You are on page 1of 22

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

KHOA LUẬT
---------***---------

TIỂU LUẬN CUỐI KỲ


Môn: Lý luận Nhà nước và pháp luật

Ý thức pháp luật và vai trò của ý thức pháp luật


trong hoạt động xây dựng và thực hiện pháp luật

Họ và tên sinh viên Mã sinh viên


Ngô Minh Hằng 2314650009
Nguyễn Thị Khánh 2012450022
Linh 2314650016
Trần Ngọc Mai 2314650025
Nguyễn Lê Minh Ngọc
Lớp tín chỉ: PLUH103(HK1-2324)K62.1
Giảng viên hướng dẫn: TS. Đinh Thị Tâm
Hà Nội, tháng 11 năm 2023

1
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................................3
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ Ý THỨC PHÁP LUẬT TRONG HOẠT
ĐỘNG XÂY DỰNG VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT..............................................4
1.1 Một số vấn đề lý luận về ý thức pháp luật.........................................................4
1.1.1 Khái niệm của ý thức pháp luật....................................................................4
1.1.2 Đặc điểm của ý thức pháp luật......................................................................4
1.1.3 Phân loại ý thức pháp luật............................................................................5
1.1.4 Cấu trúc của ý thức pháp luật.......................................................................7
1.1.5 Chức năng của ý thức pháp luật...................................................................7
1.2 Một số vấn đề lý luận về xây dựng pháp luật....................................................8
1.2.1 Khái niệm của xây dựng pháp luật...............................................................8
1.2.2 Đặc điểm của xây dựng pháp luật................................................................8
1.3 Một số vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật...................................................9
1.3.1 Khái niệm của thực hiện pháp luật..............................................................9
1.3.2 Đặc điểm của thực hiện pháp luật................................................................9
1.4 Vai trò của ý thức pháp luật đối với hoạt động xây dựng pháp luật và thực
hiện pháp luật............................................................................................................9
1.4.1 Vai trò của ý thức pháp luật đối với hoạt động xây dựng pháp luật...........9
1.4.2 Vai trò của ý thức pháp luật đối với việc thực hiện pháp luật...................10
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ VAI TRÒ Ý THỨC PHÁP LUẬT TRONG
HOẠT ĐỘNG XÂY DỰNG VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT................................12
2.1 Thực trạng trong hoạt động xây dựng pháp luật...........................................12
2.1.1 Ưu điểm........................................................................................................12
2.1.2 Nhược điểm..................................................................................................13
2.2 Thực trạng trong hoạt động thực hiện pháp luật...........................................13
2.2.1 Ưu điểm........................................................................................................13
2.2.2 Nhược điểm..................................................................................................15
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NÂNG CAO Ý THỨC PHÁP LUẬT
TRONG HOẠT ĐỘNG XÂY DỰNG VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT................16
KẾT LUẬN..................................................................................................................18
2
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................19

3
LỜI MỞ ĐẦU

Trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có
nhiều yếu tố có tác động đến hoạt động xây dựng và thực hiện pháp luật mà ở đó, ý
thức pháp luật đóng vai trò quan trọng, giúp tạo ra một xã hội với trật tự, công bằng. Ý
thức pháp luật là cơ sở để hình thành văn hóa pháp luật của các chủ thể pháp luật, tạo
cho họ khả năng sử dụng hiệu quả pháp luật để bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình,
đồng thời có hành vi đúng đắn, phù hợp với pháp luật. Ngoài ra, ý thức pháp luật cũng
góp phần hình thành trách nhiệm của cá nhân đối với bản thân, gia đình và xã hội.
Việc nắm vững ý thức pháp luật và vai trò của ý thức trong hoạt động xây dựng
và thực hiện pháp luật là rất quan trọng để đảm bảo sự hợp pháp và công bằng trong xã
hội. Tuy nhiên, hiện nay có rất nhiều những hành vi không tuân thủ pháp luật hoặc lợi
dụng những hạn chế của pháp luật. Ngoài ra, một số cá nhân chưa có ý thức pháp luật
cao hoặc chưa có hiểu biết đầy đủ về pháp luật cũng đã dẫn đến việc không bảo vệ
được quyền và lợi ích của mình hoặc chưa tìm được phương hướng giải quyết hợp lý.
Do đó, việc nghiên cứu vai trò của ý thức pháp luật đối với hoạt động xây dựng pháp
luật và thực hiện pháp luật là rất quan trọng.
Nhóm nghiên cứu đề tài “Ý thức pháp luật và vai trò của ý thức pháp luật trong
hoạt động xây dựng và thực hiện pháp luật” để làm rõ những vấn đề lý luận liên quan
đến ý thức pháp luật đồng thời khẳng định vai trò của ý thức pháp luật đối với hoạt
động xây dựng và thực hiện pháp luật.
Bài tiểu luận có kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về ý thức pháp luật trong hoạt động xây dựng và thực
hiện pháp luật
Chương 2: Thực trạng về vai trò ý thức pháp luật trong hoạt động xây dựng và
thực hiện pháp luật
Chương 3: Một số kiến nghị nâng cao ý thức pháp luật trong hoạt động xây dựng
và thực hiện pháp luật.

