You are on page 1of 16

BỘ CÔNG THƯƠNG

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH


KHOA LUẬT

HUỲNH THỊ NHƯ DIỄM


Mã số sinh viên: 21095201

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LÀ DI SẢN THỪA KẾ


TIỂU LUẬN THI GIỮA KỲ
Pháp luật đại cương

Giảng viên: Nguyễn Quang Đạo

HỌC KỲ 1 NĂM HỌC 2022-2023


MỤC LỤC
I. MỞ ĐẦU.............................................................................................................................. 2
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI............................................................................................2
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU:..................................................................................2
II. NỘI DUNG
3
1. Khái niệm:................................................................................................................3
1.1 Tranh chấp thừa kế:...............................................................................................3
1.2 Di sản thừa kế:.......................................................................................................3
2. Quy định về hàng thừa kế.......................................................................................3
3. Phân loại các dạng tranh chấp thừa kế..................................................................4
4. Hình thức thừa kế theo quy định...........................................................................5
4.1 Thừa kế theo di chúc.............................................................................................5
4.2 Thừa kế không có di chúc......................................................................................5
5. Thực trạng tranh chấp về phân chia di sản thừa kế:............................................5
6. Nguyên nhân:...........................................................................................................7
6.1 Tranh chấp giữa người thừa kế theo luật với người thừa kế theo di chúc..............7
6.2 Tranh chấp giữa người khác với người thừa kế theo di chúc.................................8
6.3 Tranh chấp giữa những người thừa kế theo di chúc với nhau................................9
6.4 Tranh chấp giữa những người thừa kế theo luật với nhau vì việc phân chia di sản
không đồng đều...................................................................................................10
6.5 Tranh chấp về thừa kế vì những người thừa kế cho rằng có người thừa kế không
được quyền hưởng di sản.....................................................................................10
6.6 Tranh chấp thừa kế do xác định không chính xác về di sản thừa kế....................11
III. ĐÁNH GIÁ NỘI DUNG...............................................................................................11
IV. KIẾN NGHỊ.................................................................................................................... 12
1. Phải làm gì để hạn chế tranh chấp liên quan đến thừa kế.........................................12
2. Giải pháp.................................................................................................................12
V. KẾT LUẬN..................................................................................................................13

I. MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Chế định thừa kế là một trong những chế định đóng vai trò quan trọng của Bộ luật Dân
sự. Các vụ án tranh chấp về xác định phân chia di sản thừa kế không những gia tăng về số
lượng vụ án mà còn phức tạp trong từng nội dung quan hệ tranh chấp. Quá trình giải
quyết án tranh chấp dân sự nói chung trong đó tranh chấp về phân chia di sản thừa kế nói
riêng là một trong những công việc khó khăn, phức tạp. Chính vì vậy có những vụ án
tranh chấp xác định phân chia di sản thừa kế kéo dài nhiều năm, qua nhiều cấp xét xử.

Lý do của việc này bên cạnh nguyên nhân chủ quan là trình độ chuyên môn của một số
Thẩm phán còn chưa đáp ứng được yêu cầu mà còn do hệ thống văn bản pháp luật về
thừa kế chưa thống nhất, quy định còn chung chung chưa cụ thể, chưa dữ liệu được các
tình huống trên thực tế. Vì vậy, khi áp dụng vào thực tế sẽ xảy ra tình trạng không nhất
quán trong cách hiểu cũng như cách giải quyết. Điều đó đã xâm phạm quyền lợi ích hợp
pháp của đương sự, đôi khi còn gây bất ổn trong đời sống sinh hoạt của mỗi gia đình,
cộng đồng và xã hội. Chính vì thế em đã chọn đề tài “GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LÀ
DI SẢN THỪA KẾ” nghiên cứu.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU:
Trước thực trạng đó, em chọn mục tiêu nghiên cứu đề tài “GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP LÀ DI SẢN THỪA KẾ” là đánh giá thực trạng, phát hiện những sai sót, vướng
mắc đồng thời tìm ra giải pháp, kiến nghị trong giải quyết vụ án về thừa kế trong thời
gian tới. Để Tòa án thực sự là cán cân giúp bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

