You are on page 1of 15

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

KHOA LUẬT
=====000=====

TIỂU LUẬN PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU CHỈNH


CỦA LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM

Sinh viên thực hiện: Phan Dương Trà My


Mã SV: 2114210080
Lớp Anh05, KHOA QTKD, Khóa 60
Lớp tín chỉ: PLU111(GĐ2HK1-2122)K60QT.BS
Giảng viên hướng dẫn: ThS.Trần Thị Thanh Thuỷ

Hà Nội - 1/2021
MỤC LỤC

CHƯƠNG I. Khái quát luật dân sự Việt Nam 1

1.1.Lịch sử hình thành và phát triển của pháp Luật Dân sự Việt Nam 1
1.2.Khái niệm Luật dân sự Việt Nam 2
3
1.3 Đặc điểm của luật dân sự
CHƯƠNG II. Đối tượng điều chỉnh của Luật dân sự 4
4
1.1 Khái niệm đối tượng điều chỉnh
4
1.2 Quan hệ tài sản 6
1.3. Quan hệ nhân thân
1.4 Đánh giá về đối tượng điều chỉnh 7

CHƯƠNG III.Phương pháp điều chỉnh của Luật Dân sự 8


1.1 Khái niệm phương pháp điều chỉnh 8
1.2 Đặc điểm của phương pháp điều chỉnh của PLDS 8
1.3 Đánh giá phương pháp điều chỉnh 9
CHƯƠNG IV.Luật dân sự và sự phát triển kinh tế-xã hội của đất 9
nước
9
1.1 Sự phù hợp về đối tượng và phương pháp điều chỉnh của Bộ luật Dân sự 2015
trong điều kiện kinh tế xã hội Việt Nam

1.2. Vai trò của Luật dân sự trong sự nghiệp đổi mới, phát triển kinh tế-xã hội, 10
hội nhập kinh tế quốc tế

KẾT LUẬN 12
TÀI LIỆU THAM KHẢO 13
B.NỘI DUNG

Chương I: Khái quát luật dân sự Việt Nam

1.1.Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật dân sự Việt Nam

Quá trình phát triển của pháp luật Dân sự Việt Nam có thể được chia thành ba giai đoạn
gồm: giai đoạn của luật cổ, giai đoạn của Luật cận đại và giai đoạn của Luật hiện đại.
Sau khi cách mạng tháng 8 thành công năm 1945, nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam được ra đời đưa đất nước ta bước vào một kỷ nguyên mới-kỷ nguyên độc lập dân tộc
và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vào ngày 10/10/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành
sắc lệnh số 90/SL nhằm giữ nguyên tạm thời các luật lệ hiện hành ở Bắc, Trung và Nam
Bộ cho đến khi ban hành những bộ luật mới áp dụng cho toàn quốc”. Theo sắc lệnh/căn cứ
trên, Bộ luật dân sự Bắc kỳ ban hành năm 1931, Bộ luật dân sự Trung kỳ ban hành năm
1936 và Bộ dân luật giản yếu Nam kỳ năm 1883 vẫn có hiệu lực thi hành ở Việt Nam. Đến
22-5-1950, chủ tịch Hồ Chí Minh ra sắc lệch mới số 97/SL. Có thể nói rằng Sắc lệch số 97
là một trong những thành tựu đáng chú ý nhất của thời kì này, nó đặt cơ sở cho sự hình
thành, phát triển của một nền luật dân sự mới Việt Nam với những nguyên tắc thực sự dân
chủ, tiến bộ với tính nhân dân sâu sắc trong đó phải kể đến những điều về quyền tự do kết
hôn, quyền bình đẳng của phụ nữ so với nam giới, nguyên tắc bảo vệ kẻ yếu trong quan hệ
hợp đồng, quyền thừa kế, được ghi nhận cụ thể trong các luật riêng như Luật Hôn nhân và
gia đình, Luật Thương mại
Sau năm 1865 nước ta bước vào thời kì đổi mới caỉ cách thực hiện nhiều chính sách
mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng. Bấy giờ, Nhà nước ta đã ban hành
nhiều văn bản để thể chế hoá chủ trương, đường lối của Đảng trong công cuộc đổi mới về
kinh tế, xã hội và đặt con người vào vị trí trung tâm của các chính sách, văn kiện pháp luật.
Nhiều văn bản pháp luật có vai trò điều chỉnh từng mảng lớn trong các quan hệ xã hội đã
được Nhà nước ban hành như Luật hôn nhân và gia đình (1986), Pháp lệnh hợp đồng dân
sự (1991), Pháp lệnh thừa kế (1990), Pháp lệnh về hôn nhân và gia đình của công dân Việt
Nam với người nước ngoài (1993),…. Những văn bản pháp luật có nhiều nội dung phù hợp
với những yêu cầu phát triển kinh tế theo hướng đổi mới kết hợp với hình thức pháp lý cao
đã thể hiện được những nguyên tắc cơ bản pháp luật dân sự trong thời kì này. Mặc dù vậy,
trong nhu câu của các giao lưu dân sự của xã hội vẫn còn tồn tại rất nhiều vấn đề, hạn chế
trong đời sống dân sự chưa được pháp luật điều chỉnh dẫn đến sự khó khăn, trở ngại trong
hoạt động dân sự không chỉ của các công dân mà còn các tổ chức kinh tế quốc doanh, tập
thể, và đặc biệt là cơ quan xét xử có chức năng giải quyết các tranh chấp tài sản và nhân
thân phi tài sản trong đời sống dân sự một cách kịp thời và đúng đắn. Bởi vì thiếu pháp luật
dân sự nên đã xảy ra không ít những trường hợp bị xâm phạm về các quyền và lợi ích hợp
pháp. Không những thế nó còn làm thiệt hại cho tài sản cá nhân, tập thể và Nhà nước, xúc
phạm đến danh dự, tổn hại uy tín của cá nhân, tổ chức mà chưa được Nhà nước bảo hộ một
cách thích đáng từ đó đã gây ảnh hưởng lớn đến lòng tin của nhân dân đối với chính quyền,
gây nên sự hiểu lầm về bản chất của chế độ.
Đứng trước tình hinh khó khăn mang tính cấp thiết như vậy, Đảng và Nhà nước ta đã nhận
ra được sự cần thiết phải sớm ban hành Bộ luật dân sự. Dự án Bộ luật dân sự Việt Nam đã
1
được Quốc hội thông qua vào ngày 28/10/1995 và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/6/1996.
Có thể nói thành tựu rực rỡ là to lớn nhất của 50 năm xây dựng hệ thống pháp luật dân sự
Việt Nam hiện đại chính là Bộ luật dân sự 1995.
Sau đó, 14/6/2005 Bộ luật dân sự 2005 đã được quốc hội thông qua và chính thức có
hiệu lúc từ 1/1/2006. Còn nhiều vấn đề bất cập nhưng về căn bản Bộ luật dân sự 2005 đã
thể hiện được rõ hơn nguyên tắc tôn trọng sự thoả thuận và tự chịu trách nhiệm giữa các
chủ thể trong quan hệ dân sự, mang đến một hệ thống pháp luật mới ổn định hơn, áp dụng
dễ dàng hơn, bền vững hơn. Sau đó tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khoá XIII đã thông qua
Bộ luật dân sự 2015 gồm 27 chương, 689 điều vào ngày 24/11/2015 và nó bắt đầu có hiệu
lực từ 1/1/2017. Đây là Bộ luật lớn nhất nước ta được Đảng và toàn dân đánh giá cao về
mục tiêu, quan điểm xây dựng bởi lẽ nó hoàn toàn phù hợp với sự phát triển của đất nước
ta hiện nay. Không chỉ vậy mà Bộ luật dân sự 2015 còn mang những tính đột phá mới đóng
vai trò chủ chốt quan trọng để bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong
lĩnh vực dân sự và triển khai thi hành các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng.