4
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ Ý THỨC PHÁP LUẬT
TRONG HOẠT ĐỘNG XÂY DỰNG
VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT

1.1 Một số vấn đề lý luận về ý thức pháp luật


1.1.1 Khái niệm của ý thức pháp luật
Theo quan điểm triết học Mác - Lênin “Ý thức pháp luật là một trong các hình
thái ý thức xã hội trong xã hội có giai cấp, nó cùng tồn tại khách quan với các hình thái
ý thức xã hội khác như đạo đức, chính trị, tôn giáo, nghệ thuật, khoa học”. Ý thức pháp
luật cũng chịu sự ảnh hưởng của các hình thái ý thức xã hội khác ở nhiều mức độ, vì
vậy, nó còn phản ánh những điều kiện xã hội, mà các điều kiện này được điều chỉnh
bằng pháp luật, thông qua những quan điểm, quan niệm, tư tưởng, học thuyết. Qua
đây, ý thức pháp luật có thể được định nghĩa như sau:
Ý thức pháp luật là tổng thể những tư tưởng, học thuyết, quan điểm, thái độ, tình
cảm, sự đánh giá của con người về pháp luật trên các phương diện, tiêu chí cơ bản
như: về sự cần thiết (hay không cần thiết), về vai trò, chức năng của pháp luật, về tính
công bằng hay không công bằng, đúng đắn hay không đúng đắn của các quy định pháp
luật hiện hành, pháp luật đã qua trong quá khứ, pháp luật cần phải có, về tính hợp pháp
hay không hợp pháp trong hành vi của các cá nhân, nhà nước, các tổ chức xã hội.

1.1.2 Đặc điểm của ý thức pháp luật


1.1.2.1 Ý thức pháp luật có tính độc lập tương đối
Xét như một hình thái ý thức xã hội, ý thức pháp luật mang bốn đặc điểm nổi bật
như sau: Thứ nhất, ý thức pháp luật thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội. Thứ hai,
ý thức pháp luật mặc dù lệ thuộc rất nhiều vào tồn tại xã hội và chịu sự quy định của
nó nhưng vẫn có tính độc lập tương đối. Thứ ba, ý thức pháp luật phản ánh tồn tại xã
hội của một thời đại nào đó, song nó cũng kế thừa những yếu tố nhất định thuộc về ý
thức pháp luật của thời đại trước đó. Tuy nhiên sự kế thừa đó có thể là tiêu cực hoặc
tích cực. Thứ tư, ý thức pháp luật tác động trở lại đối với tồn tại xã hội, với ý thức

5
chính trị, đạo đức, tôn giáo và các yếu tố thuộc thượng tầng kiến trúc pháp lý như nhà
nước và pháp luật.
1.1.2.2 Ý thức pháp luật mang tính giai cấp
Bản chất của pháp luật là thể hiện ý chí của giai cấp cầm quyền, do đó chỉ có ý
thức của giai cấp thống trị mới được ban hành thành luật pháp. Mỗi quốc gia chỉ tồn
tại một hệ thống pháp luật và ý thức pháp luật là tiền đề để xây dựng các giá trị, chuẩn
mực pháp lý của từng giai cấp đối với xã hội, là cơ sở để hình thành thế giới quan pháp
lý chính thống trong xã hội.

1.1.3 Phân loại ý thức pháp luật


1.1.3.1 Căn cứ vào cấp độ nhận thức pháp luật
a. Ý thức pháp luật thông thường
Ý thức pháp luật thông thường là những quan niệm nhận thức, tri thức; tình cảm,
thái độ của con người, hình thành một cách trực tiếp trong hoạt động thực tiễn hàng
ngày, chưa được hệ thống hóa, khái quát hóa 1. Nó thường được dùng để nói đến ý thức
pháp luật của đa số người dân trong xã hội nên nó phản ánh trực tiếp, thiết thực các
hiện tượng pháp lý, do đó đem lại ý nghĩa to lớn cho việc nghiên cứu khoa học, đưa ra
những ý tưởng mới.
b. Ý thức pháp luật mang tính lý luận
Ý thức pháp luật mang tính lý luận thể hiện dưới dạng các khái niệm, học thuyết,
trường phái khác nhau về pháp luật, phản ánh những mối quan hệ bên trong, bản chất
của pháp luật. Những quan điểm mang tính lý luận này có tính hệ thống, ổn định, hình
thành trên cơ sở khoa học, rút ra từ thực tiễn, vì vậy là nền tảng cho việc soạn thảo,
điều chỉnh, phát triển, giáo dục và đào tạo pháp luật…

1.1.3.2 Căn cứ vào cấp độ nhận thức pháp luật


a. Ý thức pháp luật thông thường
Ý thức pháp luật cá nhân được định nghĩa “Là những quan điểm, quan niệm, thái
độ, tình cảm, hiểu biết pháp luật của mỗi cá nhân”. Vì vậy, ý thức pháp luật cá nhân

1
Xem Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật 2023
6
thường khác nhau dựa trên các yếu tố bên ngoài như điều kiện chính trị, kinh tế xã hội
và các yếu tố xuất phát từ chính cá nhân đó. Các quan hệ xã hội nói chung và quan hệ
pháp luật đều được thực hiện thông qua hành vi các cá nhân vậy nên ý thức pháp luật
cá nhân có ý nghĩa quan trọng đảm bảo thực hiện hiệu quả các quan hệ xã hội.
b. Ý thức pháp luật nhóm
Ý thức pháp luật nhóm phản ánh những quan điểm, tư tưởng, thái độ về pháp luật
của một nhóm xã hội nhất định. Các nhóm xã hội được hình thành trên những tiêu
chuẩn, mục đích, nhu cầu… có điểm tương đồng của một số người. Các nhóm xã hội
sẽ có những tư duy, đánh giá đối với pháp luật, các hiện tượng pháp lý tương đối giống
nhau và sẽ khác nhau nếu so sánh với nhóm xã hội khác.
c. Ý thức pháp luật xã hội
Ý thức pháp luật xã hội là những quan điểm, tư tưởng, tư duy khoa học về pháp
luật phổ biến nhất, đại diện cho toàn xã hội. Nó luôn vận động, phát triển theo xu thế
phát triển của xã hội. Bởi tính khái quát cao và có sự ảnh hưởng lớn, ý thức pháp luật
xã hội giữ vai trò định hướng và quyết định đối với ý thức pháp luật cá nhân và ý thức
pháp luật nhóm.

