You are on page 1of 10

TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHENIKAA

KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN

BÀI TẬP LỚN KẾT THÚC HỌC PHẦN PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG

Đề bài: “: Quyền lập pháp là gì ? tìm hiểu quy trình lập pháp theo quy
định của lập pháp việt nam?

Mã đề 25

Sinh viên: Ngô thị Hà

Lớp: KT2 K15

Mã SV:
I.QUYỀN LẬP PHÁP LÀ GÌ ?
1 KHÁI NIỆM
”Quyền lập pháp là một trong ba chức năng chủ yếu của nhà nước, cùng với quyền hành
pháp và quyền tư pháp tạo thành quyền lực nhà nước.

Cơ quan lập pháp, nói rộng ra, trong phạm vi quyền lực nhà nước, nó bao gồm cả việc
xây dựng và sửa đổi hiến pháp, cũng như xây dựng và sửa đổi luật, nhưng nó thuộc phạm
vi và phạm vi của nhánh lập hiến. Quyền lực chỉ bao gồm việc "làm luật và sửa đổi luật",
còn việc làm và sửa đổi hiến pháp là một quyền hiến định.

Quyền lực nhà nước bao gồm ba quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tam quyền
phân lập là ba quyền trên được xuất phát từ thuyết tam quyền phân lập mà cha đẻ là John
Locke. Lý thuyết của ông sau đó được phát triển bởi nhà xã hội học và luật gia người
Pháp Montesquieu.

“Một trong những bước phát triển quan trọng trong ý thức tổ chức bộ máy nhà nước
những năm đầu ở nước ta là sự hiểu biết về cốt lõi hợp lý của lý thuyết tam quyền phân
lập, theo đó mặc dù không có sự phân công lao động và kiểm tra, cân đối giữa các bộ
phận quyền lực trong tổ chức bộ máy nhà nước đều thừa nhận ba quyền lực này Phân
công lao động và phối hợp thực hiện. Theo Hiến pháp năm 2013, “Quốc hội là cơ quan
duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp”. Vì vậy, quyền làm luật thuộc về Quốc hội, cơ
quan quyền lực quốc gia cao nhất do toàn dân bầu ra” (Giáo Trình)

II.QUY TRÌNH LẬP PHÁP THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP


LUẬT VIỆT NAM

1. SÁNG KIẾN PHÁP LUẬT


Sáng kiến pháp luật là giai đoạn đầu tiên, là cơ sở, tiền đề để hình thanh nên một đạo luật.
Sáng kiến pháp luật có thể được xuất phát từ những nguồn và chủ thể khác nhau, chủ yếu
thường được thể hiện thông qua các hoạt động phân tích chính sách, các kiến nghị về sự
cần thiết phải ban hành luật mới hoặc sửa đổi luật hiện hành của các cá nhân, tổ chức

. Sáng quyền lập pháp chính là nói tới quyền năng của các chủ thể trong xã hội trong việc
đưa ra các ý tưởng, đề xuất, kiến nghị về các giải pháp ban hành luật của mình. Trong quy
trình lập pháp của Quốc hội Việt Nam, sáng kiến pháp luật được tập hợp thành chương

1
trình lập pháp và có tên gọi là chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội và Ủy
ban Thường vụ Quốc hội.

1.1. Nguồn của sáng kiến lập pháp


Trong quy trình lập pháp của Quốc hội nước ta, theo quy định của Luật ban hành văn bản
quy phạm pháp luật thì sáng kiên pháp luật (chương trình xây dựng luật, pháp lệnh) được
bắt nguồn từ nhiều chủ thể khác nhau, bao gồm:

- Các bộ, ngành của Chính phủ;

- Đại biểu Quốc hội, các Ủy ban của Quốc hội;

- Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân;

- Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các thành viên.