1.2.Khái niệm Luật dân sự Việt Nam

Trước tiên, Luật dân sự Việt Nam là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật
Việt Nam. Luật dân sự là một hệ thống bao gồm những quy phạm pháp luật điều chỉnh các
quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân trong giao lưu dân sự trên cơ sở bình đẳng, độc lập tự
định đoạt và tự chịu trách nhiệm của các chủ thể tham gia quan hệ dân sự đó và có hiệu lực
pháp lý trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam1. Tại phiên họp ngày 4/8/2014 trong phiên họp của
Bộ Tư pháp cùng làm việc với các chuyên gia về việc xây dựng, bổ sung và sửa đổi Bộ
luật, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường cho biết: “Bộ Luật Dân sự là một bộ luật nền,
những vấn đề liên quan trực tiếp đến dân sự chúng ta phải quy định trong bộ luật này. Bộ
luật Dân sự là cái gốc, các luật chuyên ngành là ngọn, do đó cái gốc phải to lớn, vững chắc
thì ngọn mới phát triển tốt được. Trong lĩnh vực dân sự kinh tế, Bộ luật phải quy định
chung, nguyên tắc, chuẩn mực để các Luật chuyên ngành đi theo”.
Luật dân sự có những nguyên tắc cơ bản và nhiều chế định khác nhau như chế định về
tài sản; chế định nghĩa vụ hoàn trả do chiếm hữu; chế định thực hiện công việc không có
ủy quyền; chế định nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân sự; chế định nghĩa vụ hoàn trả do
chiếm hữu, sử dụng tài sản, được lợi.về tài sản không có căn cứ pháp luật;…Khi hiểu theo
nghĩa rộng thì nó là tập hợp những quy tắc, quy định địa vị pháp lý cho cách ứng xử của cá
nhân, pháp nhân, chủ thể khác.Chúng ta có thể thấy rõ rằng phạm vi điều chỉnh của Luật
Dân sự là vô cùng rộng, tác động đều hầu hết hoạt động sản xuất, kinh doanh, sinh hoạt
trong cuộc sống.

1.3 Đặc điểm của luật dân sự


Một là bộ luật thể hiện được tư tưởng con người ở vị trí trung tâm của phát triển xã hội.
Con người là nguồn lực của đất nước vừa chính là mục tiêu và là động lực của sự phát triển

