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc, mặt khác, còn vô tình tước
mất quyền được thừa kế theo pháp luật của những người này. Chính vì vậy, khi chia di sản thừa kế
không phụ thuộc vào nội dung của di chúc mà có phần di sản được chia theo pháp luật thì phải để
những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc được hưởng thừa kế theo pháp luật.
( Đưa sang phần 2 mục hạn chế của Luật). Thứ ba, cần phải có quy định chặt chẽ về cách xác định
“con thành niên mất khả năng lao động” là như thế nào, để tránh gây ra những bất cập về mặt đạo đức
những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Khi viện dẫn Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày
08/07/2006 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao, một trong những vấn đề đặt ra ở đây là “người
bị thiệt hại không còn khả năng lao động do bị liệt cột sống, mù hai mắt, liệt hai chi, bị tâm thần
nặng…” có được xem là người tàn tật không, và người tàn tật thì có được coi là “con thành niên
nhưng mất khả năng lao động không”, nếu họ còn khả năng lao động thì như thế nào. Do vậy, trong
quá trình kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án liên quan đến phần di sản của những người không
phụ thuộc vào nội dung di chúc, kiểm sát viên cần phải hết sức thận trọng, đánh giá toàn diện, khách
quan mối quan hệ giữa người để lại di sản với người thụ hưởng

SP1007 18
2.3 Thực tiễn

Trường hợp 1:
Ông tôi mất năm 2016 hiện tại ông còn mẹ già và 3 người anh ruột. Ông tôi có 4 người con, con
trai lớn của ông tôi bị tai nạn lao động chết vào năm 2014 (lúc 30 tuổi) có vợ và 2 con gái. ông có căn
nhà và mảnh đất (khoảng 5 tỷ ) và một khoản tiền gửi tiết kiệm. Trước đó năm 2015, Ông tôi có lập
di chúc để lại cho con trai thứ 2 căn nhà và và con trai thứ 3 được hưởng khoản tiền tiết kiệm gửi
ngân hàng. Người con trai út của ông tôi bị bệnh tâm thần. Đầu năm 2017, gia đình tôi xảy ra tranh
chấp về thừa kế tài sản muốn chia đều tài sản cho 4 người con của ông tôi nhưng 2 người con được
hưởng di chúc không đồng ý ? 1
Giải quyết:

Luật Thừa kế tôn trọng quyền quyết định của người đã mất với tài sản họ để lại nhưng đồng thời
cũng bảo hộ quyền lợi tối thiểu của thân nhân họ với di sản đó. Theo quy định của Điều 669 Bộ luật
Dân sự 2005 và Điều 644 Bộ luật Dân sự 2015 thì những người thuộc diện “hưởng thừa kế không
phụ thuộc vào nội dung của di chúc” : Thứ nhất là con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng; Thứ hai
là con đã thành niên mà không có khả năng lao động.Tại thời điểm mở thừa kế khi người ông mất, ta
sẽ xác định những đối tượng nào còn sống, những đối tượng nào được hưởng di sản.Theo như di chúc
của người ông thì chỉ chia di sản cho người con thứ hai và thứ ba. Tuy nhiên, bên cạnh việc xét chia
di sản theo di chúc ta còn cần xét xem di chúc đó đã hợp pháp hay chưa, có thỏa hết những quy định
của pháp luật hay không. Nếu không thì cần chia tiếp theo pháp luật cho phù hợp: Thứ nhất, trong di
chúc người ông không chia di sản cho người con cả đã mất từ năm 2014 ( mất trước khi lập di chúc,
khi mất đã thành niên và có đủ khả năng lao động) nên người con này theo cả di chúc và pháp luật
đều không được hưởng di sản của cha để lại. Thứ hai, người con út bị bệnh tâm thần không được cha
chia cho hưởng di sản. Ở đây, nếu người con này có giấy xác nhận của bệnh viện tâm thần về tình
trạng bệnh của mình và được Tòa tuyên là mất khả năng lao động thì sẽ được hưởng thừa kế không
phụ thuộc vào nội dung di chúc theo diện “con thành niên không có khả năng lao động” và được
hưởng phần di sản bằng 2/3 một suất thừa kế theo pháp luật.