II. NỘI DUNG


1. Khái niệm:
1.1 Tranh chấp thừa kế:
Thừa kế di sản là quyền lợi hợp pháp của người thừa kế (thừa kế theo di chúc hoặc theo
pháp luật). Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp việc phân chia di sản nảy sinh mâu thuẫn
giữa những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến việc phân chia di sản dẫn đến
tranh chấp.
Tranh chấp về thừa kế thường gồm các dạng tranh chấp về hàng thừa kế, tranh chấp di
chúc thừa kế, tranh chấp về di sản thừa kế, tranh chấp buộc người thừa kế thực hiện nghĩa
vụ về tài sản do người chết để lại, tranh chấp về chia di sản thừa kế theo di chúc hoặc
theo pháp luật, tranh chấp xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế
của người khác...
Tranh chấp thừa kế là thủ tục tư vấn để chia thừa kế theo pháp luật khi không có di chúc
kể cả có di chúc. Khi một người chết đi tài sản họ để lại sẽ được chia thừa kế đó là quyền
và nghĩa vụ của người được hưởng di sản
1.2 Di sản thừa kế:
Di sản thừa kế là tài sản của người chết để lại cho những người còn sống. Theo quy định
tại Điều 612 Bộ Luật dân sự 2015: “Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài
sản của người chết trong tài sản chung với người khác..” Di sản thừa kế có thể là hiện vật,
tiền, giấy tờ trị giá được thành tiền, quyền tài sản thuộc sở hữu của người để lại di sản.
Việc xác định di sản thừa kế mà người chết để lại căn cứ vào giấy tờ, tài liệu chứng minh
quyền sở hữu hoặc sử dụng hợp pháp đối với khối tài sản đó. Đối với trường hợp di sản
thừa kế là tài sản thuộc sở hữu chung thì việc xác định tài sản chung của người để lại di
sản có thể dựa trên những thỏa thuận đã có từ trước hoặc căn cứ vào văn bản do cơ quan
có thẩm quyền ban hành.
Theo quy định của pháp luật, tranh chấp di sản thừa kế bao gồm tranh chấp buộc người
thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại, thanh toán các khoản chi từ di
sản hoặc yêu cầu chia di sản thừa kế (theo di chúc hoặc theo pháp luật).
2. Quy định về hàng thừa kế
Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
- Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con
nuôi của người chết;
- Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em
ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông
ngoại, bà ngoại;
- Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột,
cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột,
chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ
ngoại.
Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau. Những người ở
hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã
chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
Theo quy định trên có thể thấy tranh chấp về hàng thừa kế là những tranh chấp về yêu
cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác, chủ
yếu phát sinh giữa những người thừa kế trong cùng một hàng thừa kế, đặc biệt là những
trường hợp con nuôi, con ngoài giá thú. Ngoài ra, tranh chấp về hàng thừa kế có thể phát
sinh do tại thời điểm mở thừa kế không có ai ở hàng thừa kế trước và sau khi đã chia thừa
kế cho những người ở hàng thừa kế sau thì xuất hiện người thừa kế ở hàng thừa kế
trước...
3. Phân loại các dạng tranh chấp thừa kế
Trên cơ sở quy định của pháp luật và thực tiễn giải quyết vụ án thừa kế, có thể phân chia
thành bốn loại tranh chấp thừa kế sau:
- Loại tranh chấp thứ nhất: Tranh chấp về chia di sản thừa kế. Loại tranh chấp này phát
sinh từ yêu cầu chia di sản thừa kế của các đương sự trong vụ án thừa kế.
- Loại tranh chấp thứ hai: Tranh chấp về xác nhận quyền thừa kế. Tranh chấp này phát
sinh từ yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của một hoặc một số người.
- Loại tranh chấp thứ ba: Tranh chấp về bác bỏ quyền thừa kế. Tranh chấp này phát sinh
từ yêu cầu bác bỏ quyền thừa kế của đương sự.
- Loại tranh chấp thứ tư: Tranh chấp về buộc người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản
do người chết để lại, thanh toán các khoản chi từ di sản.
4. Hình thức thừa kế theo quy định
4.1 Thừa kế theo di chúc
Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho
người khác sau khi chết. Hình thức của di chúc được lập bằng văn bản hoặc
bằng miệng

Người lập di chúc có quyền cho người được hưởng thừa kế theo di chúc khi
người chết có để lại di chúc và di chúc đó có hiệu lực pháp luật, người thừa kế
vào thời điểm mở thừa kế còn sống hoặc cơ quan, tổ chức vẫn còn tồn tại và
không từ chối việc nhận di sản.

4.2 Thừa kế không có di chúc


Trường hợp người chết không để lại di chúc hoặc di chúc do người đó để lại
không hợp pháp thì di sản của người đó sẽ được chia theo pháp luật. Hoặc trong
trường hợp người chết để lại di chúc chỉ chia một phần tài sản còn một phần
không chia thì phần không chia sẻ được thực hiện chia thừa kế theo pháp luật.

