You are on page 1of 29

ĐẠI HỌC QUỐC GIA

ĐẠI HỌC BÁCH KHOA TP HỒ CHÍ MINH

🕐🕐🕐☼🕐🕐🕐

BÀI TẬP LỚN HỌC PHẦN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN


CHỦ ĐỀ: 02
VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ
Ý THỨC XÃ HỘI VÀO VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC

LỚP L06 --- NHÓM 07 --- HK 231


Giảng viên hướng dẫn: TS Trần Thị Hoa
NGÀY NỘP: 25/10/2023

Thành phố Hồ Chí Minh – 2023


Tỷ lệ %

STT Mã số SV Họ Tên Nhiệm vụ được phân công thành viên nhóm tham Ký tên Điểm

gia BTL

2210743 Phần mở đầu + 1. 1. 1 + 1. 1. 2 +


1 Trần Linh Đăng 100%
1. 1. 3

1. 2. 1 + 1. 2. 2 + 1. 2. 3 + Tổng
2 2210640 Lê Can Đảm 100%
hợp nội dung

1. 2. 4 + 1. 2. 5 + Tiểu kết chương


3 2210775 Nguyễn Huỳnh Duy Đông 100%
1

4 2210736 Nguyễn Hải Đăng 2. 1 + 2. 2 + Tổng hợp nội dung 100%

2. 3 + Tiểu kết chương 2 + Kết


5 2210685 Lê Thành Đạt 100%
luận chung
BÁO CÁO PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ VÀ KẾT QUẢ
THỰC HIỆN ĐỀ TÀI CỦA TỪNG THÀNH VIÊN NHÓM

NHÓM TRƯỞNG

(Ký và ghi rõ họ, tên)


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU................................................................................................................................................................................................................................... 1

1. Tính cấp thiết của đề tài................................................................................................................................................................................................................................................................ 1

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài..................................................................................................................................................................................................................................... 2

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu đề tài.......................................................................................................................................................................................................................................... 2

4. Phương pháp nghiên cứu đề tài.................................................................................................................................................................................................................................................... 3

5. Kết cấu của đề tài........................................................................................................................................................................................................................................................................... 3

PHẦN NỘI DUNG............................................................................................................................................................................................................................... 4

Chương 1 QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN Ý THỨC XÃ HỘI...................................................................................................................................................................... 4

1. 1. Khái niệm, kết cấu, tính giai cấp, các hình thái của ý thức xã hội........................................................................................................................................................................................ 4

1. 1. 1. Khái niệm ý thức xã hội......................................................................................................................................................................................................................................................... 4

1. 1. 2. Kết cấu của ý thức xã hội...................................................................................................................................................................................................................................................... 4

1. 1. 3. Các hình thái ý thức xã hội................................................................................................................................................................................................................................................... 7

1. 2. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội.............................................................................................................................................................................................................................. 14

1. 2. 1. Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội................................................................................................................................................................................................... 14

1. 2. 2. Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội................................................................................................................................................................................................................... 15

1. 2. 3. Ý thức xã hội có tính kế thừa.............................................................................................................................................................................................................................................. 15

1. 2. 4. Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội........................................................................................................................................................................................................ 16

1. 2. 5. Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội...................................................................................................................................................................................................................... 17

Tiểu kết chương 1............................................................................................................................................................................................................................................................................. 19

Chương 2 GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HIỆN NAY..............................................................................................................................21

2. 1. Khái niệm “đạo đức”, “giáo dục đạo đức” và nội dung cơ bản của giáo dục đạo đức cho sinh viên Việt Nam hiện nay..............................................................................................21

2. 1. 1. Khái niệm “đạo đức”, “giáo dục đạo đức”........................................................................................................................................................................................................................ 21


2. 1. 2. Nội dung cơ bản của giáo dục đạo đức cho sinh viên Việt Nam hiện nay...................................................................................................................................................................... 23

2. 2. Tình hình và đặc điểm của sinh viên trường Đại học Bách khoa và vai trò của việc giáo dục đạo đức cho sinh viên...................................................................................................26

2. 2. 1. Tình hình và đặc điểm của sinh viên trường Đại học Bách khoa.................................................................................................................................................................................... 26

2. 2. 2. Vai trò của giáo dục đạo đức cho sinh viên trường Đại học Bách khoa hiện nay..........................................................................................................................................................28

2. 3. Thực trạng và giải pháp giáo dục đạo đức cho sinh viên trường Đại học Bách khoa hiện nay.......................................................................................................................................30

2. 3. 1. Thực trạng về công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên trường Đại học Bách khoa hiện nay.....................................................................................................................................30

2. 3. 2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc giáo dục đạo đức cho sinh viên trường Đại học Bách khoa hiện nay.......................................................................................32

Tiểu kết chương 2............................................................................................................................................................................................................................................................................. 34

KẾT LUẬN CHUNG......................................................................................................................................................................................................................... 35

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................................................................................................................... 36


PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã và đang đặc biệt quan tâm đến các công tác đổi mới trong việc giáo dục và rèn luyện

đạo đức cho thế hệ trẻ tương lai, trong đó có sinh viên cấp độ đại học. Sinh viên đại học được đánh giá sẽ là lực lượng lao động tri thức nòng cốt của

quốc gia, có khả năng tự học hỏi và trình độ cao, được xem là những người quyết định tương lai của đất nước. Vì vậy, việc giáo dục đạo đức cho sinh

viên đại học là một hành động cần thiết và quan trọng. Quan điểm của chủ nghĩa Mác — Lênin về ý thức xã hội có ý nghĩa quan trọng trong việc đào

tạo và giáo dục toàn diện cho sinh viên đại học hiện nay về mặt đạo đức cũng như tư tưởng và ý thức xã hội. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác —

Lênin, ý thức xã hội là một hiện tượng xã hội, là những hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là sự phản ánh thế giới khách quan trong khối óc

của con người. Ý thức xã hội bao gồm: ý thức giai cấp, ý thức dân thức đạo đức, ý thức thẩm mỹ, … Ý thức đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là

hệ thống quan điểm, niềm tin, tình cảm, chuẩn mực đạo đức của con người đối với các quan hệ xã hội. Ý thức đạo đức có vai trò quan trọng trong

việc điều chỉnh hành vì của con người, hướng con người tới những điều tốt, tránh xa những điều ác, tiêu cực và góp phần xây dựng xã hội tốt đẹp.

Chính vì vậy cần có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam để có thể hoàn thiện bản thân và đưa ra định hướng đúng đắn.

Nhưng bên cạnh những thành tụ đó thì vẫn còn những hạn chế cần tiếp tục được khắc phục như thiếu cơ sở vật chất để phục vụ cho mục

đích giáo dục, các môn giáo dục đạo đức chưa được các thế hệ học sinh đặt nặng và trao dồi, … Bên cạnh đó là các thế lực thù địch luôn tìm các

chống phá, nhằm mục đích hạ thấp uy tín của Đảng và nhà nước hoặc nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng Sản. Là sinh viên của Bách khoa

chúng em nhận biết được rằng bản thân là lực lượng lao động tri thức nòng cốt, là những sinh viên theo định hướng trở thành công dân toàn cầu. Do

đó, sinh viên Bách Khoa có vai trò to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ

Sinh viên là lực lượng dự bị của Quân đội nhân dân Việt Nam. Trong thời bình, sinh viên tham gia các hoạt động bảo vệ Tổ quốc thông

qua các hoạt động giáo dục quốc phòng - an ninh, hoạt động tình nguyện tham gia phòng, chống thiên tai, cứu hộ, cứu nạn. Trong thời chiến, sinh

viên sẵn sàng lên đường bảo vệ tổ quốc. Bên cạnh những đóng góp tích cực cho cộng đồng, sinh viên cũng còn tồn tại một số hạn chế như: Trình độ

nhận thức, ý thức về chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận sinh viên còn chưa đáp ứng yêu cầu. Một số sinh viên còn thiếu ý thức trách nhiệm,

ngại tham gia các hoạt động xã hội, dễ bị lôi kéo vào các tệ nạn xã hội. Bị ảnh hưởng tiêu cực từ các nền tảng truyền thông như Facebook, TikTok

gây ảnh hưởng đến công việc học tập cũng như ý thức xã hội. Yếu kỹ năng mềm và khả năng ứng dụng kiến thức vào thực tiễn của một bộ phận sinh

viên còn hạn chế. Đây cũng là lý do nhóm chọn để tài" VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ Ý THỨC XÃ HỘI VÀO

VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HIỆN NAY” làm bài tập lớn để kết thúc môn học Triết học Mác-Lênin.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài

Mục đích nghiên cứu đề tài: Đề tài nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện về quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về ý thức xã hội.

Trên cơ sở đó, đánh giá thực trạng và đưa ra các đề xuất về giải pháp vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về ý thức xã hội vào việc giáo

dục đạo đức cho sinh viên trường Đại học Bách khoa hiện nay.

Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài: Để đạt được mục đích nêu trên, đề tài cần phải thực hiện các nhiệm vụ cơ bản sau đây:

Một là, trình bày, phân tích và làm rõ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về ý thức xã hội.
Hai là, trình bày, phân tích và làm rõ thực trạng giáo dục đạo đức cho sinh viên trường Đại học Bách khoa hiện nay.

Ba là, đề tài đề xuất một số giải pháp giáo dục đạo đức cho sinh viên trường Đại học Bách khoa hiện nay.

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu đề tài

Đề tài tập trung nghiên cứu, làm rõ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về ý thức xã hội và vận dụng vào việc giáo dục đạo đức cho

sinh viên trường Đại học Bách khoa hiện nay.

4. Phương pháp nghiên cứu đề tài

Để đạt được mục đích và hoàn thành tốt những nhiệm vụ nêu trên, nhóm đã tiến hành nghiên cứu dựa trên cơ sở thế giới quan và

phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp liệt kê; phương

pháp so sánh, đối chiếu.

5. Kết cấu của đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án được kết cấu thành 02 chương và 16 tiết.
PHẦN NỘI DUNG

Chương 1

QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN Ý THỨC XÃ HỘI

1. 1. Khái niệm, kết cấu, tính giai cấp, các hình thái của ý thức xã hội

1. 1. 1. Khái niệm ý thức xã hội

Cùng với khái niệm tồn tại xã hội, ý thức xã hội là cách xã hội tự nhận thức về mình, về sự tồn tại xã hội của mình và về hiện thực xung

quanh mình. Là mặt tinh thần của đời sống xã hội, là bộ phận hợp thành của văn hóa tinh thần của xã hội. Văn hóa tinh thần của xã hội mang nặng

dấu ấn đặc trưng của hình thái kinh tế - xã hội, của các giai cấp đã tạo ra nó. Nói cách khác, ý thức xã hội được bắt nguồn từ sự tồn tại của xã hội,

hình thành do các nhu cầu thiết yếu của tồn tại xã hội, và đặc biệt, là kết quả tất yếu của hoạt động vật chất có tính xã hội của con người và cũng đáp

ứng yêu cầu của tồn tại xã hội một cách trực quan. Bao gồm toàn bộ những quan điểm tư tưởng cùng những tình cảm, tâm trạng... của những cộng

1
đồng xã hội, nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định .

Ví dụ: Lòng yêu nước của dân tộc Việt Nam được hình thành từ lịch sử ngàn năm xây dựng và bảo vệ đất nước và đã trở thành điểm cốt

lõi của bản sắc văn hóa Việt Nam, là sợi dây bền chặt gắn bó, cố kết con người Việt Nam tạo thành sức mạnh chống giặc ngoại xâm, giữ gìn bảo vệ

non sông bờ cõi, đó chính là nét đặc trưng của truyền thống dân tộc Việt Nam.

1. 1. 2. Kết cấu của ý thức xã hội

Ý thức xã hội bao gồm tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội. Trong tâm lý xã hội có tình cảm, tâm trạng, truyền thống,.. . Trong hệ tư

tưởng xã hội, quan trọng nhất là các quan điểm, học thuyết và tư tưởng. Về mặt hình thức, ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội dưới nhiều hình thức

khác nhau. Sự đa dạng các hình thái ý thức xã hội là do những nhu cầu tất yếu trong đời sống xã hội quy định và xã hội được phản ánh theo những

cách thức khác nhau.

Tùy thuộc vào góc độ xem xét, người ta thường chia ý thức xã hội thành ý thức xã hội thông thường, ý thức lý luận, tâm lý xã hội và hệ tư

tưởng xã hội.

Thứ nhất, ý thức xã hội thông thường là những tri thức, những quan niệm của con người hình thành một cách trực tiếp trong các hoạt

động trực tiếp hằng ngày nhưng chưa được hệ thống hóa, chưa được tổng hợp và khái quát hóa.

Ví dụ: các câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ được tích góp từ những kinh nghiệm quý báu của thế hệ trước, được truyền lại từ thế hệ này

sang thế hệ khác, phản ánh chủ quan góc nhìn của con người trong đời sống xã hội.

Thứ hai, ý thức lý luận là những tư tưởng, những quan điểm được tổng hợp, được hệ thống hóa và khái quát hóa thành các học thuyết xã

hội dưới dạng các khái niệm, các phạm trù và các quy luật.

Ví dụ: Triết học Mác-Lênin là những quan điểm được tổng hợp có hệ thống và khái quát. Được hình thành dựa trên các học thuyết, tài

liệu và sự hiểu biết của con người.

