You are on page 1of 23

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP HỒ CHÍ MINH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA




BÀI TẬP LỚN


MÔN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
ĐỀ TÀI
VẤN ĐỀ XÂY DỰNG GIA ĐÌNH TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ
LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
PHÒNG CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LỚPL06--- NHÓM 9 --- HK 232
NGÀY NỘP: 1-2-2024
Giảng viên hướng dẫn: ThS.Đặng Kiều Diễm

Sinh viên thực hiện Mã số sinh viên Điểm số


Lê Đình Minh Hiếu 2113348
Nguyễn Thái Việt 2115284
Lê Minh Khôi 2211679
Đỗ Minh Trí 2112508
Phan Quốc Bảo 2112878
Lâm Phạm Thành Đạt 2113130
Lê Viết Hoàng Nhật 2114289

Thành phố Hồ Chí Minh – 2024


BÁO CÁO KẾT QUẢ LÀM VIỆC NHÓM VÀ BẢNG ĐIỂM BTL
Môn: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC (MSMH: SP1035)
Nhóm/Lớp: L06 Tên nhóm: T1 Con HK 232 Năm học 2024
Đề tài: Vấn đề xây dựng gia đình trong thời kì quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội
– Thực trạng và giải pháp phòng chống bạo lực gia đình ở Việt Nam hiện nay

% Điểm Điểm
STT Mã số SV Họ Tên Nhiệm vụ được phân công Ký tên
BTL BTL
1 2113348 Lê Đình Minh Hiếu Tổng hợp word, Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo 100%
2 2115284 Đỗ Minh Trí Phần 1.1, 1.2, 1.3 100%
3 2211679 Lâm Phạm Thành Đạt Phần 1.4, 2.1 100%
4 2112508 Nguyễn Thái Việt Phần 2.2.1 100%
5 2112878 Phan Quốc Bảo Phần 2.2.2 100%
6 2113130 Lê Minh Khôi Phần 2.3 100%
7 2114289 Lê Viết Hoàng Nhật Slide Powerpoint, Thuyết trình 100%

Họ và tên nhóm trưởng:Lâm Phạm Thành Đạt, Số ĐT: 0387861169 Email: dat.lamthanh@hcmut.edu.vn
Nhận xét của GV: ..................................................................................................................................................................................................
GIẢNG VIÊN NHÓM TRƯỞNG
(Ký và ghi rõ họ, tên) (Ký và ghi rõ họ, tên)
MỤC LỤC

VẤN ĐỀ XÂY DỰNG GIA ĐÌNH TRONG THỜI KÌ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ
HỘI – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÒNG CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY.........................................................................................................5
PHẦN MỞ ĐẦU.....................................................................................................................5
1. Lí do chọn đề tài...............................................................................................................5
2. Nhiệm vụ của đề tài..........................................................................................................6
PHẦN NỘI DUNG.................................................................................................................7
Chương 1. XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VIỆT NAM TRONG THỜI KÌ QUÁ ĐỘ LÊN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI.......................................................................................................7
1.1. Sự biến đổi của gia đình Việt Nam trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội...........7
1.2. Biến đổi trong thực hiện các chức năng của gia đình................................................8
1.3. Biến đổi trong các mối quan hệ gia đình..................................................................12
1.4. Phương hướng cơ bản xây dựng và phát triển gia đình Việt Nam trong thời kì quá
độ lên chủ nghĩa xã hội...................................................................................................13
Chương 2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC GIA
ĐÌNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY....................................................................................15
2.1. Khái quát tình hình bạo lực gia đình ở Việt Nam hiện nay......................................15
2.2. Thực trạng phòng, chống bạo lực gia đình ở Việt Nam hiện nay.............................17
2.3. Đề xuất giải pháp nâng cao việc phòng, chống bạo lực gia đình ở Việt Nam trong
thời gian tới.....................................................................................................................20
KẾT LUẬN...........................................................................................................................22
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................................23

1
VẤN ĐỀ XÂY DỰNG GIA ĐÌNH TRONG THỜI KÌ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÒNG CHỐNG BẠO
LỰC GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Mỗi gia đình là mỗi tế bào của xã hội, là nơi nuôi dưỡng và hình thành nhân cách con
người, đó cũng là nơi thực hiện các chức năng kinh tế, xã hội, văn hóa. Cùng với đó, gia
đình cũng là nơi bảo vệ và xây dựng xã hội, là chỗ dựa tinh thần và là hậu phương vững
chăc cho mỗi con người trong cuộc sống. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, gia
đình có vai trò và vị trí đặc biệt quan trọng, là nhân tố quyết định sự ổn định và phát triển
của xã hội. Vì vậy, việc xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững là nhiệm vụ của toàn đảng,
toàn dân. Mỗi người dân cần có ý thức xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững.

Muốn xây dựng được gia đình hạnh phúc, bền vững thì những vấn đề khúc mắc hiện
nay trong xã hội về gia đình cần được giải quyết, đặc biệt đó là vấn đề về phòng chống bạo
lực gia đình. Bạo lực gia đình là một vấn nạn nhức nhối của xã hội Việt Nam hiện nay và
diễn ra theo nhiều hình thức: bạo lực thể chất, bạo lực tinh thần, bạo lực tình dục và bạo lực
tài chính. Các đối tượng bị bạo lực gia đình chủ yếu là phụ nữ và trẻ em. Trong đó, phụ nữ
chiếm 78,6% và trẻ em chiếm 20,4%. Nguyên nhân dẫn đến bạo lực gia đình là do nhiều
yếu tố, trong đó có sự bất bình đẳng giới, định kiến xã hội, lạm dụng rượu, bia, ma túy,…
Để phòng chống bạo lực gia đình, cần có sự chung tay của toàn xã hội. Vì vậy, nhóm chọn
đề tài “Vấn đề gia đình trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội – Thực trạng và giải
pháp phòng chống bạo lực gia đình ở Việt Nam hiện nay” nhằm khái quát tình hình, thực
trạng phòng chống bạo lực gia đình ở Việt Nam hiện nay và đề xuất giải pháp nâng cao việc
phòng chống bạo lực gia đình ở Việt Nam hiện nay.