1.2. Quyền trình các dự án luật


Mặc dù các sáng kiến lập pháp được bắt nguồn từ rất nhiều nguồn khác nhau nhưng chủ
thể được quyền trình dự án luật ra trước nghị quốc hội đê ban hành thành các đạo luật thì
lại có những hạn chế. Với việc quy định mở rộng chủ thể có quyền trình dự án luật theo
quyđịnh của Hiến pháp 1992 là hoàn toàn phù hợp với điều kiện thực tế của đất tước,
“đầu vào” của quy trình lập pháp đã được tăng cường và hoàn thiện hơn. "Khả năng phát
hiện nhu cầu điều chỉnh pháp luật thuộc các lĩnh vực trong đời sống xã hội được năng
cao, kịp thời bù đắp sự thiếu hụt trong hệ thống pháp luật,đáp ứng nhu cầu của công cuộc
đổi mới Trong số các dự án luật do các chủ thể trình ra trước Quốc hội, Chính phủ là cơ
quan có số dự án nhiều nhất. Hàng năm, có hơn 90% số dự án luật, pháp lệnh do Chính
phủ trình ra trước Quốc hội và ủy ban thường vụ Quốc hội.

1.3. Tính kế hoạch và quyền sáng kiến pháp luật của các chủ thể
Sáng kiến pháp luật có thể xuất phát từ nhiều nguồn khác nhau, nhưng các sáng kiến lập
pháp muốn trở thành dự án luật, theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm
pháp luật, phải được đưa vào chương trình xây dựng luật,pháp lệnh (hay còn gọi là dự án
chương trình xây dựng luật, pháp lệnh hàng năm và cả nhiệm kỳ của Quốc hội).

1.4. Vai trò của phân tích chính sách trong quy trình lập pháp
Phân tích chính sách là một công đoạn đầu tiên cần phải được tiến hành trong quy trình
lập pháp, trong công đoạn sáng kiến pháp luật. Đây chính là khả năng nhận biết vấn đề

2
trong cuộc sống của các nhà lập pháp. Nghiên cứu và phân tích chính sách là một yêu cầu
bắt buộc đầu tiên của quy trình lập pháp. Đó là công việc cần phải được thực hiện trước
lúc soạn thảo.Theo đó, có 5 vấn đề cần phải giải quyết: Thứ nhất, phải nhận biết vấn đề.
Đây là việc làm đầu tiên, hết sức quan trọng . Nhận biết vấn đề sớm là bản năng của mọi
sinh vật sống, con người và thể chế.

Thứ hai, phải tìm ra được nguyên nhân làm phát sinh vấn đề. Một vấn đề có thể có nhiều
nguyên nhân gây nên. Có những nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân thứ yếu, nguyên
nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan, có những nguyên nhân do con người gây nên
hoặc cũng có nguyên nhân không do con người gây nên.

Thứ ba, tìm ra giải pháp để xử lý vấn đề. Sau khi đã tìm ra nguyên nhân, có thể có nhiều
giải pháp được lựa chọn đề xử lý vấn đề và thường không nhất thiết phải đưa ra giải pháp
bằng luật. Bởi vì luật là giải pháp tối kiến và tốn kém nhất. Sự tối kiến của pháp luật thể
hiện ở việc nó là quy phạm bắt buộc chung và mang tính ràng buộc đối với các chủ thể
mà không có lựa chọn nào khác. Bên cạnh đó, đề ban hành được một văn bản luật, phải
trải qua một quy trình lập pháp hệt sức tôn kém về kinh phí, tiền bạc và các điều kiện vật
chất khác, đây là chưa kê tới sự phức tạp, khó khăn trong chính quy trình lập pháp. Sự lựa
chọn đúng giải pháp đề giải quyết vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc điều
hành và quản lý nhà nước tốt.

Thứ tư, đôi với giải pháp lựa chọn là bằng pháp luật, cần phải tiến hành nghiên cứu, xem
xét vấn đề được đưa ra với quy định của Hiến pháp, Hiến pháp có cho phép làm việc đó
không, tương tác với toàn bộ hệ thống pháp luật như thế nào. Đây là đòi hỏi, yêu cầu về
tính hợp hiến, hợp pháp của một vấn đề trước khi trở thành dự luật mà các nhà lập pháp
cân phải tuân thủ.

Thứ năm, phải xác định được đã có tiền đẻ để ban hành quy phạm pháp luật đó chưa? ở
đâu ra? Tiền đề hay gọi cách khác là các điều kiện để đảm bảo cho việc soạn thảo, ban
hành và thực thi dự luật nêu nó được ban hành. Đây cũng là công đoạn không thể thiếu
nhằm xác định cơ sở pháp lý cho việc ban hành quy phạm pháp luật, đồng thời tránh sự
chồng chéo trong hệ thống pháp luật khi quy định về một vấn đề cụ thể.