1
Trần Sĩ Dương, (2022), Quan điểm của Triết học Mac-Lenin về ý thức xã hội và ý nghĩa đối với việc xây dựng ý thức xã hôi mới hiện nay, http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/nguyen-cuu-
ly-luan/item/4056-quan-diem-cua-triet-hoc-mac-lenin-ve-y-thuc-xa-hoi-va-y-nghia-doi-voi-viec-xay-dung-y-thuc-xa-hoi-moi-hien-nay.html
Ý thức xã hội thông thường phản ánh một cách trực tiếp các mặt khác nhau của cuộc sống hằng ngày của con người. Ý thức xã hội thông

thường tuy ở trình độ thấp hơn ý thức lý luận nhưng lại phong phú hơn ý thức lý luận. Chính những tri thức kinh nghiệm phong phú của ý thức thông

thường là chất liệu, cơ sở và tiền đề quan trọng cho sự hình thành ý thức lý luận. Ý thức lý luận hay có khả năng phản ánh hiện thực khách quan một

cách sâu sắc, chính xác, bao quát và vạch ra được những mối liên hệ khách quan, bản chất, tất yếu mang tính quy luật của các sự vật và các quá trình

1
xã hội. Đồng thời, ý thức khoa học có khả năng phản ánh vượt trước hiện thực.

Thứ ba, tâm lý xã hội là ý thức xã hội, được thể hiện trong ý thức cá nhân. Tâm lý xã hội bao gồm toàn bộ tư tưởng, tình cảm, tâm trạng,

thói quen, nếp sống, nếp nghĩ, phong tục, tập quán, ước muốn, v. v. của một người, một bộ phận xã hội hay của toàn thể xã hội hình thành dưới tác

động trực tiếp của cuộc sống hằng ngày của họ và phản ánh cuộc sống đó. Tâm lý xã hội cũng phản ánh một cách trực tiếp và tự phát những điều kiện

sinh hoạt hằng ngày của con người, cho nên nó chỉ ghi lại những gì dễ thấy, những gì nằm trên bề mặt của tồn tại xã hội.

Ví dụ: Truyền thống trao nhau những chiếc bánh trung thu nhằm tượng trưng cho sự đoàn tụ gia đình và hạnh phúc. Tính biểu tượng này

bắt nguồn từ việc các gia đình tụ họp cùng nhau để đón Tết Trung thu. Ngày nay, việc tặng bánh nướng trong tháng 8 Âm lịch là một truyền thống

với nhiều người. Ngay cả trong đại dịch, thói quen này cũng không mai một.

Do vậy, khác với ý thức lý luận, tâm lý xã hội chưa đủ khả năng để vạch ra những mối liên hệ khách quan, bản chất, tất yếu mang tính

quy luật, hệ thống của các sự vật và các quá trình xã hội. Mặc dù vậy, cần coi trọng vai trò của tâm lý xã hội trong việc phát triển ý thức xã hội, nhất

là việc sớm nắm bắt những dư luận xã hội thể hiện trạng thái tâm lý và nhu cầu xã hội đa dạng của nhân dân trong những hoàn cảnh, điều kiện khác

nhau.

Thứ tư, hệ tư tưởng là giai đoạn phát triển cao hơn của ý thức xã hội, là sự nhận thức lý luận về tồn tại xã hội. Hệ tư tưởng có khả năng đi

sâu vào bản chất của mọi mối quan hệ xã hội ; là kết quả của sự tổng kết, sự khái quát hóa các kinh nghiệm xã hội để hình thành nên những quan

điểm, những tư tưởng về chính trị, pháp luật, triết học, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo, v. v..

Ví dụ: Sự hình thành và phát triển Hiến pháp của một quốc gia đều dựa trên những quan điểm, tư tưởng về chính trị, đạo đức, tôn giáo …

phản ánh cụ thể quá trình xây dựng và định hướng đất nước của một quốc gia.

Mặc dù tâm lý xã hội và hệ tư tưởng thuộc hai trình độ khác nhau của ý thức xã hội nhưng chúng có mối liên hệ qua lại và tác động qua

lại lẫn nhau. Nếu tâm lý xã hội có thể thúc đẩy hoặc cản trở sự hình thành và sự tiếp nhận một hệ tư tưởng nào đó; có thể giảm bớt sự xơ cứng hoặc

công thức cứng nhắc của hệ tư tưởng, thì trái lại, hệ tư tưởng khoa học có thể bổ sung, làm gia tăng hàm lượng trí tuệ cho tâm lý xã hội, góp phần

thúc đẩy tâm lý xã hội phát triển theo chiều hướng tích cực.

1. 1. 3. Các hình thái ý thức xã hội

Các hình thái ý thức xã hội thể hiện các phương thức nắm bắt khác nhau về mặt tinh thần đối với hiện thực xã hội, bởi vậy, ý thức xã hội

tồn tại dưới nhiều hình thái khác nhau. Những hình thái chủ yếu của ý thức xã hội bao gồm ý thức chính trị, ý thức pháp quyền, ý thức đạo đức, ý

thức thẩm mỹ (hay ý thức nghệ thuật), ý thức tôn giáo ý thức lý luận (hay ý thức khoa học) ý thức triết học. Sự phong phú của các hình thái ý thức xã

hội phản ánh sự phong phú của đời sống xã hội.

1
Bộ Giáo dục và Đào tạo, (2021), Giáo trình Triết học Mác - Lênin (Dành cho sinh viên đại học khối không chuyên ngành Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh), Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia.
Ý thức chính trị: Ý thức chính trị là toàn bộ các quan điểm về chế độ xã hội, về quan hệ giai cấp, quan hệ dân tộc, về vấn đề nhà nước và

các đảng phái. Hình thái ý thức chính trị xuất hiện trong những xã hội có giai cấp và có nhà nước, vì vậy nó thể hiện trực tiếp và rõ nhất lợi ích giai

cấp. Ý thức chính trị, nhất là hệ tư tưởng chính trị, có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của xã hội, bởi vì, hệ tư tưởng chính trị thể hiện trong

cương lĩnh chính trị, trong đường lối và các chính sách của đảng chính trị, pháp luật của nhà nước, đồng thời cũng là công cụ thống trị xã hội của giai

cấp thống trị. Hệ tư tưởng chính trị tiến bộ sẽ thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển các mặt của đời sống xã hội; ngược lại, hệ tư tưởng chính trị lạc hậu,

phản động sẽ kìm hãm, thậm chí kéo lùi sự phát triển đó. Hệ tư tưởng chính trị giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội và xâm nhập

vào tất cả các hình thái ý thức xã hội khác.

Trong thời đại hiện nay, hệ tư tưởng của giai cấp công nhân là hệ tư tưởng tiến bộ, cách mạng và khoa học đang dẫn dắt giai cấp công

nhân và nhân dân lao động đấu tranh nhằm xóa bỏ chế độ người bóc lột người, tiến tới xây dựng xã hội mới tốt đẹp hơn chế độ tư bản chủ nghĩa.

Ý thức pháp quyền: Ý thức pháp quyền có mối liên hệ chặt chẽ với ý thức chính trị. Ý thức pháp quyền là toàn bộ những quan điểm về

bản chất, vai trò của luật pháp, về quyền và nghĩa vụ của nhà nước, của các tổ chức xã hội và công dân, về tính hợp pháp và không hợp pháp của hành

vi con người trong xã hội, về đánh giá các luật pháp đã ban hành. Ý thức pháp quyền mang tính giai cấp rất rõ. Bởi vì, pháp luật là ý chí của giai cấp

thống trị được thể hiện thành luật lệ. Mỗi chế độ xã hội, mỗi nhà nước chỉ có một hệ thống pháp luật của giai cấp nắm chính quyền. Và trong các xã

hội có giai cấp đối kháng, các giai cấp khác nhau có những ý thức khác nhau, thậm chí đối lập nhau về pháp quyền và pháp luật. Nhưng ý thức pháp

quyền và pháp luật của giai cấp thống trị bao giờ cũng giữ vai trò thống trị, chi phối các ý thức pháp quyền và pháp luật của các giai cấp khác. Mặt

khác, ý thức pháp quyền, đặc biệt là hệ thống luật pháp còn luôn đặt nền tảng trên điều kiện kinh tế chung của xã hội.

Cũng giống như ý thức chính trị, ý thức pháp quyền ra đời trong xã hội có giai cấp và có nhà nước, vì vậy nó cũng mang tính giai cấp. Do

pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị thể hiện thành luật lệ cho nên trong xã hội có giai cấp đối kháng thì thái độ và quan điểm của các giai cấp khác

nhau đối với pháp luật cũng khác nhau. Trong xã hội có giai cấp, ý thức pháp quyền là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm của một giai cấp về bản

chất và vai trò của pháp luật, về quyền, trách nhiệm và nghĩa vụ của nhà nước, của các tổ chức xã hội và của công dân, về tính hợp pháp và không

hợp pháp của hành vi con người trong xã hội.

Ví dụ: Pháp luật của một quốc quốc gia được ban hành dựa trên hành vi và đạo đức của quốc gia đó, nhằm định hướng và xây dựng

đường lối đúng đắn phát triển đất nước. Vì vậy, việc đẩy mạnh và tăng cường công tác giáo dục ý thức pháp luật cho toàn dân là nhiệm vụ quan trọng,

thường xuyên và lâu dài của cả hệ thống chính trị.

Ý thức đạo đức: Ý thức đạo đức là toàn bộ những quan niệm về thiện, ác, tốt, xấu, lương tâm, trách nhiệm, nghĩa vụ, công bằng, hạnh

phúc, v. v. …và về những quy tắc đánh giá, những chuẩn mực điều về cả hành vi lẩn cách ứng xử giữa cá nhân với cá nhân và giữa cá nhân với xã

hội. Sự phát triển của hình thái ý thức đạo đức không tách rời sự phát triển của xã hội, phản ánh tồn tại xã hội dưới dạng các quy tắc điều chỉnh hành

vi của con người. Sự tự ý thức của con người về lương tâm, trách nhiệm, nghĩa vụ, danh dự, v. v… nói lên tầm quan trọng của đạo đức trong xã hội

hiện tại, đồng thời cũng là thể hiện bản chất xã hội của con người.

Với ý nghĩa đó, sự phát triển của ý thức đạo đức là nhân tố biểu hiện sự tiến bộ của xã hội. Ý thức đạo đức bao gồm hệ thống những tri

thức về giá trị và định hướng giá trị đạo đức; những tình cảm và lý tưởng đạo đức, trong đó tình cảm đạo đức là yếu tố quan trọng nhất, bởi vì, nếu
không có tình cảm đạo đức thì tất cả những khái niệm, những phạm trù và tri thức đạo đức thu nhận được bằng con đường lý tính không thể chuyển

hóa thành hành vi đạo đức. Ph. Ăngghen viết: “Xét cho đến cùng, mọi học thuyết về đạo đức đã có từ trước đến nay đều là sản phẩm của tình hình

kinh tế của xã hội lúc bấy giờ. Và vì cho tới nay xã hội đã vận động trong những sự đối lập giai cấp, cho nên đạo đức cũng luôn luôn là đạo đức của

giai cấp: hoặc là nó biện hộ cho sự thống trị và lợi ích của giai cấp thống trị, hoặc là, khi giai cấp bị trị trở nên khá mạnh thì nó tiêu biểu cho sự nổi

dậy chống lại sự thống trị nói trên và tiêu biểu cho lợi ích tương lai của những người bị áp bức” Giai cấp nào trong xã hội đang đi lên thì giai cấp đó

sẽ đại diện cho xu hướng đạo đức tiến bộ trong xã hội. Ngược lại, giai cấp đang đi xuống, lụi tàn hoặc phản động đại diện cho xu hướng đạo đức suy

thoái.

Tuy nhiên, từ xưa đến nay, trong tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại, ở các hệ thống đạo đức khác nhau, vẫn có những yếu tố chung

mang tính toàn nhân loại. Đó là những quy tắc ứng xử nhằm điều chỉnh hành vi của con người và duy trì trật tự xã hội hiện hành. Những quy tắc

chung mang tính toàn nhân loại này đã từng tồn tại từ rất lâu, và chắc chắn sẽ còn tồn tại lâu dài cùng với sự tồn tại của con người suốt trong lịch sử

nhân loại.

Ví dụ: Mỗi quốc gia, mỗi cộng động, mỗi giai đoạn lịch sử lại có một nét đạo đức truyền thống tốt đẹp khác nhau. Như Việt Nam nổi

tiếng khắp thế giới với lòng yêu nước mãnh liệt hay Nhật Bản với nhiều truyền thống đạo đức tốt đẹp được nhà nước ưu tiên cho ngành giáo dục, đặc

biệt là đối với trẻ em. Tất cả đều là những nét đẹp đạo đức mang đậm tính dân tộc và phản ánh đời sống xã hội của cộng động đó.

Hiện nay, chúng ta đang sống trong điều kiện kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và toàn cầu hóa, cho nên con người

chịu sự tác động và ảnh hưởng không nhỏ của nhiều loại đạo đức khác nhau. Bên cạnh đó, việc kế thừa và duy trì các giá trị tốt đẹp của đạo đức

truyền thống của dân tộc, chúng ta cũng đang phải đối mặt với không ít những yếu tố tiêu cực, đối lập với các giá trị đạo đức truyền thống của dân

tộc, đó là thói ích kỷ, tính thực dụng, lòng tham lam, tất cả vì đồng tiền, không trung thực, thiếu lý tưởng, sống gấp,.. . Vì vậy, trong giai đoạn hiện

nay, nhiệm vụ giáo dục các giá trị đạo đức lành mạnh, tiến bộ là nhiệm vụ hết sức quan trọng, nhất là đối với thế hệ trẻ.

Ý thức nghệ thuật hay ý thức thẩm mỹ: Ý thức nghệ thuật hay ý thức thẩm mỹ hình thành rất sớm, từ trước khi xã hội có sự phân chia giai

cấp, cùng với sự ra đời của các hình thái nghệ thuật. Giống như các hình thái ý thức xã hội khác, ý thức thẩm mỹ phản ánh tồn tại xã hội. Tuy nhiên,

nếu khoa học và triết học phản ánh thế giới bằng khái niệm, bằng phạm trù và quy luật, thì nghệ thuật phản ánh thế giới bằng hình tượng nghệ thuật.