2
2. Nhiệm vụ của đề tài

Làm rõ:

- Sự biến đổi của gia đình Việt Nam trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội
- Biến đổi trong thực hiện các chức năng của gia đình
- Biến đổi trong các mối quan hệ gia đình
- Phương hướng cơ bản xây dựng và phát triển gia đình Việt Nam trong thời kì quá độ
lên chủ nghĩa xã hội
- Khái quát tình hình bạo lực gia đình ở Việt Nam hiện nay
- Thực trạng phòng, chống bạo lực gia đình ở Việt Nam hiện nay
- Đề xuất giải pháp nâng cao việc phòng, chống bạo lực gia đình ở Việt Nam trong thời
gian tới

3
PHẦN NỘI DUNG

Chương 1. XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VIỆT NAM TRONG THỜI KÌ QUÁ ĐỘ LÊN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

1.1. Sự biến đổi của gia đình Việt Nam trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội

Gia đình Việt Nam ngày nay có thể được coi là “gia đình quá độ” trong bước chuyển
biến từ xã hội nông nghiệp cổ truyền sang xã hội công nghiệp hiện đại. Trong quá trình này,
sự giải thể của cấu trúc gia đình truyền thống và sự hình thành hình thái mới là một tất yếu.
Gia đình đơn hay còn gọi là gia đình hạt nhân đang trở nên rất phổ biến ở các đô thị và cả ở
nông thôn - thay thế cho kiểu gia đình truyền thống từng giữ vai trò chủ đạo trước đây.

Quy mô gia đình ngày nay tồn tại xu hướng thu nhỏ hơn so với trước kia, số thành viên
trong gia đình trở nên ít đi. Nếu như gia đình truyền thống xưa có thể tồn tại đến ba bốn thế
hệ cùng chung sống dưới một mái nhà thì hiện nay, quy mô gia đình hiện đại đã ngày càng
được thu nhỏ lại. Gia đình Việt Nam hiện đại chỉ có hai thế hệ cùng sống chung: cha mẹ -
con cái, số con trong gia đình cũng không nhiều như trước, cá biệt còn có số ít gia đình đơn
thân, nhưng phổ biến nhất vẫn là loại hình gia đình hạt nhân quy mô nhỏ.

Quy mô gia đình Việt Nam ngày càng thu nhỏ, đáp ứng những nhu cầu và điều kiện của
thời đại mới đặt ra. Sự bình đẳng nam nữ được đề cao hơn, cuộc sống riêng tư của con
người được tôn trọng hơn, tránh được những mâu thuẫn trong đời sống của gia đình truyền
thống. Sự biến đổi của gia đình cho thấy chính nó đang làm chức năng tích cực, thay đổi
chính bản thân gia đình và cũng là thay đổi hệ thống xã hội, làm cho xã hội trở nên thích
nghi và phù hợp hơn với tình hình mới, thời đại mới.

Tất nhiên, quá trình biến đổi đó cũng gây những phản chức năng như tạo ra sự ngăn
cách không gian giữa các thành viên trong gia đình, tạo khó khăn, trở lực trong việc gìn giữ
tình cảm cũng như các giá trị văn hóa truyền thống của gia đình. Xã hội ngày càng phát
triển, mỗi người đều bị cuốn theo công việc của riêng mình với mục đích kiếm thêm thu
nhập, thời gian dành cho gia đình cũng vì vậy mà ngày càng ít đi. Con người dường như rơi
vào vòng xoáy của đồng tiền và vị thế xã hội mà vô tình đánh mất đi tình cảm gia đình. Các

4
thành viên ít quan tâm lo lắng đến nhau và giao tiếp với nhau hơn, làm cho mối quan hệ gia
đình trở nên rời rạc, lỏng lẻo...

5
1.2. Biến đổi trong thực hiện các chức năng của gia đình

1.2.1 Chức năng tái sản suất ra con người

Với những thành tựu của y học hiện đại, hiện nay việc sinh đẻ được các gia đình tiến
hành một cách chủ động, tự giác khi xác định số lượng con cái và thời điểm sinh con. Hơn
nữa, việc sinh con còn bị điều chỉnh bởi chính sách xã hội của Nhà nước. Ở nước ta, từ
những năm 70 và 80 của thế kỷ trước, Nhà nước đã tuyên truyền, phổ biến và áp dụng rộng
rãi các phương tiện và biện pháp kỹ thuật tránh thai và tiến hành kiểm soát thông qua. Cuộc
vận động sinh đẻ có kế hoạch, khuyến khích mỗi cặp vợ chống chỉ nên có từ 1 đến 2 con.
Sang thập niên đầu thế kỉ XXI, dân số Việt Nam đang chuyển sang giai đoạn già hóa. Để
đảm bảo lợi ích của gia đình và sự phát triển bền vững của xã hội, thông điệp mới trong kế
hoạch hóa gia đình là mỗi cặp vợ chồng nên sinh đủ hai con.

Nếu như trước kia, do ảnh hưởng của phong tục, tập quán và nhu cầu sản xuất nông
nghiệp, trong gia đình Việt Nam truyền thống, nhu cầu về con cái thể hiện trên ba phương
diện: phải có con, càng đông con càng tốt và nhất thiết phải có con trai nối dõi thì ngày nay,
nhu cầu ấy đã có những thay đổi căn bản: thể hiện ở việc giảm mức sinh của phụ nữ, giảm
số con mong muốn và giảm nhu cầu nhất thiết phải có con trai của các cặp vợ chồng. Trong
gia đình hiện đại, sự bền vững của hôn nhân phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố tâm lý, tình
cảm, kinh tế, chứ không phải chỉ là các yếu tố có con hay không có con, có con trai hay
không có con trai như gia đình truyền thống.

1.2.2 Chức năng kinh tế, tổ chức tiêu dùng

Xét một cách khái quát, cho đến nay kinh tế gia đình đã có hai bước chuyển mang tính
bước ngoặt1: Thứ nhất, từ kinh tế tự cấp tự túc thành kinh tế hàng hóa, tức là

từ một đơn vị kinh tế khép kín sản xuất để đáp ứng nhu cầu của gia đình thành đơn vị
mà sản xuất chủ yếu để đáp ứng nhu cầu của người khác hay của xã hội. Thứ hai, từ đơn vị
kinh tế mà đặc trưng là sản xuất hàng hóa đáp ứng nhu cầu của thị trường quốc gia thành tổ
chức kinh tế của nền kinh tế thị trường hiện đại đáp ứng nhu cầu của thị trường toàn cầu.