1 Theo Điều 1 Bộ luật dân sự 2015 quy định về Phạm vi điều chỉnh.
2
về kinh tế và xã hội vì thế cho nên trong bất kì thời thế bối cảnh nào quyền dân sự của con
người phải luôn được luật pháp bảo vệ phù hợp với lợi ích nhân dân. Trong đó, quyền được
sở hữu tài sản nhằm thỏa mãn nhu cầu phát triển của cá nhân, quyền dùng tài sản vào mục
đích sản xuất kinh doanh và hưởng lợi, quyền để lại di sản là một trong những quyền quan
trọng nhất. Pháp luật dân sự góp phần một phần không nhỏ vào việc khai thác, phát triển
mọi tiềm năng về người và của để từ đó thúc đẩy nâng cao sản xuất, kinh doanh, làm ổn
định và lành mạnh hóa các quan hệ xã hội. Về điều này Bộ luật dân sự của Pháp 1804 (
Code Civil des Francais ) cũng có đặc điểm tương đồng với nước ta. Bởi bộ luật được hình
thành theo Tuyên Ngôn Về Quyền Con Người Và Quyền Công Dân công nhận quyền bình
đẳng của công dân trước pháp luật, tự do hợp đồng và quan điểm tự do hiện đại về tài sản
tư.
Hai là, Bộ luật dân sự thể hiện tư tưởng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Những định hướng của Đảng, Nhà nước nhằm đạt các mục tiêu và chính sách kinh tế
xã hội được quy định rõ trong luật. Mọi chủ thể của các quan hệ dân sự không phân biệt đó
là cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội hay cá nhân đều bình đẳng trước pháp
luật. Mọi hành vi xâm phạm các quyền dân sự của các chủ thể dân sự đều phải được ngăn
ngừa, xử lý thích đáng. Nếu công nhân viên chức nhà nước vi phạm pháp luật hoặc lạm
dụng quyền hạn gây thiệt hại cho dân thì phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp
luật. Ta có thể thấy rõ điều này được quy định tại Điều 97 BLDS 2015: “Nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cơ quan nhà nước ở Trung ương, ở địa phương khi tham
gia quan hệ dân sự thì bình đẳng với các chủ thể khác và chịu trách nhiệm dân sự theo quy
định tại Điều 99 và Điều 100 của Bộ luật này”
Ba là, Bộ luật dân thể hiện rõ quan điểm tự nguyện, chịu trách nhiệm trước pháp luật
của các cá nhân, tổ chức tham gia các quan hệ dân sự. Hơn nữa qua đó thể hiện sâu sắc
được tính cộng đồng, tinh thần nhân ái của con người Việt Nam. Ý chí tự nguyện và chịu
trách nhiệm được thể hiện rõ trong các giao dịch dân sự, cụ thể BLDS 2015 có quy định về
việc giao dịch dân sự sẽ bị coi là vô hiệu trong một số trường hợp như tại Điều 1272 nếu bị
lừa dối, đe doạ, cưỡng ép hay Điều 1283 nếu người xác lập không nhận thức và làm chủ
hành vi của mình . Nguyên tắc tự nguyện và bình đẳng thì ắt sẽ đi kèm với nguyên tắc hợp
tác, tương trợ và giúp đỡ lẫn nhau. Tương trợ giúp đỡ hợp tác theo tinh thần thiện chí là
chính là nền móng căn bản cho việc xác lập, ổn định và tăng nâng cao tính lành mạnh trong
các quan hệ dân sự.
Bốn là, Bộ luật dân sự tạo môi trường pháp lý đáng tin cậy để đẩy mạnh hợp tác, giao
lưu hội nhập quốc tế. Trong Bộ luật chứa đựng những quy định điều chỉnh các quan hệ dân
sự có yếu tố nước ngoài ta có thể thấy rõ ở Phần thứ năm BLDS 2015 “Pháp luật áp dụng
đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài”. Để phù hợp với điều kiện phát triển trong

2“Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa, cưỡng ép thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên
bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu…”

3 Người có năng lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập giao dịch vào đúng thời điểm không nhận thức và làm chủ
được hành vi của mình thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.

3
nước trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, đồng thời phù hợp với tập quán và thông
lệ quốc tế, những quy định pháp lý mềm dẻo, linh hoạt tạo điều kiện để khuyến khích mở
rộng giao lưu hợp tác quốc tế trong lĩnh vực dân sự - kinh tế, văn hóa - xã hội.
Nhà nước Việt Nam có một hệ thống pháp luật bao gồm nhiều bộ phận luật pháp khác
nhau. Trong đó hai yếu tố cơ bản nhất là đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh
phân định mỗi bộ phận pháp luật trên nguyên tắc chung và Luật dân sự cũng không phải là
một ngoại lệ.

Chương II: Đối tượng điều chỉnh của Luật dân sư

1.1 Khái niệm đối tượng điều chỉnh

Đối tượng điều chỉnh chính là những vấn đề tồn tại trong xã hội có thể và cần phải được
điều chỉnh bằng pháp luật dân sự.Đó là các quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân phát sinh
giữa các chủ thể của Luật Dân sự, nhằm đáp ứng lợi ích vật chất hoặc tinh thần cho chính
chủ thể tham gia quan hệ đó cũng như các chủ thể khác. Theo Điều 1 BLDS 2015, nhìn một
cách khái quát thì ta có thể hiểu rằng Pháp Luật Dân sự điều chỉnh ứng xử của các chủ thể
và các quan hệ của các chủ thể với nhau, nói một cách rõ ràng thì thứ nhất là “ứng xử của
cá nhân, pháp nhân”, thứ hai là “quyền, nghĩa vụ về nhân thân và tài sản của cá nhân, pháp
nhân trong các quan hệ dân sự. Mỗi khía cạnh lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội thì
tồn tại những quan hệ tài sản và nhân thân do Pháp Luật Dân sự điều chỉnh khác nhau. Đó
có thể là hoạt động kinh doanh thương mại, tiêu dùng, lao động, hôn nhân gia đình,…Chung
quy lại, là các lĩnh vực mà ở đó xác lập những mối quan hệ mang tính chất bình đẳng, tự
do ý chí, độc lập về tài sản và tự chịu trách nhiệm của các bên chủ thể.