Hình tượng nghệ thuật là sự nhận thức, sự lĩnh hội cái chung trong cái riêng; là sự nhận thức cái bản chất trong các hiện tượng, cái phổ biến trong cái

cá biệt nhưng mang tính điển hình.

Nghệ thuật chân chính gắn với cuộc sống của nhân dân và các hình tượng nghệ thuật có giá trị thẩm mỹ cao đáp ứng những nhu cầu thẩm

mỹ lành mạnh, đa dạng của nhiều thế hệ. Chúng có tác động tích cực đến sự trải nghiệm, xúc cảm, tình cảm, lý trí, là nhân tố kích thích mạnh mẽ hoạt

động của con người và qua đó thúc đẩy sự tiến bộ xã hội. Nghệ thuật và những giá trị nghệ thuật cao đó còn có tác dụng giáo dục các thế hệ tương lai,

góp phần hình thành ở họ thế giới quan và vốn văn hóa tiên tiến.

Ví dụ: Những tác phẩm nổi tiếng trong thời kì phục hưng như "Bữa ăn tối cuối cùng" của Leonardo da Vinci hay " Trần nhà nguyện

Sistine của Michelangelo phản ánh rõ nét những tư tưởng, quan niệm và hiện thực xã hội. Những tác phẩm này không chỉ có giá trị về nghệ thuật mà

nó còn có giá trị về nhiều mặt khác như tôn giáo, xã hội, lịch sử …
Trong xã hội có phân chia giai cấp thì nghệ thuật mang tính giai cấp và chịu sự chi phối của các quan điểm chính trị, của các quan hệ kinh

tế. Tuy nhiên, cũng như hình thái ý thức đạo đức, nghệ thuật và ý thức thẩm mỹ vẫn có những yếu tố mang tính toàn nhân loại, do vậy nhiều nền nghệ

thuật, nhiều tác phẩm nghệ thuật, nhiều giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể ở các giai đoạn lịch sử khác nhau, của các tác giả thuộc các giai cấp và

các dân tộc khác nhau đã trở thành những giá trị văn hóa chung tiêu biểu, trường tồn và vô giá của nhân loại. Nghệ thuật tiến bộ đồng thời vừa phục

vụ cho dân tộc mình, vừa phục vụ cho cả nhân loại; vừa phục vụ cho thế hệ hiện tại lẫn cho cả các thế hệ tương lai.

Ý thức tôn giáo: Các nhà duy vật trước C. Mác mặc dù đã tìm nhiều cách khác nhau để giải thích nguồn gốc ra đời và bản chất của tôn

giáo nhưng tất cả đều sai lầm. Đối với C. Mác và Ph. Ăngghen, tôn giáo có trước triết học; nó là một hình thái ý thức xã hội trực tiếp thể hiện thế giới

quan của con người. Khác với tất cả các hình thái ý thức xã hội khác, tôn giáo là sự phản ánh hư ảo sức mạnh của giới tự nhiên bên ngoài lẫn các

quan hệ xã hội vào đầu óc con người. Tôn giáo với tư cách là một hình thái ý thức xã hội gồm có tâm lý tôn giáo và hệ tư tưởng tôn giáo. Tâm lý tôn

giáo là toàn bộ những biểu tượng, tình cảm, tâm trạng của quần chúng về tín ngưỡng tôn giáo. Hệ tư tưởng tôn giáo là hệ thống giáo lý được các nhà

thần học và các chức sắc giáo sĩ tôn giáo tạo dựng và truyền bá trong xã hội.

Tâm lý tôn giáo và hệ tư tưởng tôn giáo có quan hệ chặt chẽ với nhau. Tâm lý tôn giáo tạo cơ sở cho hệ tư tưởng tôn giáo dễ dàng xâm

nhập vào quần chúng. Chức năng chủ yếu của ý thức tôn giáo là chức năng đền bù hư ảo. Chức năng này làm cho tôn giáo có sức sống lâu dài trong

xã hội, gây ra ảo tưởng về sự đền bù ở thế giới bên kia, những gì mà con người không thể đạt được trong cuộc sống hiện thực mà con người đang

sống. Vì vậy, hình thái ý thức xã hội này mang tính chất tiêu cực, cản trở sự nhận thức đúng đắn của con người về thế giới, về xã hội, về bản thân

mình để rồi luôn luôn bị các giai cấp thống trị lợi dụng. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác, muốn xóa bỏ tôn giáo thì phải xóa bỏ nguồn gốc xã hội

1
của nó; đồng thời phải nâng cao năng lực nhận thức, trình độ học vấn của con người.

Ý thức lý luận hay ý thức khoa học: Khoa học hình thành và phát triển ở một giai đoạn nhất định của sự phát triển xã hội, của nhu cầu sản

xuất xã hội và sự phát triển năng lực tư duy của con người. Khoa học là sự khái quát cao nhất của thực tiễn, là phương thức nắm bắt tất cả các hiện

tượng của hiện thực, cung cấp những tri thức chân thực về bản chất các hiện tượng, các quá trình, các quy luật của tự nhiên và của xã hội. Vì vậy,

khoa học và tôn giáo là những hiện tượng đối lập với nhau về bản chất. Tôn giáo thù địch với lý trí con người, trong khi đó khoa học lại là sản phẩm

cao nhất của lý trí và là sức mạnh của con người. Nếu ý thức tôn giáo là sự phản ánh hư ảo sức mạnh của giới tự nhiên bên ngoài lẫn các quan hệ xã

hội vào đầu óc con người thì ý thức khoa học phản ánh hiện thực một cách chân thực và chính xác dựa vào sự thật và lý trí của con người.

Khác với tất cả các hình thái ý thức xã hội khác, ý thức khoa học phản ánh sự vận động và sự phát triển của giới tự nhiên, của xã hội loài

người và của tư duy con người bằng tư duy logic, thông qua hệ thống các khái niệm, các phạm trù, các quy luật và các lý thuyết. Nếu ý thức tôn giáo

hướng con người vào thế giới những ảo tưởng, siêu tự nhiên thì, trái lại, ý thức khoa học có nhiệm vụ cao cả là hướng con người vào việc biến đổi

hiện thực, cải tạo thế giới nhằm phục vụ cho nhu cầu cuộc sống nhiều mặt và ngày càng tốt hơn, cao hơn của con người.

Ngày nay, trong sự tự động hóa sản xuất, tri thức khoa học được kết tinh trong mọi nhân tố của lực lượng sản xuất - trong đối tượng lao

động, kỹ thuật, quá trình công nghệ và cả trong những hình thức tổ chức tương ứng của sản xuất; người lao động không còn là nhân tố thao tác trực

tiếp trong hệ thống kỹ thuật mà chủ yếu là vận dụng tri thức khoa học để điều khiển quá trình sản xuất; khoa học cho phép hoàn thiện các phương

1
Tô Thị Phương Dung, (2022), Ý thức tôn giáo là gì? Kết cấu và vai trò của ý thức tôn giáo, https://luatminhkhue.vn/y-thuc-ton-giao-la-gi-ket-cau-va-vai-tro-cua-y-thuc-ton-giao.aspx
pháp sản xuất, hoàn thiện việc quản lý kinh tế. Hơn nữa khoa học còn trở thành một ngành hoạt động sản xuất với quy mô ngày càng lớn, bao hàm

hàng loạt các viện, phòng thí nghiệm, trạm, trại, xí nghiệp với số cán bộ khoa học ngày càng tăng, vốn đầu tư ngày càng lớn, hiệu quả đầu tư ngày

càng cao. Do những biến đổi căn bản về vai trò của khoa học đối với sản xuất mà khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.

Ý thức triết học: Hình thức đặc biệt và cao nhất của tri thức cũng như của ý thức xã hội là triết học. Nếu như các ngành khoa học riêng lẻ

nghiên cứu thế giới từ các khía cạnh, từ những mặt nhất định của thế giới đó thì triết học, nhất là triết học Mác - Lênin, cung cấp cho con người tri

thức về thế giới như một hệ thống nhất thông qua việc tổng kết toàn bộ lịch sử của triết học nói riêng và toàn bộ nền khoa học của nhân loại nói

chung. Đồng thời, với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, triết học nói chung và nhất là triết học duy vật biện chứng nói riêng có sứ mệnh trở thành

thế giới quan, mà cơ sở và hạt nhân của thế giới quan chính là tri thức. Chính thế giới quan đó giúp con người trả lời cho các câu hỏi được nhân loại

từ xưa đến nay thường xuyên đặt ra cho mình. Chẳng hạn, thế giới xung quanh ta là gì? Thế giới ấy có điểm bắt đầu và điểm kết thúc hay không? Sức

mạnh nào chi phối sự tồn tại và biến đổi đó? Con người là gì, sinh ra từ đâu và có quan hệ như thế nào với thế giới ấy? Cuộc sống của con người có ý

nghĩa gì? Con người có vị trí nào trong thế giới đó?, v. v.. Như vậy, thế giới quan triết học bao hàm trong nó cả nhân sinh quan.

Đặc biệt, với C. Mác thì “vì mọi triết học chân chính đều là tinh hoa về mặt tinh thần của thời đại mình, nên nhất định sẽ có thời kỳ mà

triết học, không chỉ về bên trong, theo nội dung của nó, mà cả về bên ngoài, theo sự biểu hiện của nó, sẽ tiếp xúc và tác động qua lại tới thế giới hiện

thực của thời đại của mình. Lúc đó, triết học sẽ không còn là một hệ thống nhất định đối với các hệ thống nhất định khác, nó trở thành triết học nói

chung đối với thế giới, trở thành triết học của thế giới hiện đại. Những biểu hiện bên ngoài chứng minh rằng triết học đã có ý nghĩa khiến cho nó trở

1
thành linh hồn sống của văn hóa... ”.

Trong thời đại hiện nay, thế giới quan khoa học chân chính nhất chính là thế giới quan triết học duy vật biện chứng. Triết học duy vật biện

chứng có vai trò to lớn để nhận thức đúng đắn ý nghĩa và vai trò của các hình thái ý thức xã hội khác; để xác định đúng vị trí của những hình thái ấy

trong cuộc sống của xã hội, để nhận thức tính quy luật cùng những đặc điểm, sự phát triển của chúng.

1
Bộ Giáo dục và Đào tạo, (2021), Giáo trình Triết học Mác - Lênin (Dành cho sinh viên đại học khối không chuyên ngành Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh), Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị

Quốc gia, tr. 438 – 439.


1. 2. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội

Quan điểm duy vật lịch sử khẳng định rằng, ý thức xã hội và tồn tại xã hội có mối quan hệ biện chứng. Ý thức xã hội là sự phản ánh tồn

tại xã hội và do tồn tại xã hội quyết định. Tồn tại xã hội nào thì có ý thức xã hội ấy. Khi tồn tại xã hội thay đổi, ý thức xã hội sớm muộn cũng thay đổi

theo. Tồn tại xã hội quyết định nội dung, tính chất, đặc điểm, xu hướng vận động, sự biến đổi và sự phát triển của các hình thái ý thức xã hội. Tuy

nhiên, ý thức xã hội không tồn tại một cách thụ động mà nó ảnh hưởng mạnh mẽ đến tồn tại xã hội. Thông qua hoạt động thực tiễn của con người, ý

thức xã hội sẽ kìm hãm hay thúc đẩy sự phát triển của tồn tại xã hội. Mức độ hiệu quả của tác động ý thức xã hội đến tồn tại xã hội phụ thuộc điều

kiện lịch sử, tính chất các quan hệ kinh tế mà trên đó tư tưởng nảy sinh. Các hình thái ý thức xã hội có đặc điểm chung là mặc dù bị tồn tại xã hội quy

định, song đều có tính độc lập tương đối.

1. 2. 1. Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội

Lịch sử xã hội loài người cho thấy, nhiều khi xã hội cũ đã mất đi rất lâu, nhưng ý thức xã hội cũ tương ứng thì nó lại vẫn còn tiếp tục tồn

tại. Điều này biểu hiện rõ nhất ở các khía cạnh khác nhau của tâm lý xã hội như truyền thống, thói quen và nhất là tập quán. Do vậy chính điều này đã

biểu hiện ý thức xã hội muốn thoát ly ra khỏi sự ràng buộc của tồn tại xã hội và biểu hiện tính độc lập tương đối. Và có thể có rất nhiều những nguyên

nhân dẫn đến ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội, song có thể kể một số nguyên nhân cơ bản như sau:

Thứ nhất, sự biến đổi của sự tồn tại xã hội và những tác động mạnh mẽ trong nhiều mặt hoạt động thực tiễn của con người đã diễn ra với

tốc độ nhanh làm ý thức xã hội không thể phản ánh kịp và trở nên lạc hậu.

Thứ hai, do sức mạnh của truyền thống, của thói quen và những phong tục tập quán hay một số hình thái ý thức xã hội bảo thủ. Những

điều kiện tồn tại của xã hội mới chưa đủ mạnh mẽ để làm biến mất những phong tục, truyền thống cũ

Thứ ba, ý thức xã hội gắn liền với lợi ích của những tập đoàn người, của các giai cấp nào đó trong xã hội. Họ luôn muốn níu kéo, bám giữ

những tư tưởng lạc hậu có lợi cho họ để chống lại các lực lượng mong muốn tiến bộ của xã hội.