1.1.3.3 Ý nghĩa của sự phân loại pháp luật


Phân loại ý thức pháp luật là việc vừa mang ý nghĩa lý luận vừa mang ý nghĩa
thực tiễn. Những loại ý thức pháp luật dưới đây đều giữ vai trò nhất định đối với từng
đối tượng trong mục tiêu thúc đẩy giáo dục pháp luật.
Về ý nghĩa lý luận: Việc phân loại ý thức pháp luật theo các cấp độ nhận thức và
chủ thể của ý thức pháp luật cho phép nhận thức đầy đủ và sâu sắc hơn về ý thức pháp
luật. Mục đích cuối cùng là xây dựng hoàn chỉnh lý luận về ý thức pháp luật nhằm xây
dựng hệ thống pháp luật hoàn thiện vì lợi ích của người dân và sự phát triển của đất
nước.
Về vai trò thực tiễn: Việc phân loại ý thức pháp luật cho phép hiểu rõ hơn về vai
trò của ý thức pháp luật đối với việc xây dựng và thực hiện pháp luật. Từ đó đưa ra
những giải pháp hữu ích nhằm nâng cao ý thức pháp luật của người dân.

7
1.1.4 Cấu trúc của ý thức pháp luật
1.1.4.1 Tư tưởng pháp luật
Tư tưởng pháp luật được xây dựng trên một nền tảng tri thức pháp lý có tính kế
thừa qua các giai đoạn phát triển. Tư tưởng pháp luật được tích tụ dần từ mỗi cá nhân
và cuối cùng là trở thành của toàn xã hội, từ đó tạo thành các quan điểm chung thể
hiện ở các nghị quyết, chính sách hay các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành.
Hệ tư tưởng pháp luật thể hiện một cách không trực tiếp mà thông qua các khái niệm,
phạm trù, quan điểm, tư tưởng... Nội dung của tư tưởng pháp luật nói về vai trò, chức
năng, bản chất giai cấp về quan hệ của pháp luật với các quyền của con người như tự
do, công bằng, dân chủ và bình đẳng.
1.1.4.2 Tâm lý pháp luật
“Tâm lý pháp luật là tổng thể những cảm xúc, tâm trạng, thái độ, tình cảm của
con người đối với pháp luật và các hiện tượng pháp lý khác”, thể hiện hành vi, thái độ
và việc thực thi pháp luật. Nó được hình thành một cách tự phát ở mỗi cá nhân, nhóm,
tổ chức, cộng đồng, những giai cấp và rộng hơn là xã hội. Là một bộ phận của ý thức
xã hội, nó gắn liền với phong tục tập quán, truyền thống lâu đời và thói quen của con
người. Tuy vậy, tâm lý pháp luật mang cả mặt lợi ích và cả mặt tiêu cực. Nếu có hiểu
biết sâu rộng nhất định thì sẽ hành động đúng với tinh thần của pháp luật. Ngược lại,
nếu mang suy nghĩ sai lệch sẽ dẫn đến những hành vi không đúng chuẩn mực, thậm
chí vi phạm pháp luật.
1.1.4.3 Mối liên hệ giữa tư tưởng pháp luật và tâm lý pháp luật
Nhìn chung hệ tư tưởng pháp luật mang tính hệ thống và khoa học, còn tâm lý
pháp luật thì hình thành tự phát và thiếu tính khách quan nhưng giữa chúng vẫn có mối
quan hệ chặt chẽ, tác động lẫn nhau không thể tách rời. Đây là hai bộ phận chính của ý
thức pháp luật, chúng chi phối suy nghĩ, thái độ và hành vi của chủ thể, và vì giữa hai
phạm trù này có liên hệ mật thiết cho nên khi nâng cao ý thức pháp luật, cần chú trọng
cả về hệ tư tưởng pháp luật và tâm lý pháp luật.

8
1.1.5 Chức năng của ý thức pháp luật
Các chức năng nêu dưới đây của ý thức pháp luật có mối quan hệ chặt chẽ và tác
động qua lại lẫn nhau trong một cơ chế thống nhất.
1.1.5.1 Chức năng điều chỉnh hành vi của con người
Ý thức pháp luật của người dân phản ánh trong đó sự đánh giá của họ đối với
pháp luật trong hiện thực khách quan. Và đồng thời, ý thức pháp luật phản ánh hành vi
xử sự của con người dưới lăng kính pháp lý.
1.1.5.2 Chức năng nhận thức
Ý thức pháp luật phản ánh nhận thức của con người về đời sống pháp luật thông
qua hoạt động, mà hoạt động ở đây là có ý thức, có mục đích. Khi ý thức con người
được nâng cao thì sự phản ánh, hiểu biết của họ đối với hiện thực càng sâu sắc; do đó
mà có thể lao động hiệu quả, sáng tạo hơn. Đồng thời, “sự nhận thức đúng đắn của ý
thức pháp luật về hiện thực khách quan giúp cho quá trình xây dựng, thực thi và áp
dụng pháp luật thống nhất hiệu quả.”
1.1.5.3 Chức năng mô hình hóa pháp lý
Thông qua quá trình nhận thức đó mà hình thành nên các mô hình hành vi nhất
định (các quy tắc xử sự), nhờ có ý thức pháp luật mà đánh giá mô hình nào là cần thiết
và tất yếu để hướng các quan hệ xã hội phát triển có kết quả. Đây chính là chức năng
mô hình hoá pháp lý của ý thức pháp luật.