5. Thực trạng tranh chấp về phân chia di sản thừa kế:


Nhiều vụ việc liên quan đến tranh chấp đất đai, ngoài những vụ tranh chấp đất đai giáp
ranh, liền kề giữa hàng xóm thì chủ yếu là tranh chấp di sản thừa kế do ông bà, cha mẹ để
lại. Có nhiều gia đình chọn cách giải quyết mâu thuẫn bằng nộp đơn khởi kiện tại Toà;
dùng bạo lực để giải quyết mâu thuẫn hay thuê người đến doạ nạt, hành hung người
nhà… chỉ để nhận lại vài mét đất ruộng, đất ở là di sản mà cha mẹ để lại.. Em đưa ra một
ví dụ về vụ việc tranh chấp tài sản đã xảy ra tại Hưng Yên vừa qua:

Do mâu thuẫn trong việc tranh chấp tài sản, chia quyền thừa kế đất, sáng 30-10, ba người
con gái đến nhà mẹ ruột của mình là bà Vũ Thị Đ. (61 tuổi) cự cãi. Những người này mang
theo can xăng loại 10 lít đến nhà bà Đ. Sau khi cự cãi ngoài cửa, cả ba cùng mẹ tiếp tục vào
trong nhà, một người mang theo can xăng đổ xuống nền gian phòng khách rồi châm lửa đốt.
Lửa bùng lên khiến bà Đ. và ba người con đều bị bỏng nặng gồm : Đỗ Thị Đ. (SN 1982, ở
thôn Thiên Lộc, xã Trung Hòa, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên); Đỗ Thị Đ. (SN 1988, ở
xã Trung Hưng, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên) và Đỗ Thị Đ. (SN 1990, ở phường Nhân
Hoà, thị xã Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên). Cả bốn người đều được đưa đi bệnh viện cấp cứu.
Hậu quả là tài sản thiệt hại do bị đốt cháy khoảng 50 triệu đồng và một người thân trong
gia đình xác nhận người con gái cả đã tử vong do vết bỏng quá nặng.