1
Xem: Lê Ngọc Văn, Gia đình và biến đổi gia đình ở Việt Nam, Nxb. KHXH, H.2012, tr.176.
6
Hiện nay, kinh tế hộ gia đình đang trở thành một bộ phận quan trọng trong nền kinh tế
quốc dân. Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập kinh tế và cạnh tranh sản phẩm hàng hóa với
các nước trong khu vực và trên thế giới, kinh tế hộ gia đình gặp rất nhiều khó khăn, trở ngại
trong việc chuyển sang hướng sản xuất kinh doanh hàng hóa theo hướng chuyên sâu trong
kinh tế thị trường hiện đại. Nguyên nhân là do kinh tế hộ gia đình phần lớn có quy mô nhỏ,
lao động ít và tự sản xuất là chính.

Sự phát triển của kinh tế hàng hóa và nguồn thu nhập bằng tiền của gia đình tăng lên
làm cho gia đình trở thành một đơn vị tiêu dùng quan trọng của xã hội. Các gia đình Việt
Nam đang tiến tới “tiêu dùng sản phẩm do người khác làm ra”, tức là sử dụng hàng hóa và
dịch vụ xã hội.

1.2.3 Chức năng giáo dục (xã hội hóa)

Nếu trong xã hội Việt Nam truyền thống, giáo dục gia đình là cơ sở của giáo dục xã hội
thì ngày nay, giáo dục xã hội bao trùm lên giáo dục gia đình và đưa ra những mục tiêu,
những yêu cầu của giáo dục xã hội cho giáo dục gia đình 2. Điểm tương đồng giữa giáo dục
gia đình truyền thống và giáo dục của xã hội mới là tiếp tục nhấn mạnh sự hy sinh của cá
nhân cho cộng đồng.

Giáo dục gia đình hiện nay phát triển theo xu hướng sự đầu tư tài chính của gia đình cho
giáo dục con cái tăng lên. Nội dung giáo dục gia đình hiện nay không chỉ nặng về giáo dục
đạo đức, ứng xử trong gia đình, dòng họ, làng xã, mà hướng đến giáo dục kiến thức khoa
học hiện đại, trang bị công cụ để con cái hòa nhập với thế giới.

Tuy nhiên, sự phát triển của hệ thống giáo dục xã hội, cùng với sự phát triển của kinh tế
hiện nay, vai trò của các chủ thể trong gia đình có xu hướng giảm. Nhưng sự gia tăng của
các hiện tượng tiêu cực trong xã hội và tỏng nhà trường, làm cho sự kỳ vọng và niềm tin của
các bậc cha mẹ vào hệ thống giáo dục xã hội trong việc rèn luyện đạo đức, nhân cách cho
con em của họ đã giảm đi rất nhiều so với trước đây. Mâu thuẫn này là một thực tế chưa có
lời giải hữu hiệu ở Việt Nam hiện nay. Những tác động trên đây làm giảm sút đáng kể vai
trò của gia đình trong thực hiện chức năng xã hội hóa, giáo dục trẻ em ở nước ta thời gian
qua.

2
Xem: Lê Ngọc Văn, Gia đình và biến đổi gia đình ở Việt Nam, Nxb. KHXH, H.2012, tr.238.
7
Hiện tượng trẻ em hư, bỏ học sớm, lang thang, nghiện hút ma túy, mại dâm. cũng cho
thấy phần nào sự bất lực của xã hội và sự bế tắc của một số gia đình trong việc chăm sóc,
giáo dục trẻ em.

1.2.4 Chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình cảm

Trong xã hội hiện đại, độ bền vững của gia đình không chỉ phụ thuộc vào sự ràng buộc
của các mối quan hệ về trách nhiệm, nghĩa vụ giữa vợ và chồng; cha mẹ và con cái; sự hy
sinh lợi ích cá nhân cho lợi ích gia đình, mà nó còn bị chi phối bởi các mối quan hệ hòa hợp
tình cảm giữa chồng và vợ; cha mẹ và con cái, sự đảm bảo hạnh phúc cá nhân, sinh hoạt tự
do, chính đáng của mỗi thành viên gia đình trong cuộc sống chung.

Trong gia đình Việt Nam hiện nay, nhu cầu thỏa mãn tâm lý - tình cảm đang tăng lên,
do gia đình có xu hướng chuyển đổi từ chủ yếu là đơn vị kinh tế sang chủ yếu là đơn vị tình
cảm. Việc thực hiện chức năng này là một yếu tố rất quan trọng tác động đến sự tồn tại, bền
vững của hôn nhân và hạnh phúc gia đình, đặc biệt là việc bảo vệ chăm sóc trẻ em và người
cao tuổi, nhưng hiện nay, các gia đình đang đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức. Đặc
biệt, trong tương lai gần, khi mà tỷ lệ các gia đình chỉ có một con tăng lên thì đời sống tâm
lý - tình cảm của nhiều trẻ em và kể cả người lớn cũng sẽ kém phong phú hơn, do thiếu đi
tình cảm về anh, chị em trong cuộc sống gia đình.

Tác động của công nghiệp hóa và toàn cầu hóa dẫn tới tình trạng phân hóa giàu nghèo
sâu sắc, làm cho một số hộ gia đình có cơ may mở rộng sản xuất, tích lũy tài sản, đất đai, tư
liệu sản xuất thì trở nên giàu có, trong khi đại bộ phận các gia đình trở thành lao động làm
thuê do không có cơ hội phát triển sản xuất, mất đất đai và các tư liệu sản xuất khác, không
có khả năng tích lũy tài sản, mở rộng sản xuất. Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ các hô
nghèo, khắc phục khoảng cách giàu nghèo đang có xu hướng ngày càng gia tăng.