Do vậy, khi muốn xây dựng xã hội mới nhất định cần phải từng bước xóa bỏ những tàn dư, tư tưởng, ý thức của xã hội cũ đã lỗi thời, lạc

hậu. Cùng với đó là kế thừa, giữ gìn, xây dựng và bồi đắp, phát triển ý thức tốt đẹp của dân tộc cho xã hội mới.

Ví dụ: những tư tưởng từ thời phong kiến của Việt Nam như: trọng nam khinh nữ, gia trưởng, tập tục bắt vợ, ép duyên, ép cưới, phân biệt

đối xử theo giai cấp, chủng tộc, tôn giáo; hay những hủ tục như ma chay, cưới sinh, đốt vàng mã...

1. 2. 2. Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội

Triết học Mác-Lênin thừa nhận rằng, ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội nhưng chính chúng cũng có thể vượt trước tồn

tại xã hội, dự báo được quy luật và có tác dụng tổ chức, hướng hoạt động thực tiễn của con người vào mục đích nhất định. Có được khả năng đó là

bởi đặc điểm của tư tưởng khoa học quy định, phản ánh đúng những mối liên hệ lôgic, tính tất yếu, khách quan, bản chất của tồn tại xã hội. Vì vậy,

trong thời đại chúng ta, chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn đang là thế giới quan và phương pháp luận chung nhất cho sự nhận thức, cho công cuộc cải tạo

hiện thực. Đây là một hiện tượng tích cực, góp phần thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội.

Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội thường là tư tưởng khoa học có khả năng vạch ra cho các tiến hóa của xã hội. Có thể kể tư

tưởng khoa học đã vượt trước tồn tại xã hội như thuyết nguyên tử của democritos có từ thời cổ đại nhưng đến ngày nay mới được chứng minh và
khẳng định là đúng. Nếu ý thức xã hội là những tư tưởng phản khoa học thì nó tự ý xuất phát từ mong muốn của con người như trường hợp sau đây.

Trước thời kì đổi mới, Việt Nam muốn có ngay mô hình chủ nghĩa xã hội nên đã thực hiện cách mạng trong lĩnh vực quan hệ sản xuất trong khi lực

lượng sản xuất còn kém.

Tóm lại, tư tưởng khoa học vượt trước có vai trò định hướng, dẫn dắt con người trong những hoạt động thực tiễn. Tư tưởng khoa học này

rất quan trọng nên chúng ta cần phải tạo điều kiện để áp dụng, đưa khoa học vào phát triển đời sống và phát huy hết mức năng lực của nó. Cần phát

huy tính sáng tạo, tích cực của yếu tố con người, yếu tố xã hội, khắc phục triệt để tính bảo thủ, thụ động trong cuộc sống.

1. 2. 3. Ý thức xã hội có tính kế thừa

Lịch sử phát triển đời sống tinh thần xã hội đã cho thấy rằng, những quan điểm lý luận ở mỗi thời đại sau bao giờ cũng dựa vào những

tiền đề đã có từ các giai đoạn lịch sử trước đó, là sản phẩm của tồn tại xã hội. Ý thức xã hội mới phản ánh ý thức tồn tại của xã hội đương thời. Trong

các xã hội có giai cấp thì các giai cấp khác nhau sẽ kế thừa những di sản khác nhau của những giai đoạn trước. Những giai cấp tiên tiến thường sẽ kế

thừa những di sản tư tưởng tiến bộ của xã hội để lại. Ngược lại, những giai cấp lỗi thời sẽ tiếp thu và khôi phục lại những tư tưởng cũ của xã hội

trước. Những gì chúng ta có ngày nay là của truyền thống và chúng ta được kế thừa, chứ nó không tự được sinh ra trong thời đại mới. Quan điểm của

triết học Mác - Lênin về tính kế thừa của ý thức xã hội có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp xây dựng văn hóa tinh thần của dân tộc ta hiện nay. Trong

nền kinh tế thị trường mở và hội nhập giao lưu quốc tế như hiện nay, Đảng ta luôn quán triệt quan điểm xây dựng nền văn hóa đậm đà bản sắc dân

tộc, tiếp thu những tinh hoa văn hóa một cách chọn lọc, luôn giữ vững tinh thần hòa nhập chứ không hòa tan.

Ví dụ: Người Việt Nam vẫn luôn kế thừa truyền thống yêu nước, đoàn kết dân tộc, ham học hỏi...

1. 2. 4. Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội

a. Biểu hiện

Trong quá trình phát triển, các hình thức xã hội không tách rời nhau mà tác động ảnh hưởng lẫn nhau trên cơ sở phản ánh tồn tại xã hội.

Tuy nhiên, ở các thời đại lịch sử khác nhau, trong những hoàn cảnh khác nhau dù vai trò của các hình thái ý thức xã hội không giống nhau nhưng

chúng vẫn chịu ảnh hưởng của các hình thái ý thức xã hội khác. Ví dụ sự ảnh hưởng của triết lý La Mã cổ đại đã tác động mạnh mẽ đến ý thức chính

trị, pháp quyền và xã hội. Từ đó triết học của C.Mác đã thúc đẩy phong trào công nhân và phát triển tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Trong sự ảnh hưởng

lẫn nhau giữa các hình thái ý thức xã hội qua các thời kỳ phát triển của lịch sử thì trong một thời đại nhất định sẽ có một hình thái ý thức xã hội nổi

lên hàng đầu, phát triển hơn so với các hình thái ý thức xã hội khác và khi đó nó sẽ chi phối tác động các hình thái ý thức xã hội còn lại. Ví dụ ở thời

Hy Lạp cổ đại, vào khoảng thế kỷ V trước Công nguyên, ý thức triết học và ý thức nghệ thuật có vai trò đặc biệt to lớn; ở các nước Tây Âu thời trung

cổ, ý thức tôn giáo tác động rất mạnh và chi phối các hình thái ý thức khác như ý thức chính trị, ý thức pháp quyền, ý thức triết học, ý thức đạo đức, ý

thức nghệ thuật thì ở nước Pháp nửa sau thế kỷ XVIII và ở nước Đức cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, triết học và văn học đóng vai trò quan trọng

nhất trong việc truyền bá các tư tưởng chính trị và pháp quyền, là vũ khí tư tưởng và lý luận trong cuộc đấu tranh chính trị chống lại các thế lực cầm

1
quyền

b. Ý nghĩa

1
Bộ Giáo dục và Đào tạo, (2021), Giáo trình Triết học Mác - Lênin (Dành cho sinh viên đại học khối không chuyên ngành Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh), Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia, tr. 200.
Khi phân tích một hình thái ý thức hình thái xã hội không chỉ chú ý đến điều kiện kinh tế - xã hội đã sinh ra nó (tồn tại xã hội), những tư

tưởng mà nó đã kế thừa mà còn phải chú ý đến những sự tác động của các hình thái ý thức khác đối với nó. Nhìn chung, để phản ánh tồn tại xã hội thì

mọi hình thái ý thức xã hội đều phải thông qua lăng kính của hình thái ý thức chính trị để phản ánh trực quan nhất về tồn tại xã hội. Tính giai cấp của

ý thức xã hội cũng phản ánh qua ý thức chính trị.

c. Liên hệ:

Đất nước Việt Nam ta hiện nay là thành quả của sự kế thừa các hình thái ý thức xã hội của những thời kỳ phát triển trước. Ví dụ thông

qua ý thức chính trị về lòng yêu nước nồng nàn, ý chí độc lập tự cường, khát vọng độc lập, tự do…. của cộng đồng dân tộc Việt Nam là sự phản ánh ở

trình độ tâm lí xã hội; còn chủ nghĩa yêu nước với những quan niệm, quan điểm về dân tộc độc lập, quyền tự quyết định vận mệnh dân tộc, không có

gì quý hơn độc lập tự do… của cộng đồng dân tộc Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước là trình độ phản ánh

ở cấp độ hệ tư tưởng xã hội. Toàn bộ đời sống tâm lí và tư tưởng xã hội ấy hợp lại thành tinh thần yêu nước của dân tộc Việt Nam.

1. 2. 5. Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội

a. Biểu hiện

Trong xã hội có giai cấp, có những tư tưởng tiến bộ, cách mạng và có những tư tưởng lạc hậu, phản động. Cả hai loại tư tưởng đó đều có

tác động trở lại tồn tại xã hội. Khi ý thức tiến bộ, cách mạng phản ánh đúng hiện thực khách quan thúc đẩy xã hội phát triển và ngược lại, tư tưởng lạc

hậu, phản động kìm hãm sự phát triển xã hội.

Sự tác động trở lại đối với tồn tại xã hội của các hình thái ý thức xã hội mạnh hay yếu còn phụ thuộc vào những điều kiện lịch sử cụ thể,

vào các quan hệ kinh tế vốn là cơ sở hình thành các hình thái ý thức xã hội; vào trình độ phản ánh và sức lan tỏa của ý thức đối với các nhu cầu khác

nhau của sự phát triển xã hội; đặc biệt là vào vai trò lịch sử của giai cấp đại diện cho ngọn cờ tư tưởng đó

Ý thức xã hội cũng có vai trò nhất định. Về điều này Ph. Ăngghen viết: “Những tiền đề và điều kiện kinh tế, rốt cục giữ vai trò quyết

định. Nhưng những điều kiện chính trị, v. v., ngay cả những truyền thống tồn tại trong đầu óc con người cũng đóng một vai trò nhất định, tuy không

1
phải là vai trò quyết định”

b. Ý nghĩa

Nhìn chung, ý thức xã hội và tồn tại xã hội có mối quan hệ bền chặt và đóng vai trò quan trọng trong xã hội. Phổ biến và phát huy vai trò

của tư tưởng tiến bộ, cách mạng, khoa học…. Bên cạnh đó là đẩy mạnh cuộc CMXHCN trên lĩnh vực tư tưởng, văn hoá để xóa bỏ tư tưởng lạc hậu,

xây dựng nền văn hóa mới, con người mới.... Hơn nữa xóa bỏ tư tưởng, quan niệm, lối sống lạc hậu, … của xã hội là một quá trình mà trước hết cần

thay đổi tồn tại xã hội, nguồn gốc kinh tế - xã hội đã sản sinh ra nó.

c. Liên hệ

Chính sách khoán trong nông nghiệp trước đây phù hợp với lực lượng sản xuất, điều kiện kinh tế của Việt Nam từ đó thúc đẩy nền nông

nghiệp nước ta. Bên cạnh đó, chính sách hạn điền hiện nay bộc lộ những hạn chế khiến cho các hộ gia đình, cá nhân không có điều kiện tập trung, tích

tụ ruộng đất để phát triển sản xuất nông nghiệp với quy mô lớn.

1
Bộ Giáo dục và Đào tạo, (2021), Giáo trình Triết học Mác - Lênin (Dành cho sinh viên đại học khối không chuyên ngành Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh), Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia, tr. 200
Tiểu kết chương 1

Trong Chương 1 "Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về ý thức xã hội", nhóm chúng em đã tóm tắt được nội dung trọng tâm cần nắm

chắc như sau: Chương 1 bao gồm 2 nội dung chính đó là khái niệm, kết cấu và các hình thái ý thức xã hội và tính độc lập tương đối của ý thức xã hội.

Trước tiên nhóm chúng em bắt đầu bằng việc giới thiệu khái niệm ý thức xã hội là gì. Khái niệm tiếp theo mà chúng ta cần nắm vững là về kết cấu

của ý thức xã hội. Theo trình độ phản ánh ý thức xã hội chia thành hai phần ý thức xã hội thông thường và ý thức lý luận. Còn khi dựa theo trình độ

và phương thức phản ánh đối với tồn tại xã hội thì ý thức xã hội được chia thành Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng. Nhóm cũng đã trình bày rõ ràng về

những khía cạnh này, và cung cấp ví dụ minh họa để minh chứng ở nội dung trên. Tiếp đó nhóm tiếp tục giới thiệu về các hình thái ý thức xã hội.