1.2 Quan hệ tài sản

1.2.1.Khái niệm

Đây là quan hệ đầu tiên và là đối tượng điều chỉnh phổ biến của Pháp luật dân sự. Quan
hệ tài sản do Luật Dân sự điều chỉnh là những quan hệ có ý chí phát sinh giữa các chủ thể
gắn liền với tài sản mang tính chất hàng hoá tiền tệ gồm vật tiền giấy tờ có giá, quyền tài
sản căn cứ vào Điều 105 BLDS 2015. Tuy nhiên chúng ta cần lưu ý không phải quan hệ
nào liên quan đến tài sản cũng thuộc phạm vi điều chỉnh của Pháp luật dân sự. Ví dụ 1: Anh
A cướp tài sản của chị B những hành vi cướp đoạt này không thuộc đối tượng điều chỉnh
của Luật Dân sự mà thuộc phạm vi điều chỉnh luật Hình sự. Ví dụ 2: Cơ quan nhà nước cấp
giấy chứng nhận sở hữu nhà hay Uỷ ban nhân dân cấp giấy chứng nhận sử dụng đất thì
quan hệ giữa người được cấp và cơ quan cấp nó có liên quan đến tài sản tuy nhiên đây
không phải quan hệ tài sản thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Dân sự bởi lẽ quan hệ giữa
cá nhân và nhà nước trong trường hợp này không được thực hiện trên cơ sở bình đẳng.
a. Vật

4
Theo nghĩa thông dụng, không có tính pháp lý thì có nghĩa là một thứ hữu hình được con
người sử dụng và có thể nhận biết bằng giác quan khi tiếp xúc như cái bàn, cái ghế, chiếc
xe máy,… Tuy nhiên không phải vật hữu hình nào cũng được coi là tài sản chẳng hạn như
không khí con người ta ai cũng sử dụng nhưng nó không được xem là tài sản theo nghĩa
của Luật dân sự. Vật được coi là tài sản khi mà trên vật đó chủ thể của quan hệ pháp luật
được xác lập được các quyền cho phép khai thác lợi ích vật chất từ vật và lợi ích đó có giá
trị tiền tệ. Vật được chia làm 5 nhóm đó là vật chính và vật phụ như ổ khoá và chìa khoá;
vật bị cấm lưu thông như ma tuý, vật bị hạn chế lưu thông như thuốc lá và vật tự do lưu
thông như bánh kẹo; vật chia được như thịt và vật không chia được như tivi; vật đồng loại
như xi măng cùng loại của một nhà máy sản xuất và vật đặc định như các loại đồ cổ quý
hiếm; vật tiêu hao như xăng, dầu và vật không tiêu hao như nhà, xe hoặc quần áo.
b.Tiền
Tiền cũng được xem là vật nhưng nó được xếp loại hàng hoá đặc biệt. Về mặt pháp lý, tiền
do cơ quan nhà nước ban hành, có giá trị quy đổi và lưu thông trên thị trường. Ví dụ: Tờ
tiền có mệnh giá 200.000 đồng hiện nay sẽ được coi là tài sản với tư cách là tiền tuy nhiên
một đồng xu thời nhà Lê sẽ không được coi là tiền có thể đồng xu vẫn được coi là tài sản
nhưng với tư cách là vật.
c. Giấy tờ có giá
Loại giấy tờ trị giá được bằng tiền và chuyển giao được trong giao lưu Dân sự đươc xem là
giấy tờ có giá. Nó tồn tại dưới rất nhiều hình thức khác nhau như: séc, cổ phiếu, tín phiếu,
trái phiếu, công trái,…Chính Phủ, Ngân hàng, kho bạc, các công ty Chính Phủ là những
bên có quyền ban hành giấy tờ có giá. Những loại giấy tờ này có thể có mệnh giá hoặc
không; có thời hạn sử dụng hoặc không có thời hạn sử dụng; có thể ghi danh hoặc không
ghi danh
d. Quyền tài sản
Là quyền trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong các giao dịch dân sự. Nó bao
gồm quyền tài sản đối với đối tượng như quyền sở hữu trí tuệ; quyền sở hữu công nghiệp;
quyền sử dụng đất; các quyền tài sản khác căn cứ theo Điều luật 115 BLDS 2015. Ví dụ 1:
một nhạc sĩ sáng tác ra một bài hát thì bài hát đó chính là tài sản thuộc quyền sở hữu của
tác giả hay còn gọi là quyền tác giả. Ví dụ 2: Khi anh A cho chị B vay tiền thì hiển nhiên
anh A có quyền đòi lại chị B số tiền đó.
1.2.2. Đặc điểm của quan hệ tài sản

Thứ nhất, đây là một quan hệ xã hội phát sinh giữa người này và người khác liên quan
đến một tài sản nhất định nói một cách ngắn gọn đó là quan hệ giữa người với người gắn
với tài sản nhất định. Ví dụ: A cho B mượn xe máy để đi về quê thì lúc đó A đã chuyển
giao quyền sử dụng xe máy của mình cho B.
Thứ hai, quan hệ tài sản còn có tính ý chí vì khi tham gia vào quan hệ dân sự các bên
chủ thể phải thể hiện được suy nghĩ cũng như mục đích của mình. Không chỉ vậy mà ý chí
của các bên còn phải phù hợp với ý chí của Nhà nước. Ví dụ: Hành động thuê mướn đồ vật
của ai.
Thứ ba, đây là quan hệ mang tính chất hàng hoá, tiền tệ. Đây cũng chính là một nét nổi
bật để có thể dễ phân biệt với quan hệ nhân thân. Ví dụ: Cô A bán chú B một mảnh đất có
giá 1 tỷ đồng. Tuy nhiên chúng ta cần lưu ý rằng không phải bất kì quan hệ tài sản nào