Cùng với đó, vấn đề đặt ra là cần phải thay đổi tâm lí truyền thống về vai trò của con
trai, tạo dựng quan niệm bình đẳng giữa con trai và con gái trong trách nhiệm nuôi dưỡng,
chăm sóc cha mẹ già và thờ phụng tổ tiên. Nhà nước cần có những giải pháp, biện pháp
nhằm bảo đảm an toàn tình dục, giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản cho các thành viên
sẽ là chủ gia đình tương lai; củng cố chức năng xã hội hóa của gia đình, xây dựng những
chuẩn mực và mô hình mới về giáo dục gia đình, giúp cho các bậc cha mẹ có định hướng

8
trong giáo dục và hình thành nhân cách trẻ em; giải quyết thỏa đáng mâu thuẫn giữa nhu cầu
tự do, tiến bộ của người phụ nữ hiện đại với trách nhiệm làm dâu theo quan niệm truyền
thống, mâu thuẫn về lợi ích giữa các thế hệ, giữa cha mẹ và con cái. Nó đòi hỏi phải hình
thành những chuẩn mực mới, bảo đảm sự hài hòa lợi ích giữa các thành viên trong gia đình
cũng như lợi ích giữa gia đình và xã hội.

1.3. Biến đổi trong các mối quan hệ gia đình

Trong thực tế, hôn nhân và gia đình Việt Nam đang phải đối mặt với những thách thức,
biến đổi lớn. Dưới tác động của cơ chế thị trường, khoa học công nghệ hiện đai, toàn cầu
hóa….khiến các gia đình phải gánh chịu nhiều mặt trái như: quan hệ vợ chồng - gia đình
lỏng lẻo; gia tăng tỷ lệ ly hôn, ly thân, ngoại tình, quan hệ tình dục trước hôn nhân và ngoài
hôn nhân, chung sống không kết hôn. Đồng thời, xuất hiện nhiều bi kịch, thảm án gia đình,
người già cô đơn, trẻ em sống ích kỷ, bạo hành trong gia đình, xâm hại tình dục. Từ đó, dẫn
tới hệ lụy là giá trị truyền thống trong gia đình bị coi nhẹ, kiểu gia đình truyền thống bị phá
vỡ, lung lay và hiện tượng gia tăng số hộ gia đình đơn thân, độc thân, kết hôn đồng tính,
sinh con ngoài giá thú…Ngoài ra, sức ép từ cuộc sống hiện đại (công việc căng thẳng,
không ổn định, di chuyển nhiều…) cũng khiến cho hôn nhân trở nên khó khăn với nhiều
người trong xã hội

Trong gia đình truyền thống, người chồng là trụ cột của gia đình, mọi quyền lực trong
gia đình đều thuộc về người đàn ông. Người chồng là người chủ sở hữu tài sản của gia đình,
người quyết định các công việc quan trọng của gia đình, kể cả quyền dạy vợ, đánh con.

Trong gia đình Việt Nam hiện nay, không còn một mô hình duy nhất là đàn ông làm chủ
gia đình. Ngoài mô hình người đàn ông - người chồng làm chủ gia đình ra thì còn có ít nhất
hai mô hình khác cùng tồn tại 3.Đó là mô hình người phụ nữ người vợ làm chủ gia đình và
mô hình cả hai vợ chồng cùng làm chủ gia đình. Người chủ gia đình được quan niệm là
người có những phẩm chất, năng lực và đóng góp vượt trội, được các thành viên trong gia
đình coi trọng. Ngoài ra, mô hình người chủ gia đình phải là người kiếm ra nhiều tiền cho
thấy một đòi hỏi mới về phẩm chất của người lãnh đạo gia đình trong bối cảnh phát triển
kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế.

3
Xem: Lê Ngọc Văn, Gia đình và biến đổi gia đình ở Việt Nam, Nxb. KHXH, H.2012, tr.335.
9
1.4. Phương hướng cơ bản xây dựng và phát triển gia đình Việt Nam trong thời kì quá
độ lên chủ nghĩa xã hội

Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao nhận thức của xã hội về xây dựng
và phát triển gia đình Việt Nam. Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền để các cấp ủy,
chính quyền, các tổ chức đoàn thể từ trung ương đến cơ sở nhận thức sâu sắc về vị trí, vai
trò và tầm quan trọng của gia đình và công tác xây dựng, phát triển gia đình Việt Nam hiện
nay, coi đây là một trong những động lực quan trọng quyết định thành công sự phát triển
bền vững kinh tế - xã hội trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Cấp ủy và chính quyền các cấp phải đưa nội
dung, mục tiêu của công tác xây dựng và phát triển gia đình vào chiến lược phát triển kinh
tế- xã hội và chương trình kế hoạch công tác hàng năm của các bộ, ngành, địa phương.

Thứ hai, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, kinh tế hộ gia
đình. Xây dựng và hoàn thiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội để góp phần củng cố, ổn
định và phát triển kinh tế gia đình; có chính sách ưu tiên hỗ trợ phát triển kinh tế gia đình
cho các gia đình liệt sỹ, gia đình thương binh bệnh binh, gia đình các dân tộc ít người, gia
đình nghèo, gia đình đang sinh sống ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn. Có chính sách kịp
thời hỗ trợ các gia đình phát triển kinh tế, sản xuất kinh doanh các sản phẩm mới, sản phẩm
sử dụng nguyên liệu tại chỗ, hỗ trợ các gia đình tham gia sản xuất phục vụ xuất khẩu. Tích
cực khai thác và tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ gia đình vay vốn ngắn hạn và dài hạn
nhằm xóa đói giảm nghèo, chuyển dịch cơ cấu sản xuất, mở rộng phát triển kinh tế, đẩy
mạnh loại hình kinh tế trang trại, vươn lên làm giàu chính đáng.

Thứ ba, kế thừa những giá trị của gia đình truyền thống đồng thời tiếp thu những tiến bộ
của nhân loại về gia đình trong xây dựng gia đình Việt Nam hiện nay. Gia đình truyền thống
được hun đúc từ lâu đời trong lịch sử dân tộc. Bước vào thời kỳ mới gia đình ấy bộc lộ cả
những mặt tích cực và tiêu cực. Do vậy, Nhà nước cũng như các cơ quan văn hóa, các ban
ngành liên quan cần phải xác định, duy trì những nét đẹp có ích; đồng thời, tìm ra những
hạn chế và tiến tới khắc phục những hủ tục của gia đình cũ. Xây dựng gia đình Việt Nam
hiện nay là xây dựng mô hình gia đình hiện đại, phù hợp với tiến trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế. Xây dựng và phát triển gia đình Việt Nam
hiện nay vừa phải kế thừa và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của gia
10
đình Việt Nam, vừa kết hợp với những giá trị tiên tiến của gia đình hiện đại để phù hợp với
sự vận động phát triển tất yếu của xã hội. Tất cả nhằm hướng tới thực hiện mục tiêu làm cho
gia đình thực sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là tổ ấm của mỗi người.