1.2 Một số vấn đề lý luận về xây dựng pháp luật


1.2.1 Khái niệm của xây dựng pháp luật
Xây dựng pháp luật là hoạt động phức hợp bao gồm phạm vi rộng lớn các hành
vi kế tiếp nhau, quan hệ chặt chẽ với nhau, do nhiều chủ thể có vị trí, chức năng, quyền
hạn khác nhau tiến hành nhằm chuyển hóa ý chí của giai cấp cầm quyển thành những
quy tắc pháp lý, thể hiện chúng dưới những hình thức pháp luật. Xây dựng pháp luật
không chỉ là quá trình đứt đoạn mà là quá trình vận động liên tục cùng với quá trình
vận động, biến đổi, phát triển của nhà nước và xã hội, với những bước và quy trình
nhất định.

9
1.2.2 Đặc điểm của xây dựng pháp luật
Xây dựng pháp luật là hoạt động mang tính tổ chức rất chặt chẽ, được diễn ra
theo quy trình nhất định. Các cơ quan nhà nước, nhà chức trách có thẩm quyền xây
dựng, ban hành pháp luật theo quy định, trình tự, thủ tục pháp luật quy định.
Xây dựng pháp luật là hoạt động mang tính sáng tạo, là một quá trình sáng tạo ra
các quy định pháp luật. Hoạt động này làm hình thành nên các quy định pháp luật mới
để bổ sung vào hệ thống quy phạm pháp luật hiện hành hoặc sửa đổi, loại bỏ những
quy định đã lỗi thời, không còn phù hợp với xã hội hiện tại.

1.3 Một số vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật


1.3.1 Khái niệm của thực hiện pháp luật
Thực hiện pháp luật là hành vi của chủ thể (hành động hoặc không hành động)
được tiến hành phù hợp với quy định, với yêu cầu của pháp luật, tức là không trái,
không vượt quá khuôn khổ mà pháp luật đã quy định. Có bốn hình thức thực hiện pháp
luật: tuân thủ, thi hành, sử dụng và áp dụng pháp luật.

1.3.2 Đặc điểm của thực hiện pháp luật


Thực hiện pháp luật là hành vi xác định hay xử sự thực tế của con người, bởi vì,
pháp luật được ban hành để điều chỉnh hành vi hay xử sự của con người, do vậy, chỉ có
thể căn cứ vào hành vi hay xử sự thực tế của các chủ thể thì mới có thể xác định được
họ có thực hiện pháp luật hay không.
Thực hiện pháp luật là làm theo yêu cầu của pháp luật, vì vậy, thực hiện pháp
luật phải là hành vi hợp pháp, tức là hành vi hoàn toàn phù hợp với các yêu cầu của
pháp luật.
Thực hiện pháp luật là hành vi của chủ thể có năng lực hành vi pháp luật, bởi vì,
chỉ các chủ thể có năng lực hành vi pháp luật mới có khả năng nhận thức được yêu cầu
của pháp luật để làm đúng các yêu cầu đó. Đối với các chủ thể không có hoặc mất
năng lực hành vi pháp luật, tức là không có khả năng nhận thức thì các quy định của
pháp luật không có ý nghĩa hoặc không có giá trị đối với họ.

10
1.4 Vai trò của ý thức pháp luật đối với hoạt động xây dựng pháp luật và thực
hiện pháp luật
1.4.1 Vai trò của ý thức pháp luật đối với hoạt động xây dựng pháp luật
Ý thức pháp luật có vai trò rất lớn đối với xây dựng và hoàn thiện pháp luật ở
nước ta hiện nay, cụ thể:
Thứ nhất, ý thức pháp luật góp phần vào việc nhận thức thấu đáo, đầy đủ đối với
chính sách pháp luật và các yêu cầu của việc điều chỉnh pháp luật. Trong quá trình
hoạt động, trên cơ sở ý thức pháp luật, nhận thức, hiểu biết của mình, các chủ thể có
thẩm quyền xây dựng pháp luật có thể xác định được quan hệ xã hội cần điều chỉnh
bằng pháp luật, mức độ điều chỉnh (bằng luật hay văn bản dưới luật)… Đồng thời, có
thể xác định được trình độ phát triển của kinh tế – xã hội, nhu cầu khách quan của đời
sống xã hội để đặt ra các quy định của pháp luật phù hợp với các điều kiện đó.
Thứ hai, đối với việc xây dựng pháp luật, ý thức pháp luật là tiền đề tư tưởng trực
tiếp để xây dựng, phát triển và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Khi xây dựng pháp luật,
trên cơ sở ý thức pháp luật của mình, các chủ thể có thẩm quyền có thể xác định được
trong số các quy phạm xã hội đang tồn tại, những quy phạm nào có thể thừa nhận
thành pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội theo ý chí của nhà nước thì thừa nhận
thành pháp luật, những quy phạm nào không phù hợp thì đặt ra các quy phạm mới để
thay thế chúng, những quan hệ xã hội nào cần điều chỉnh mà chưa có pháp luật thì đặt
ra quy tắc mới… Nhờ vậy mà ý thức pháp luật góp phần hình thành nên hệ thống pháp
luật.
Thứ ba, ý thức pháp luật nâng cao khả năng quy phạm hóa các nội dung điều
chỉnh pháp luật và xác định các chuẩn mực pháp lý phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh
thực tế. Trong quá trình thực hiện hệ thống pháp luật đã được ban hành, cũng phải trên
cơ sở ý thức pháp luật hay trên cơ sở kiến thức, hiểu biết của mình, các chủ thể có
thẩm quyền mới có thể xác định được các quy phạm pháp luật phù hợp với thực tại
khách quan, có tính khả thi thì tiếp tục sử dụng để điều chỉnh các quan hệ xã hội theo
mục đích của nhà nước, quy phạm nào không phù hợp thì ban hành hoặc đề nghị ban
hành quy phạm hoặc văn bản mới để thay thế, làm cho hệ thống pháp luật ngày càng
phát triển và hoàn thiện hơn.