5
mang tính chất hàng hoá tiền tệ thì đều do pháp luật điều chỉnh. Ví dụ: Quan hệ tài sản phát
sinh liên quan đến việc thu và nộp thuế do pháp luật tài chính điều chỉnh; quan hệ sở hữu
thuộc quyền sở hữu của nhà nước như đất đai, rừng núi, ao hồ.
Thứ tư, thường có sự đền bù ngang giá về lợi ích vật chất đối với các chủ thể tham gia
quan hệ trong quan quan hệ tài sản. Ví dụ: Bạn A làm mượn bạn B một chiếc xe đạp nhưng
lại làm mất thì bạn A phải đền bù lại số tiền ngang với giá trị chiếc xe đạp đã mất cho bạn
B căn cứ vào Điều 584 BLDS 2015. Tuy nhiên cũng có những tài sản không có sự đền bù
ngang giá như quan hệ tặng cho, thừa kế

1.3. Quan hệ nhân thân

1.3.1 Khái niệm quan hệ nhân thân

Quyền nhân thân được quy định tại Điều 25 BLDS 2015 là quyền dân sự gắn với đời
sống tinh thần của mỗi chủ thể, không định giá được bằng tiền và về nguyên tắc thì không
thể chuyển giao cho chủ thể khác. Là quan hệ giữa người với người không mang tính chất
tài sản và gắn liền với giá trị nhân thân của một người nhất định được pháp luật thừa nhận
và bảo vệ. Nó gắn liền với yếu tố nhân thân của chủ thể như nhân thân của một chủ thể ví
dụ như hợp đồng sử dụng hình ảnh của một cá nhân hay của hai chủ thể ví dụ như quan hệ
vợ chồng.
Quan hệ nhân thân được chia làm hai loại đó là quan hệ nhân thân gắn liền với tài sản
và quan hệ nhân thân không gắn liền với tài sản. Trước hết quan hệ nhân thân gắn liền với
tài sản là những gía trị nhân thân khi được xác lập làm phát sinh các quyền tài sản. Quyền
nhân thân là tiền đề làm phát sinh các quyền tài sản khi có những sự kiện pháp lý nhất định
như tác giả của các tác phẩm văn học, khoa học kĩ thuật, sáng chế,… mà được hưởng tiền
nhuận bút, thù lao. Còn những quan hệ có thuộc tính gắn liền với đời sống tinh thần của
một con người và không thể tách rời quan hệ đó thì được coi là quan hệ nhân thân không
gắn liền với tài sản ví dụ như danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân; bí mật đời tư; quyền
li hôn;…

1.3.2. Đặc điểm của quan hệ nhân thân

Một là, trong quan hệ nhân thân thì luôn có một bên chủ thể được xác định còn bên còn
lại là tất cả những chủ thể khác và những chủ thể này thì phải tôn trọng quyền nhân thân
của chủ thể khác. Chẳng hạn anh A sẽ có quyền đối với hình ảnh của mình, khi đó, tất cả
mọi người không được quyền sử dụng những bức ảnh này trừ khi có sự đồng ý của anh A.4
Hai là, quyền nhân thân gắn liền với mỗi chủ thể nhất định, về nguyên tắc không thể
chuyển giao cho các chủ thể khác chẳng hạn như anh A không thể chuyển giao được quyền
cấp dưỡng của mình sang cho chị B.

4 Điều 32 BLDS 2015 quy định về Quyền của cá nhân đối với hình ảnh: “Cá nhân có quyền đối với
hình ảnh của mình. Việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người đó đồng ý…”

6
Ba là, quyền nhân thân không thể xác định được bằng tiền chẳng hạn như chúng ta không
thể dùng tiền để mua danh dự, phẩm giá hay cũng không thể dùng tiền để mua nhân thân
của tác giả đối với tác phẩm của họ.
Nếu như có sự xâm phạm các giá trị nhân thân thì sẽ phải bồi thường bằng cách tự cải
chính hoặc yêu cầu người vi phạm xin lỗi, bồi thường một khoản tiền để có thể bù đắp tổn
thất về mặt tinh thần căn cứ vào Điều 592 BLDS 2015

1.4.Đánh giá về đối tượng điều chỉnh

Trải qua bao nhiêu năm điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện thì đến nay đối tượng điều
chỉnh của Luật Dân sự đã thực sự phù hợp, hoàn chỉnh đối với bối cảnh cũng như các quan
hệ xã hội của nước ta hiện nay. Tuy nhiên trên thế giới đã từng đã có một thời kì tồn tại
quan điểm cho rằng lĩnh vực điều chỉnh duy nhất của Luật Dân sự là các quan hệ tài sản
cũng đồng nghĩa rằng những pháp luật Dân sự sẽ không điều chỉnh những quan hệ phi tài
sản. Quan điểm trên được thể hiện trong tác phẩm của K.Đ. Cavelin năm 1864 “Luật dân
sự là gì và giới hạn ở đâu?” đó là trong Luật Dân sự những quan hệ pháp lý được điều chỉnh
bởi lĩnh vực luật này có đối tượng là những giá trị vật chất dưới dạng đồ vật, quyền hay
dịch vụ. Đ.I. Meier cũng thể hiện quan điểm tương tự đó là “Khoa học Luật Dân sự phải
được xác định là khoa học về quyền tài sản”. Đây là những quan điểm chưa thực sự đúng
đắn và hợp lí và vẫn còn nhiều hạn chế. Bởi lẽ, chúng ta có thể thấy rằng việc đưa ra đối
tượng điều chỉnh như BLDS 2015 giúp định hình rõ các nội dung mà luật dân sự đã điều
chỉnh. Không những thế nó còn giúp cho việc sử dụng, áp dụng pháp luật của các đối tượng
rõ ràng và chủ động hơn. Ngoài ra những quy định cũng đã bao trùm được lên hầu hết các
quan hệ dân sự, chỉ trừ quan hệ dân sự của tổ chức không phải pháp nhân ( vì chủ thể của
pháp luật Việt Nam nói chung là cá nhân và tổ chức, mà Bộ Luật Dân sự chỉ có thể điều
chỉnh cá nhân và pháp nhân nên nó không điều chỉnh các chủ thể là tổ chức không có tư
cách pháp nhân).Hơn nữa, việc giới hạn đối tượng điều chỉnh như vậy sẽ dễ áp dụng hơn
cho các cơ quan áp dụng pháp luật, bỏ qua những chủ thể không nhất thiết phải có sự can
thiệp của pháp luật để tạo sự tự do quyết định cho các chủ thể không thuộc vào nội dung
điều chỉnh này.

