You are on page 1of 43

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI

VIỆN QUẢN TRỊ KINH DOANH


----------

BÀI THẢO LUẬN MÔN: XÃ HỘI HỌC ĐẠI CƯƠNG

Đề tài: Phân chia tài sản

Giảng viên hướng dẫn: ĐINH THỊ NGỌC HÀ


Lớp học phần: 231_TLAW0111_05
Nhóm: 04

Hà Nội, tháng 11 năm 2023


MỤC LỤC
LỜI MỞ
ĐẦU............................................................................................
PHẦN I: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ THỪA
KẾ..................................................
I. Khái niệm thừa kế.............................................................................
II. Một số quy định chung về thừa kế..................................................
1. Chủ thể của quan hệ pháp luật thừa kế...................................
2. Di sản thừa kế...........................................................................
3. Thời điểm, địa điểm mở thừa kế..............................................
4. Người quản lý di
sản.................................................................
5. Việc thừa kế của những người có quyền thừa kế di sản của
nhau mà chết cùng thời điểm.......................................
6. Những người không được hưởng di sản..................................
7. Thời hiệu thừa kế......................................................................
III. Các hình thức thừa kế........................................................................
1. Thừa kế theo di chúc................................................................
2. Thừa kế theo pháp luật.............................................................
PHẦN II: GIẢI QUYẾT BÀI TOÁN CHIA THỪA KẾ THỰC
TẾ......................
KẾT
LUẬN…………………………………………………………………
…………………………
LỜI MỞ ĐẦU
Pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống xã hội. Nó là phương tiện
không thể thiếu, bảo đảm cho sự tồn tại, vận hành bình thường của xã hội nói chung và
của nền đạo đức nói riêng. Pháp luật không chỉ là một công cụ quản lý nhà nước hữu
hiệu, mà còn tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển của ý thức đạo đức, làm lành
mạnh hoá đời sống xã hội và góp phần bồi đắp nên những giá trị mới. Trong công
cuộc đổi mới đất nước hiện nay, việc tăng cường vai trò của pháp luật được đặt ra như
một tất yếu khách quan. Điều đó không chỉ nhằm mục đích xây dựng một xã hội có
trật tự, kỷ cương, văn minh, mà còn hướng đến bảo vệ và phát triển các giá trị chân
chính, trong đó có ý thức đạo đức.

Trong đó, chế định thừa kế là một chế định quan trọng trong hệ thống các quy
phạm pháp luật dân sự Việt Nam…Quyền để lại thừa kế và quyền thừa kế là những
quyền cơ bản của công dân luôn luôn được pháp luật ở nhiều nước trên thế giới quan
tâm, theo dõi và bảo hộ. Việt Nam là một trong những nước đang phát triển và có nền
văn hóa với các truyền thống đạo đức lâu đời được truyền từ đời này qua đời khác. Do
đó đối với người Việt Nam hiện nay, việc coi trọng các phong tục, tập quán, tình cảm
đã khiến không ít người bỏ qua việc đảm bảo quyền để lại thừa kế của mình bằng cách
thảo một bản di chúc. Bên cạnh đó có những người đã lập di chúc nhưng lại chưa hiểu
rõ về pháp luật khiến cho những bản di chúc này không rõ ràng dẫn đến việc những
người thừa kế phải nhờ pháp luật phân sử hộ (đưa ra tòa) làm giảm sút đi mối quan hệ
tình cảm thân thuộc vốn có. Vấn đề thừa kế di sản cũng từ đó mà nảy sinh nhiều dạng
tranh chấp phức tạp. Thực tiễn giải quyết các vụ án về tranh chấp thừa kế gặp phải
không ít khó khăn, thậm chí phải xét xử nhiều lần ở nhiều cấp xét xử khác nhau gây
tốn kém cả về thời gian và chi phí.

Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau trong đó phải kể đến các quy
định của pháp luật về thừa kế nói chung và thừa kế theo pháp luật nói riêng vẫn còn
thiếu và chưa đồng bộ, chưa rõ ràng, cụ thể dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau là tiền
đề cho việc áp dụng không nhất quán.

Với những lý do trên cũng như nhận được sự phân công của cô, nhóm em xin trình
bày những căn cứ cũng như quá trình giải quyết bài toán chia thừa kế theo pháp luật
của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong bài thảo luận do kiến thức còn
hạn chế nên không tránh khỏi những sai sót, nhóm xin nhận được nhận xét của cô để
hoàn thiện kiến thức, có cơ sở để áp dụng vào thức tế
PHẦN I: CƠ SỞ LÝ THUYẾT THỪA KẾ
I: KHÁI NIỆM THỪA KẾ
Thừa kế là một chế định pháp luật dân sự, là tổng hợp các quy phạm pháp luật
điều chỉnh việc dịch chuyển tài sản từ người chết (hoặc bị Tòa tuyên bố là đã chết).
cho những người còn sống khác theo ý chí của họ được thể hiện trong di chúc hoặc
theo ý chí của Nhà nước được thể hiện trong các quy phạm pháp luật

II: MỘT SỐ QUY ĐỊNH CHUNG VỀ THỪA KẾ


1.Chủ Thể Của Quan Hệ Pháp Luật Thừa Kế
Người để lại di sản
Người để lại tài sản là người có tài sản sau khi chết muốn để lại cho người còn sống
theo di chúc hay theo quy định của pháp luật. Người để lại di sản chỉ có thể là cá nhân,
không phân biệt bất cứ điều kiện nào. Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp
pháp, của cải để dành, nhà ở. Khi còn sống họ có có quyền đưa các loại tài sản này vào
lưu thông dân sự hoặc lập di chúc cho người khác hưởng tài sản của mình sau khi chết.
Trong trường hợp người để lại di sản lập di chúc để định đoạt tài sản của mình thì phải
đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật. Trường hợp công dân có tài sản
thuộc sở hữu riêng, không lập di chúc để định đoạt tài sản của mình thì tài sản này sẽ
chia theo quy định của pháp luật.

Người lập di chúc.


Điều luật của người lập di chúc:
 Điều 647 “Bộ luật dân sự” có quy định về người lập di chúc như sau:
 Người đã thành niên có quyền lập Di chúc hợp pháp, trừ trường hợp người đó bị
bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ được
hành vi của mình.
 Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể lập Di chúc hợp
pháp, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.