Những trường hợp như vậy, dù thắng hay thua, cũng đều để lại nỗi đau tinh thần và cả
sức khoẻ cho những người trong cuộc, đáng tiếc hơn là họ đã đánh mất một thứ tình cảm
gia đình thiêng liêng lớn lao, không vật chất nào sánh bằng.
Trước đây, do cuộc sống vật chất còn đơn giản, di sản thừa kế mà người chết để lại chỉ
đơn thuần là các vật phẩm tiêu dùng, cao hơn nữa là nhà cửa, đất đai nhưng lúc đó “đất
chỉ là nơi ở” nên ít xảy ra tranh chấp giữa những người thừa kế. Cuộc sống vật chất ngày
càng được nâng cao, bên cạnh các tư liệu tiêu dùng di sản thừa kế còn bao hàm cả tư liệu
sản xuất có giá trị lớn. Hơn nữa, kể từ khi pháp luật của Nhà nước ta ghi nhận đất có giá
trị và quyền sử dụng đất được coi là một quyền tài sản của cá nhân thì quyền sử dụng đất
mà người chết để lại đôi khi là một loại di sản có giá trị rất lớn.
Có những trường hợp người chết để lại hàng ngàn mét vuông đất mà chỉ có một người
thừa kế quản lý và sử dụng, những người thừa kế khác không hề tranh chấp gì vì lúc đó
giá trị không đáng kể. Khi mỗi một mét vuông đất trị giá hàng chục triệu đồng thì tranh
chấp xảy ra giữa những người thừa kế khác với người đang quản lý và sử dụng diện tích
đất đó là một điều tất yếu.
Mặt khác, ngoài các tài sản hữu hình, di sản thừa kế còn có thể bao hàm các tài sản vô
hình. Trong khi đó quy định của pháp luật về thừa kế các tài sản này còn khá chung
chung và thiếu sót.
Chẳng hạn, nếu di sản thừa kế là nhãn hiệu hàng hoá hoặc tên thương mại thì không phải
ai cũng có thể thừa kế được. Chúng tôi thấy rằng, để có thể duy trì và phát triển nhãn hiệu
hàng hoá, tên thương mại thì người thừa kế hưởng nó phải có những điều kiện nhất định.
Khi người chết lập di chúc cho người thừa kế hưởng quyền về nhãn hiệu hàng hoá, tên
thương mại nhưng bản thân người được hưởng lại không thể duy trì được vì không có
điều kiện thì trong những trường hợp này, chắc chắn những người thừa kế khác có điều
kiện duy trì được các quyền sở hữu công nghiệp nói trên sẽ tranh chấp dù di chúc có hiệu
lực.
6. Nguyên nhân:
6.1 Tranh chấp giữa người thừa kế theo luật với người thừa kế theo di chúc
Việc tranh chấp này thường phát sinh khi người thừa kế theo luật của người để lại di sản
thấy rằng nếu việc thừa kế được phân chia theo di chúc sẽ ảnh hưởng đến quyền hưởng di
sản theo luật của họ đồng thời họ cho rằng di chúc mà người chết để lại là di chúc không
có hiệu lực pháp luật.
Vì vậy, thực chất của việc tranh chấp này chính là tranh chấp về hiệu lực của di chúc.
Tình trạng này do rất nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng dưới đây, em chỉ xác định một
số nguyên nhân chính và thường gặp trong thực tế tranh chấp về thừa kế theo di chúc.
– Do tính xác thực của di chúc:
Trong thực tế, những người thừa kế theo luật của người lập di chúc sẽ khởi kiện yêu cầu
Toà án xác định di chúc vô hiệu để vụ thừa kế được giải quyết theo pháp luật trong
những trường hợp di chúc mà người chết để lại thiếu tính xác thực vì những lý do sau
đây:
+ Người lập di chúc không theo đúng trình tự lập di chúc mà pháp luật đã quy định
nhằm nâng cao tính xác thực của di chúc, pháp luật về thừa kế đã quy định hết sức chặt
chẽ về thủ tục lập, đối với từng loại di chúc. Những quy định này vừa mang tính hướng
dẫn cho các cá nhân khi lập di chúc tuân theo nhằm tăng độ xác thực của di chúc đã lập,
tránh những tranh chấp xảy ra về sau, vừa mang tính bắt buộc để di chúc được thừa nhận
là có hiệu lực pháp luật.
+ Hình thức thể hiện của di chúc không đúng với quy định của pháp luật
Di chúc chỉ bao gồm hai hình thức là: Di chúc bằng văn bản và di chúc miệng. Trong đó,
hình thức bằng văn bản của di chúc có thể được thể hiện bằng nhiều phương tiện khác
nhau, thông qua nhiều vật mang tin khác nhau như có thể viết tay, có thể đánh máy và in
thành văn bản hoặc sao lưu vào đĩa mềm.
Tuy nhiên, nếu di chúc bằng văn bản được lập theo trình tự di chúc tự lập thì phương tiện
thể hiện và vật mang tin phải theo đúng quy định của pháp luật là: viết tay vào giấy. Vì
vậy, nếu di chúc mà người chết tự lập để lại là một văn bản đánh máy dù trong đó đã có
chữ ký của chính họ thì người có quyền lợi liên quan vẫn có quyền khởi kiện yêu cầu xác
định sự vô hiệu của di chúc.
+ Người chứng nhận, chứng thực, người làm chứng di chúc là người không có đầy đủ