11
1.4.2 Vai trò của ý thức pháp luật đối với việc thực hiện pháp luật
Ý thức pháp luật, văn hóa pháp lý là bộ phận kiến trúc thượng tầng xã hội, là một
hình thái ý thức xã hội, góp phần quan trọng trong hoạt động thực hiện pháp luật, đặc
biệt là đối với việc duy trì trật tự, kỷ cương của Nhà nước và xã hội.
Trong quá trình thực hiện pháp luật có những nhân tố chủ quan và khách quan
tác động tới hiệu quả và chất lượng của hoạt động này theo hai chiều hướng tích cực
và tiêu cực. Ngoài ra, ý thức pháp luật và thực hiện pháp luật còn chịu sự ảnh hưởng
bởi một số các yếu tố cụ thể sau: trình độ văn hóa, phong tục tập quán lối sống, đạo
đức, trình độ phát triển kinh tế – xã hội giữa các vùng miền.
Trong quá trình sử dụng pháp luật, để pháp luật có thể được thực hiện nghiêm
chỉnh, triệt để và chính xác thì mỗi chủ thể cần phải có ý thức về địa vị pháp lý của
chính mình khi tham gia vào các quan hệ pháp lý, và phải nắm bắt được trình tự, thủ
tục, cách thức thực hiện pháp luật. Việc không thực hiện những quy định của pháp luật
sẽ dẫn đến hậu quả pháp lý bất lợi đối với chủ thể. Ở khía cạnh khác, để có thể thực
hiện pháp luật một cách chính xác, đầy đủ, đòi hỏi chủ thể phải nắm bắt được trình tự,
thủ tục, cách thức thực hiện chúng. Trên thực tế hiện nay, có không ít chủ thể, mặc dù
cũng có sự hiểu biết pháp luật ở mức độ nhất định, biết được quyền và nghĩa vụ của
mình nhưng lại không thể tự thực hiện được các quyền, nghĩa vụ đó bởi lẽ đơn giản, họ
không nắm vững các quy định về trình tự, thủ tục, không biết cách thức thực hiện.
Ngược lại với thái độ bất tuân pháp luật, coi thường pháp luật thì khó có thể thực hiện
pháp luật được nghiêm túc và đúng đắn. Việc không thực hiện những quy định của
pháp luật trong trường hợp này dẫn đến hậu quả pháp lý bất lợi đối với chủ thể.

12
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ
VAI TRÒ Ý THỨC PHÁP LUẬT TRONG HOẠT ĐỘNG
XÂY DỰNG VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT

2.1 Thực trạng trong hoạt động xây dựng pháp luật
2.1.1 Ưu điểm
Có thể thấy, hoạt động xây dựng pháp luật ngày càng hoàn thiện và phát triển.
Ngày 24/5/2005, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 48-NQ/TW về Chiến lược
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 -
văn kiện đầu tiên của Đảng chuyên sâu về công tác pháp luật, với mục tiêu xây dựng
và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch;
đổi mới căn bản công tác xây dựng và thực hiện pháp luật; phát huy vai trò và hiệu lực
của pháp luật để góp phần quản lý xã hội, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh
tế, hội nhập quốc tế, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, thực hiện quyền con
người, quyền tự do, dân chủ của công dân, góp phần đưa nước ta trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Sau 15 năm thực hiện Nghị quyết này,
những nội dung, mục tiêu và các giải pháp về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật Việt Nam được đề ra trong Nghị quyết cơ bản đã hoàn thành.
Bên cạnh đó, chất lượng của hệ thống pháp luật có nhiều chuyển biến tích cực,
cơ bản bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ: Các văn bản đều được đánh giá về tính hợp
hiến, tính hợp pháp, tính thống nhất, đồng bộ trước khi ban hành; Tính công khai,
minh bạch của hệ thống pháp luật từng bước được nâng lên; Quy trình xây dựng, ban
hành văn bản quy phạm pháp luật thống nhất cho cả Trung ương và địa phương 2. Các
quy phạm pháp luật được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hơn, những quy phạm pháp luật
không còn phù hợp đã được thay thế bằng những quy phạm pháp luật mới. Ví dụ từ
1/1/2022, 6 luật có hiệu lực thi hành là Luật Bảo vệ môi trường; Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính; Luật Người lao động Việt Nam đi
làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; Luật Biên phòng Việt Nam; Luật Phòng, chống

2
Xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật theo tinh thần của Nghị quyết số 48-NQ/TW, định hướng trong thời
gian tới, Nguyễn Hồng Tuyến - Vụ trưởng Vụ Các vấn đề chung về xây dựng pháp luật.
13
ma túy; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều và Phụ lục Danh mục chỉ tiêu thống kê quốc
gia của Luật Thống kê.