 Điều 648 “Bộ luật dân sự 2015”:

 Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế;
 Người lập di chúc có thể chỉ định người thừa kế là người bất kỳ, mà không bó
buộc trong số những người thừa kế theo pháp luật của người lập di chúc. Việc
chỉ định người thừa kế là một nội dung không thể thiếu của di chúc.
 -Phân định phần di sản cho từng người thừa kế. Người lập di chúc cũng có
quyền chia cho người này nhiều hơn người kia mà không buộc phải chia đều
cho những người đã được chỉ định và không cần nêu lý do.
 Nếu không phân định di sản trong di chúc thì di sản được chia đều cho những
người được chỉ định trong di chúc.
 Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng.
 Điều 671 quy định về di tặng như sau:
 Di tặng là việc người lập di chúc dành một phân di sản để tặng cho người khác.
Việc di tặng phải được ghi rõ trong di chúc
 Người được di tặng không phải thực hiện nghĩa vụ tài sản đối với phần được di
tặng, trừ trường hợp toàn bộ di sản không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của
người lập di chúc thì phần di tặng cũng được dùng để thực hiện nghĩa vụ cong
lại của người này
=> Trước tiên cần phải khẳng định rằng: Di tặng không phải là hợp đồng tặng cho, bởi
vì hợp đồng tặng cho là sự thỏa thuận giữa các bên: bên tặng cho mà không yêu cầu
đền bù và bên được tặng cho đồng ý nhận. Như vậy, chủ thể tặng cho và chủ thể được
tặng cho đều còn sống và cả hai bên đều thể hiện ý chí tặng cho tài sản và nhận tặng
cho tài sản. Trong quan hệ di tặng, việc di tặng là hành vi pháp lý đơn phương của
người lập di chúc, không thể hiện ý chí của người được di tặng. Nếu như hợp đồng
tặng cho được coi là hoàn thành khi người được tặng cho nhận được tài sản hoặc kể từ
thời điểm đăng ký quyền sở hữu thì trong di tặng quyền của người được di tặng chỉ
phát sinh tại thời điểm mở thừa kế

 Điều 670 “Bộ luật dân sự 2015” quy định về di sản thờ cúng:
Trong trường hợp người lập di chúc có để lại một phần di sản dùng vào việc thờ
cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho một người đã
được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu người được
chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thoả thuận của những
người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc
thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng.
Trong trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thờ cúng
thì những người thừa kế cử một người quản lý di sản thờ cúng.
Trong trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì phần di
sản dùng để thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số
những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật.
Trong trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán nghĩa vụ
tài sản của người đó thì không được dành một phần di sản dùng vào việc thờ
cúng.”

Giao nghĩa vụ cho người thừa kế:


 Bên cạnh những quyền về tài sản, người lập di chúc còn có những nghĩa vụ về
tài sản. Nếu người để lại di sản không có di chúc thì những người thừa kế theo
pháp luật của họ có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tàisản trong phạm vi di sản.
Trường hợp người lập di chúc chỉ định đoạt một phần hay toàn bộ di sản
nhưngkhông giao nghĩa vụ cho những người thừa kế thì những người thừa kế
vẫn có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại tương ứng
vớiphần được hưởng trong phạm vi di sản.
 Trong di chúc, người lập di chúc có quyền giao nghĩa vụ cho người thừa kế
trong phạm vi di sản. Người lập di chúc có quyền phân định cho người thừa kế
này nhiều di sản hơn người thừa kế kia nhưng lại giao cho người thừa kế kia
nhiều nghĩa vụ hơn người thừa kế này. Người lập di chúc toàn quyền quyết định
trong việc giao nghĩa vụ cho người thừa kế trong phạm vi phần mà người lập di
chúc cho người thừa kế được hưởng mà không phải hỏi ý kiến của người thừa
kế
 Điều 640 “Bộ luật dân sự 2015”:
 Người lập di chúc có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc đã lập
vào bất cứ lúc nào.
 Trường hợp người lập di chúc bổ sung di chúc thì di chúc đã lập và phần bổ
sung có hiệu lực pháp luật như nhau; nếu một phần của di chúc đã lập và
phần bổ sung mâu thuẫn nhau thì chỉ phần bổ sung có hiệu lực pháp luật.
 Trường hợp người lập di chúc thay thế di chúc bằng di chúc mới thì di chúc
trước bị huỷ bỏ.

=> Thay thế di chúc là hành vi của người để lại di sản lập di chúc mới
thay thế cho di chúc cũ vì họ cho rằng nội dung của di chúc trước không còn phù hợp
với ý chí của họ. Một người lập nhiều di chúc vào các thời điểm khác nhau để định
đoạt nhiều tài sản khác nhau mà nội dung của các di chúc này không chồng chéo mâu
thuẫn lẫn nhau thì tất cả các di chúc đều có hiệu lực. Ngược lại nếu nội dung trái
ngược nhau thì coi là thay thế di chúc, bản di chúc sau có hiệu lực.Hủy bỏ di chúc là
hành vi của người lập di chúc thể hiện ý chí bãi bỏ
di chúc đã lập.
 Căn cứ theo quy định Điều 642 Bộ luật Dân sự 2015 về Di chúc bị thất lạc, hư hại
như sau:
 Kể từ thời điểm mở thừa kế, nếu bản di chúc bị thất lạc hoặc bị hư hại đến mức
không thể hiện được đầy đủ ý chí của người lập di chúc và cũng không có bằng
chứng nào chứng minh được ý nguyện đích thực của người lập di chúc thì coi
như không có di chúc và áp dụng các quy định về thừa kế theo pháp luật.
 Trường hợp di sản chưa chia mà tìm thấy di chúc thì di sản được chia theo di
chúc.
 Trong thời hiệu yêu cầu chia di sản, trường hợp di sản đã chia mà tìm thấy di
chúc thì phải chia lại theo di chúc nếu người thừa kế theo di chúc yêu cầu.

Trường hợp đặc biệt của người lập di chúc.