Tuỳ theo góc độ xem xét thì ta có thể phân chia ý thức xã hội thành các hình thái ý thức xã hội như sau: ý thức chính trị, ý thức pháp quyền, ý thức

đạo đức, ý thức nghệ thuật hay ý thức thẩm mỹ, ý thức tôn giáo, ý thức lý luận hay ý thức khoa học, và ý thức triết học. Nhóm đã diễn giải rõ ràng về

mỗi hình thái ý thức này và cung cấp ví dụ minh họa để giải thích. Nội dung chính tiếp theo nhóm tập trung vào tính độc lập tương đối của ý thức xã

hội thường được thể hiện qua các mặt sau: ý thức xã hội thường lạc hậu hơn tồn tại xã hội, ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội, ý thức xã hội

có tính kế thừa, Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội và ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội. Trước khi đi vào phân tích, nhóm

đã trình bày một cách khái quát về tồn tại xã hội và mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Thứ nhất, ý thức xã hội thường lạc hậu hơn tồn

tại xã hội được phân tích thông qua biểu hiện và nguyên nhân khác nhau, từ ấy suy ra ý nghĩa là muốn xây dựng xã hội mới phải từng bước xóa bỏ

những tàn dư ý thức của xã hội cũ song song đó chúng ta cũng cần xây dựng và phát triển ý thức xã hội mới. Thứ hai, ý thức xã hội có thể vượt trước

tồn tại xã hội được chúng phân tích thông qua biểu hiện và nguyên nhân khác nhau, từ những phân tích nhóm đã rút ra được ý nghĩa là những tư

tưởng tiến bộ có vai trò định hướng, chỉ đạo hoạt động của con người, do đó cần phát hiện và tạo điều kiện để chúng phát huy vai trò nhằm thúc đẩy

tồn tại phát triển. Thứ ba, ý thức xã hội có tính kế thừa được thể hiện qua ý thức xã hội của thời đại sau bao giờ cũng kế thừa ý thức xã hội của thời

đại trước. Vì ý thức xã hội có tính kế thừa nên để giải thích tồn tại xã hội không chỉ dựa vào tồn tại xã hội mà còn phải dựa vào ý thức xã hội của thời

đại trước. Thứ tư, các hình thái ý thức thức xã hội có sự tác động qua lại lẫn nhau trong quá trình phát triển trong nội dung này nhóm em đã phân tích

đầy đủ biểu hiện và ý nghĩa ở nội dung trên. Thứ năm, ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội ở đây chúng em tập trung phân tích ở hai mặt tác

động khác nhau của ý thức xã hội đó là mặt tích cực và mặt tiêu cực qua những phân tích trên thì nhóm em rút ra được ý nghĩa là do ý thức xã hội tác

động trở lại tác động trở lại tồn tại xã hội nên cần phát huy vai trò của các tư tưởng tiên tiến, đấu tranh chống lại các tư tưởng lạc hậu, bảo thủ. Tóm

lại Thay đổi tồn tại xã hội là điều kiện cơ bản để thay đổi ý thức xã hội, và những thay đổi trong đời sống tinh thần cũng tác động và tạo ra những

thay đổi trong tồn tại xã hội. Từ đó rút ra kết luận, điều kiện sống, môi trường sinh hoạt, cơ sở vật chất, quan hệ xã hội, … quyết định ý thức đạo đức

nhưng ý thức đạo đức cũng có thể tác động vào hành vi đạo đức dẫn đến thay đổi tồn tại xã hội. Đây là những lý thuyết quan trọng để áp dụng vào

thực tiễn trong quá trình rèn luyện ý thức đạo đức cho sinh viên.
Chương 2

GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HIỆN NAY

2. 1. Khái niệm “đạo đức”, “giáo dục đạo đức” và nội dung cơ bản của giáo dục đạo đức cho sinh viên Việt Nam hiện nay

2. 1. 1. Khái niệm “đạo đức”, “giáo dục đạo đức”

Trước hết, chúng ta đi vào làm rõ khái niệm của đạo đức. Vì con người và đạo đức có liên quan mật thiết đến nhau, nên việc giải thích

đạo đức đã được chú ý và đề cập đến bới các nhà nghiên cứu. Từ điển triết học giải thích đạo đức như một định nghĩa khoa học: “Đạo đức: một trong

những hình thái ý thức xã hội, một chế định xã hội thực hiện chức năng điều chỉnh hành vi của con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội

không trừ lĩnh vực nào. Đạo đức khác với những hình thức điều chỉnh hoạt động quần chúng khác (pháp quyền, những quy chế hành chính sản xuất,

những sắc lệnh nhà nước, những truyền thống dân tộc, v. v…) ở phương thức luận chứng và thực hiện những yêu cầu của mình. Trong đạo đức, sự

cần thiết xã hội, những nhu cầu, lợi ích của xã hội hoặc của các giai cấp biểu hiện dưới hình thức những quy định và những sự đánh giá đã được mọi

người thừa nhận và đã thành hình một cách tự phát, được củng cố bằng sức mạnh của tấm gương của quần chúng, của thói quen, phong tục, dư luận

xã hội. Cho nên, những yêu cầu của đạo đức mang hình thức bổn phận phải làm không riêng một ai, như nhau đối với tất cả, nhưng không chịu sự ra

1
lệnh của ai cả. Những yêu cầu này là có tính chất tương đối bền vững” .

C. Mác và Ph. Ăngghen thì đưa ra quan niệm đạo đức như sau: “Đạo đức là sản phẩm tổng hợp các yếu tố khách quan và chủ quan, là sản

phẩm của hoạt động thực tiễn và nhận thức của con người. Những quan hệ người – người, cá nhân – xã hội càng có ý thức, càng tự giác, ý nghĩa và

hiệu quả của chúng càng có tính chất xã hội rộng lớn thì hành động của con người càng có đạo đức. Đạo đức đã là một sản phẩm của xã hội, và vẫn là

2
như vậy chừng nào con người còn tồn tại” . Còn theo như các tác giả cuốn giáo trình Đạo đức học đã viết thì: “Đạo đức là một hình thái ý thức xã

hội, là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan

3
hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội”.

Như vậy, rút ra từ những quan điểm chung của các học giả, các nhà nghiên cứu thì nhóm đưa ra định nghĩa về đạo đức như sau: Đạo đức

là một hình thái ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội, là tổng hợp những nguyên tắc, chuẩn mực của con người. Sự tự giác, ý thức và tính xã hội của

con người trong cách ứng xử trong các quan hệ người với người, cá nhân với xã hội thể hiện mức độ đạo đức của xã hội. Đạo đức một mặt phát triển

tương đối độc lập, mặt khác bị chi phối bởi những yếu tố xã hội. Các quan hệ đạo đức trong xã hội được thừa nhận và hình thành tự phát, được thực

hiện bởi niềm tin cá nhân và được điều chỉnh bới truyền thống văn hóa, dư luận xã hội. Tuy đạo đức không được ghi lại cụ thể, nhưng nó lại có sức

mạnh to lớn trong việc định hình hành vi, là nhân tố quan trọng đối với sự phát triển toàn diện của con người.

Sau khi tìm hiểu về khái niệm đạo đức thì ta có thể phần nào nhận ra được mối liên hệ mật thiết giữa trình độ đạo đức và xã hội. Và để có

thể duy trì cũng như phát triển những phẩm chất đạo đức tốt đẹp, ta cần phải hiểu và nắm chắc việc giáo dục đạo đức. Giáo dục đạo đức là một vấn đề

được rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm đến, do đó rất nhiều định nghĩa khác nhau về giáo dục đạo đức. Theo tác giả Hà Thế Ngữ và Đặng Vũ Hoạt:

1
Nhiều tác giả, (1986), Từ điển triết học, Maxcơva: Nxb Tiến Bộ.
2
C. Mác – Ph. Ăngghen, (1995), Toàn tập, tập 3, Hà Nội: Nxb Chính trị Quốc gia, tr. 43.
3
Nguyễn Ngọc Long, (2000), Giáo trình Đạo đức học, Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, tr. 8.
“Giáo dục đạo đức là quá trình biến các chuẩn mực đạo đức, từ những đòi hỏi bên ngoài của xã hội đối với cá nhân thành những đòi hỏi bên trong của

1
bản thân, thành niềm tin, nhu cầu, thói quen của người được giáo dục” . Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Thị Lan Anh: “Bản chất của giáo dục đạo đức

là chuỗi tác động có định hướng của chủ thể giáo dục và yếu tố tự giáo dục của sinh viên, giúp sinh viên chuyển những chuẩn mực, quy tắc, nguyên

tắc đạo đức… từ bên ngoài xã hội vào bên trong thành cái của riêng mình mà mục tiêu cuối cùng là hành vi đạo đức phù hợp với những yêu cầu của

các chuẩn mực xã hội. Giáo dục đạo đức không chỉ dừng lại ở việc truyền thụ những khái niệm, những tri thức đạo đức mà quan trọng hơn hết là kết

quả giáo dục phải được thể hiện qua tình cảm, niềm tin, hành động thực tế của sinh viên; Như vậy, chúng ta có thể hiểu, giáo dục đạo đức là quá trình

chuyển những tri thức, chuẩn mực đạo đức từ những đòi hỏi bên ngoài của xã hội đối với cá nhân thành những đòi hỏi bên trong của bản thân thành

2
niềm tin, nhu cầu, thói quen của người được giáo dục” . Còn nhà nghiên cứu Hồ Thị Mộng Thu thì giáo dục đạo đức được định nghĩa như sau: “Với

mục tiêu hình thành và phát triển ý thức đạo đức cũng như năng lực thực hiện hành vi đạo đức của con người, giáo dục đạo đức là quá trình chuyển

văn hóa đạo đức xã hội thành văn hóa đạo đức cá nhân. Đó là quá trình chuyển những tri thức, kinh nghiệm, chuẩn mực và lí tưởng đạo đức xã hội

3
thành phẩm chất đạo đức cá nhân, phát triển ý thức, năng lực tham gia vào các mối quan hệ xã hội. ”

Từ những khái niệm của các nhà nghiên cứu, ta có thể hiểu về giáo dục đạo đức như sau: Giáo dục đạo đức là quá trình tác động đến đối

tượng giáo dục, chuyển hóa những tri thức, kinh nghiệm, đạo đức xã hội thành những cái riêng của cá nhân. Mục đích của giáo dục đạo đức là hình

thành và bồi dưỡng năng lực, hành vi, những chuẩn mực, nguyên tắc đạo đức phù hợp với những chuẩn mực đạo đức xã hội và tất cả được thể hiện

thông qua niềm tin, tình cảm và hành động thực tiễn của con người.

Thông qua việc tìm hiểu các khái niệm của các nhà nghiên cứu và đúc kết chúng thành những khái niệm mới, nhóm hi vọng có thể đóng

góp phần nào vào việc nhận diện và làm rõ hơn về bản chất, ý nghĩa của đạo đức và giáo dục đạo đức. Ngoài ra khái niệm của nhóm còn mang ý

nghĩa giúp xác định mục tiêu và nội dung của giáo dục đạo đức với mong muốn được đóng góp để xây dựng và phát triển những mô hình giáo dục

đạo đức mới hiệu quả, hướng sinh viên đến những điều tốt đẹp, phê phán cái xấu.

2. 1. 2. Nội dung cơ bản của giáo dục đạo đức cho sinh viên Việt Nam hiện nay

Kế thừa và phát triển tư tưởng về giáo dục thanh niên của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin, chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng

việc giáo dục đạo đức cho sinh viên và thanh niên Việt Nam. Năm 1969, trong Di chúc để lại trước lúc đi xa, Bác chỉ rõ tầm quan trọng của việc giáo

dục đạo đức cho thế hệ trẻ của nước nhà: "Đoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có

chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa

4
"hồng" vừa "chuyên". Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết” . Tuy nhiên, theo chỉ thị số 31/CT-TTg

ngày 04 tháng 12 năm 2019 của Thủ tướng Chính phủ về Tăng cường giáo dục đạo đức lối sống cho học sinh, sinh viên có viết “Tuy nhiên, vẫn còn

một bộ phận học sinh, sinh viên chưa có ý thức học tập tốt, có biểu hiện lệch chuẩn về đạo đức, lối sống; tình trạng bạo lực học đường, tệ nạn xã hội,

1
Hà Thế Ngữ, Đặng Vũ Hoạt, (1987), Giáo dục học, tập 1 và 2. Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo dục.
2
Nguyễn Thị Lan Anh, (2021), Giáo dục đạo đức cho sinh viên ở các trường đại học, cao đẳng giai đoạn hiện nay. Tạp chí Khoa học Giáo dục Việt Nam, Số đặc biệt 5/ 2021, tr. 53.
3
Hồ Thị Mộng Thu, (2017), Giáo dục đạo đức cho sinh viên hiện nay – Thực trạng và giải pháp, Tạp chí Giáo dục, Số 20 (3/ 2020), tr. 63.
4
Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 15, Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, tr. 622.
5
vi phạm pháp luật vẫn còn diễn ra” . Trước thực trạng này, càng cho thấy tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức cho sinh viên hiện nay, đặc biệt

trên bốn phương diện sau:

Thứ nhất, giáo dục cho sinh viên về sống có lý tưởng cách mạng. Giáo dục lý tưởng cách mạng là nội dung cốt lõi, có vai trò định hướng

cơ bản, lâu dài, tạo động lực mạnh mẽ cho thanh niên phấn đấu vươn lên cống hiến cho dân tộc và khẳng định mình trong xã hội. Mục tiêu của giáo

dục lý tưởng cách mạng cho sinh viên là giáo dục nhận thức để giác ngộ lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Ngoài ra cần giáo dục

cho sinh viên lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; giáo dục chủ nghĩa yêu nước, hành vi văn hóa trong các lĩnh vực đời

sống xã hội, giáo dục ý thức công dân nhằm bồi dưỡng cho sinh viên lý tưởng, bản lĩnh, lòng yêu nước, tự hào dân tộc, khơi dậy niềm tin vào sự lãnh

đạo của Đảng và nhà nước. Để sinh viên nhận thức và hiểu rõ về tình hình đất nước, những sự kiện trên thế giới, xác định quan điểm thái độ và tránh

bị kẻ xấu lợi dụng, kích động, gây mất ổn định chính trị, xã hội.

Thứ hai, giáo dục cho sinh viên các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc. Giáo dục đạo đức cho sinh viên cần duy trì và phát huy

những giá trị đạo đức của con người Việt Nam đã được hình thành từ trong quá khứ, trải qua nhiều thăng trầm lịch sử dân tộc như: lòng yêu nước,

lòng nhân ái, tính trung thực, lòng dũng cảm, siêng năng, chí công vô tư, … Đây là những phẩm chất đạo đức truyền thống Việt Nam là bản sắc của

dân tộc Việt Nam, là cốt lõi của đời sống văn hóa, tinh thần con người Việt Nam. Đây cũng chính là lý do mà sau bao nhiêu thăng trầm lịch sử, dân

tộc ta vẫn đứng vững là vì chúng ta đã luôn gìn giữ và phát huy được bản sắc dân tộc mình, đó là giá trị đạo đức truyền thống. Đó cũng là cơ sở nền

tảng để phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam, là động lực sản sinh sức mạnh tinh thần và bản lĩnh góp phần thúc đẩy thế hệ sinh viên vươn lên xây

dựng đất nước trong giai đoạn mới. Những chuẩn mực đạo đức xã hội này là bất biến, là những chuẩn mực khuôn mẫu lý tưởng, những quy tắc ứng

xử để điều chỉnh và chuẩn hóa hành vi con người và là cơ sở để xây dựng nên những chuẩn mực đạo đức mới thời hiện đại.