Thứ tư, tiếp tục phát triển và nâng cao chất lượng phong trào xây dựng gia đình văn
hóa. Gia đình văn hóa là một mô hình gia đình tiến bộ, một danh hiệu hay chỉ tiêu mà nhiều
gia đình Việt Nam mong muốn hướng đến. Đó là, gia đình ấm no, hoà thuận, tiến bộ, khoẻ
mạnh và hạnh phúc; Thực hiện tốt nghĩa vụ công dân; Thực hiện kế hoạch hoá gia đình;
Đoàn kết tương trợ trong cộng đồng dân cư. Được hình thành từ những năm 60 của thế kỷ
XX, tại một địa phương của tỉnh Hưng Yên, đến nay, xây dựng gia đình văn hóa đã trở
thành phong trào thi đua có độ bao phủ hầu hết các địa phương ở Việt Nam. Phong trào xây
dựng gia đình văn hóa đã thực sự tác động đến nền tảng gia đình với những quy tắc ứng xử
tốt đẹp, phát huy giá trị đạo đức truyền thống của gia đình Việt Nam. Chất lượng cuộc sống
gia đình ngày càng được nâng cao. Do vậy, để phát triển gia đình Việt Nam hiện nay cần
tiếp tục nghiên cứu, nhân rộng xây dựng các mô hình gia đình văn hóa trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa với những giá trị mới tiên tiến cần tiếp thu và dự báo những biến
đổi về gia đình trong thời kỳ mới, đề xuất hướng giải quyết những thách thức trong lĩnh vực
gia đình. Cần tránh xu hướng chạy theo thành tích, phản ánh không thực chất phong trào và
chất lượng gia đình văn hóa. Các tiêu chí xây dựng gia đình văn hóa phải phù hợp và có ý
nghĩa thiết thực với đời sống của nhân dân, công tác bình xét danh hiệu gia đình văn hóa
phải được tiến hành theo tiêu chí thống nhất, trên nguyên tắc công bằng, dân chủ, đáp ứng
được nguyện vọng, tâm tư, tình cảm, tạo được sự đồng tình hưởng ứng của nhân dân.

11
Chương 2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1. Khái quát tình hình bạo lực gia đình ở Việt Nam hiện nay

“Báo cáo tổng kết 14 năm thi hành Luật Phòng, chống bạo lực gia đình thể hiện, trong
giai đoạn thi hành luật, các tỉnh thành trên cả nước phát hiện 318.647 vụ bạo lực gia đình.
Cũng trong giai đoạn thi hành luật, số vụ BLGĐ giảm dần qua các năm, cụ thể năm 2009 là
53.206 vụ, năm 2015 là 19.274 vụ và năm 2020 là 7.831 vụ. Tuy nhiên, "bức tranh" về số
liệu các vụ việc bạo lực gia đình giữa các ngành lại có sự "vênh" nhau. Điều này cho thấy sự
không đồng nhất trong việc thống kê, báo cáo vụ việc.’’4

Số liệu báo cáo về các vụ việc bạo lực gia đình được các tỉnh thành trên cả nước tự thống kê
trong giai đoạn từ năm 2009 đến năm 2020

Từ số liệu có thể nhận ra số vụ bạo lực gia đình có xu hướng giảm dần qua từng năm
cho thấy bộ máy chính quyền đã có những giải pháp phòng, chống tình trạng bạo lực gia
đình bằng cách ban hành các điều luật và phối hợp cùng các cơ quan, tổ chức chuyên môn
tuyên truyền về vấn nạn bạo lực gia đình nâng cao ý thức của người dân, khuyến khích

4
Dantri.com.vn. (n.d.). “Bức tranh” 10 năm về bạo lực gia đình ở Việt Nam. Retrieved from
https://dantri.com.vn/xa-hoi/buc-tranh-10-nam-ve-bao-luc-gia-dinh-o-viet-nam-20220127173409077.htm
12
người dân tố giác những người có hành vi bạo lực gia đình để bảo vệ quyền và lợi ích của
người dân góp phần hình thành một xã hội văn minh và phát triển.

‘’Từ ngày 01/7/2008 đến ngày 31/7/2018 Tòa án nhân dân các cấp đã thụ lý theo thủ tục
sơ thẩm 1.422.067 vụ án ly hôn, đã giải quyết 1.384.660 vụ, đạt tỷ lệ 97,4%, còn lại 37.407
vụ đang trong quá trình giải quyết. Trong số 1.384.660 vụ án ly hôn Tòa án đã giải quyết, có
1.060.767 vụ xuất phát từ nguyên nhân bạo lực gia đình như: bị đánh đập, ngược đãi; vợ
hoặc chồng nghiện ma túy, rượu chè, cờ bạc; ngoại tình chiếm 76,6% các vụ án ly hôn.
Theo kết quả điều tra quốc gia về Bạo lực đối với phụ nữ ở Việt Nam năm 2019 (công bố
năm 2020) cho thấy cứ 3 phụ nữ thì có gần 2 phụ nữ (62,9%) từng chịu ít nhất một hình
thức bạo lực thể xác, tình dục, tinh thần hay kinh tế, hay kiểm soát hành vi do chồng/bạn
tình gây ra trong đời. Điều tra cũng cho biết hơn một nửa phụ nữ từng có chồng/bạn tình
(52,9%) đã phải chịu đựng tí nhất một hình thức bạo lực thể xác, tình dục và/hoặc tinh thần
do chồng/bạn tình hiện tại hoặc trước đây gây ra. Đây là cuộc điều tra chọn mẫu với tổng số
5.976 phụ nữ trong độ tuổi từ 15 đến 64 đã được điều tra viên phỏng vấn trực tiếp.’’5