 Điều 663 “Bộ luật hình sự 2015”:
 Vợ chồng có thể lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung
 Tuy nhiên các quy định về di chúc chung của vợ chồng
 Có nhiều điểm bất cập.
 Thứ nhất, di chúc chung của vợ chồng không đảm bảo được đầy đủ
các quy định của “Bộ luật dân sự năm 2015” về mặt hình thức, cụ thể
là: đối với di chúc viết tay không có người làm chứng khi lập di chúc
thì người lập di chúc phải tự tay viết và ký vào bản di chúc. Vậy, nếu
một người viết di chúc và người kia chỉ việc ký tên hoặc điểm chỉ thì
di chúc đó có hiệu lực pháp luật không? Như vậy, về mặt hình thức di
chúc chung của vợ chồng, pháp luật cần phải có sự điều chỉnh cụ thể,
rõ ràng hơn chứ không thể áp dụng giống như di chúc của cá nhân. Chỉ
nên thừa nhận vợ chồng được lập di chúc chung bằng hình thức văn
bản có người làm chứng hoặc có công chứng, chứng thực.
 Thứ hai, quy định sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung của
vợ chồng đã xâm phạm tới quyền tự do định đoạt tài sản cá nhân

 Điều 664 khoản 2 “Bộ luật dân sự 2015”:


Khi vợ hoặc chồng muốn sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung thì
phải được sự đồng ý của bên kia; nếu một người đã chết thì người kia chỉ có thể
sửa đổi, bổ sung di chúc liên quan đến phần tài sản của mình.
=> Với quy định này, nếu một bên vợ hoặc chồng vì lý do nào đó mà bắt buộc
phải sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung đã lập nhưng không được
sự đồng ý của người kia, thì việc sửa đổi, bổ
sung đó sẽ không được pháp luật chấp nhận. Quy định này đã xâm phạm quyền
tự do định đoạt tài sảncủa người lập di chúc, xâm phạm tới những lợi ích chính
đáng của cá nhân khi cấm họ đưa ra những quyết định cá nhân nhằm bảo đảm
lợi ích cho mình.
Người thừa kế
Người thừa kế là người được hưởng di sản thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật.
Như vậy, có 2 loại người thừa kế:
• Người thừa kế theo pháp luật: Chỉ có thể là cá nhân và phải có quan hệ hôn nhân,
huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng đối với người để lại di sản.
• Người thừa kế theo di chúc: Có thể là cá nhân, tổ chức hoặc Nhà nước
Điều kiện của Người thừa kế được quy định tại điều 613 Bộ luật dân sự năm 2015:
 Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế
hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai
 trước khi người để lại di sản chết. Trường hợp người thừa kế theo di chúc
không là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.Người thừa kế có
những quyền, nghĩa vụ tài sản do người để lại di sản để lại.
Người thừa kế phải thực hiện những nghĩa vụ sau:
• Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản do người để
lại di sản để lại trong phạm vi di sản được nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
Tuy nhiên, pháp luật khuyến khích người thừa kế thực hiện toàn bộ nghĩa vụ mà người
để lại di sản để lại, kể cả những trường hợp không còn di sản. Đây là nghĩa vụ mang
tính đạo lí của con cái đối với cha mẹ.
• Trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người để lại di sản để lại do
người quản lý di sản thực hiện theo thỏa thuận của những người thừa kế.
• Trong trường hợp Nhà nước, cơ quan, tổ chức hưởng di sản theo di chúc thì cũng
phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người để lại di sản để lại.
Quyền của người thừa kế
• Quyền của người thừa kế được quy định tại Điều 620 Bộ luật dân sự năm 2015. Pháp
luật quy định, người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối
nhận di sản nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình với người khác.
• Việc từ chối nhận di sản phải lập thành văn bản, người từ chối nhận di sản phải báo
cho những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia tài sản, công
chứng nhà nước hoặc ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi mở thừa kế về việc từ
chối nhận di sản. Pháp luật quy định thời hạn từ chối nhận di sản là 6 tháng kể từ thời
điểm mở thừa kế. Sau 6 tháng kể từ thời điểm mở thừa kế, nếu người thừa kế không từ
chối nhận di sản thì được coi là đồng ý nhận thừa kế.

• Tuy nhiên việc quy định người thừa kế chỉ được từ chối nhận di sản trong thời hạn 6
tháng từ thời điểm mở thừa kế là không hợp lý. Trong không ít trường hợp, sau khi
người để lại di sản chết hàng vài năm, việc phân chia di sản mới được đặt ra (điều này
là hoàn toàn phù hợp với cách xử sự truyền thống của người Việt Nam). Khi đó, tranh
chấp về thừa kế mới nảy sinh, các bên đương sự đưa nhau ra tòa, yêu cầu Tòa án giải
quyết. Nhiều người trong số các đương sự này vì không muốn tham gia vào vụ tranh
chấp hoặc vì các lý do khác đã không muốn nhận di sản thừa kế và lúc này họ mới có
ý định từ chối nhận di sản. Việc áp dụng một cách máy móc Điều 620 làm phức tạp
hóa quan hệ dân sự, gây phiền phức cho người dân, chứ chưa thực nhằm mục đích làm
ổn định quan hệ xã hội. Vì vậy, nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của những người thừa
kế, cũng như tạo điều kiện cho Tòa án giải quyết nhánh chóng, kịp thời các tranh chấp
về thừa kế, nên sửa đổi quy định tương ứng của Bộ luật dân sự năm 2015 theo hướng,
không quy định hạn chế thời hạn từ chối nhận di sản thừa kế. Đồng thời, pháp luật
cũng không nên hạn chế phương thức thể hiện việc từ chối mà người từ chối có thể
báo với các cơ quan Nhà nước hoặc Tòa án và những người thừa kế khác tại bất kỳ
thời điểm nào trước khi di sản thừa kế được chia.
Người không được hưởng di sản.
Trong quan hệ thừa kế, những người là vợ, chồng, con…của người để lại di sản hoặc
những người được chỉ định trong di chúc là những người được hưởng di sản của người
để lại di sản. Tuy nhiên, trong thực tế có những trường hợp họ vi phạm nghiêm trọng
nghĩa vụ của mình, có hành vi trái pháp luật, trái đạo đức xã hội, thuần phong mĩ tục,
xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín của bố, mẹ, anh, em, vợ, chồng…
Người có hành vi đó không xứng đáng được hưởng di sản của người để lại thừa kế
Khoản 1 Điều 621 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về những người không
được hưởng di sản gồm:
Những người sau đây không được quyền hưởng di sản:
 Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi
ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh
dự, nhân phẩm của người đó
 Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;
 Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm
hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng;
 Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc
lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm
hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.
Việc thừa kế của những người có quyền thừa kế của nhau mà chết cùng
thời điểm:
Trong thực tế có những trường hợp nhiều người cùng chết trong một tai nạn mà
không xác định được ai chết trước, ai chết sau. Vì vậy buộc phải suy đoán họ chết
cùng thời điểm. Nếu hai người có quyền thừa kế của nhau mà được coi là chết cùng
thời điểm thì họ sẽ không được thừa kế của nhau. Di sản của mỗi người được chia cho
những người thừa kế khác của họ.