Trên đây là năm vấn đề cần phải giải quyết khi tiến hành phân tích chinh sách. Sau khi đã
tiến hành phân tích chính sách, công đoạn tiếp theo của Chính phủ là toàn bộ nghiên cứu,
phân tích chính sách đó được bộ chuyên môn trình ra Chính phủ.Chính phủ sẽ thảo luận,

3
bản bạc tập trung. Tiếp đến là thông qua chính sách và các giải pháp hoặc có những sửa
đổi. bổ sung nhằm hoàn thiện chính sách do Bộ chuyên môn đề xuất đề quyết định những
vấn đề đã được lựa chọn, đặc biệt là các giải pháp về luật. Khi chính sách đã được thông
qua và phê chuẩn,nó sẽ được chuyển tới cơ quan soạn thảo đề tiền hành soạn thảo.

2. SOẠN THẢO VĂN BẢN DỰ ÁN LUẬT


Sáng kiến pháp luật, chính sách lập pháp chỉ trở thành hiện thực và có ý nghĩa khi đã
được thể hiện thành các chương, điều cụ thể. Giai đoạn soạn thảo văn bản dự án luật là
yêu cầu cần được tiến hành trước khi dự luật được chuyển đến Quốc hội. Theo quy định
pháp luật hiện hành, sau khi quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, các dự
luật sẽ được tiền hành ngay ở giai đoạn soạn thảo.

2.1. Mô hình cơ quan soạn thảo văn bản pháp luật


Ban soạn thảo gồm Trưởng ban là người đứng đầu cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo và
các thành viên là đại diện các cơ quan, tổ chức hữu quan, các chuyên gia, các nhà khoa
học Như vậy, theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, có 2 loại
hình cơ quan soạn thảo.

Thứ nhất, cơ quan soạn thảo đặt tại các bộ, ngành thuộc Chính phủ;

Thứ hai, cơ quan soạn thảo liên ngành khi dự luật có nội dung liên quan đến nhiều ngành,
nhiều lĩnh vực khác nhau.

2.2. Vấn đề kỹ thuật soạn thảo văn bản luật


Khoa học về kỹ thuật soạn thảo văn bản pháp luật chỉ ra rằng, kỹ thuật soạn thảo văn bản
luật chính là việc dịch các chính sách thành các mệnh lệnh hành động điều chỉnh hành vi
của con người và được thể hiện thành những chương, điều cụ thể. Ý nghĩa của kỹ thuật
soạn thảo văn bản được thể hiện ở 2 kỹ năng khác nhau nhưng có liên quan đến nhau:
Một là, nó biểu thị kỹ thuật về ngôn ngữ và các kỹ thuật liên quan khác mà các nhà soạn
thảo sử dụng đề viết ra một văn bản luật rõ ràng, mạch lạc; hai là, nó biểu thị kỹ thuật để
chuyển một chính sách thành một văn bản luật có khả năng thực thi hiệu quả mà, theo
điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của một đất nước, có thể tạo ra những biến đổi về chính trị,
kinh tế và xã hội, theo mong muốn Trong quá trình làm luật, nhà soạn thảo đóng một vai
trò quan trọng không chỉ đối với hình thức của đạo luật mà còn cả với nội dung của nó.
Do giữa hình thức và nội dung, giữa ngôn ngữ và suy nghĩ gắn bó hết sức chặt chẽ và tác
động qua lại lẫn nhau, chúng hòa trộn lẫn nhau mật thiết đến nỗi mà một sự thay đổi trong

4
suy nghĩ sẽ kéo theo ngôn ngữ thay đổi Soạn thảo văn bản pháp luật là một công việc khó
khăn và phức tạp, cần phải có những kỹ năng đề thể hiện chính sách thành mệnh lệnh
hành động. Đó là một việc làm hết sức tinh vi mà nếu không được đào tạo một cách cơ
bản, chắc chắn sẽ không thực hiện tốt được việc soạn thảo. Soạn thảo văn bản pháp luật
có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng, vì rằng nó thể hiện việc gắn kết giữa chính sách với
kỹ thuật lập pháp. Nếu có chính sách tốt nhưng không có kỹ thuật lập pháp thì chính sách
đó cũng chỉ “treo lơ lửng trên đầu” mà thôi. Và ngược lại nếu có kỹ thuật tốt nhưng chính
sách không tốt thì cũng khó đem lại kết quả mong muốn. Muốn có văn bản luật tốt, phải
có sự phối hợp chặt chẽ của những chuyên gia giỏi trong từng lĩnh vực chính sách và lập
pháp