Trường hợp 2:

Tôi sinh sống không có hôn thú với chồng tôi và chúng tôi có hai đứa con (dưới 18 tuổi). Trong
giấy khai sinh của các cháu đều có tên bố cháu.  Tháng 4-2013, chồng tôi mất và ông có để lại di
chúc cho toàn bộ tài sản trị giá khoảng 2 tỉ đồng cho người vợ trước và ba người con của ông với vợ
1
Nguồn: https://luatminhkhue.vn/chia-thua-ke-khong-phu-thuoc-noi-dung-di-chuc.aspx
SP1007 19
trước. Tôi đã yêu cầu vợ trước của chồng tôi chia thừa kế cho con tôi nhưng bà không đồng ý. Vậy
xin hỏi pháp luật có bảo vệ quyền được hưởng thừa kế của hai con tôi không? 1

Giải quyết:

Luật Thừa kế tôn trọng quyền quyết định của người đã mất với tài sản họ để lại nhưng đồng thời
cũng bảo hộ quyền lợi tối thiểu của thân nhân họ với di sản đó. Theo quy định của Điều 669 Bộ luật
Dân sự 2005 và Điều 644 Bộ luật Dân sự 2015 thì những người sau đây thuộc diện “hưởng thừa kế
không phụ thuộc vào nội dung của di chúc” : Thứ nhất con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng; Thứ
hai con đã thành niên mà không có khả năng lao động. Theo di chúc, người chồng để lại toàn bộ di
sản cho người vợ trước và ba người con chung với vợ trước. Tuy nhiên, hai người con chưa thành
niên với vợ sau có tên bố trên giấy khai sinh là đã chứng minh được quan hệ cha con nên người cha
vẫn phải có trách nhiệm nuôi dưỡng con trong trường hợp này. Hai người con được hưởng di sản
theo pháp luật theo luật “thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc” ở diện “con chưa thành
niên” với di sản được thừa hưởng là 2/3 một suất thừa kế theo pháp luật. Còn người vợ sau tuy có
quan hệ và sống chung với nhau như vợ chồng nhưng do không đăng kí hôn thú nên hai người không
được pháp luật công nhận là vợ chồng hợp pháp và người vợ sau sẽ không được hưởng di sản mà
chồng mình để lại.

PHẦN KẾT LUẬN

Quyền để lại dị sản và thừa kế là những quyền cơ bản của con người và được pháp luật công
nhận. Xuất phát từ việc đảm bảo quyền lợi cho mọi thành viên và ổn định gia đình - thứ được coi là tế
bào của xã hội nên việc xác định thừa kế là một việc có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Tuy nhiên hiện
nay, trong thực tế phát sinh nhiều vấn đề thực tiễn cho thấy có nhiều trường hợp trong thừa kế chưa

1
Nguồn: https://luatminhgia.com.vn/hoi-dap-dan-su/nhung-nguoi-duoc-thua-ke-khong-phu-thuoc-vao-noi-dung-di-chuc.aspx
SP1007 20
được pháp luật quy định rõ ràng, gây ra những bất cập và tranh chấp trong đời sống xã hội. Qua đó,
đòi hỏi những quy phạm về pháp luật cần phải được điều chỉnh sao cho phù hợp và bám sát với đời
sống thực tế của người dân, đáp ứng những yêu cầu mà hiện nay pháp luật chưa quy định rõ ràng.
Các quy định về thừa kế theo di chúc và không theo nội dung di chúc khi được sửa đổi cụ thể sẽ giúp
cho tính công bằng của hệ thống pháp lý được nâng cao hơn, phù hợp với đời sống thực tiễn.