2. Di sản thừa kế
Khái niệm di sản thừa kế được hiểu là tài sản của người chết để lại cho
những người thừa kế.
Di sản thừa kế bao gồm: tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người
chết trong khối tài sản chung với người khác (Điều 612, BLDS 2015).
 Tài sản riêng của người chết: Là tài sản mà người đó có được từ các căn cứ xác lập
quyền sở hữu hợp pháp (tài sản được tặng cho, được thừa kế, để dành, tư liệu sinh hoạt
cá nhân…)
 Tài sản của người chết trong khối tài sản chung với người khác:
 Là tài sản chung của nhiều chủ sở hữu do được tặng cho chung, thừa kế chung…
 Khi một đồng chủ sở hữu chết thì tài sản thừa kế là phần tài sản thuộc sở hữu của
người đó trong khối tài sản chung.
 Là đồng chủ sở hữu trong khối tài sản chung hợp nhất.
 Đối với sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia thì một nửa khối tài sản chung đó là
tài sản của người chết và sẽ được coi là di sản để phân chia thừa kế.
 Đối với sở hữu chung hợp nhất không thể phân chia thì khi một người mất, tài sản
đó thuộc sỡ hữu của những chủ thể còn lại chứ không thể xác định là di sản thừa kế.
 Quyền về tài sản do người chết để lại: Là các quyền dân sự được phát sinh từ
các quan hệ hợp đồng hoặc do việc bồi thường thiệt hại mà trước khi chết họ đã
tham gia vào những quan hệ này.
3.Địa điểm, thời điểm mở thừa kế
Thời điểm:
A Thời điểm mở thừa kế là khi nào?
“Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trường hợp Tòa án tuyên bố
một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định tại khoản 2 Điều
71 của Bộ luật dân sự 2015” (Điều 611 Bộ luật dân sự 2015).

B . Xác định thời điểm mở thừa kế làm gì?


 Kể từ thời điểm mở thừa kế thì:

 Người hưởng di sản thừa kế được quyền khai nhận di sản thừa kế theo di chúc
 Người hưởng di sản thừa kế được quyền thỏa thuận phân chia di sản thừa kế
nếu không có di chúc
 Người hưởng di sản thừa kế được quyền khởi kiện chia di sản thừa kế nếu
không thỏa thuận được việc phân chia thừa kế.
 Thời điểm mở thừa kế là căn cứ xác định việc khởi kiện tranh chấp thừa kế còn
thời hạn khởi kiện hay không.

 Kể từ thời điểm mở thừa kế thì di sản thuộc quyền quản lý và sử dụng của
người quản lý di sản thừa kế.

 Việc xác định thời điểm mở thừa kế còn có ý nghĩa trong việc xác định pháp
luật áp dụng để giải quyết các tranh chấp về thừa kế di sản và phân chia di sản.
Địa điểm:

Khoản 2 Điều 611 BLDS quy định: “Địa điểm mở thừa kế là nơi cư trú cuối cùng của
người để lại di sản; nếu không xác định được nơi cư trú cuối cùng thì địa điểm mở
thừa kế là nơi có toàn bộ di sản hoặc nơi có phần lớn di sản.”

Địa điểm mở thừa kế được xác định theo đơn vị hành chính cấp cơ sở (xã, phường. thị
trấn)

BLDS quy định địa điểm mờ thừa kế, vì ở nơi đó thường phải tiến hành những công
việc như: Kiểm kê ngay tài sản của người đã chết (trong trường hợp cần thiết); xác
định những ai là người thừa kế theo di chúc hoặc theo luật; người từ chối nhận di
sản…
Ngoài ra, nếu có người trong diện thừa kế từ chấp nhận di sản, thì phải thông báo cho
cơ quan Công chúng nhà nước hoặc UBND xã. phường, thị trấn nơi mở thừa kế về
việc từ chối nhận di sản. Hơn nữa, trong trường bợp có tranh chấp thì Toà án nhân dân
nơi mở thừa kế có thẩm quyền giải quyết.

Trong thực tế, một người trước khi chết có thể ở nhiều nơi khác nhau, do đó, BLDS
quy đinh địa điểm mở thừa kế là nơi cư trú cuối cùng của người để lại di sản. Trong
trường hợp không xác định được nơi cư trú cuối cùng, thì địa điểm mở thừa kế là nơi
có toàn bộ hoặc phần lớn di sản.