Chương III: Phương pháp điều chỉnh

1.1 Khái niệm phương pháp điều chỉnh

Phương pháp điều chỉnh của Luật Dân sự là cách thức, biện pháp mà Nhà nước dùng để
tác động vào cách ứng xử và hành vi của các bên tham gia vào Quan hệ Pháp luật dân sự
nhằm làm cho các quan hệ đó phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt phù hợp với ý chí và lợi
ích của Nhà nước. Phương pháp điều chỉnh của Luật dân sự chủ yếu là phương pháp tự do
thoả thuận giữa các chủ thể bình đẳng về địa vị pháp lý… Quan hệ pháp luật dân sự hướng
7
tới việc bảo vệ lợi ích của các chủ thể trong quan hệ đó, do vậy Nhà nước đã thông qua các
quy phạm pháp luật dân sự thừa nhận việc quyết định tham gia và giải quyết các quan hệ
dân sự trên cơ sở cam kết, thoả thuận của chính các bên chủ thể.
Nhìn về tổng thể, phương pháp đặc trưng của pháp luật dân sự chính là để các chủ thể
tự định đoạt, tự quyết định như ghi nhận quyền xác định lại giới tính căn cứ vào Điều 36
BLDS 2015; quyền tự do cam kết và thoả thuận về nội dung và hình thức như mong muốn
ví dụ như anh A muốn bán một chiếc xe cho bị B giá 40 triệu đồng. Tuy nhiên tất cả mọi
thứ đều có giới hạn và quyền tự định đoạt của pháp luật dân sự cũng không phải là ngoại
lệ, đặt ra những giới hạn để bảo vệ quyền lợi của chủ thể và sự ổn định của xã hội. Ví dụ 1:
Trong pháp luận dân sự có ghi nhận cho người có tài sản được quyền định đoạt lại tài sản
của họ sau khi mất nhưng việc định đoạt này không tuyệt đối bởi vẫn còn có chế định là
thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc. Ví dụ 2: BLDS 2015 ghi nhận có thể
thoả thuận mức lãi suất 5% hay 10% tuỳ vào các bên nhưng để đảm bảo lợi ích cho xã hội
thì luật quy định là không được vượt quá mức 20% khoản tiền vay trong 1 năm.

1.2 Đặc điểm của phương pháp điều chỉnh của pháp luật dân sự
Thứ nhất, pháp luật dân sự thừa nhận và đảm bảo địa vị pháp lý bình đẳng của các bên
tham gia vào quan hệ dân sự nghĩa là các bên chủ thể có quyền và nghĩa vụ ngang bằng
nhau không phụ thuộc vào địa vị chính trị, mức độ tài sản, không phụ thuộc vào giới tính,
dân tộc… Các bên tham gia giao dịch dân sự đều tự do, tự nguyện và không bên nào ép
buộc bên nào. Ví dụ: A bán một mảnh đất cho B thì A và B có thể tự do thoả thuận với
nhau về việc mua bán hoặc không mua bán. A không có quyền ép buộc B mua và ngược
lại B không có quyền ép A bán.
Thứ hai, các chủ thể có quyền tự định đoạt trong việc tham gia vào các giao dịch. Tuy
nhiên, quyền tự định đoạt phải trong khuôn khổ của pháp luật. Ví dụ: Nếu đối tượng mua
bán giữa A và B là hàng cấm lưu thông như vũ khí ma tuý,.. thì hợp đồng đó mặc dù được
giao kết trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện giữa A và B nhưng vẫn bị vô hiệu hoá do vi phạm
pháp luật.
Thứ ba, khi chủ thể vi phạm nghĩa vụ thì phải chịu trách nhiệm dân sự và đó chính là
trách nhiệm tài sản. Ví dụ: A đồng ý bán nhà cho B nhưng đến thời hạn thanh toán thì B lại
chần chừ không thanh toán tiền cho A. Như vậy có nghĩa là B đã vi phạm pháp luật về thời
hạn thanh toán và phải bổi thường thiệt hại cho A.
Thứ tư, pháp luật ghi nhận biện pháp giải quyết các tranh chấp dân sự là biện pháp
thương lượng, hoà giải, trong trường hợp các bên không thương lượng được thì có quyền
khởi kiện tới Toà án hoặc trọng tài. Ví dụ: anh A lái xe và gây tai nạn làm gãy chân chị B.
Chị B đòi anh A phải thanh toán tiền viện phí nhưng anh A từ chối phủ nhận trách nhiệm.
Trong tình huống này chị B có quyền khởi kiện anh A ra toà để đòi bồi thường thiệt hại.