Theo kết quả thu được từ các cuộc phỏng vấn cho thấy tỷ lệ người phụ nữ từng bị bạo
lực về thể xác và tinh thần nói chung vẫn còn rất cao (hơn 50%) từ đó có thể nhận thấy rằng
vấn nạn bạo lực gia đình vẫn còn hiện hữu đặc biệt nạn nhân đa phần là phụ nữ và trẻ em
những đối tượng dễ bị bạo hành mà không dám phản kháng hoặc tố cáo người bạo hành do
yếu thế về mặt thể chất và sợ định kiến từ xã hội khi tố giác người bạo hành (xảy ra không
chỉ ở các quốc gia ở châu Á từng trải qua giai đoạn lịch sử với những định kiến nặng nề mà
còn diễn ra trên toàn thế giới do đa phần người bạo hành và người bị bạo hành là vợ chồng
hoặc là người tình sống chung như vợ chồng, cha mẹ và con cái). Vì vậy để phòng, chống
bạo lực gia đình cần có sự phối hợp của các cơ quan chính quyền và người dân (người bị
bạo hành) tố giác và trừng trị những đối tượng bạo hành đúng theo quy định của pháp luật
để răng đe những đối tượng khác đang nhem nhóm hành vi bạo lực gia đình.

5
Đình, V. G. (2023). Tình hình bạo lực gia đình ở nước ta thời gian qua. Retrieved from
http://giadinh.bvhttdl.gov.vn/tinh-hinh-bao-luc-gia-dinh-o-nuoc-ta-thoi-gian-qua/
13
2.2. Thực trạng phòng, chống bạo lực gia đình ở Việt Nam hiện nay

2.2.1. Những kết quả đạt được và nguyên nhân

Trong những năm qua, công tác phòng, chống bạo lực gia đình ở Việt Nam đã đạt được
những kết quả đáng ghi nhận, thể hiện qua các chỉ số sau:

Số vụ bạo lực gia đình được phát hiện, xử lý giảm: Theo báo cáo của Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội, trong giai đoạn 2016-2022, số vụ bạo lực gia đình được phát hiện,
xử lý giảm dần, từ 109.500 vụ năm 2016 xuống còn 88.700 vụ năm 2022. Tỷ lệ người bị
bạo lực gia đình được hỗ trợ, can thiệp kịp thời, hiệu quả tăng: Theo khảo sát của Tổng cục
Thống kê năm 2022, tỷ lệ người bị bạo lực gia đình được hỗ trợ, can thiệp kịp thời, hiệu quả
tăng từ 59,7% năm 2016 lên 70,5% năm 2022. Nhận thức của người dân về phòng, chống
bạo lực gia đình được nâng cao: Theo khảo sát của Tổng cục Thống kê năm 2022, tỷ lệ
người dân cho rằng bạo lực gia đình là vi phạm pháp luật và cần bị xử lý nghiêm minh tăng
từ 88,3% năm 2016 lên 93,6% năm 2022.

Nguyên nhân :

Những kết quả đạt được trong công tác phòng, chống bạo lực gia đình ở Việt Nam hiện
nay là do sự nỗ lực, chung tay của cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành, các tổ chức
chính trị - xã hội và toàn xã hội. Cụ thể, có thể kể đến một số nguyên nhân chính sau:

Sự chỉ đạo quyết liệt của Đảng, Nhà nước:

Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia
đình, trong đó Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 và Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2010 là những văn bản quan trọng, tạo
cơ sở pháp lý cho công tác này. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Công an, Bộ Tư
pháp và các bộ, ngành liên quan đã triển khai thực hiện nhiều chương trình, kế hoạch, đề án
cụ thể về phòng, chống bạo lực gia đình.

Công tác tuyên truyền, giáo dục được đẩy mạnh:

Các cơ quan, tổ chức, đoàn thể đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục về phòng,
chống bạo lực gia đình thông qua nhiều hình thức đa dạng, phong phú, như: tuyên truyền
14
trên các phương tiện thông tin đại chúng, tổ chức hội nghị, tập huấn, phát hành tài liệu,...
Nhận thức của người dân về phòng, chống bạo lực gia đình được nâng cao, nhiều người dân
đã có ý thức tố giác hành vi bạo lực gia đình. Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ công tác
phòng, chống bạo lực gia đình được tăng cường.Nhiều địa phương đã đầu tư xây dựng nhà
tạm lánh, cơ sở bảo trợ xã hội,... để hỗ trợ, can thiệp kịp thời, hiệu quả đối với người bị bạo
lực gia đình. Công tác phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức, đoàn thể trong phòng, chống bạo
lực gia đình được tăng cường, tạo thành sức mạnh tổng hợp để thực hiện hiệu quả công tác
này.

2.2.2. Những khó khăn và nguyên nhân

Sau gần 15 năm thực hiện, Luật Phòng chống bạo lực gia đình đã tạo nên chuyển biến
tích cực về nhận thức trong phòng, chống bạo lực gia đình, góp phần bảo vệ người bị bạo
lực gia đình, xử lý các hành vi bạo lực gia đình, vi phạm pháp luật trong phòng, chống bạo
lực gia đình, nâng cao bình đẳng giới trong gia đình. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt
được, công tác gia đình nói chung và phòng chống bạo lực gia đình thời gian qua vẫn còn
gặp nhiều khó khăn:

Về nhận thức và thái độ của người dân và cán bộ

Nhiều nạn nhân còn e ngại không mạnh dạn trình báo cơ quan chính quyền để được bảo
vệ và kịp thời xử lý hành vi sai trái đối với người gây ra bạo lực gia đình. Cộng đồng xã hội
chưa thể hiện thái độ phê phán kiên quyết, mạnh mẽ đối với những người gây ra bạo lực gia
đình và xem đó là việc nội bộ của gia đình. Mặc dù giải pháp tuyên truyền được cho là trọng
tâm, nhưng công tác phòng chống bạo lực gia đình còn nhiều khó khăn, trở ngại, đặc biệt là
tại nông thông, miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Về các biện pháp xử lý chưa thực sự hiệu quả

Bất cập của công tác hòa giải trong phòng chống bạo lực gia đình, các thủ tục hành
chính và điều kiện để xử lý vụ việc bạo lực gia đình trong luật hiện hành còn khá phức tạp;
việc áp dụng các biện pháp phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và xử lý các hành bi bạo lực
gia đình chưa nghiêm minh, thiếu kiên quyết, vì thế bạo lực gia đình vẫn tiếp tục xảy ra mà
không được ngăn chặn kịp thời; khó xử phạt bằng tiền, quy trình xử lý chưa rõ ràng, nhận

15
thưc của một bộ phận nhân dân và cán bộ chưa thông, chưa rõ nên có những hành vi cản trở
việc xử lý.