Thứ ba, giáo dục cho sinh viên các chuẩn mực giá trị đạo đức mới. Cùng với sự phát triển của xã hội, những chuẩn mực giá trị đạo đức

đang có biến đổi theo nhiều khuynh hướng khác nhau. Nhiều chuẩn mực đạo đức mới hình thành, ngoài ra nhiều phẩm chất đạo đức truyền thống

được bổ sung, mở rộng. Những biến đổi này kéo theo sự thiếu nhất quán, thiếu hệ thống giữa nhà trường, gia đình và xã hội, vì vậy cần phải có sự

thay đổi trong giáo dục đạo đức để sinh viên nhận thức rõ các chuẩn mực đạo đức con người Việt Nam hiện đại, giúp họ đứng vững trước những tác

động tiêu cực của mặt trái kinh tế thị trường, toàn cầu hóa. Để đáp ứng yêu cầu thời kỳ đổi mới, giáo dục đạo đức cho sinh viên cần chú trọng vào các

nội dung như sau: Giáo dục nghề nghiệp, giáo dục lòng yêu nghề, để sinh viên có ý chí, nghị lực, năng lực và quyết tâm vượt qua những thử thách của

nghề nghiệp. Giáo dục tinh thần trách nhiệm cao cho sinh viên trước khi ra trường, mục đích tạo tâm lý, thêm nghị lực để hoàn thành công việc được

giao. Giáo dục thói quen sống kỷ luật, trật tự, có ý thức pháp luật, để sinh viên có những nguyên tắc đạo đức, làm cơ sở cho sinh viên thực hiện nghĩa

vụ pháp lý và thực hiện nghĩa vụ đạo đức tối thiểu của con người.

Thứ tư, giáo dục cho sinh viên hình thành tình cảm, cảm xúc đạo đức. Những lý thuyết khô khan dù có nắm chắc đến mấy nhưng nếu

thiếu đi cảm xúc, tình cảm và niềm tin vào đạo đức cũng đều là vô dụng. Trong thực tế, những sinh viên nắm bắt lý thuyết rất giỏi, nhưng không hề

có sự rung cảm về đạo đức, không có thái độ rõ ràng trước cái thiện, cái ác. Sự chai mòn cảm xúc trong con người tạo cơ hội cho cái xấu được hoành

hành, tuy vậy vẫn còn nhiều người không nhận thức được điều này, trong đó có một bộ phận không nhỏ thanh thiếu niên Việt Nam. Điển hình của

5
Chính phủ (2019), Chỉ thị số 31/CT-TTg về Tăng cường giáo dục đạo đức lối sống cho học sinh, sinh viên
việc thờ ở trước người hoạn nạn, hay thậm chí còn cổ vũ cho cái ác, cái xấu có thể dễ dàng được tìm thấy trong môi trường sư phạm, đó là những vụ

1
quay clip bạo lực học đường trên các trang mạng xã hội . Tuy sự bào mòn tình cảm đạo đức trong thanh thiếu niên là một điều đáng buồn, việc giáo

dục tình cảm cho lớp trẻ vẫn mang tính khả thi và cấp thiết, vì sự thiếu thốn giáo dục về tình cảm trước khi tầng lớp thanh niên hội nhập xã hội còn để

lại hậu quả lâu dài mà tính nghiêm trọng luôn tăng theo thời gian. Nếu những cô cậu sinh viên vô cảm trở thành những đại diện cho đất nước thì hậu

quả sẽ tệ đến nhường nào, mà ví dụ không cần tìm đâu xa. Ví dụ như trường hợp bảo vệ bệnh viện vì tiền mà làm mất đi cơ hội sống sót của bệnh

2
nhân . Hay những con người còn không biết nhường nhịn, hi sinh quyền lợi cá nhân vì lợi ích chung, mà còn ngược lại gây tổn hại đến cộng đồng vì

3
lợi ích cá nhân như trong vụ việc tham nhũng thiết bị y tế đợt dịch COVID-19 . Đó là những điều hoàn toàn trái ngược với truyền thống đạo lý con

người Việt Nam được bộc lộ trong những tầng lớp đi trước. Vì vậy cần phải đẩy mạnh việc giáo dục tình cảm, cảm xúc đạo đức cho sinh viên. Một

tình yêu đạo đức trong sáng, mãnh liệt sẽ là nguồn động viên to lớn, mang lại động lực dồi dào cho con người vượt qua khó khăn, trở ngại trong cuộc

sống cũng như góp phần duy trì những truyền thống tình cảm đạo đức tốt đẹp của dân tộc.

2. 2. Tình hình và đặc điểm của sinh viên trường Đại học Bách khoa và vai trò của việc giáo dục đạo đức cho sinh viên

2. 2. 1. Tình hình và đặc điểm của sinh viên trường Đại học Bách khoa

Nổi tiếng với danh hiệu là trường đại học đào tạo kỹ thuật đầu ngành của miền Nam, Đại học Bách Khoa TP. HCM là trường đại học

trọng điểm và cũng là trường nổi tiếng hàng đầu trong hệ thống Đại học Quốc gia TP. HCM. Trường Đại học Bách Khoa – ĐHQG TP. HCM đã trải

qua 55 năm hình thành và phát triển. Hiện nay, với môi trường sáng tạo và chuyên nghiệp được định hình ngày càng rõ nét, trường Đại học Bách

4
Khoa vẫn không ngừng lớn mạnh, giữ vững vai trò đầu tàu về đào tạo và nghiên cứu khoa học tại khu vực phía Nam cũng như của cả nước.

Về thế mạnh của sinh viên Bách Khoa: Đặc thù là trường kỹ thuật với số điểm đầu vào thuộc nhóm cao nhất Việt Nam, sinh viên Bách

Khoa có tinh thần và khả năng học tập cao. Trong môi trường Đại học hội tụ hội tụ những sinh viên có thành tích học tập cao, môi trường học tập

cạnh tranh gay gắt, nổi tiếng với độ khó của đề thi các môn học đại cương như Vật Lý Đại Cương, Giải Tích, … Với khối lượng kiến thức nặng, sinh

viên Bách Khoa đã chủ động tổ chức các lớp học ôn tập kiến thức cho nhau trước các kỳ thi quan trọng, tiêu biểu nhất là câu lạc bộ Chúng Ta Cùng

Tiến. Đây là câu lạc bộ do sinh viên lập nên, mục đích ôn tập miễn phí kiến thức cho các bạn sinh viên khác, tạo nên sự gần gũi và tăng tinh thần

trong việc học tập của sinh viên. Ngoài ra, còn có các câu lạc bộ học thuật khác mang đặc trưng của mỗi khoa, mang đến cho các bạn sinh viên những

sân chơi lành mạnh để áp dụng kiến thực lý thuyết vào thực tế. Ví dụ như câu lạc bộ Sáng tạo Học thuật Khoa Cơ Khí, với hoạt động gần đây nhất là

cuộc thi Ý TƯỞNG SÁNG TẠO TRẺ CƠ KHÍ 2023 được tổ chức vào tháng 8, hay câu lạc bộ Developer Student Club dành cho sinh viên ngành

Máy tính với cuộc thi GDSC IDEA CONTEST 2023. Sinh viên Bách Khoa còn đạt được nhiều thành tựu trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học. Trong

khuôn viên trường, hằng năm các khoa đều tổ chức Ngày hội kỹ thuật, là hoạt động giúp các bạn sinh viên, đặc biệt là tân sinh viên có cơ hội tiếp cận

với nhiều đề tài nghiên cứu, công trình khoa học, làm khơi dậy hứng thú với việc nghiên cứu khoa học của sinh viên. Ngoài những hoạt động quy mô

1
Ban Thời sự, (2022), Bệnh vô cảm len lỏi trong giới trẻ thời đại số, https://vtv.vn/van-hoa-giai-tri/benh-vo-cam-len-loi-trong-gioi-tre-thoi-dai-so-2022111912174103.htm
2
Anh Phương, Ngọc Hà, (2016), Vụ bảo vệ chặn xe cấp cứu ở viện nhi: Vô cảm, độc quyền, kiếm chác trên nỗi đau người bệnh, https://vtv.vn/xa-hoi/vu-bao-ve-chan-xe-cap-cuu-o-vien-nhi-vo-
cam-doc-quyen-kiem-chac-tren-noi-dau-nguoi-benh-20160710101359124.htm
3
Anh Tuấn, (2021), Công ty Việt Á đã “thổi giá” kit xét nghiệm như thế nào?, https://vtv.vn/phap-luat/cong-ty-viet-a-da-thoi-gia-kit-xet-nghiem-nhu-the-nao-20211230112109468. htm
4
Đại học Bách Khoa TP. HCM, (2012), Tổng quan trường Đại học Bách Khoa thành phố Hồ Chí Minh, https://tiepsucmuathi.vn/tin-tuc/to%CC%89ng-quan-truong-da%CC%A3i-ho%CC
%A3c-bach-khoa-thanh-pho-ho-chi-minh/
cấp trường ra, các bạn sinh viên còn tham gia vào nhiều cuộc thi mang quy mô cấp thành phố như các giải Olympic Toán học sinh viên và học sinh

1 2
toàn quốc 2023 , Giải thưởng Khoa học Công nghệ Quả Cầu Vàng , …

Bên cạnh học tập, sinh viên Bách Khoa cũng hăng hái tham gia vào các hoạt động ngoại khóa, văn hóa, nghệ thuật, thể dục thể thao, các

hoạt động phục vụ cộng đồng. Trường Đại học Bách Khoa có 37 câu lạc bộ, thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như âm nhạc, thể thao, bảo vệ môi

trường… đem lại nhiều sân chơi bổ ích để các bạn sinh viên khám phá và phát triển bản thân. Trường còn tổ chức nhiều cuộc thi hằng năm như, BK

League – giải bóng đá nam giữa các khoa, BK Talent – cuộc thi năng khiếu của sinh viên… Ngoài nhu cầu giải trí của bản thân, sinh viên Bách Khoa

cũng rất xem trọng các hoạt động cộng đồng. Hằng năm có rất nhiều hoạt động tình nguyện định kỳ được chính các bạn sinh viên tổ chức. Mỗi năm

vào dịp tết đến xuân về, những chiến dịch Xuân tình nguyện được sinh viên từng khoa triển khai rất tích cực. Mỗi khoa có chương trình, lịch hoạt

động riêng biệt giúp cho việc lan tỏa yêu thương đến nhiều nơi hơn. Có những hoạt động hướng đến các bạn nhỏ mồ côi, khuyết tật, giúp các bạn có

thêm niềm vui trong cuộc sống. Có những hoạt động hướng đến người lớn tuổi, giúp các cô các bác có được một cái Tết nhiều niềm vui. Ngoài ra còn

có những chiến dịch khác như Mùa hè xanh, hay các hoạt động có quy mô nhỏ hơn như Tiếp sức mùa thi, các hoạt động văn nghệ gây quỹ quyên góp

cũng được các bạn sinh viên tích cực hưởng ứng.

Tuy nhiên, ngoài những ưu điểm và truyền thống cần phát huy, sinh viên Bách Khoa cũng còn nhiều hạn chế cần nhìn nhận và sửa chữa.

Trong học tập, tình trạng bỏ bê bài vở, ỷ lại, thiếu tín nhiệm đối với các thành viên trong nhóm học tập dẫn đến kết quả rớt môn. Bên cạnh đó, tình

trạng cúp học, thiếu trách nhiệm trong giờ giấc học tập và sinh hoạt cũng gây nhiều quan ngại, khi thay vì học tập, nhiều sinh viên lại ưu tiên dành

thời gian cho những trò chơi điện tử, mạng xã hội, những cuộc tụ tập thâu đêm cùng những lối sống không lành mạnh. Về nghiên cứu khoa học, tuy

trường đạt được nhiều thành tựu đáng kể, số sinh viên hoàn thành các đề tài chiếm số lượng rất ít, tập trung vào các bạn Cử nhân tài năng, OISP,

chương trình Việt – Pháp và các bạn sinh viên có điều kiện tiếp cận phòng lab để thực hiện nghiên cứu. Nhiều sinh viên không hứng thú với nghiên

cứu khoa học, với lý do rằng cơ hội để đạt được mức thu nhập cao là rất nhỏ, họ lựa chọn đi làm thêm hay học thêm kỹ năng khác để có cơ hội đạt thu

nhập cao trong tương lai.

Đối với các hoạt động văn hóa, văn nghệ trong trường, nhiều sinh viên tỏ vẻ chán nản, thiếu sự hăng hái với các hoạt động mang tính

truyền thống và đầy ý nghĩa này. Họ cho rằng thời gian của họ sẽ có giá trị hơn vào các việc khác nhưng lại lao đầu vào các trò chơi điện tử, những

buổi đi chơi, tụ tập khiến sức khỏe và tinh thần suy sụp. Nhiều sinh viên thì vì mặc cảm tự ti, sống khép kín, ít mở lòng với các mối quan hệ xã hội

khác nên cũng không tham gia các hoạt động do trường tổ chức. Còn nhiều sinh viên tham gia thì lại tham gia sai mục đích, với tư tưởng lệch lạc, chỉ

quan tâm đến những yếu tố điểm rèn luyện hay ngày công tác xã hội. Nhiều sinh viên trong quá trình hoạt động thì bỏ ngang dù đã đăng ký làm thành

viên chính thức.