2.3. Thẩm định dự án luật


“Trong quy trình lập pháp của Quốc hội nước ta, thẩm định dự án luật là một khâu trong
giai đoạn soạn thảo văn bản luật, và được quy định tại Điều 29a, thuộc mục 3. chương II,
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã sửa đổi, bổ sung năm 2002. Theo đó, đối
với các dự án luật (của các bộ, ngành) trước khi được Chính phủ trình ra Quốc hội, phải
do Chính phủ thẩm định. Theo Khoản 2, Điều 29a thì cơ quan thẩm định tiến hành thẩm
định về những vấn đề: a) Sự cần thiết ban hành luật, pháp lệnh, nghị quyết; đối tượng,
phạm vi điều chỉnh của dự án, dự thảo: b) Sự phù hợp của nội dung dự án, dự thảo với
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất
của văn bản với hệ thống pháp luật; c) Tính khả thi của văn bản; đ) Việc tuân thủ thủ tục
và trình tự soạn thảo; đ) Ngôn ngữ, kỹ thuật soạn thảo văn bản”. (Trính Thư Viện Pháp
Luật)

3. THẨM TRA DỰ ÁN LUẬT


Thẩm tra dự án luật là một giai đoạn, một khâu quan trọng và bắt buộc trong quy trình lập
pháp của Quốc hội nước ta. Việc thẩm tra dự án luật sẽ giúp Quốc hội có cơ sở đề xem
xét, thảo luận dự luật một cách toàn diện và thấu đáo trước khi thông qua. Hơn nữa, việc
xem xét những vấn đề cụ thể và kỹ thuật thường khó được giải quyết bởi một cơ quan có
quá nhiều thành viên và không thông thạo về chuyên môn như trong một phiên họp toàn
thể của Quốc hội. Với một nghĩa khác, giai đoạn thẩm tra là việc các cơ quan lập pháp
phản biện lại các chính sách, giải pháp lập pháp do hành pháp đưa ra. Điều này có ý nghĩa
quan trọng khi các đại biểu hoạt động chuyên trách không nhiêu, số lượng các dự luật
ngày một tăng trong khi thời gian mỗi kỳ họp của Quốc hội lại có hạn. Vì vậy, giai đoạn

5
này có ý nghĩa quyết định tới sự thành bại của một dự luật trước khi được trình ra Quốc
hội thảo luận và thông qua.

“Về phạm vi thẩm tra dự án luật, Điều 34, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật
quy định: “Cơ quan thẩm tra tiến hành thẩm tra về tất cả các mặt của dự án luật, dự án
pháp lệnh, dự thảo nghị quyết, nhưng tập trung vào những vấn đề chủ yếu sau đây” (Trính
Thư Viện Pháp Luật)

1. Sự cần thiết ban hành luật, pháp lệnh, nghị quyết; đối tượng, phạm vi điều chỉnh;

2. Sự phù hợp của nội dung dự án với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; tính
hợp hiến, hợp pháp của dự án và tính thống nhất của văn bản với hệ thống pháp luật;

3. Việc tuân thủ thủ tục và trình tự soạn thảo;

4. Tính khả thi của dự án”.

4. ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI CHO Ý KIẾN VỀ DỰ ÁN LUẬT


Sau khi được các Ủy ban thẩm tra tiến hành thẩm tra, dự luật sẽ được chuyển đến Ủy ban
thường vụ Quốc hội để cho ý kiến. Đây là một khâu bắt buộc trong quy trình lập pháp của
Quốc hội nước ta.