Thông qua đề tài “Bàn về thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc theo Bộ luật Dân sự
năm 2015” đã được nhóm hoàn thành và làm sáng tỏ những vấn đề được nêu lên ở đầu tiểu luận:

Một là, làm rõ những vấn đề lý luận chung về thừa kế, quyền thừa kế theo quy định của Bộ luật
Dân sự năm 2015. Đặc biệt trong đó là quyền thừa kế theo di chúc.
Hai là, làm sáng tỏ từng trường hợp và những điều kiện để được hưởng thừa kế không phụ
thuộc vào nội dung di chúc được quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2015.
Ba là, làm rõ phần di sản được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc theo quy
định của Bộ luật Dân sự năm 2015.
Bốn là, phân tích để làm sáng tỏ cơ sở và ý nghĩa của việc pháp luật quy định những người thừa
kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc.
Năm là, nhận xét vấn đề từ góc độ thực tiễn, phát hiện những bất cập của quy định hiện hành.
Sáu là, kiến nghị hoàn thiện pháp luật về chế định thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di
chúc theo Bộ luật Dân sự 2015.

Tài liệu tham khảo

1. Bộ Giáo dục – Đào tạo (2019), Giáo trình Pháp luật đại cương, (Chủ biên: Mai Hồng Quỳ),
Nxb. Đại học Sư phạm

2. Vũ Thị Bích Hường, Trần Quang Trung, Tập bài giảng Pháp luật Việt Nam đại cương (lưu hành
nội bộ), Tp. HCM, 2020.

3. Bộ luật tố tụng dân sự:


SP1007 21
http://thuvienphapluat.vn/van-ban/Thu-tuc-To-tung/Bo-luat-to-tung-dan-su-2015-296861.aspx.

4. Bộ luật dân sự:

http://thuvienphapluat.vn/van-ban/Quyen-dan-su/Bo-luat-dan-su-2015-296215.aspx

5. Trang thư viện pháp luật:


http://thuvienphapluat.vn/banan/ban-an/ban-an-1762017dspt-ngay-10082017-ve-tranh-chap-thua-ke-
5753
http://thuvienphapluat.vn/van-ban/Quyen-dan-su/Bo-luat-dan-su-2015-296215.aspx Bộ luật Dân sự
201

6. Nguyễn Tiến Đạt, “Di chúc là gì? Di chúc hợp pháp?”

http://azlaw.vn/di-chuc-la-gi.htm, truy cập ngày 10/9/20210

7. TCKS số 01/2019, “Quyền của người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc”,
kiemsat.vn/quyen-cua-nguoi-thua-ke-khong-phu-thuoc-vao-noi-dung-cua-di-chuc-57198.html, truy
cập ngày 12/9/2021

8. Văn Phòng Luật Sư Quang Thái, “Thừa kế không theo nội dung di chúc”

http://luatthuake.vn/thua-ke-khong-phu-thuoc-noi-dung-di-chuc-111-a8ia.html truy cập ngày


12/9/2021

9. Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 1(281), tháng 1/2015, “Thừa kế không phụ thuộc vào nội
dung của di chúc theo Bộ luật Dân sự năm 2005”, truy cập ngày 12/9/2021

http://lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=208285

10. Nguyễn Hương, “Cách tính 2/3 của một suất thừa kế theo pháp luật”

https://luatvietnam.vn/dan-su/tinh-2-3-cua-mot-suat-thua-ke-theo-phap-luat-568-29824-article.html
truy cập ngày 18/9/2021

11. Nguyễn Vinh Hưng, “Về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc”, Nghiên cứu
lập pháp
https://tapchitoaan.vn/bai-viet/nghien-cuu/ve-nguoi-thua-ke-khong-phu-thuoc-vao-noi-dung-cua-di-
chuc, truy cập ngày 12/9/2021
SP1007 22
12. Trần Nguyễn Nam Phương(2005), Luận văn Thạc sĩ Luật học về Người thừa kế không theo nội
dung di chúc theo Bộ luật Dân sự 2005, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội

SP1007 23

You might also like