Về vấn đề trách nhiệm và công tác phối hợp liên ngành trong phòng, chống bạo lực gia
đình

Việc phố hợp, phổ biến, giáo dục pháp luật về Luật Phòng chống bạo lực gia đình, Luật
Hôn nhân gia đình chưa thật sự sâu rộng. Đặc biệt, công tác nhận diện phát hiện, thu thập
báo cáo thông tin về gia đình và phòng, chống bạo lực gia đình chưa trung thực, khách
quan, chính xác, kịp thời.

Nguyên nhân của những khó khăn trong việc phòng, chống bạo lực gia đình

Nhận thức về pháp luật của người dân còn hạn chế, bao che, không khai báo; kinh tế
khó khăn, tệ nạn xã hội (rượu chè, cờ bạc, nghiện ngập); tư tưởng gia trưởng, bất bình đẳng
giới, người dân thiếu kỹ năng ứng xử trong gia đình; người dân ít hợp tác. Phòng chống bạo
lực gia đình chưa thực sự đạt được hiệu quả tối ưu trong thời gian qua đó là vì truyên
truyền, truyền thông và kinh phí cho công tác này còn rất thấp nên việc nhân rộng mô hình
Câu lạc bộ phòng chống bạo lực gia đình gắn với tuyên truyền, giáo dục đạo đức lối sống
chưa đạt yêu cầu.

Bên cạnh đó, nhận thức của đối tượng tuyên truyền còn nhiều hạn chế, đặc biệt là đồng
bào dân tộc thiểu số, dân tộc ít người vốn còn chịu ảnh hưởng của luật tục, hủ tục, tập quán
dân tộc nên việc đưa pháp luật đến với họ còn gặp nhiều khó khăn. Mặc khác, do điều kiện
kinh tế, xã hội còn nhiều khó khăn, nông dân và đồng bào dân tộc chiếm đa số; địa bàn dân
cư rộng, đi lại khó khăn cho việc tuyên truyền. Thiếu cán bộ chuyên trách cấp xã/phường,
thiếu cộng tác viên; cán bộ thiếu kỹ năng tư vấn, hòa giải, truyền thông; đội ngũ báo cáo
viên ở cở sở chưa đồng đều, một số còn hạn chế về trình độ; các cấp, các ngành chưa phối
hợp hiệu quả.

Cộng đồng, chính quyền đoàn thể thiếu quan tâm, coi bạo lực lao động là chuyện riêng
tư, chỉ can thiệp khi gây ra hậu quả nghiêm trọng; chế tài chưa mạnh, chưa xử lý nghiêm,
chưa hợp lý, thiên về hòa giải, phê bình, góp ý; kinh phí hoạt động cho phòng chống bạo lực
gia đình còn hạn chế, chế độ cho người hoạt động phòng chống bạo lực gia đình chưa thỏa

16
đáng; các cơ sở phòng chống bạo lực gia đình và hỗ trợ nạn nhân còn thiếu và chưa được
truyền thông đầy đủ đến người dân để họ biết và sử dụng khi cần.

17
2.3. Đề xuất giải pháp nâng cao việc phòng, chống bạo lực gia đình ở Việt Nam trong
thời gian tới
Thứ nhất, đẩy mạnh truyền thông giáo dục phòng chống bạo lực gia đình

Cần chú trọng đến công tác tuyên truyền phổ biến kiến thức nhận diện các hành vi bạo
lực gia đình, cũng như các kỹ năng phòng ngừa hành vi bạo lực gia đình qua các phương
tiện truyền thông. Đồng thời, cần lựa chọn hình thức truyền thông phù hợp với các đối
tượng khác nhau. Đối với cộng đồng nói chung, nên tổ chức các buổi thảo luận trong khu
xóm nhằm giúp mọi người hiểu các thông tin cơ bản về phòng chống bạo lực gia đình cũng
như khả năng tự vệ hay hỗ trợ người bị bạo lực. Đối với học sinh, sinh viên, việc tuyên
truyền nên được lồng ghép vào các buổi sinh hoạt ngoại khoá, sinh hoạt công dân. Đối với
các gia đình có bạo lực, việc đến thăm tại nhà hay tham vấn nhóm nhỏ sẽ hợp lý hơn.

Thứ hai, tăng cường sự tham gia của nam giới trong việc phòng chống bạo lực gia đình

Nam giới là người gây ra thì cũng chính là những người có thể thay đổi, phần lớn những
người gây ra bạo lực gia đình và bạo lực giới là nam giới, vì vậy họ có trách nhiệm phải
ngăn chặn các hành vi bạo lực của chính họ. Bạo lực gia đình cần phải được ngăn ngừa
trước khi nó xảy ra, vì thế, khi còn ngồi trên hàng ghế nhà trường, trẻ em và thanh thiếu
niên nên được tham gia các chương trình ngăn ngừa khởi đầu gồm: kĩ năng giao tiếp, khả
năng thấu hiểu và tôn trọng lựa chọn, quan điểm của người khác, kĩ năng giải quyết vấn đề
thông qua các hành vi phi bạo lực, kĩ năng xây dựng và duy trì mối quan hệ bền vững,... Tổ
chức các buổi tham vấn với các cá nhân nam giới gây bạo lực giúp họ kiểm soát thái độ, giải
quyết mâu thuẫn với bạn đời, trị liệu tập trung vào các rối loạn tâm lý gây ra bởi các trải
nghiệm buồn trong cuộc sống...

Thứ ba, kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức, cộng tác viên làm công tác phòng, chống
bạo lực gia đình

Củng cố, duy trì và mở rộng đội ngũ cán bộ, công chức thực hiện công tác phòng, chống
bạo lực gia đình. Chú trọng đào tạo, nâng cao năng lực thực thi nhiệm vụ cho đội ngũ cán
bộ làm công tác phòng, chống bạo lực gia đình. Tập trung bồi dưỡng các kiến thức về
phòng, chống bạo lực gia gia đình cũng như các kỹ năng như: kỹ năng lập kế hoạch hoạt
động, kỹ năng truyền thông, kỹ năng giám sát... Có chế độ chính sách thoả đáng cho đội ngũ
cộng tác viên làm công tác gia đình và phòng, chống bạo lực gia đình ở địa phương. Tổ
18
chức tập huấn định kỳ giúp cán bộ và cộng tác viên luôn cập nhật chủ trương, đường lối của
Đảng, kiến thức về gia đình và phòng, chống bạo lực gia đình, kiến thức pháp luật, nâng cao
kỹ năng tác nghiệp (thu thập thông tin, làm báo cáo, phổ biến chính sách, tham gia hòa
giải,...), song có đánh giá để tạo động lực học tập, rèn luyện và nâng cao kỹ năng tác nghiệp.