“Dự án luật phải được chuyển đến chậm nhất là hai mươi ngày, trước ngày bắt đầu phiên
họp Ủy ban thường vụ Quốc hội, chủ thể trình dự án luật phải gửi tờ trình, dự án và các
tài liệu có liên quan đến cơ quan thẩm tra đề tiến hành thẩm tra sơ bộ. Chậm nhất là bảy
ngày, trước khi bắt đầu phiên họp Ủy ban thường vụ Quốc hội, chủ thể trình dự án luật
phải gửi tờ trình, dự án và tải liệu có liên quan; cơ quan thẩm tra phải gửi báo cáo thẩm
tra về dự án luật đó đến Ủy ban thường vụ Quốc hội (Điều 36. Luật Ban hành văn bản
quy phạm pháp luật đã sửa đổi, bổ sung năm 2002)” (Trính Thư Viện Pháp Luật)

5. ĐÓNG GÓP Ý KIẾN CỦA NHÂN DÂN VẼ DỰ ÁN LUẬT, DỰ ÁN PHÁP


LỆNH
Giai đoạn xin ý kiến nhân dân về dự án luật, pháp lệnh được quy định tại“mục 6, chương
II, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật” (Trính Thư Viện Pháp Luật), với tên gọi:
Lấy kiến nhân dân về dự án luật, dự án pháp lệnh. Tuy không bắt buộc nhưng nó đã hình
thành nên một công đoạn trong quy trình lập pháp của Quốc hội nước ta.

6
“Tại Điều 39, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã sửa đổi, bổ sung năm 2002
quy định: Căn cứ vào tính chất và nội dung của dự án luật, dự án pháp lệnh, Quốc hội, Ủy
ban thường vụ Quốc hội quyết định việc lấy ý kiến nhân dân về dự án luật, dự án pháp
lệnh. Nội dung, phạm vi, thể thức và thời gian lấy ý kiến nhân dân về dự án luật, dự án
pháp lệnh do Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định. Uỷ ban thường vụ Quốc hội chỉ đạo
việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân và việc tiếp thu ý kiến nhân dân đề chỉnh lý dự án.”
(Trính Thư Viện Pháp Luật)

6. LẤY Ý KIẾN ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI. ĐOÀN ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI VỀ
DỰ ÁN LUẬT
Việc lấy ý kiến của đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội theo quy định của luật là
nhằm mục đích thu thập thêm nhiều ý kiến đóng góp của các đại biểu, Đoàn đại biểu khác
nhau để từ đó giúp cho việc soạn thảo dự án luật được tốt hơn. Bên cạnh đó, tạo ra sự
giao lưu giữa các đại biểu Quốc hội với cơ quan soạn thảo văn bản pháp luật để đại biểu
có sự hiểu biết cụ thể hơn về quá trình soạn thảo dự luật mà đại biểu sẽ xem xét và cho ý
kiến tại nghị trường.

7. THÔNG QUA DỰ ÁN LUẬT TẠI KỲ HỌP QUỐC HỘI


Trong quy trình lập pháp của Quốc hội, giai đoạn thảo luận và thông qua dự án luật tại kỳ
họp Quốc hội có ý nghĩa quyết định đối với dự luật. “Trình tự và thủ tục thông qua dự án
luật tại kỳ họp Quốc hội được quy định tại mục 7, chương III, Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật. Đối với việc xem xét, thông qua dự án luật, tùy theo tính chất và nội
dung của dự án, Quốc hội có thể xem xét, thông qua dự án luật tại một hoặc hai kỳ họp
của Quốc hội (Điều 45, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật). Vấn đề này còn
được tiếp tục quy định tại Điều 73. Luật tổ chức Quốc hội năm 2001” (Trính Thư Viện
Pháp Luật)

8. BAN HÀNH VÀ CÔNG BỐ LUẬT


“Trong quy trình lập pháp của Quốc hội nước ta, giai đoạn ban hành luật là công đoạn
cuối cùng. Quyền ban hành luật thuộc về Chủ tịch nước. Sau khi dự luật được Quốc hội
thông qua. trong vòng 15 ngày, Chủ tịch nước ban hành lệnh để công bố luật (Điều 50,
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật)” (Trính Thư Viện Pháp Luật)

Ban hành luật khác với công bố luật. Ban hành luật là hành vi pháp lý đem lại giá trị thi
hành cho dự luật. Còn công bố luật là việc đăng ký luật vào Công báo. Chính vì vậy,
nhiều nước có quy định rằng nếu dự luật đã được ban hành nhưng chưa công bố thì đạo

7
luật có giá trị pháp lý chỉ đối với các cơ quan công quyền mà không phải đối với mọi
công dân.