Tóm lại, sinh viên Bách Khoa có ý chí phấn đấu trong học tập nghiên cứu, đạt nhiều thành tích cao. Ngoài ra, họ còn có tinh thần tham

gia vào các hoạt động văn hóa, văn nghệ, hoạt động vì lợi ích cộng đồng. Tuy nhiên vẫn còn một bộ phận không ít sinh viên bỏ bê học tập, không biết

1
Trường đại học Bách khoa - ĐHQG-HCM, (2023), ĐỘI TUYỂN BÁCH KHOA ĐOẠT 10 GIẢI TẠI OLYMPIC TOÁN HỌC SINH VIÊN VÀ HỌC SINH 2023, https://hcmut.edu.vn/tintuc/Doi-
tuyen-Bach-khoa-doat-10-giai-tai-Olympic-Toan-hoc-sinh-vien-va-hoc-sinh-2023
2
Minh Tuấn, (2022), Trao Giải thưởng Khoa học công nghệ Quả cầu vàng năm 2022, https://nhandan.vn/trao-giai-thuong-khoa-hoc-cong-nghe-qua-cau-vang-nam-2022-post727147.html
chăm sóc bản thân, không biết nghĩ đến cộng đồng, thiếu trách nhiệm trong hành động và ứng xử của bản thân, còn có những suy nghĩ lệch lạc thiếu

đúng đắn.

2. 2. 2. Vai trò của giáo dục đạo đức cho sinh viên trường Đại học Bách khoa hiện nay

Để khắc phục, hạn chế những điểm yếu, phát huy thế mạnh của sinh viên Bách Khoa là sự đóng góp không hề nhỏ của giáo dục đạo đức

sinh viên từ phía thầy cô, phòng Công tác chính trị Sinh viên và các Đoàn Hội. Những ý nghĩa to lớn mà giáo dục đạo đức mang lại có thể kể đến

như:

Thứ nhất, giáo dục đạo đức giúp sinh viên có được lý tưởng, thế giới quan đúng đắn . Sinh viên được giáo dục đạo đức lý tưởng sẽ được

củng cố và phát triển lý tưởng sống, khát vọng sống. Những lý tưởng sống, khát vọng cống hiến này không nhất thiết là những thứ lớn lao, vĩ đại mà

có thể đơn thuần chỉ là những suy nghĩ tích cực, hành vi, ứng xử văn hóa, có ích đối với tập thể xã hội trong cuộc sống hằng ngày. Sinh viên còn được

thấm nhuần lý tưởng xã hội chủ nghĩa và lòng yêu nước, có đầy đủ kiến thức để luôn tỉnh táo nhận biết những mưu đồ chính trị, phân biệt kẻ xấu có ý

lợi dụng, kích động, gây rối loạn ổn định chính trị.

Thứ hai, thông qua giáo dục đạo đức sinh viên sẽ được tiếp nhận, kế thừa và phát huy những phẩm chất đạo đức truyền thống lâu đời của

cha ông ta. Đây là những phẩm chất cốt lõi giúp sinh viên định hình và hiểu rõ được mục đích, ý nghĩa cuộc sống, cách đối nhân xử thế. Sinh viên có

được lòng tự tôn dân tộc, tính tôn sư trọng đạo, lòng hiếu thảo, sự dũng cảm, cần cù, nhân ái, sáng tạo… Có được những phẩm chất này, sinh viên sẽ

có được cơ sở để phát triển và hoàn thiện bản thân, đồng thời nâng cao giá trị và góp phần phát triển, đưa nền văn hóa nước nhà vươn tầm thế giới.

Thứ ba, giáo dục đạo đức giữ vai trò quan trọng đối với sinh viên Bách Khoa trong thời đại hội nhập toàn cầu, công nghiệp hóa, hiện đại

hóa. Sinh viên được giáo dục đạo đức sẽ có thêm động lực thúc giục sự sáng tạo, hăng hái tham gia nghiên cứu học tập, tiếp thu tri thức khoa học để

nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, biết tôn trọng pháp luật để trở thành nguồn nhân lực chất lượng cao góp phần thúc đẩy sự phát triển nền

công nghiệp và kinh tế của đất nước. Ngoài ra sinh viên còn tự hình thành được ý thức, sự tự rèn luyện, hình thành niềm tin, thế giới quan khoa học là

những yêu cầu cần thiết của một công dân để tồn tại và phát triển trong thời kỳ đổi mới kinh tế, xã hội.

Thứ tư, giáo dục đạo đức giúp sinh viên hình thành ý thức và tình cảm đạo đức, tạo nên những hành vi và thói quen đạo đức của con

người mới. Ngoài ra, giáo dục đạo đức cổ vũ và khích lệ sinh viên có được một lối sống lành mạnh, xóa bỏ đi những suy nghĩ ỷ lại, ích kỷ, đặt mình

lên trên tập thể, coi trọng lợi ích cá nhân, nhu cầu cá nhân hơn xã hội là những nguyên nhân dẫn đến sự suy thoái của đất nước. Sinh viên còn được

trang bị sự thấu cảm, lòng bao dung, vị từ, biết áp dụng và linh hoạt những lý thuyết thành thực tiễn trong các mối quan hệ người với người, cá nhân

với tập thể và con người với môi trường xung quanh.

Tóm lại, được giáo dục đạo đức trọn vẹn, sinh viên sẽ có thêm cho mình lý tưởng sống, thế giới quan đúng đắn, những phẩm chất đức

hạnh truyền thống của dân tộc Việt Nam cùng với cơ sở vững chắc để phát triển bản thân trong thời đại 4.0, thời đại của sự thay đổi và phát triển.

2. 3. Thực trạng và giải pháp giáo dục đạo đức cho sinh viên trường Đại học Bách khoa hiện nay

2. 3. 1. Thực trạng về công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên trường Đại học Bách khoa hiện nay
Trường Đại học Bách khoa được xem là một trong những trường đại học lớn và danh giá nhất Việt Nam về kỹ thuật, trực thuộc Đại học

1
Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh và được xếp vào nhóm các đại học trọng điểm quốc gia. “Tiên học lễ, hậu học văn”. Để phát triển thành một

trong những trường đại học trọng điểm, ngoài việc chất lượng đào tạo về kiến thức chuyên môn tốt còn phải kể đến mặt giáo dục đạo đức của trường.

Các thành tựu trong giáo dục đạo đức cho sinh viên của Đại học Bách Khoa phải kể đến như:

Thứ nhất, là đội ngũ giảng viên và nhân viên đạo đức. Về đội ngũ cán bộ giảng dạy, trường Đại học Bách khoa sở hữu lực lượng cán bộ

giảng viên đông đảo và có trình độ cao: 932 giảng viên cơ hữu và 373 nhân viên, trong đó có 10 giáo sư, 105 phó giáo sư, 389 tiến sĩ, 439 thạc sĩ

(khoảng 90% đội ngũ giảng viên đạt trình độ sau đại học). Trong quá trình tham gia giảng dạy, các giảng viên không ngừng tự củng cố và được nhà

trường tạo điều kiện nâng cao năng lực chuyên môn thông qua rất nhiều hội thảo nghiên cứu khoa học, học bổng tu nghiệp, xuất bản nhiều bài báo

2
khoa học có giá trị trên các tập san nghiên cứu uy tín. Bên cạnh các bài giảng chuyên môn chất lượng các thầy cô giảng viên luôn dành cho sinh

viên những lời góp ý, lời khuyên để rèn luyện thêm về mặt đạo đức cho sinh viên. Điều này trực tiếp ảnh hưởng đến nhận thức của sinh viên, được thể

hiện rõ nhất qua thành tựu đạt được của trường. Năm 2016, TP. HCM có 5 tập thể đạt danh hiệu “Tập thể sinh viên 5 tốt” và 121 cá nhân đạt danh

hiệu “Sinh viên 5 tốt” cấp thành. Trong số đó, trường Đại học Bách Khoa có 20 gương mặt đạt danh hiệu “Sinh viên 5 tốt” cấp thành, dẫn đầu toàn

TP. HCM.

Thứ hai, phải kể đến các sáng kiến giáo dục đạo đức cho sinh viên. Bên cạnh việc giáo dục đạo đức cho sinh viên trong các giờ học trên

lớp, trường Đại học Bách Khoa Thành phố Hồ Chí Minh còn tổ chức rất nhiều sự kiện, hội thảo, các hoạt động thiện nguyện,.. . Các hoạt động, sự

kiện có thể dễ dàng tiếp cận sinh viên vì qua đó các bạn vừa được chơi, vừa được học và giảm tải sau các buổi học tập. Các hoạt động phải kể đến của

trường Đại học Bách Khoa Thành phố Hồ Chí Minh như: Các buổi Sinh hoạt công dân được tổ chức để tuyên truyền liên tục về các vấn đề xung

quanh cho sinh viên, chiến dịch Xuân Tình Nguyện, Mùa hè xanh mỗi năm giúp sinh viên tiếp cận những hoàn cảnh khó khăn để giúp đỡ và phát huy

các phẩm chất đạo đức của con người Việt Nam.

Thứ ba, là việc tích hợp đạo đức trong chương trình đào tạo: trường Đại học Bách Khoa Thành phố Hồ Chí Minh xác định được việc giáo

dục đạo đức cho sinh viên là vô cùng quan trọng. Thế nên việc giáo dục đạo đức đã được đưa vào chương trình đào tạo cho toàn thể sinh viên trường.

Các môn học như Triết học Mác - Lênin, Chủ nghĩa xã hội khoa học, Tư tưởng Hồ Chí Minh,.. được giảng dạy song song với các môn khoa học tư

nhiên khác giúp sinh viên thấy được mối quan hệ giữa kiến thức chuyên môn và đạo đức. Chương trình học các môn học trên được nhà trường phân

chia giảng dạy theo thứ tự giúp sinh viên dễ dàng tiếp thu và nắm bắt. Điều này cũng chứng tỏ rằng trường Đại học Bách Khoa Thành phố Hồ Chí

Minh đã nghiên cứu và rất chú trọng việc giáo dục đạo đức cho sinh viên.

Cuối cùng là nhận thức và sự rèn luyện của chính các bạn sinh viên. Sinh viên trường Đại học Bách Khoa Thành phố Hồ Chí Minh có

nhận thức rất đúng đắn về rèn luyện đạo đức, luôn nỗ lực để cùng với giảng viên và nhà trường tham gia việc thúc đẩy giáo dục đạo đức và ứng dụng

3
vào cuộc sống hàng ngày. Các thông số về số lượng các bạn sinh viên tham gia, sáng tạo các hoạt động liên quan đến tình nguyện. Chiến dịch Xuân

tình nguyện năm 2021 đã thu hút gần 1000 chiến sĩ là các bạn sinh viên Đại học Bách Khoa Thành phố Hồ Chí Minh tham gia cùng nhau tổ chức

1
Trường Đại học Bách Khoa, Đại học Quốc gia TPHCM (2023), vi.wikipedia.org/wiki/Trường_Đại_học_Bách_khoa _Đại_học_Quốc_gia_Thành_phố_Hồ_Chí_Minh
2
Tuổi trẻ online (2016), Môi trường giảng dạy và học tập chất lượng cao, https://tuoitre.vn/moi-truong-giang-day-va-hoc-tap-chat-luong-cao-1085377.htm
3
Lương Thị Thúy Nga, (2019), Giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh cho sinh viên Đại học Thái Nguyên hiện nay, Luận án tiến sĩ chuyên ngành Hồ Chí Minh học.
nhiều hoạt động ý nghĩa, nhân văn, hướng đến các gia đình chính sách, ba má phong trào, Mẹ Việt Nam Anh hùng, các hoàn cảnh khó khăn, yếu thế

trong xã hội.

Bên cạnh những thành tựu đạt được như trên thì vẫn tồn tại những bất cập về vấn đề giáo dục đạo đức của sinh viên. Những hạn chế trong

giáo dục đạo đức cho sinh viên trường Đại học Bách khoa hiện nay:

Thứ nhất, là vấn đề được xem là khó giải quyết là ảnh hưởng tới sinh viên nhiều nhất đó là vấn đề xã hội và gia đình. Đạo đức thường

được gắn liền với việc đối xử giữa người với người, vì vậy những đối tượng xung quanh sinh viên ảnh hưởng rất nhiều tới nhận thức của các bạn.

Việc sống trong một môi trường không đúng mực sẽ rất dễ định hướng sinh viên đến những suy nghĩ sai lệch, sinh viên tuy được trang bị kỹ lưỡng về

tri thức nhưng cũng không thể tránh khỏi những ảnh hưởng mang tính tiêu cực như vậy vì độ tuổi từ 18 đến 22 là khoảng thời gian đẹp nhất của con

người, hứng thú với những điều mới mẻ là lẻ tất yếu. Vì vậy ở độ tuổi này, sinh viên rất dễ bị lôi kéo và ảnh hưởng bởi những thành phần xấu trong

xã hội. Khi nhắc đến gia đình, có lẽ mọi người sẽ nghĩ đến những điều tích cực nhưng vẫn có một số trường hợp mà các thành viên trong gia đình gây

gỗ, làm những việc không đúng với chuẩn mực đạo đức của xã hội, tạo cho sinh viên một tấm gương xấu, khiến họ bị ảnh hưởng không chỉ là việc

học hành và sinh hoạt hằng ngày, mà còn đặc biệt ảnh hưởng nặng nề về tâm lí cũng như các hành vi chuẩn mực đạo đức của xã hội.

Thứ hai,là áp lực và cạnh tranh trong học tập dẫn đến vấn đề gian lận trong thi cử. Trong thời đại hiện nay có thể nói tri thức là sức mạnh

và môi trường học tập của trường Đại học Bách Khoa Thành phố Hồ Chí Minh là một môi trường có rất nhiều các bạn sinh viên giỏi từ khắp nơi. Vì

vậy vấn đề cạnh tranh trong học tập trong nhận thức của các bạn sinh viên là không thể tránh khỏi. Từ những áp lực học tập trong đấy mà một nhóm

các bạn sinh viên còn gian lận trong thi cử và cạnh tranh với nhau bằng những việc làm trái với đạo đức, dù biết gian lận là “Đại trọng tội” của trường

Đại học Bách Khoa Đại học Quốc gia Thành Phố Hồ Chí Minh.