năng lực hành vi dân sự hoặc là người có quyền và nghĩa vụ về tài sản liên quan tới nội
dung của di chúc, là người thừa kế của người lập di chúc, là cha, mẹ, vợ chồng, con của
người thừa kế của người lập di chúc.
– Do người lập di chúc không có năng lực hành vi dân sự
Người thừa kế theo pháp luật của người để lại di sản yêu cầu Toà án xác định di chúc vô
hiệu vì cho rằng vào thời điểm di chúc được lập, người lập di chúc không có năng lực
hành vi dân sự. Chẳng hạn, vào thời điểm di chúc được lập, người lập di chúc chưa tròn
mười lăm tuổi dù di chúc đã có sự đồng ý của cha, mẹ hay người giám hộ của họ.
Ngoài ra, người thừa kế theo pháp luật của người lập di chúc cũng sẽ khởi kiện để tranh
chấp về hiệu lực của di chúc nếu thấy rằng người để lại di sản đã lập di chúc vào thời
điểm họ chưa tròn mười tám tuổi hay dù họ đã tròn mười tám tuổi nhưng bị mất khả năng
nhận thức hoặc thiếu sự minh mẫn, sáng suốt.
– Do thiếu tính tự nguyện của người lập di chúc Người thừa kế theo pháp luật của người
để lại di chúc sẽ khởi kiện để tranh chấp về hiệu lực của di chúc nếu thấy rằng người để
lại di sản đã lập di chúc đó do bị người khác lừa dối hoặc di chúc được lập trong tình
trạng bị người khác đe doạ, cưỡng bức.
– Do việc định đoạt trong nội dung của di chúc là trái pháp luật hoặc vượt quá giới hạn
cho phép của pháp luật. Chúng ta đã biết rằng dù người lập di chúc có đầy đủ năng lực
hành vi và hoàn toàn tự nguyện trong việc lập di chúc nhưng di chúc đó vẫn sẽ bị coi là
vô hiệu nếu sự định đoạt của họ trái với quy định của pháp luật hoặc không phù hợp với
đạo đức xã hội.
Vì vậy, trong những trường hợp này, người thừa kế theo pháp luật sẽ khởi kiện để yêu
cầu được chia thừa kế theo pháp luật đối với phần di sản liên quan đến phần di chúc vô
hiệu vì định đoạt trái pháp luật hoặc đạo đức xã hội.
Người lập di chúc có quyền định đoạt tài sản của mình cho người khác nhưng quyền tự
định đoạt đó phải nằm trong một khuôn khổ nhất định. Nếu vượt ra ngoài khuôn khổ đó
thì sự định đoạt sẽ bị coi là “xâm phạm đến quyền, lợi ích chính đáng của người khác. Vì
vậy, đây là nguyên nhân dẫn đến tranh chấp giữa những người có quyền lợi chính đáng
với những người thừa kế theo di chúc.
6.2 Tranh chấp giữa người khác với người thừa kế theo di chúc
Tranh chấp này xảy ra khi người lập di chúc đã định đoạt cả tài sản của người khác.
Người lập di chúc chỉ có quyền định đoạt tài sản mà mình để lại sau khi chết cho những
người thừa kế nếu tài sản đó thuộc sở hữu riêng của họ.
Thế nhưng trong thực tế có nhiều trường hợp người lập di chúc đã định đoạt cả phần tài
sản của người khác cho người thừa kế. Chẳng hạn, người chồng trước khi chết đã lập di
chúc định đoạt toàn bộ tài sản của gia đình hoặc đã định đoạt cả những tài sản mà họ
đang thuê hay mượn của người khác cho người thừa kế.
Trong những trường hợp này, đương nhiên người có tài sản đã bị định đoạt sẽ khởi kiện
để yêu cầu Toà án xác định phần tài sản thuộc quyền sở hữu của mình và tài sản đó sẽ
được tách ra để trả lại cho người có tài sản.
Tình trạng này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của một số người thừa kế theo di
chúc và đương nhiên sẽ xảy ra tranh chấp giữa họ với nhau. Chúng ta thấy, nếu trong di
chúc không có sự phân định tài sản một cách cụ thể cho từng người thừa kế thì sau khi
tách phần tài sản của người khác ra, những người thừa kế theo di chúc sẽ hưởng ngang
phần nhau đối với khối di sản còn lại nên trong trường hợp này sẽ không có tranh chấp.
Tuy nhiên, nếu người lập di chúc đã định đoạt cho mỗi người thừa kế được hưởng một
loại tài sản cụ thể thì vấn đề này sẽ trở nên hết sức phức tạp. Chẳng hạn, nếu người lập di
chúc đã xác định: cho người thừa kế thứ nhất hưởng một ngôi nhà, người thứ hai cũng
được hưởng một ngôi nhà, người thứ ba hưởng các tài sản khác còn lại.
Nhưng trong đó ngôi nhà mà người thừa kế thứ nhất được hưởng là nhà mà người lập di
chúc thuế của người khác. Trong trường hợp này dứt khoát sẽ có tranh chấp giữa người
thừa kế thứ nhất với những người thừa kế khác.
Nếu có tranh chấp xảy ra thì có thể xác định ngôi nhà đó là tài sản không còn vào thời
điểm mở thừa kế” để giải quyết tranh chấp đó theo tình trạng hiệu lực của di chúc được