KẾT LUẬN
Quy trình lập pháp của Quốc hội Việt Nam được quy định chủ yếu trong Luật Ban hành
văn bản quy phạm pháp luật đã phần nào khắc phục được những hạn chế, yếu kém trong
hoạt động lập pháp của những giai đoạn trước đây. Các đạo luật đang ngày đi vào ổn định
hơn về chất lượng và số lượng, đã phân nào đáp ứng được nhu cầu điều chỉnh các quan hệ
xã hội nảy sinh trong xã hội. Tuy nhiên, vẫn tồn tại nhiều bất cập trong quy trình pháp mà
nguyên nhân đầu tiên là ở các quy định của pháp luật và nhận thức của các nhà lập pháp.

Mặc dù quy trình lập pháp của nước ta gồm rất nhiều công đoạn khác nhau. Nhưng điều
đó chưa chắc đã tạo ra giá trị gia tăng qua các giai đoạn thực hiện. Chúng ta đã có Luật
Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật tổ chức Quốc hội, Quy chế về nội quy của kỳ
họp Quốc hội, song có thể thấy rằng, các quy định của pháp luật nước ta về quy trình lập
pháp còn có nhiều khiếm khuyết, hạn chế và thể hiện rõ đối với từng giai đoạn trong quy
trình lập pháp. Một điểm chung, dễ dàng nhận thấy là sự quy định của pháp luật còn quá
sơ sài, chung chung và thiếu tính chặt chẽ. Các văn bản pháp luật đã bỏ sót công đoạn
phân tích chính sách, một khâu quan trọng đầu tiên của quy trình lập pháp: thiếu rõ ràng
trong quy định của luật về vấn đề soạn thảo văn bản; tính hình thức trong việc thẩm tra
của các Uy ban; không xác định cụ thể việc dự án nào thì cho ý kiến một lần, dự án nào
thì cho ý kiến hai lần; nội dung nào thì lấy ý kiến của đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu
Quốc hội: hoặc vấn đề nào thì lấy ý kiến tại phiên họp toàn thể: và đặc biệt, dự án luật
nào thì thông qua tại một kỳ họp hoặc hai kỳ họp... Với công nghệ làm luật như hiện nay,
phải mất nhiều năm nữa chúng ta mới có thê hoàn thiện được hoạt động lập pháp của
Quốc Hội

8
Mụ c lụ c
I.QUYỀN LẬP PHÁP LÀ GÌ ? .................................................................................................... 1

1 KHÁI NIỆM ............................................................................................................................. 1

II.QUY TRÌNH LẬP PHÁP THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM ................. 1

1. SÁNG KIẾN PHÁP LUẬT ..................................................................................................... 1

1.1. Nguồn của sáng kiến lập pháp .......................................................................................... 2

1.2. Quyền trình các dự án luật ................................................................................................ 2

1.3. Tính kế hoạch và quyền sáng kiến pháp luật của các chủ thể ........................................... 2

1.4. Vai trò của phân tích chính sách trong quy trình lập pháp................................................ 2

2. SOẠN THẢO VĂN BẢN DỰ ÁN LUẬT .............................................................................. 4

2.1. Mô hình cơ quan soạn thảo văn bản pháp luật .................................................................. 4

2.2. Vấn đề kỹ thuật soạn thảo văn bản luật ............................................................................ 4

2.3. Thẩm định dự án luật ........................................................................................................ 5

3. THÁM TRA DỰ ÁN LUẬT ................................................................................................... 5

4. ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI CHO Ý KIẾN VỀ DỰ ÁN LUẬT.............................. 6

5. ĐÓNG GÓP Ý KIẾN CỦA NHÂN DÂN VẼ DỰ ÁN LUẬT, DỰ ÁN PHÁP LỆNH .......... 6

6. LẤY Ý KIẾN ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI. ĐOÀN ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI VỀ DỰ ÁN LUẬT 7

7. THÔNG QUA DỰ ÁN LUẬT TẠI KỲ HỌP QUỐC HỘI ..................................................... 7

8. BAN HÀNH VÀ CÔNG BÓ LUẬT ....................................................................................... 7

KẾT LUẬN.................................................................................................................................. 8

You might also like