1.3.Đánh giá phương pháp điều chỉnh

Việc lựa chọn những phương pháp điều chỉnh dân sự còn phải phụ thuộc nhiều vào
hoàn cảnh lịch sử cụ thể và tổng thể những điều kiện của xã hội hiện tại. Trong bất cứ
trường hợp nào thì những biện pháp đó đều có giá trị xã hội riêng. So với phương pháp điều
chỉnh của pháp luật hình sự là cưỡng chế, mệnh lệnh phục tùng hay phương pháp điều chỉnh

8
của luật hành chính là mệnh lệnh đơn phương thì quyền tự thoả thuận định đoạt của các chủ
thể trong pháp luật dân sự là rất cao bởi trên phương châm của Nhà nước ta muốn cho các
chủ thể tự do để họ phát minh, sáng kiến để thúc đẩy sự phát triển một cách tốt nhất. Phương
pháp này sẽ tạo điều kiện các bên dung hòa được lợi ích của mình với lợi ích của chủ thể
kia. Khi lợi ích được dung hòa ở mức độ tối đa thì sẽ tạo điều kiện để các bên thực hiện
nghĩa vụ của mình và chính vì thế mà đảm bảo cho lợi ích của bên kia. Phương pháp điều
chỉnh này phù hợp với lý do ra đời của pháp luật dân sự và nhằm tạo nên 1 xã hội bình
đẳng, tự do, nhưng vẫn đảm bảo quyền là lợi ích cho mọi người.

Chương IV: Luật dân sự và sự phát triển kinh tế -xã hội của đất nước

1.1 Sự phù hợp về đối tượng và phương pháp điều chỉnh của Bộ luật Dân sự 2015
trong điều kiện kinh tế-xã hội của Việt Nam

Bộ luật Dân sự năm 2015 chứa đựng rất nhiều tư tưởng ,quy định ưu việt, được xây
dựng trên một tư duy mới, phù hợp với việc đổi mới hệ thống pháp luật phù hợp với thông
lệ quốc tế. Qua đó, BLDS 2015 đã thực sự phát huy được vị trí, vai trò luật Dân sự trở thành
luật chung, luật nền của hệ thống pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội được hình
thành trên nguyên tắc tự do, tự nguyện, bình đẳng và tự chịu trách nhiệm giữa các bên
tham gia; bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất trong hệ thống pháp luật của Nhà nước ta.
Một là, việc xác lập thực hiện và bảo vệ quyền dân sự trong phương pháp điều chỉnh
của BLDS 2015. Các chủ thể là cá nhân, pháp nhân thực hiện quan hệ dân sự theo ý chí của
mình tuy nhiên không được phép trái với những nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự và
quyền dân sự được quy định tại bộ luật này. Việc bảo vệ quyền được thực hiện theo pháp
luật tố tụng tại Tòa án hoặc Trọng tài
trong trường hợp quyền dân sự có tranh chấp hoặc bị vi phạm. Toà án sẽ là bên xem xét lại
quyết định giải quyết vụ việc theo thủ tục hành chính. Với quy định “Tòa án không được
từ chối yêu cầu giải quyết vụ, việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng” là một
phương pháp bảo đảm quyền khởi kiện, làm cho các chủ thể có quyền khởi kiện có đủ
những điều kiện cần thiết, chắc chắn để thực hiện được trong thực tiễn quyền khởi kiện
nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án thông qua các biện pháp được
xác định.
Hai là, trong đối tượng điều chỉnh của luật dân sự, quyền nhân thân của cá nhân đã được
cụ thể hoá đầy đủ hơn nhằm xác định tư cách chủ thể của cá nhân trong trong quan hệ dân
sự được quy định trong Hiến pháp và các điều ước Quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Điển
hình là điều 37 BLDS 2015 quy định “Việc chuyển đổi giới tính được thực hiện theo quy
định của luật. Cá nhân đã chuyển đổi giới tính có quyền, nghĩa vụ đăng ký thay đổi hộ tịch
theo quy định của pháp luật về hộ tịch; có các quyền nhân thân phù hợp với giới tính đã
được chuyển đổi theo quy định của Bộ luật này và luật khác có liên quan”
Như vậy với điểm mới này, BLDS 2015 đã đáp ứng được nhu cầu của một bộ phận công
dân trong xã hội mà không trái với truyền thống, thuần phong mỹ tục của dân tộc ta và phù
hợp với thông lệ quốc tế chung.

9
Ba là, trong đối tượng điều chỉnh thì chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự được thực
sự ghi nhận. BLDS 2015 đưa ra quy định của việc tham gia của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ
chức không có tư cách pháp nhân vào quan hệ dân sự là thông qua cá nhân đại diện. Điểm
mới này đã giải quyết được những vướng mắc, bất cập kéo dài trong nhiều năm qua liên
quan đến việc tham gia các quan hệ dân sự của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không
có tư cách pháp nhân trong quá trình giải quyết tranh chấp tại Tòa án và cơ quan nhà nước
khác.
Bốn là, trong đối tượng điều chỉnh, BLDS 2015 đã bổ sung quy định về tài sản bao gồm
bất động sản và động sản; tài sản có thể là vật, tiền, giấy tờ có giá, quyền tài sản đối với các
đối tượng sở hữu trí tuệ và các quyền tài sản khác. Thời điểm xác lập quyền sở hữu khác
đối với tài sản, dự liệu nhiều trường hợp và thứ tự ưu tiên lựa chọn các trường hợp để các
bên xác lập quyền sở hữu và quyền tài sản khác cả trong những trường hợp thỏa thuận được
và những trường hợp các bên có tranh chấp cũng đã được quy định cụ thể, rõ ràng và chi
tiết căn cứ vào Điều 161 BLDS năm 2015. Ngoài ra, BLDS năm 2015 cũng quy định trường
hợp xác lập quyền sở hữu đối với hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản khi chưa được chuyển
giao thuộc về bên có tài sản.