không? Đây là vấn đề chưa được pháp luật quy định cụ thể.
6.3 Tranh chấp giữa những người thừa kế theo di chúc với nhau
Di chúc đã đáp ứng đầy đủ các điều kiện mà pháp luật yêu cầu đồng thời người lập di
chúc định đoạt tài sản trong giới hạn cho phép của pháp luật thì di chúc được coi là có
hiệu lực toàn bộ.
Tuy nhiên, vì những nguyên nhân nhất định nên nhiều khi người lập di chúc đã sử dụng
ngôn từ không chuẩn xác, đôi khi chữ viết trong di chúc sai cả lỗi chính tả, ngữ pháp, dẫn
đến nội dung của di chúc không cụ thể.
Ngoài ra, nhiều trường hợp họ còn dùng những ngôn từ có nhiều nghĩa khác nhau, thậm
chí còn dùng cả ký hiệu hoặc viết tắt nên mỗi người thừa kế đều có thể hiểu theo một
nghĩa, theo cách hiểu của mình.
Khi nội dung của di chúc không được chặt chẽ và nếu những người thừa kế không có sự
nhường nhịn nhau trong việc hưởng di sản thì đương nhiên mỗi người sẽ cố tình hiểu và
giải thích nội dung của di chúc theo hướng có lợi cho mình nhất.
Vì vậy, tất yếu tranh chấp sẽ xảy ra. Trong thực tế còn có thể xảy ra tranh chấp giữa
những người thừa kế do di chúc mà người chết để lại bị hư hỏng nặng đến mức không thể
xác định được ai là người được hưởng và hưởng di sản như thế nào.
6.4 Tranh chấp giữa những người thừa kế theo luật với nhau vì việc phân chia
di sản không đồng đều
Gia đình Việt Nam cho đến bây giờ vẫn phổ biến một hiện tượng là khi còn nhỏ, con cái
ở chung với cha, mẹ, khi trưởng thành hoặc thoát ly khỏi gia đình để lập nghiệp hoặc lấy
vợ, lấy chồng và ra ở riêng. Thông thường, có một người (thường là con trai, có thể là
con trưởng, có thể là con thứ) ở cùng cha mẹ.
Mặt khác, do sự thiếu hiểu biết về pháp luật cũng như do tư tưởng phong kiến còn rớt lại
trong ý thức hệ nên rất nhiều người cho rằng con gái đã đi lấy chồng thì không được
hưởng di sản của bố mẹ đẻ hoặc nếu được thì phải kém hơn phần mà con trai được
hưởng; trong các người con thì người con trưởng phải được hưởng phần nhiều nhất. v.v.
Các yếu tố trên là nguyên nhân dẫn đến tranh chấp di sản thừa kế giữa những người thừa
kế theo pháp luật.
6.5 Tranh chấp về thừa kế vì những người thừa kế cho rằng có người thừa kế
không được quyền hưởng di sản
Rất nhiều trường hợp xảy ra trong thực tế là khi chia di sản, những người thừa kế tranh
chấp nhau vì trong đó có người thừa kế có một trong những hành vi đã được BLDS 2005
quy định tại Điều 643 nên những người thừa kế khác cho rằng người đó sẽ không được
quyền thừa kế, tuy nhiên họ không hiểu các vấn đề được quy định trong điều luật trên
một cách thấu đáo.
Chẳng hạn, có người thừa kế không thực hiện nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng người để
lại di sản nhưng chưa nghiêm trọng đến mức bị tước quyền hưởng di sản nhưng những
người thừa kế cho rằng cử không chăm sóc, nuôi dưỡng cha, mẹ là không được hưởng di
sản của cha, mẹ để lại.
Hoặc cứ giả mạo di chúc là mất quyền thừa kế nhưng họ không hiểu là người giả mạo di
chúc chỉ không được hưởng di sản của người đã bị họ giả mạo di chúc còn đối với di sản
của người khác, họ vẫn được hưởng.
6.6 Tranh chấp thừa kế do xác định không chính xác về di sản thừa kế
Xác định chính xác về di sản thừa kế một mặt, sẽ bảo đảm được quyền lợi của những
người thừa kế (không bỏ sót di sản), mặt khác bảo đảm quyền lợi cho những chủ thể khác
(không xác định tài sản thuộc quyền sở hữu của người khác là di sản thừa kế).
Vì thế tranh chấp xảy ra trong những trường hợp này thường do các nguyên nhân sau: Sẽ
xảy ra tranh chấp giữa người có quyền sở hữu tài sản bị xác định là di sản thừa kế với
những người thừa kế do việc xác định di sản sang tài sản của người đó.
Tranh chấp do xác định di sản thừa kế bao gồm cả phần tài sản mà người để lại di sản đã
tặng cho người khác trước khi chết. Tranh chấp xảy ra do không xác định di sản thừa kế
bao gồm cả phần tài sản mà một người được người để lại di sản tạm giao quyền sử dụng.
Nguyên nhân của những tranh chấp trên đến từ nhiều phía. Trong đó một phần là do
phong tục tập quán, những bậc cha mẹ hoặc vợ chồng không có thói quen lập di chúc để
lại tài sản cho nhau hoặc cho ai đó khi còn khỏe mạnh, minh mẫn. Điều này càng thể
hiện rõ ở vùng nông thôn, mọi người quen ứng xử với nhau theo phong tục, tập quán,
truyền thống, đạo đức của dòng họ, gia đình.