2.1.2 Nhược điểm


Một hạn chế, tồn tại lớn nhất trong hoạt động xây dựng pháp luật là tình trạng các
quy phạm pháp luật còn khó hiểu, khó áp dụng dẫn đến tình trạng áp dụng chưa đúng.
Bên cạnh đó, còn tồn tại sự chồng chéo, xung đột giữa các đạo luật với nhau, giữa luật
chung và luật chuyên ngành, giữa văn bản hướng dẫn luật này và văn bản hướng dẫn
luật khác, dẫn đến tình trạng làm theo luật này thì đúng, luật khác thì sai. Như trong
báo cáo của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã nêu lên 20 điểm
xung đột, chồng chéo lớn của pháp luật về đầu tư, đất đai, xây dựng, môi trường, đấu
thầu, tiêu biểu như giữa các văn bản luật: Luật xây dựng, Luật đầu tư, Luật đất đai,
Luật quy hoạch đô thị, Luật đấu thầu; Luật Nhà ở, v.v…, đã làm giảm tính minh bạch
của pháp luật, khiến cho pháp luật trở nên phức tạp, khó hiểu và khó áp dụng, làm lãng
phí thời gian, công sức, tiền bạc, lỡ cơ hội đầu tư và rủi ro đối với hoạt động kinh
doanh đối với người thực hiện pháp luật. Đồng thời, các xung đột, chồng chéo này
cũng là những cản trở đối với việc thực hiện pháp luật, làm giảm niềm tin vào pháp
luật, tạo cơ hội phát sinh các hiện tượng nhũng nhiễu, tiêu cực, tham nhũng. Công tác
xây dựng pháp luật và thi hành pháp luật vẫn còn hạn chế, bất cập. Hệ thống pháp luật
còn cồng kềnh, phức tạp, thiếu đồng bộ, tính ổn định chưa cao; một số quy định chưa
phù hợp với yêu cầu thực tiễn, khó đi vào cuộc sống; tình trạng chậm, nợ ban hành văn
bản quy định chi tiết thi hành chưa được khắc phục triệt để; các điều kiện thi hành
pháp luật chưa được bảo đảm; việc tổ chức thi hành pháp luật ở một số nơi còn lúng
túng, hiệu quả chưa cao. Những hạn chế, bất cập xuất phát từ nhiều nguyên nhân.

2.2 Thực trạng trong hoạt động thực hiện pháp luật
2.2.1 Ưu điểm
Việc thực hiện pháp luật cũng được gắn liền với ý thức pháp luật. Khi pháp luật
được nâng cao, quá trình áp dụng, thực hiện, thi hành pháp luật cũng đạt được nhiều
thành tích. Trong năm, “Trụ sở tiếp công dân trung ương đã tiếp thường xuyên 1.692

14
lượt với 4.429 lượt công dân đến trình bày 1.441 vụ việc; 144 lượt đoàn đông người.
Trong đó Ban đã tiếp 1.236 lượt, 3.802 công dân, với 1.041 vụ việc; xử lý 8.549 đơn” 3.
Điều này cho thấy sự hiểu biết, nhận thức được quyền và nghĩa vụ của các cá nhân
theo quy định của pháp luật, Khi quyền lợi bị xâm phạm hoặc phát hiện những hành vi
trái pháp luật, công dân đã tìm đến cơ quan nhà nước. Trong ngành công an, “công tác
phòng, chống tội phạm đạt và vượt các chỉ tiêu Quốc hội đề ra; kiềm chế được sự gia
tăng của tội phạm; trật tự, an toàn xã hội có chuyển biến tích cực, tạo môi trường an
ninh, an toàn, lành mạnh, được nhân dân đồng tình, ủng hộ cao. Các vụ án nổi cộm,
gây bức xúc dư luận đều được điều tra làm rõ; triệt phá 1.335 băng, nhóm tội phạm
hình sự các loại”.
Năm 2021, các Tòa án đã thụ lý 88.607 vụ với 160.574 bị cáo; đã giải quyết,
xét xử được 79.409 vụ với 138.272 bị cáo, đạt tỷ lệ 89,62% về số vụ và 86,11% về số
bị cáo (vượt 1,62% chỉ tiêu Quốc hội). Đồng thời, Tòa án nhân dân tối cao đã chỉ đạo
các Tòa án tăng cường đổi mới thủ tục xét hỏi; nâng cao chất lượng và kỹ năng điều
khiển tranh tụng tại phiên tòa theo hướng thực chất, hiệu quả; phối hợp với Viện kiểm
sát nhân dân tổ chức các phiên tòa rút kinh nghiệm nhằm tăng cường tinh thần trách
nhiệm, tự đào tạo, tích lũy kiến thức, kinh nghiệm, học hỏi nâng cao kỹ năng và trình
độ nghiệp vụ trong xét xử…
Chính vì vậy, chất lượng xét xử tiếp tục được đảm bảo và có chuyển biến tích
cực; tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy là 0,92% (giảm 0,26% so với năm trước); bị
sửa là 4,52% (giảm 0,39% so với năm trước), đáp ứng yêu cầu Quốc hội đề ra. Các vụ
án hình sự được giải quyết xét xử kịp thời bảo đảm đúng người, đúng tội, đúng pháp
luật đã tạo được sự đồng thuận xã hội, được Nhân dân tin tưởng, ủng hộ, góp phần
quan trọng vào công tác đấu tranh, phòng, chống tội phạm, giữ vững an ninh chính trị,
trật tự, an toàn xã hội. Năm 2021, đã tổ chức 3.148 phiên tòa rút kinh nghiệm để rút ra
những tồn tại, hạn chế trong quá trình xét xử nhằm nâng cao chất lượng các phiên tòa
nói riêng và chất lượng giải quyết xét xử các loại án nói chung. Tập trung đẩy nhanh
tiến độ giải quyết, xét xử, hạn chế đến mức thấp nhất việc để án quá thời hạn giải

3
Ban Tiếp công dân Trung ương tổng kết công tác năm 2021
15
quyết theo quy định của pháp luật hoặc tạm đình chỉ giải quyết vụ án không đúng căn
cứ pháp luật4.