1.2. Vai trò của Luật dân sự trong sự nghiệp đổi mới, phát triển kinh tế-xã hội, hội
nhập kinh tế quốc tế

Về xã hội, Luật dân sự là bộ luật có quy mô lớn nhất cho nên nó đóng góp vai trò chủ
chốt, làm phương tiện là để nhà nước quản lý xã hội. Nếu không có những phương pháp
điều chỉnh của luật dân sự thì xã hội sẽ không có trật tự, ổn định, không thể tồn tại và phát
triển được. Luật pháp nói chung và luật dân sự nói riêng sẽ bảo đảm dân chủ, công bằng,
phù hợp lợi ích chung của các giai cấp và tầng lớp xã hội khác nhau. Không những thế pháp
luật dân sự còn là phương tiện để công dân thực hiện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
mình. Ví dụ: Căn cứ vào khoản 1 Điều 163, khoàn 1 và 2 Điều 164, Điều 36, Điều 37 BLDS
2015.
Về tổ chức và quản lý kinh tế, luật Dân sự càng nắm giữ một vai trò quan trọng hơn.
Quá trình quản lý kinh tế không thể thực hành được nếu không dựa vào pháp luật dân sự.
Do thuộc tính phức tạp và khuôn khổ rộng của chức năng quản lý kinh tế nên nhà nước
không thể trực tiếp tham dự vào các hoạt động kinh tế cụ thể mà chỉ thực hiện việc quản lý
ở tầm vĩ mô và mang thuộc tính hành chính - kinh tế. Luật dân sự đã góp phần lớn thúc đẩy
doanh nghiệp công ty đóng góp vào quá trình xây dựng và kiến thiết đất nước. Đơn cử như
cá nhân hay pháp nhân có thể tự do quyết định việc giao kết hợp đồng với các bên quyền
tự do thỏa thuận); không ai, kể cả cơ quan nhà nước, có thể can thiệp, trừ những trường hợp
đặc biệt được quy định bởi luật (khoản 2, Điều 2; khoản 2, Điều 3; khoản 1 Điều 398 BLDS
2015)
Về hội nhập kinh tế quốc tế, quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được BLDS 2015
quy định ở phần thứ 7 có nhiều thay đổi và phát triển cả về cơ cấu nội dung lẫn tính chất.
Điều này đã đánh một dấu mốc quan trọng cho thấy Tư pháp quốc tế của Việt Nam đang
bắt nhịp với xu thế pháp điển hoá và hài hoà Tư pháp quốc tế của các nước. Pháp luật dân
sự bảo đảm quyền lựa chọn pháp luật áp dụng và sự linh hoạt trong giải quyết các quan hệ
dân sự có yếu tố nước ngoài theo hướng tiếp thu có chọn lọc các nguyên tắc xác định pháp

10
luật áp dụng đã được quốc tế thừa nhận rộng rãi, các hệ thuộc trong quy phạm xung đột
pháp luật và thứ tự ưu tiên áp dụng các hệ thuộc này, nhất là đối với quan hệ hợp đồng, bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Hơn nữa, pháp luật dân sự hiện tại đã tương thích với
thông lệ quốc tế, tạo môi trường pháp lý thuận lợi để Việt Nam thực hiện các cam kết quốc
tế, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia cũng như doanh nghiệp trong các Tổ
chức Thương mại thế giới (WTO), Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC),…

11
C. KẾT LUẬN
Mục tiêu, quan điểm xây dựng Bộ luật dân sự là hoàn toàn phù hợp với sự phát triển của
đất nước ta hiện nay. Đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh rõ ràng đúng đắn
trong pháp luật dân sự đã góp phần triển khai thi hành các quan điểm, đường lối, chính sách
của Đảng, đặc biệt thể hiện tinh thần của Hiến pháp năm 2013, các cam kết quốc tế của
Việt Nam về tôn trọng, công nhận, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân
trong lĩnh vực dân sự, xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế. Bộ luật dân sự 2015 ra đời với nhiều đổi
mới về nhận thức, tư duy pháp lý trong cả đối tượng điều chỉnh lẫn phương pháp điều chỉnh
từ đó hoàn thiện hơn cơ chế điều chỉnh quan hệ dân sự, xây dựng nền tảng pháp lý một cách
thống nhất, đồng bộ và ổn định cùng với đó là thực hiện quyền dân sự về nhân thân, tài sản
của cá nhân, pháp nhân để góp phần hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và phục vụ hội nhập quốc tế. Với vai trò là một công cụ giúp Nhà nước quản
lý nền kinh tế-xã hội, luật dân sự luôn đề cao nguyên tắc tự do, tự nguyện, bình đẳng và tự
chịu trách nhiệm, đúng với tinh thần của pháp luật quốc tế nói chung và pháp luật VN nói
riêng. Chúng ta hoàn toàn có thể tin tưởng vào sự phù hợp của luật dân sự nước nhà, và hi
vọng vào những hoàn thiện hơn nữa trong tương lai, để luật dân sự luôn là chiếc kim chỉ
nam đối với sự phát triển của đất nước

12
D.DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.Nguyễn Thị Mơ (chủ biên), Giáo trình pháp lý đại cương, NXB Hồng Đức, 2012;
2.Trường ĐH Luật Hà Nội, Giáo trình “Luật dân sự Việt Nam”, tập I, NXB Công an nhân
dân, Hà Nội, 2019
3.Bộ Luật Dân sự Việt Nam năm 2015
4.TS. Đinh Trung Tụng (chủ biên), Những điểm mới cơ bản của Bộ Luật Dân sự 2015,
NXB lao động, Hà Nội, 2017
5.Chính phủ (1994), “Tờ trình của Chính Phủ về dự án Bộ luật Dân Sự của nước cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam”, Văn kiện Quốc hội toàn tập tập VIII (1992-1997) Quyển 2 1994-1195.
6. Nguyễn Thị Quế Anh (2009), Luật dân sự trong hệ thống Luật công- Luật tư, Tạp chí khoa học
ĐH Quốc gia Hà Nội

13

You might also like