Thứ tư, quy định rõ nội dung quản lý nhà nước, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức
trong phòng, chống bạo lực gia đình

Điều 56 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình nên được sửa đổi như sau:

“Chỉ đạo, tổ chức thực hiện các nhiệm vụ phòng, chống bạo lực gia đình, lồng ghép nội
dung phòng, chống bạo lực gia đình trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế-xã
hội của địa phương.

Bố trí kinh phí, nhân lực đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ phòng, chống bạo lực gia
đình trên địa bản quản lý theo quy định của Luật này.

Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp chịu trách nhiệm về kết quả phòng, chống bạo lực gia
đình trên địa bản quản lý theo quy định của Luật này; hằng năm thực hiện đối thoại với
người có hành vi bạo lực gia đình và người bị bạo lực gia đình; phân công người giúp đỡ,
động viên những người có hành vi bạo lực gia đình.”6

6
Nguyễn Thị Thu Trang .(2022). Hoàn thiện chính sách pháp luật phòng, chống bạo lực gia
đình, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Hà Nội

19
KẾT LUẬN

Gia đình Việt Nam ngày nay đang trong thời kỳ quá độ, công việc gia đình đang chuyển
biến theo hướng từ nông nghiệp sang công nghiệp, quy mô gia đình cũng nhỏ hơn trước với
ít thế hệ và thành viên hơn, trở thành gia đình hạt nhân quy mô nhỏ. Cùng với đó, những
nhu cầu và điều kiện của thời đại mới được đặt ra, sự bình đẳng nam nữ được đề cao hơn,
cuộc sống riêng tư của con người được tôn trọng hơn. Những thay đổi ấy tạo nên sự tích cực
và cũng như sự tiêu cực của chính nó. Một gia đình hạt nhân có thể thích nghi nhanh chóng
với sự thay đổi của xã hội, làm cho mỗi người trong gia đình phù hợp hơn với tình hình
mới, thời đại mới; tuy nhiên, quá trình biến đổi đó cũng gây ra sự ngăn cách không gian
giữa các thành viên, thế hệ, tạo ra sự khó khăn trong việc gìn giữ tình cảm cũng như các giá
trị văn hóa truyền thống.

Sự quá độ nói trên cũng biến đổi trong việc thực hiện các chức năng của gia đình, trong
đó có thể kể đến: chức năng tái sản xuất ra con người, chức năng kinh tế, tổ chức tiêu dùng,
chức năng giáo dục và chức năng thỏa mã nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tính cảm. Cùng với
đó là các biến đổi trong các mối quan hệ gia đình đã đặt ra các thách thức mới, đòi hỏi mỗi
con người phải cùng giải quyết, cùng chung tay xây dựng.

Bạo lực gia đình là vấn đề không phải chỉ diễn ra ngày nay mà đã có từ rất lâu, là vấn đề
rất nhức nhối và khó có thể giải quyết triệt để, nguyên nhân của bạo lực đến từ nhận thức và
thái độ của người dân, trách nhiệm trong việc xử lý vấn đề chưa được hiệu quả. Do đó cần
đẩy mạnh truyền thông giáo dục và phòng chống bạo lực gia đình, đặt ra các quy định từ các
cơ quan tổ chức, tạo điều kiện cho toàn đội ngũ cán bộ, công thức, cộng tác viên làm công
tác phòng, chống bạo lực gia đình.

20
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, (2021). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học (Dành cho bậc
đại học hệ không chuyên lý luận chính trị). Nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia Sự Thật

2. Bộ Lao động Thương binh và Xã hội. (2017). Công tác xã hội với phòng, chống bạo
lực gia đình, Hà Nội

3. Thế Kha – Nguyễn Trường, (06/02/2022). “Bức tranh” 10 năm về bạo lực gia đình ở
Việt Nam. Truy cập từ: https://dantri.com.vn/xa-hoi/buc-tranh-10-nam-ve-bao-luc-gia-dinh-
o-viet-nam-20220127173409077.htm

4. Đình, V. G. (2023). Tình hình bạo lực gia đình ở nước ta thời gian qua. Truy cập từ:
http://giadinh.bvhttdl.gov.vn/tinh-hinh-bao-luc-gia-dinh-o-nuoc-ta-thoi-gian-qua/

5. Hồng Phúc, (14/09/2020). Nhiều khó khăn trong phòng, chống bạo lực gia đình. Truy
cập từ: https://baodantoc.vn/nhieu-kho-khan-trong-phong-chong-bao-luc-gia-dinh-
1600051793943.htm

6. Nguyễn Thị Thu Trang .(2022). Hoàn thiện chính sách pháp luật phòng, chống bạo lực
gia đình, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Hà Nội

7. Nguyễn Quốc Sứ, (20/08/2020). Tình hình bạo lực gia đình ở Việt Nam – thực trạng và
nguyên nhân. Truy cập từ: https://trangtinphapluat.com/blog/bai-viet-hay/hon-nhan-va-gia-
dinh/tinh-hinh-bao-luc-gia-dinh-o-viet-nam/

8. Thùy Dương. Những kết quả đáng ghi nhận trong công tác phòng, chống bạo lực gia
đình. Truy cập từ: Những kết quả đáng ghi nhận trong công tác phòng, chống bạo lực gia
đình - VỤ GIA ĐÌNH (bvhttdl.gov.vn)

9. Vietnamplus, (27/05/2022). Phòng, chống bạo lực gia đình: Vẫn còn nhiều “khoảng
trống”. Truy cập từ: https://www.vietnamplus.vn/phong-chong-bao-luc-gia-dinh-van-con-
nhieu-khoang-trong-post792794.vnp

21

You might also like