4.Người quản lí di sản


 Người quản lý di sản theo Bộ luật dân sự 2015
 Người quản lý di sản là người được chỉ định trong di chúc hoặc do
những người thừa kế thỏa thuận cử ra.
 Trường hợp di chúc không chỉ định người quản lý di sản và những
người thừa kế chưa cử được người quản lý di sản thì người đang
chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản tiếp tục quản lý di sản đó cho đến
khi những người thừa kế cử được người quản lý di sản.
 Trường hợp chưa xác định được người thừa kế và di sản chưa có
người quản lý theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này thì di
sản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý.
Quyền của người quản lý di sản (Điều 618, BLDS 2015)
 Người quản lý di sản thuộc trường hợp chỉ định trong di chúc hoặc do người
thừa kế thỏa thuận cử ra có các quyền sau đây:
 Đại diện cho những người thừa kế trong quan hệ với người thứ 3
liên quan đến di sản thừa kế.
 Được hưởng thù lao theo thỏa thuận với những người thừa kế.
 Được thanh toán chi phí bảo quản di sản.
 Người đang chiếm hữu; sử dụng; quản lý di sản không thuộc trường hợp chỉ
định trong di chúc hoặc do người thừa kế thỏa thuận cử ra có các quyền sau
đây:
 Được tiếp tục sử dụng di sản theo thỏa thuận trong hợp đồng với
người để lại di sản hoặc được sự đồng ý của những người thừa kế.
 Được hưởng thù lao theo thỏa thuận với những người thừa kế.
 Được thanh toán chi phí bảo quản di sản.
Nghĩa vụ của người quản lí di sản (Điều 617, BLDS 2015)
 Người quản lý di sản:
 Lập danh mục di sản; thu hồi tài sản thuộc di sản của người chết mà
người khác đang chiếm hữu, trừ trường hợp pháp luật có quy định
khác;
 Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp
hoặc định đoạt tài sản bằng hình thức khác, nếu không được những
người thừa kế đồng ý bằng văn bản;
 Thông báo về tình trạng di sản cho những người thừa kế;
 Bồi thường thiệt hại nếu vi phạm nghĩa vụ của mình mà gây thiệt hại;
 Giao lại di sản theo yêu cầu của người thừa kế.
 Người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản:
 Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế
chấp hoặc định đoạt tài sản bằng hình thức khác;
 Thông báo về di sản cho những người thừa kế;
 Bồi thường thiệt hại nếu vi phạm nghĩa vụ của mình mà gây thiệt hại;
 Giao lại di sản theo thỏa thuận trong hợp đồng với người để lại di sản
hoặc theo yêu cầu của người thừa kế.

5. Việc thừa kế của những người có quyền thừa kế di sản của


nhau mà chết cùng thời điểm
Theo quy định tại Điều 619 Bộ luật dân sự năm 2015, theo đó: “Trường hợp
những người có quyền thừa kế di sản của nhau đều chết cùng thời điểm hoặc được coi
là chết cùng thời điểm do không thể xác định được người nào chết trước (sau đây gọi
chung là chết cùng thời điểm) thì họ không được thừa kế di sản của nhau và di sản của
mỗi người do người thừa kế của người đó hưởng trừ trường hợp thừa kế thế vị theo
quy định tại Điều 652 của Bộ luật này”. Những người có quyền thừa kế di sản của
nhau được hiểu là những người có quan hệ thừa kế hai chiều, cụ thể như sau:

 Giữa vợ với chồng hoặc giữa cha mẹ với con. Đây là những người thuộc hàng
thừa kế thứ nhất của nhau nên về nguyên tắc họ có quyền hưởng di sản thừa kế
của nhau
 Giữa anh, chị, em ruột với nhau hoặc giữa ông bà nội, ngoại với cháu. Đây là
những người có quyền hưởng di sản của nhau thuộc hàng thừa kế thứ hai nên
họ chỉ được coi là những người có quyền hưởng di sản thừa kế của nhau nếu
khi họ chết cùng thời điểm mà họ không còn ai ở hàng thừa kế thứ nhất hoặc
còn nhưng những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của họ thuộc trường hợp
không được quyền hưởng di sản theo quy định của pháp luật hoặc những người
này bị truất quyền hưởng thừa kế.
 Giữa cụ với chắt ruột hoặc giữa bác, chú, cậu, cô, dì ruột với cháu ruột. Đây là
những người có quyền hướng đi sản của nhau ở hàng thừa kế thứ ba nên họ chỉ
được coi là những người có quyền hưởng di sản thừa kế của nhau mà chết cùng
thời điểm nếu họ không còn người thừa kế ở. hàng thừa kế thứ nhất và hàng thừa
kế thứ hai hoặc còn nhưng những người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất và hàng
thừa kế thứ hai thuộc trường hợp không có quyền hướng di sản theo quy định của
pháp luật hoặc bị truất quyền hưởng di sản.
 Những người có quyền hưởng di sản thừa kế của nhau được xem là chết cùng thời
điểm khi có căn cứ cho rằng họ chết cùng một thời điểm như họ cùng chết trong
một vụ tai nạn giao thông hoặc trên hồ sơ bệnh án cho thấy họ cùng chết một thời
điểm. Cũng được xem là chết cùng thời điểm mặc dù không có căn cứ cho thấy họ
củng chết trong một thời điểm nhưng cũng không có căn cứ để xác định ai chết
trước, ai chết sau như họ cùng mất tích trong một vụ lũ quét hoặc cùng mất tích
trong một vụ tai nạn máy bay,… và khi có yêu cầu tuyên bố họ là đã chết thì pháp
luật cho phép suy đoán là họ đã chết cùng một thời điểm.

Theo quy định tại Điều 613 Bộ luật dân sự năm 2015 thì người thừa kế là cá nhân phải
là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm
mở thừa kế nhưng đã thành thai trước thời điểm người để lại di sản chết. Do đó, những
người có quyền thừa kế di sản của nhau nhưng họ đều chết cùng thời điểm hoặc được
coi là chết cùng thời điểm thì họ không được thừa kế di sản của nhau và di sản của mỗi
người do người thừa kế của người đó hưởng. Sở dĩ pháp luật dân sự quy định như vậy
là để nhằm chấm dứt một tình trạng không có hồi kết thúc trong việc hưởng di sản
thừa kế giữa những người thừa kế có quyền hưởng di sản của nhau khi họ chết trong
cùng một thời điểm hoặc được coi là chết cùng thời điểm.

6. Những người không được hưởng di sản


Theo quy định tại Điều 643 Bộ luật Dân sự, những người sau đây không
được quyền hưởng di sản thừa kế:

 Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ hoặc về
hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm
nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó.
 Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản.
 Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác
nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có
quyền hưởng.
 Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản
trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, huỷ di chúc
nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại
di sản.
 Tuy nhiên, pháp luật cũng có quy định những người thuộc vào một trong
những trường hợp nói trên vẫn được hưởng di sản, nếu người để lại di sản
đã biết hành vi của những người đó, nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo
di chúc.
 Như vậy, về nguyên tắc, việc tước quyền hưởng di sản thừa kế của những
người nói trên chỉ thực hiện trong trường hợp thừa kế theo pháp luật. Nếu
di chúc cho họ được hưởng di sản bị phát hiện là giả mạo thì người giả
mạo không được hưởng di sản thừa kế.