2.2.2 Nhược điểm


Ý thức pháp luật trong nhân dân vẫn còn nhiều hạn chế. Một bộ phận không nhỏ
nhân dân trình độ nhận thức pháp luật kém, đặc biệt là ở những vùng sâu, vùng xa. Ví
dụ hiện nay, trên địa bàn cả nước, số lượng phương tiện giao thông đang tăng nhanh
cùng với số người tham gia giao thông đường bộ, nhưng rất nhiều cá nhân không biết
luật giao thông đường bộ quy định bao nhiêu tuổi được phép điều khiển xe máy, khi
tham gia giao thông bằng xe máy phải cần những giấy tờ gì. Đồng thời, họ còn có thái
độ “đối phó” với các quy định được ban hành như: tham gia giao thông trên đường
bằng xe máy chỉ chấp hành việc đội mũ bảo hiểm khi nhìn thấy cảnh sát giao thông
hoặc khi nhìn thấy cảnh sát giao thông từ xa sẽ đi vào đường tránh khác để không bị
bắt khi biết mình đã vi phạm.
Điều đáng cảnh báo là số người vi phạm pháp luật ở nước ta ngày càng tăng. Các
hành vi vi phạm pháp luật của nhân dân đa dạng: Hình sự, dân sự, hành chính… với
các mức độ nặng nhẹ khác nhau, như các vụ tranh chấp đất đai, kiện tụng, buôn lậu,
trốn thuế, giết người… Có người sẵn sàng giết người chỉ vì cần tiền hút trích, ăn chơi
hay để trả thù. Đặc biệt đáng lưu ý là ý thức pháp luật của tầng lớp thanh thiếu niên
luôn chiếm tỉ lệ lớn. Theo số liệu thống kê trong báo Tiền phong online, số đối tượng
vi phạm pháp luật trong lứa tuổi thanh thiếu niên luôn chiếm trên 70% tổng số mà
không ít là học sinh, sinh viên. Tình trạng thanh niên giết người cướp tài sản, sử dụng
các chất kinh thích như ma túy đang trở thành vấn nạn trong đời sống hiện nay.
Ý thức của người dân ở vùng sâu vùng xa vùng dân tộc thiểu số còn thực sự thấp.
Tình hình tội phạm ở khu vực này ngày càng diễn bến phức tạp, xuất hiện nhiều dưới
dạng xuyên quốc gia mà người dân cũng bị lôi vào vòng xoáy ở đó. Những vụ án xảy
ra vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc miền núi chủ yếu là hiện tượng buôn bán ma túy,
gỗ lậu. Những hạn chế về ý thức pháp luật của nhân dân có thể xuất phát từ vị trí địa lý
nơi pháp luật chưa được phổ biến rộng rãi, công tác tuyên truyền pháp luật trong quần
4
Những thành tích nổi bật trong công tác xét xử năm 2021 của Tòa án nhân dân, TS. Nguyễn Trí Tuệ (Ủy viên
Ban cán sự đảng, Phó Chánh án TANDTC)
16
chúng chưa toàn diện, sâu rộng, hiệu quả. Những hành vi vi phạm pháp luật có thể là
do không nhận thức được hành động của mình, hay cố tình vi phạm vì mục đích cá
nhân. Ngoài ra, ảnh hưởng tiêu cực của nền kinh tế thị trường, sự tác động của tư
tưởng, tâm lý xã hội tiêu cực,… cũng là những yếu tố ảnh hưởng đến ý thức pháp luật
của người dân.

17
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NÂNG CAO
Ý THỨC PHÁP LUẬT TRONG HOẠT ĐỘNG
XÂY DỰNG VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT

Thứ nhất, tăng cường xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo cơ sở cho
mọi hoạt động xã hội
Để hoàn thiện hệ thống pháp luật, cần nắm vững những vấn đề lý luận về pháp
luật, có sự nghiên cứu tập trung, lâu dài, chuyên sâu trong việc thực hiện các chương
trình pháp luật, “xây dựng chiến lược phát triển pháp luật gắn với chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội”, nghiên cứu hệ thống pháp luật của các quốc gia tiên tiến trên thế giới,
có sự học hỏi kỹ thuật lập pháp, những quy phạm pháp luật phù hợp với tình hình thực
tế của Việt Nam, “tăng cường sự chỉ đạo, điều hành của Thứ hai, đẩy mạnh công tác
bồi dưỡng, tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong mọi tầng lớp nhân dân.
“Để nâng cao ý thức pháp luật, chú trọng xây dựng một hệ thống pháp luật thôi
chưa đủ, bên cạnh đó còn cần phải không ngừng bồi dưỡng, giáo dục nhằm nâng cao ý
thức pháp luật của cán bộ và nhân dân. Bồi dưỡng, giáo dục pháp luật là sự tác động
một cách có hệ thống, thường xuyên tới nhận thức của con người nhằm trang bị cho
mỗi người một trình độ kiến thức pháp lý nhất định để từ đó có ý thức đúng đắn về
pháp luật, tôn trọng và tự giác xử sự theo yêu cầu của pháp luật. Để công tác giáo dục
nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân đạt hiệu quả, cần thực hiện đồng bộ một số
biện pháp cơ bản sau:
- Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, giải thích pháp luật để nhân dân
hiểu đầy đủ nội dung của các văn bản pháp luật được ban hành trong từng giai đoạn.
- Đưa việc giảng dạy pháp luật vào hệ thống các trường của Đảng và Nhà nước.
Công tác giảng dạy pháp luật cần được tổ chức sâu rộng, cho mọi đối tượng, từ các
trường phổ thông, trưng học đến đại học và bồi dưỡng ở mọi ngành nghề, lĩnh vực.
- Đẩy mạnh công tác bồi dưỡng đội ngũ cán bộ pháp lý có năng lực và trình độ,
có phẩm chất chính trị và phong cách làm việc tốt để bố trí vào các cơ quan làm công
tác pháp luật, pháp chế.