Ngoài ra, mặt trái của sự phát triển kinh tế – xã hội khiến giá trị đạo đức và sự gắn kết
giữa các thành viên gia đình của một bộ phận người dân không được bền chặt, dễ bị tác
động của vật chất. Họ đặt giá trị vật chất lên cao hơn giá trị tinh thần và tình cảm gia
đình, vì thế những trường hợp tranh chấp xảy ra đều là do anh em không tự thỏa thuận
được, sự thỏa thuận không công bằng dẫn tới không đồng thuận, lợi dụng sự thiếu hiểu
biết của những đồng thừa kế cùng hàng hoặc cậy quyền, tham lam, bất chấp pháp luật,
tình thân… Trong đó, đáng lo ngại nhất là do lòng tham, lợi dụng mối quan hệ xã hội
rộng để lo lót, bóp méo sự thật để được pháp luật công nhận di sản đó của riêng mình
thông qua việc làm di chúc, biên bản họp hội đồng gia tộc, tặng cho tài sản giả, giả mạo
chữ ký…

III. ĐÁNH GIÁ NỘI DUNG


Nhìn chung, về việc tranh chấp tài sản đặc biệt về vấn đề đất đai vẫn còn đang rất căng
thẳng và phức tạp. Có rất nhiều vụ án mạng xảy ra tại nội vụ gia đình khi anh chị em
tranh giành tài sản sau khi cha mẹ còn sống hay đã qua đời. Chính vì thế, Nhà nước ta
đưa ra một vài cách giải quyết tranh chấp đất đai, đầu tiên là thương lượng và hòa giải
tranh chấp quyền sử dụng đất, thứ hai là đề nghị UBND cấp huyện cấp tỉnh giải quyết và
cuối cùng là khởi kiện tại Tòa án nhân dân. Tóm lại, cuộc sống con người dù có trải qua
nhiều va chạm, ganh đua, ta vẫn phải tôn trọng đạo đức lễ nghĩa. Một trong những bài
học lễ nghĩa đầu tiên trong cách đối nhân xử thế là bài học về sự nhường nhịn, không bon
chen, tranh giành càng có ý nghĩa hơn bao giờ hết vì thế mới thực sự tạo nên cuộc sống
tốt đẹp.

IV. KIẾN NGHỊ


1. Phải làm gì để hạn chế tranh chấp liên quan đến thừa kế
Xuất phát từ các nguyên nhân dẫn đến tranh chấp về thừa kế tài sản, theo em Người lập
Di chúc cần chú ý các việc sau:

- Thứ nhất: Xác định rõ tài sản của mình gồm những gì, các tài sản có giấy tờ, các tài
sản không có giấy tờ, các tài sản riêng, các tài sản chung với người khác trong trường
hợp di chúc có ghi nhận tài sản chung thì phải xác định rõ phần quyền của mình trong
khối tài sản chung đó.
- Thứ hai: Trong khối tài sản đó phải xác định rõ tài sản nào được chia, tài sản nào
dùng vào việc thờ cúng, trách nhiệm của người được giao tài sản thờ cúng, có hay
không được đứng tên tài sản thờ cúng.
- Thứ ba: Phải xác định rõ cho ai cho tài sản nào, trong trường hợp di chúc để lại cho
nhiều người thì cần phải xác định phần của mỗi người cụ thể,  đối với việc phân chia
Quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà nên dùng bản vẽ xác định mốc giới. Song song
với quyền là các nghĩa vụ cụ thể, rõ ràng mà những người được hưởng di sản phải thực
hiện (nếu có)
- Thứ tư: Tìm hiểu các hình thức di chúc để lựa chọn phù hợp
- Thứ năm: Tìm người tin tưởng để quản lý và Công bố di chúc sau khi người để lại di
chúc qua đời
 Theo em, sẽ Tốt hơn nếu Người lập di chúc nên sử dụng dịch vụ tư vấn của các Luật
sư có kinh nghiệm để tư vấn về nội dung di chúc, soạn thảo và làm chứng Di chúc. Trên
cơ sở các thông tin về tài sản và mong muốn của Khách hàng Luật sư sẽ phân tích chỉ ra
được những điểm nên hoặc không nên, phương án khắc phục để đảm bảo Bản Di chúc
hợp pháp về hình thức, nội dung không trái pháp luật và đạo đức xã hội.