Tóm tắt
Người không được hưởng di sản:
 Người thừa kế thực hiện hành vi được quy định tại khoản 1 Điều 621 bị tước đi
quyền hưởng di sản (theo di chúc và theo pháp luật)
 Người thừa kế thuộc quy định tại Khoản 2 Điều 621 vẫn được hưởng di sản
thừa kế

7. Thời hiệu thừa kế


Thời hiệu là thời hạn do luật quy định mà khi kết thúc thời hạn đó thì phát sinh hậu
quả pháp lý đối với chủ thể theo điều kiện do luật quy định.

Theo quy định tại Điều 623 Bộ luật Dân sự 2015 :

Xác định thời hiệu thừa kế

 Điều 623. Thời hiệu thừa kế

Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm
đối với động sản, kể thừ thời hiệu mở thừa kế. hết thời hạn này thì di sản thuộc về
người đang quản lý di sản đó. Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản
thì di sản được giải quyết như sau:

 Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định tại
Điều 236 của Bộ luật này;
 Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu quy định tại điểm
a khoản này.
 Như vậy, Bộ Luật dân sự 2015 đã phân biệt thời hiệu thừa kế là bất động
sản với động sản, trong đó thời hiệu đối với bất động sản là 30 năm, 10 năm
đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này di sản thuộc
về người thừa kế đang quản lý di sản đó.
 Thời hiệu thừa kế là một trong những thời hiệu nằm trong Bộ Luật dân sự 2015 nên
sẽ áp dụng từ ngày 01 tháng 01 năm 2017 mà không phụ thuộc vào thời điểm mở
thừa kế, cụ thể:

 Đối với di sản là bất động sản thì được thực hiện theo quy định tại Điều 36 của
Pháp lệnh thừa kế năm 1990 và hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/HĐTP ngày
19/10/1990 của Hội đồng thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao hướng dẫn áp
dụng một số quy định của Pháp lệnh Thừa kế, cụ thể thời hiệu khởi kiện được
tính từ ngày 10/9/1990;

 Còn đối với thừa kế về nhà ở được mở trước ngày 01 tháng 7 năm 1991 thì thời
hiệu khởi kiện còn được cộng thêm thời gian 2 năm 06 tháng (theo Nghị quyết
số 58/1998/NQ-UBTVQH10 ngày 24 tháng 8 năm 1998.

Tuy nhiên, khoản 2 Điều 688 Bộ Luật dân sự năm 2015 cũng quy định “Không áp
dụng Bộ luật này để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với vụ việc
mà Tòa án đã giải quyết theo quy định của pháp luật về dân sự trước ngày Bộ luật này
có hiệu lực”. Như vậy, những vụ kiện về thừa kế liên quan đến thời hiệu đã được giải
quyết bằng bản án có hiệu lực pháp luật sẽ không được xem xét lại.

Việc xác định thời hiệu thừa kế rất quan trọng để có thể giải quyết vấn đề, thụ lý vụ án.

Bộ Luật dân sự 2015 xử lý hệ quả của việc hết thời hiệu thừa kế. Người đang quản lý
di sản có thể được hiểu là người không chỉ nắm giữ, chi phối mà còn phải có tư cách
chi phối nắm giữ như một chủ sở hữu đối với toàn bộ di sản thì sẽ thuộc trường hợp
chiếm hữu của quy định. Theo Điều 236 Bộ luật Dân sự 2015, “người chiếm hữu,
người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công
khai trong thời hạn 10 năm đối với động sản, 30 năm đối với bất động sản thì trở
thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu”. Ngoài ra người
chiếm hữu còn phải không thuộc trường hợp là người được ủy quyền quản lý tài sản
hay người được giao tài sản thông qua giao dịch Việc xác định người đang quản lý di
sản, người chiếm hữu còn khó khăn.
Thời hiệu yêu cầu xác nhận hoặc bác bỏ quyền thừa kế
 Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác
bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

 Thời hiệu yêu cầu liên quan đến di sản thừa kế

 Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để
lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

 Theo đó, các chủ nợ, người bị thiệt hại có quyền khởi kiện trong thời hạn 03
năm kể từ thời điểm mở thừa kế để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài
sản do người chết để lại.

Các trường hợp được khởi kiện lại

Khoản 3 Điều 7 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP hướng dẫn “các trường hợp khác
theo quy định của pháp luật” được khởi kiện lại theo quy định tại điểm d khoản 3 Điều
192 Bộ Luật tố tụng dân sự. Theo Nghị quyết này thì:

 Đối với những vụ án dân sự tranh chấp về thừa kế tài sản mà trước ngày 01-01-
2017, Tòa án đã trả lại đơn khởi kiện hoặc ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ
án và trả lại đơn khởi kiện vì lý do “thời hiệu khởi kiện đã hết”, nhưng theo quy
định tại khoản 1 Điều 623, điểm d khoản 1 Điều 688 Bộ luật Dân sự năm 2015
thời hiệu khởi kiện vụ án đó vẫn còn, thì người khởi kiện có quyền nộp đơn
khởi kiện lại vụ án theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 688 Bộ luật Dân
sự năm 2015 và điểm d khoản 3 Điều 192 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

 Đối với những vụ án dân sự tranh chấp về thừa kế tài sản mà trước ngày 01-01-
2017 đã được Tòa án giải quyết bằng bản án, quyết định (trừ quyết định đình
chỉ giải quyết vụ án dân sự vì thời hiệu khởi kiện đã hết) đã có hiệu lực pháp
luật thì theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 192 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm
2015, người khởi kiện không có quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án đó.

 Đối với những vụ án dân sự chia tài sản chung là di sản thừa kế đã hết thời hạn
10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế mà trước ngày 01-01-2017 Tòa án đã ra
quyết định đình chỉ giải quyết vụ án và trả lại đơn khởi kiện vì chưa đủ điều
kiện khởi kiện chia tài sản chung, nhưng theo quy định tại khoản 1 Điều 623,
điểm d khoản 1 Điều 688 Bộ luật Dân sự năm 2015 thời hiệu khởi kiện vụ án
chia thừa kế đối với di sản thừa kế đó vẫn còn, thì người khởi kiện có quyền
nộp đơn khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế theo quy định tại điểm d khoản 1
Điều 688 Bộ luật Dân sự năm 2015 và điểm d khoản 3 Điều 192 Bộ luật Tố
tụng Dân sự năm 2015. Trong trường hợp này, Tòa án xem xét thụ lý, giải
quyết theo thủ tục chung.