18
- Mở rộng dân chủ, công khai tạo điều kiện cho nhân dân tham gia một cách
tích cực vào việc soạn thảo, thảo luận đóng góp ý kiến về các dự án pháp luật thông
qua đó nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân.
- Thực hiện kết hợp giáo dục pháp luật với giáo dục đạo đức, văn hoá,nâng cao
trình độ chung của nhân dân.
Thứ ba, tổ chức thực hiện và áp dụng pháp luật hiệu quả trong nhân dân
Công tác xây dựng, tổ chức thực hiện và áp dụng pháp luật là ba hoạtđộng cơ
bản của nhà nước nhằm đảm bảo sự tác động, điều chỉnh có hiệu quả của pháp luật và
sự phát triển năng động, có định hướng của các quan hệ xã hội. Bên cạnh việc ban
hành văn bản pháp luật, việc tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật đó, đưa các văn
bản đó vào cuộc sống, làm cho chúng phát huy được vai trò điều chỉnh, tác động vào
các quan hệ xã hội cũng có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Do vậy, để nâng cao ý thức pháp luật, tăng cường pháp chế XHCN, cần tổ chức
cho nhân dân thực hiện nghiêm chỉnh các văn bản pháp luật của nhà nước, thông qua
quá trình tổ chức thực hiện pháp luật, nhân dân sẽ được trang bị thêm kiến thức pháp
luật và ý thức tôn trọng thực hiện pháp luật..
Áp dụng pháp luật được tiến hành khi có những chủ thể không muốn hoặc
không đủ khả năng thực hiện pháp luật nếu thiếu sự tham gia của cơ quan nhà nước
hoặc cán bộ có thẩm quyền. Áp dụng pháp luật là một trong những hình thức thực hiện
chức năng của nhà nước, do vậy phải đảm bảo tính sáng tạo, tính tổ chức cao và chặt
chẽ.

19
KẾT LUẬN

Qua những nghiên cứu về ý thức pháp luật, chúng ta nhận thức rõ hơn về vai trò
to lớn mà ý thức pháp luật đóng trong việc hình thành thái độ và hành vi của cá nhân
đối với pháp luật. Có thể nhận thấy ý thức pháp luật không chỉ là một khía cạnh trí tuệ
về quy định pháp luật mà còn đóng vai trò quyết định trong việc hình thành thái độ,
tâm trạng, và hành vi của cá nhân đối với pháp luật.
Ý thức pháp luật có tác động đa chiều trong xã hội, không chỉ giới hạn trong việc
hiểu biết về quy định pháp luật mà còn đóng vai trò quyết định trong việc xây dựng hệ
thống pháp luật và thúc đẩy sự tuân thủ pháp luật của cộng đồng. Điều này không chỉ
quan trọng trong việc duy trì trật tự và công bằng mà còn ảnh hưởng đến sự phát triển
và ổn định của một xã hội.
Một số đề xuất cũng đã được đưa ra nhằm nâng cao ý thức pháp luật, góp phần
xây dựng nhà nước Việt Nam ngày nay. Ý thức pháp luật đóng vai trò quan trọng
trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, đồng thời giúp tạo ra một cộng
đồng tuân thủ pháp luật và thách thức hệ thống pháp luật để ngày càng phản ánh đúng
nhu cầu xã hội. Bên cạnh việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, các hoạt động như nâng
cao ý thức pháp luật cho mọi tầng lớp nhân dân cũng như tổ chức thực hiện và áp dụng
pháp luật đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền và đảm
bảo rằng mọi công dân đều hiểu biết và tuân thủ pháp luật. Ý thức pháp luật không chỉ
đóng vai trò quan trọng trong việc định hình hệ thống pháp luật mà còn ảnh hưởng đến
quá trình thực hiện pháp luật, tạo ra một xã hội với trật tự, công bằng, tuân thủ pháp
luật.

20
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đoan, N.M. và Nam, N.V. (2022) Giáo trình lý luận chung về Nhà nước và
pháp luật (tái bản lần 6).
2. Nghị quyết số 48-NQ/TW về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.
3. Thanh tra chính phủ (2021), Ban Tiếp công dân Trung ương tổng kết công tác
năm 2021, truy cập:
https://thanhtra.gov.vn/web/guest/xem-chi-tiet-tin-tuc/-/asset_publisher//
Content/ban-tiep-cong-dan-trung-uong-tong-ket-cong-tac-nam-2021?6447504
4. Tuệ, N.T (2021), Những thành tích nổi bật trong công tác xét xử năm 2021 của
Tòa án nhân dân, truy cập: https://tapchitoaan.vn/bai-viet/xet-xu/nhung-thanh-
tich-noi-bat-trong-cong-tac-xet-xu-nam-2021-cua-toa-an-nhan-
dan5617.html#:~:text=N%C4%83m%202021%2C%20%C4%91%C3%A3%20t
%E1%BB%95%20ch%E1%BB%A9c,c%C3%A1c%20lo%E1%BA%A1i
%20%C3%A1n%20n%C3%B3i%20chung.
5. Tuyến, N.H (2020), Xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật theo tinh thần của
Nghị quyết số 48-NQ/TW, định hướng trong thời gian tới, truy cập:
https://moj.gov.vn/ddt/tintuc/Pages/dua-nghi-quyet-cua-dang.aspx?ItemID=69

21

You might also like