2. Giải pháp

- Họp và hòa giải tại gia đình, dòng họ để tự giải quyết tranh chấp: Thông thường những
người được thừa kế có quan hệ huyết thống và là các thành viên trong một gia đình, do
đó khi có mâu thuẫn tranh chấp thì gia đình hoặc dòng họ đứng ra tổ chức cuộc họp
gồm đại diện những người có uy tín, hiểu biết, ăn nói được. Mục đích của buổi họp có
tính chất phân tích, hòa giải  và hàn gắn tình cảm giữa các thành viên trong gia đình.
Nếu hòa giải không thành hoặc dù đã hòa giải thành nhưng các bên không thực hiện
thì các bên tiếp tục có đơn đề nghị gửi UBND xã phường, thị trấn đề nghị giải quyết
tranh chấp.
- Hòa giải giải quyết tranh chấp tại UBND cấp xã, phường: Với vai trò là cơ quan quản
lý địa phương, UBND xã phường sẽ tổ chức hòa giải, nội dung là ghi nhận ý kiến của
các bên, phân tích sơ bộ về căn cứ và điều hơn lẽ thiệt để các bên thống nhất. Kết thúc
là Biên bản hòa giải với 2 chiều hướng: Hòa giải thành hoặc Hòa giải không thành.
- Khởi kiện ra Tòa án để yêu cầu giải quyết các tranh chấp thừa kế tài sản.
V. KẾT LUẬN
Trong bất kỳ chế độ xã hội có giai cấp nào, vấn đề thừa kế cũng có vị trí quan trọng trong
hệ thống pháp luật và bản thân nó cũng phản ánh phần nào bản chất của chế độ xã hội đó,
thậm chí còn phản ánh được tính chất từng giai đoạn trong quá trình phát triển kinh tế, xã
hội của một chế độ xã hội.Trong bối cảnh đất nước ta đang trong quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế, tốc độ đô thị hóa ngày càng nhanh, đời sống kinh tế xã hội ngày càng phát
triển dẫn đến việc tranh chấp về dân sự nói chung và đặc biệt tranh chấp thừa kế ngày
càng tăng và phức tạp. Do đó, đòi hỏi phải có những quy định của pháp luật về thừa kế
phù hợp với đời sống để đảm bảo quyền công dân được ghi nhận trong Hiến pháp năm
2013 và đáp ứng nguyện vọng chính đáng của mọi tầng lớp nhân dân.

Ở Việt Nam, từ khi hình thành cho đến nay, pháp luật về thừa kế luôn được xây dựng và
hoàn thiện phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội qua từng giai đoạn nhất định. Pháp luật
về thừa kế ở giai đoạn sau thường kế thừa và tiếp tục phát huy những quy định có nội
dung tiến bộ của giai đoạn trước, đồng thời bổ sung những quy định mới cho phù hợp với
yêu cầu của xã hội. Cụ thể là cá nhân có quyền định đoạt tài sản của mình cho người
khác, đồng thời cũng có quyền hưởng di sản thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật.
Mặc dù vậy, pháp luật hiện hành vẫn chưa điều chỉnh kịp thời những quan hệ xã hội phát
sinh trong giai đoạn hiện nay liên quan đến qua hệ thừa kế và vẫn còn nhiều hạn chế, bất
cập cả về mặt nội dung và hình thức, cũng như những sai sót của người tiến hành tố tụng
đã đề cập ở phần trên. Để tạo giải quyết các vụ án về xác định phân chia di sản thừa kế
đúng quy định, thống nhất thì đầu tiên phải nghiên cứu tìm ra nguyên nhân của những
thiếu sót, hạn chế, bất cập và ban hành các quy định sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện chế
định về thừa kế nói riêng và hệ thống pháp luật nói chung, đưa ra các giải pháp khắc phục
là việc làm nghiêm túc và cần thiết.

CÁC NGUỒN TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Bộ luật Dân sự của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1995, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.

2. Bộ luật Dân sự của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2005, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.

3. Bộ luật Dân sự của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2015, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.

4. Pháp lệnh thừa kế, 30-8-1990.

5. Đỗ Văn Chỉnh (10-2006), “Di sản không có người thừa kế hoặc từ chối nhận di sản –
vấn đề cần có hướng dẫn”, Tạp chí Tòa án nhân dân, (20).

6. Trần Thị Huệ (2006), “Một số vấn đề về xác định di sản thừa kế”, Tạp chí Tòa án nhân
dân, (16), tr.2.

7, Luật Đất đai 2003.

8. Quyền thừa kế của công dân(1989), Nxb Pháp lý, Hà Nội.

You might also like