 Đối với những vụ án dân sự chia tài sản chung là di sản thừa kế đã hết thời hạn
10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế mà trước ngày 01-01-2017 đã được Tòa án
giải quyết bằng bản án, quyết định (trừ quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân
sự vì thời hiệu khởi kiện đã hết) đã có hiệu lực pháp luật thì theo quy định tại
điểm c khoản 1 Điều 192 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, người khởi kiện
không có quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án đó.

Thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện thừa kế

Theo quy định Điều 156 Bộ luật Dân sự 2015 quy định thời gian không tính vào thời
hiệu khởi kiện vụ án dân sự, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự là khoảng thời
gian xảy ra một trong các sự kiện sau đây:

 Có sự kiện bất khả kháng làm cho chủ thể có quyền khởi kiện, quyền yêu cầu
không thể khởi kiện, yêu cầu trong phạm vi thời hiệu. Theo quy định của Bộ
Luật dân sự 2015, sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan
không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng
mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép.

 Có trở ngại khách quan làm cho chủ thể có quyền khởi kiện, quyền yêu cầu
không thể khởi kiện, yêu cầu trong phạm vi thời hiệu.

 Chưa có người đại diện trong trường hợp người có quyền khởi kiện, người có
quyền yêu cầu là người chưa thành niên, mất năng lực hành vi dân sự có khó
khăn trong nhận thức làm chủ hành vi hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.

 Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự
chưa có người đại diện khác thay thế

 Vì các quy định trên phần nào giúp chúng ta có thể nắm rõ về các quy định về
thời hiệu thừa kế theo quy định của pháp luật.

Tóm tắt

Trong thừa kế, pháp luật quy định có các loại thời hiệu sau:

Thời hiệu yêu cầu chia di sản


 Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản,
10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di
sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó.
 Đối với trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản được
giải quyết như sau:
 Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu tài sản không có căn
cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn 10 năm đối
với động sản, 30 năm đối với bất động sản
 Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu tài sản không có
căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn 10 năm
đối với động sản, 30 năm đối với bất động sản.

Thời hiệu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người
khác

Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ
quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

Thời hiệu thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại

Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là
03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

III. Các hình thức thừa kế


1: Thừa kế theo di chúc
Di chúc: Theo Điều 624 BLDS: Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển
tài sản của mình cho người khác sau khi chết.

Chủ thể lập di chúc:


 Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối,
đe doạ, cưỡng ép;
 Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi được lập di chúc, nếu
được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc.

 Di chúc hợp pháp: Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của
luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định
của luật..
 Quyền của người lập di chúc: Người lập di chúc có quyền chỉ định
người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế. Trong bài,
Đức đã viết di chúc để lại ½ tài sản cho Quyên nên nghiễm nhiên
Quyên sẽ được hưởng ½ tài sản mà Đức đã di chúc cho.

 Hình thức của di chúc: Di chúc phải được lập thành văn bản; nếu
không thể lập được bằng di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc
miệng.

Di chúc bằng văn bản: Di chúc bằng văn bản bao gồm:
 Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng.
 Di chúc bằng văn bản có người làm chứng.
 Di chúc bằng văn bản có công chứng.
 Di chúc bằng văn bản có chứng thực.

Di chúc bằng miệng:


 Trường hợp tính mạng một người bị cái chết đe dọa và không thể lập di chúc
bằng văn bản thì có thể lập di chúc miệng.
 Sau 03 tháng, kể từ thời điểm di chúc miệng mà người lập di chúc còn sống,
minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị hủy bỏ. Trường hợp tính
mạng một người bị cái chết đe dọa và không thể lập di chúc bằng văn bản thì có
thể lập di chúc miệng. 2. Sau 03 tháng, kể từ thời điểm di chúc miệng mà người
lập di chúc còn sống, minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị hủy
bỏ.

Điều 644: Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc
 Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của
một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong
trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho
hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó:
 Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
 Con thành niên mà không có khả năng lao động.
 Quy định tại khoản 1 Điều này không áp dụng đối với người từ chối nhận di sản
theo quy định tại Điều 620 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di
sản theo quy định tại khoản 1 Điều 621 của Bộ luật này.

Tóm tắt
 Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người
khác sau khi chết
 Các hình thức di chúc
 Di chúc bằng văn bản
 Di chúc bằng miệng
 Khi di chúc để lại không nhắc đến thì những sau vẫn nghiễm nhiên được chia 2/3
của một suất chia:
 Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
 Con thành niên mà không có khả năng lao động

2. Thừa kế theo pháp luật


Khái niệm
Thừa kế theo pháp luật là việc dịch chuyển tài sản của người chết

cho những người còn sống theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa

kế do pháp luật quy định.

Những trường hợp thừa kế theo pháp luật:


 Không có di chúc; di chúc không hợp pháp; những người thừa kế theo di

chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc, cơ quan,

tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm

mở thừa kế; những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc

mà không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối quyền nhận di sản.

 Áp dụng đối với các phần di sản sau: phần di sản không được định đoạt

trong di chúc; phần di sản có liên quan đến phần của di chúc không có

hiệu lực pháp luật; phần di sản có liên quan đến người thừa kế theo di

chúc nhưng họ không có quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản.

Hàng thừa kế theo pháp luật:


Người thừa kế theo pháp luật chỉ có thể là cá nhân và phải có một trong ba mối quan
hệ với người để lại di sản: quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi
dưỡng.

 Hàng thừa kế thứ nhất: gồm vợ chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ

nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết.


 Hàng thừa kế thứ hai: gồm ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh chị

em ruột, em ruột của người chết, cháu ruột của người chết mà người chết

là ông nội, bà nội, ông bà ngoại.

 Hàng thừa kế thứ ba: gồm cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột,

chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người

chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt

ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.Trong đó, những người thừa kế
cùng hàng được phần di sản bằng nhau; xếp các hàng theo ưu tiên 1, 2, 3; những người
ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do
đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ

chối nhận di sản.

Thừa kế thế vị:


Theo quy định tại điều 613, BLDS 2015 thì người thừa kế là cá nhân

phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế. Tuy nhiên trên thực tế

có những trường hợp người thừa kế không còn sống vào thời điểm mở

thừa kế. Để đảm bảo quyền lợi cho những người có quan hệ huyết thống

trực hệ trong phạm vi gần gũi, pháp luật quy định về thừa kế thế vị như

sau: “Trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một

thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha

hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước

hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần

di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống

PHẦN II: GIẢI QUYẾT BÀI TOÁN CHIA THỪA KẾ


THỰC TẾ
ĐỀ BÀI

Đức và Ngọc là hai vợ chồng, họ có hai con chung là Châu (sinh năm 2009) và
Phương (sinh năm 2011). Năm 2014, Đức đi xuất khẩu lao động tại Hàn Quốc và
chung sống như vợ chồng với Quyên, hai người góp vốn như nhau để kinh doanh tạo
lập được khối tài sản chung là 4 tỷ. Năm 2018, Đức về nước và yêu cầu Ngọc ly hôn,
Tòa án đã thụ lý đơn. Năm 2019, Đức chết do tai nạn, Quyên đến nhà đòi chia tài sản
của Đức với Ngọc. Biết Đức và Ngọc có tài sản chung là 1,6 tỷ và trong suốt thời gian
Đức đi xuất khẩu lao động tại Hàn Quốc không gửi tài sản nào về cho Ngọc. Bố, mẹ
đẻ của Đức vẫn còn sống

1. Anh (chị) hãy chia thừa kế trong trường hợp trên?

2.Hãy chia thừa kế nếu trước khi chết Đức có di chúc để lại ½ tài sản của mình cho
Quyên.

BÀI LÀM

1: Trường hợp trên sẽ chia theo pháp luật

Tổng di sản của Đức = ½ tài sản chung với Ngọc+ ½ tài sản chung với Quyên

= 2 tỷ + 800 triệu = 2.8 tỷ

Số người được thừa hưởng: Bố, mẹ ruột Đức ; Ngọc, Châu , Phương = 5 người

Mỗi người được thừa kế như nhau là 560tr

2.Có di chúc

TH1: Di chúc hợp pháp :

- Do Đức và Quyên vi phạm nghĩa vụ vợ chồng, tài chung chung của 2 người
trên sẽ chia đều mỗi người được 2 tỷ do không biết số vốn của từng người góp
vào.
- Khi tòa án có bản xét xử sơ phẩm thì nó chưa có hiệu lực ngay, sau khi có bản
án thì phải có thêm 15 người kháng cáo, 30 ngày kháng ghi sau những ngày đấy
không có gì nó mới có hiệu lực pháp luật, ai không tuân theo quyết định theo
bản án sẽ bị cưỡng chế. Vậy nên tòa mới chỉ thụ lý đơn nên Đức và Ngọc vẫn là
vợ chồng hợp pháp. Vậy tài sản chung của hai vợ chồng là 1,6 tỷ thì mỗi người
được 800tr theo khoản 2 điều 655 bộ luật dân sự 2015.
- Tổng số tài sản Đức có được (chia theo pháp luật) là 2,8 tỷ
- Theo Điều 655 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định người lập di chúc có quyền
chịn người thừa kế, không thống nhất là người thừa kế theo pháp luật của người
lập di chúc. Vậy nếu khi để lại di chúc muốn chia ½ tài sản cho Quyên thì
Quyên được hưởng 1,4 tỷ. Số tiền còn lại sẽ được chia đều cho 5 người thep
pháp luật.

TH2: Di chúc không hợp pháp thì sẽ chia theo TH1


Kết luận
Phân chia di sản thừa kế là vấn đề được quan tâm hơn cả và chiếm tỉ lệ lớn trong các
vụ án giải quyết tranh chấp về thừa kế. Các vụ án phân chia di sản thừa kế không chỉ
ngày càng tăng về số lượng mà tính chất cũng ngày càng phức tạp hơn. Vì vậy tác giả
nhận thấy đây là một mảng đề tài không mới nhưng cũng không bao giờ cũ, tạo ra một
cái nhìn mới về phân chia di sản thừa kế. Chọn đề tài : “ Phân chia di sản thừa kế –
Những vấn đề lý luận và thực tiễn” tác giả đã làm rõ được những vấn đề lý luận về:
Phân chia di sản thừa kế theo pháp luật, phân chia di sản thừa kế theo di chúc, so sánh
những điểm giống và khác nhau của hai trường hợp phân chia theo từng luận điểm.
Hơn nữa qua sự tìm hiểu và nghiên cứu về lý luận và thực tiễn tác giả cũng nhận thấy
nhiều điểm vướng mắc, bất cập trong quy định về phân chia di sản thừa kế của BLDS
từ đó đưa ra được những kiến nghị của bản thân để hoàn thiện các quy định của pháp
luật. Vấn đề thừa kế nói chung và thừa kế theo pháp luật nói tiêng không phải là bấn
đề mới nhưng nói lại luôn mang tính chất thời sự và phát sinh nhiều tình huống mới.
Do đó việc nghiên cứu và hoàn hiện các quy định về thừa kế theo pháp luật phải luôn
được quan tâm và xem xét trong mối quan hệ qua lại với nhau, trong đó có việc phát
sinh các mối quan hệ mới của đời sống xã hội

LỜI CHÀO TẠM BIỆT!


Trên đây là toàn bộ sự thống nhất của Nhóm 4. Chúng em rất cảm ơn cô và các bạn đã
xem qua và lắng nghe!

NHẬN XÉT TỪNG THÀNH VIÊN TRONG NHÓM 4


Tên thành viên Số điểm tích cực hoạt động

Trịnh Thị Yến Nhi-NT

Hà Trang Ly- Thư kí

Nguyễn Thị Khánh Ly

Hoàng Ngọc Mai

Nguyễn Xuân Mai

Đỗ Hữu Tuệ Minh

Đỗ Tiến Hải Minh

Hoàng Nguyệt Minh

Nguyễn Hà My
Đặng Thị Hồng Ngọc

Nguyễn Phúc Nguyên

Nguyễn Thị Yến Nhi

Nguyễn Đức Phú

Ngô Hiến Minh

You might also like