2. 3. 2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc giáo dục đạo đức cho sinh viên trường Đại học Bách khoa hiện nay

Thông qua các thành tựu và hạn chế còn kể trên, chúng ta có thể đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao việc giáo dục đạo đức cho sinh

viên trường Đại học Bách Khoa Thành phố Hồ Chí Minh.

Thứ nhất, để nâng cao giáo dục đạo đức cho sinh viên cần có sự hợp tác chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội. Bởi vì những hành

vi vào nhận thức về đạo đức của sinh viên chịu ảnh hưởng không chỉ trong môi trường học tập mà còn trong môi trường gia đình và xã hội. Sự hợp

tác chặt chẽ từ ba phía sẽ tạp nên một khối thống nhất hoàn chỉnh để quản lý và giáo dục đạo đức sinh viên. Trong sự hợp tác này, mỗi bên sẽ có một

vị trí và chức năng riêng như: về phía nhà trường sẽ giữ vị trí giáo dục chủ đạo cho sinh viên thông qua các môn học, về phía gia đình sẽ chuẩn bị cho

sinh viên một hậu phương vững chắc để tránh những áp lực có thể dẫn sinh viên đến những suy nghĩ lệch lạc, về xã hội là một môi trường rộng lớn và

sinh viên sẽ chịu ảnh hưởng lớn từ dư luận, dư luận xã hội sẽ lên án những hành vi vi phạm đạo đức để sinh viên thấy và tránh xa.

Thứ hai, là theo dõi và xử lý những vi phạm đạo đức của sinh viên. Nhà trường cần thiết lập một quy trình hoặc một bộ phận để theo dõi

sát xao và xử lý kịp thời những vi phạm tránh để lây lan nhanh chóng. Sau khi xử lý các hành vi vi phạm ta có thể đăng lên một diễn đàn nào đó về lỗi

vi phạm và cách xử lý nhằm răn đe và cho các sinh viên khác thấy được để không vi phạm những lỗi tương tự.

Thứ ba, là quản lí đổi mới phương pháp và đa dạng hóa các hình thức tổ chức hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh. Đổi mới phương

pháp giảng dạy các mộn học đạo đức, tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp nhằm tạo sinh viên điều kiện nâng cao hiểu biết và vận dụng những
kiến thức đạo đức cơ bản vào thực tiễn. Vì vậy giáo viên giảng dạy các bộ môn và tổ chức các hoạt động giáo dục đạo đức cũng phải thường xuyên

nghiên cứu cải tiến phương pháp và đa dạng hóa hình thức giáo dục đạo đức cho học sinh.
Tiểu kết chương 2

Trong chương 2 này nhóm tác giả đã đề cập và vấn tích sâu vào khái niệm của đạo đức, giáo dục đạo đức và các nội dung cơ bản của giáo

dục đạo đức cho sinh viên Việt Nam nói chung và sinh viên của trường Đại học Bách Khoa Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng. Các nội dung cơ bản

của giáo dục đạo đức cho sinh viên: giáo dục cho sinh viên sống có lý tưởng cách mạng, giáo dục cho sinh viên những giá trị đạo đức truyền thống tốt

đẹp, giáo dục cho sinh viên các chuẩn mực đạo đức mới. Giáo dục đạo đức đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành nhân cách và rèn luyện nên

những người có đóng góp tích cực trong xã hội. Giáo dục đạo đức giúp sinh viên có được lý tưởng, thế giới quan đúng đắn, giúp sinh viên kế thừa các

đạo đức truyền thống tốt đẹp của ông cha, giúp sinh viên hình thành ý thức và tình cảm đạo đức, tạo nên những hành vi và thói quen đạo đức của con

người mới. Trong thời gian qua, việc giáo dục đạo đức của trường Đại học Bách Khoa Thành phố Hồ Chí Minh đã đạt được một số thành tựu nhất

định, tuy nhiên vẫn còn nhiều mặt hạn chế như áp lực cạnh tranh trong học tập dẫn đến các hành vi gian lận, những ảnh hưởng không tốt từ gia đình

và xã hội dẫn đến suy nghĩ lệch lạc của sinh viên,.... Trường Đại học Bách Khoa Thành phố Hồ Chí Minh cần phải thực hiện những biện pháp đổi

mới cụ thể để giải quyết những hạn chế nói trên. Từ đó nhóm tác giả cũng đã đưa ra các hướng biện pháp giải quyết cho nhà trường như gia đình, nhà

trường và xã hội hải hợp tác thống nhất nhằm tạo cho sinh viên môi trường tốt nhất để phát triển đạo đức, nhà trường cần thiết lập một bộ phận theo

dõi và xử lý những hành vi không đúng với chuẩn mực đạo đức để răng đe các sinh viên khác. Qua các giải pháp này, chúng ta có thể giúp sinh viên

hiểu và trân trọng giá trị của đạo đức trong cuộc sống và trong sự nghiệp của họ. Điều này không chỉ giúp họ trở thành công dân có ý thức đạo đức

cao, mà còn đóng góp tích cực cho xã hội và xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn cho tất cả mọi người. Việc đầu tư vào giáo dục đạo đức là một bước

quan trọng trong việc phát triển xã hội và đảm bảo sự phát triển bền vững của đất nước.
KẾT LUẬN CHUNG

Giáo dục đạo đức đang là vấn đề được quan tâm trong việc giáo dục học sinh sinh viên hiện nay vì đạo đức là khởi nguồn cho công cuộc đào tạo ra

những người tài, người có ít cho xã hội. Qua bài tiểu luận về vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về ý thức xã hội vào việc giáo dục đạo

đức đã làm rõ những nội dung sau đây:

Thứ nhất, trong chương 1 của bài tiểu luận đã nêu ra khái niệm, kết cấu, tính giai cấp và các hình thái của ý thức xã hội. Qua quá trình tìm hiểu và học

hỏi nhóm tác giả đã phân tích các định nghĩa trên và đưa một vài ví dụ đi sâu vào đời sống giúp việc nghiên cứu và giải quyết phần tiếp theo. Tiếp

đến nhóm tác giả đã đi sâu vào tính độc lập tương đối của ý thức xã hội vì chúng ta đang sống trong một xã hội vô cùng lớn và ý thức xã hội không

tồn tại một cách thụ động mà nó ảnh hưởng mạnh mẽ đến tồn tại xã hội. Thông qua hoạt động thực tiễn của con người, ý thức xã hội sẽ kìm hãm hay

thúc đẩy sự phát triển của tồn tại xã hội. Ý thức xã hội và xã hội ảnh hưởng trực tiếp đến nhau song chúng đều có tính độc lập tương đối ( ý thức xã

hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội, ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội, ý thức xã hội có tính kế thừa, sự tác động qua lại giữa các

hình thái ý thức xã hội, ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội). Theo quan điểm Mác- Lênin ý thức xã hội được xem là một phần quan trọng

trong cách hiểu và giải thích sự phát triển của xã hội. Qua chương 1 chúng ta nắm bắt được về các khái niệm của ý thức xã hội từ đó thấy được sự ảnh

hưởng của nó với xã hội hiện nay. Nhóm tác giả dựa trên cơ sở đó để ứng dụng vào việc giáo dục đạo đức cho sinh viên Đại học Bách Khoa hiện nay.

Thứ hai, đầu tiên là các khái niệm về đạo đức và giáo dục đạo đức được đưa ra và phân tích cụ thể. Kế thừa và phát triển tư tưởng về giáo dục thanh

niên của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin, chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng việc giáo dục đạo đức cho sinh viên và thanh niên Việt Nam.

Hiện nay, ý thức và đạo đức của sinh viên cả nước nói chung đang có xu hướng bị sai lệch. Trước thực trạng này, càng cho thấy tầm quan trọng của

việc giáo dục đạo đức cho sinh viên hiện nay, đặc biệt trên ba phương diện: giáo dục sinh viên sống có lí tưởng cách mạng, giáo dục cho sinh viên các

giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, giáo dục cho sinh viên các chuẩn mực giá trị đạo đức mới, giáo dục cho sinh viên các chuẩn mực giá trị đạo

đức mới.

Thứ ba, tác giả phân tích tình hình về đạo đức của sinh viên và việc giáo dục đạo đức của Đại học Bách Khoa hiện nay. Tuy Đại học Bách Khoa đã có

những chiến lược giáo dục đạo đức rất tốt, song vẫn còn bên cạnh đó những bất cập mà nhóm tác giả đã thông qua nghiên cứu nhận thấy và nêu ra.

Đưa ra các giải pháp thích hợp để nâng cao ý thức và đạo đức sinh viên, nâng cao chất lượng về mặt giáo dục đạo đức của Đại học Bách Khoa với

mong muốn hình thành trong sinh viên những phẩm chất đạo đức cao quý để góp phần cho xã hội và đất nước ta ngày càng phát triển.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, (2021), Giáo trình Triết học Mác - Lênin (Dành cho sinh viên đại học khối không chuyên ngành Mác-Lênin, tư

tưởng Hồ Chí Minh), Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.

2. Nhiều tác giả, (1986). Từ điển triết học, Maxcơva: Nhà xuất bản Tiến Bộ.

3. C. Mác – Ph. Ăngghen, (1995). Toàn tập, tập 3, Hà Nội: Nhà xuất bản. Chính trị Quốc gia.

4. Nguyễn Ngọc Long, (2000). Giáo trình Đạo đức học, Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.

5. Hà Thế Ngữ, Đặng Vũ Hoạt, (1987). Giáo dục học, tập 1 và 2, Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo dục.

6. Hồ Chí Minh (2011). Toàn tập, tập 15, Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.

7. Chính phủ (2019). Chỉ thị số 31/CT-TTg về Tăng cường giáo dục đạo đức lối sống cho học sinh, sinh viên.

8. Nguyễn Thị Lan Anh, (2021). Giáo dục đạo đức cho sinh viên ở các trường đại học, cao đẳng giai đoạn hiện nay, Tạp chí Khoa học Giáo

dục Việt Nam, Số đặc biệt 5/ 2021.

9. Hồ Thị Mộng Thu, (2017), Giáo dục đạo đức cho sinh viên hiện nay – Thực trạng và giải pháp, Tạp chí Giáo dục, Số 20 (3/ 2020).

10. Lương Thị Thúy Nga, (2019). Giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh cho sinh viên Đại học Thái Nguyên hiện nay, Luận án tiến sĩ chuyên

ngành Hồ Chí Minh học.

11. Trần Sĩ Dương, (2022). Quan điểm của Triết học Mac-Lenin về ý thức xã hội và ý nghĩa đối với việc xây dựng ý thức xã hôi mới hiện nay ,
http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/nguyen-cuu-ly-luan/item/4056-quan-diem-cua-triet-hoc-mac-lenin-ve-y-thuc-xa-hoi-va-y-nghia-doi-

voi-viec-xay-dung-y-thuc-xa-hoi-moi-hien-nay.html

12. Tô Thị Phương Dung, (2022). Ý thức tôn giáo là gì? Kết cấu và vai trò của ý thức tôn giáo, https://luatminhkhue.vn/y-thuc-ton-giao-la-gi-
ket-cau-va-vai-tro-cua-y-thuc-ton-giao.aspx

13. Ban Thời sự, (2022), Bệnh vô cảm len lỏi trong giới trẻ thời đại số, https://vtv.vn/van-hoa-giai-tri/benh-vo-cam-len-loi-trong-gioi-tre-
thoi-dai-so-2022111912174103.htm

14. Anh Phương, Ngọc Hà, (2016). Vụ bảo vệ chặn xe cấp cứu ở viện nhi: Vô cảm, độc quyền, kiếm chác trên nỗi đau người bệnh,
https://vtv.vn/xa-hoi/vu-bao-ve-chan-xe-cap-cuu-o-vien-nhi-vo-cam-doc-quyen-kiem-chac-tren-noi-dau-nguoi-benh-20160710101359124.htm

15. Anh Tuấn, (2021), Công ty Việt Á đã “thổi giá” kit xét nghiệm như thế nào?, https://vtv.vn/phap-luat/cong-ty-viet-a-da-thoi-gia-kit-xet-
nghiem-nhu-the-nao-20211230112109468. htm

16. Đại học Bách Khoa TP. HCM, (2012), Tổng quan trường Đại học Bách Khoa thành phố Hồ Chí Minh, https://tiepsucmuathi.vn/tin-tuc/to
%CC%89ng-quan-truong-da%CC%A3i-ho%CC%A3c-bach-khoa-thanh-pho-ho-chi-minh/

17. Trường đại học Bách khoa - ĐHQG-HCM, (2023), ĐỘI TUYỂN BÁCH KHOA ĐOẠT 10 GIẢI TẠI OLYMPIC TOÁN HỌC SINH VIÊN
VÀ HỌC SINH 2023, https://hcmut. edu.vn/tintuc/Doi-tuyen-Bach-khoa-doat-10-giai-tai-Olympic-Toan-hoc-sinh-vien-va-hoc-sinh-2023

18. Minh Tuấn, (2022). Trao Giải thưởng Khoa học công nghệ Quả cầu vàng năm 2022, https://nhandan. vn/trao-giai-thuong-khoa-hoc-
cong-nghe-qua-cau-vang-nam-2022-post727147.html
19. Trường Đại học Bách Khoa, Đại học Quốc gia TPHCM (2023).

vi.wikipedia.org/wiki/Trường_Đại_học_Bách_khoa_Đại_học_Quốc_gia_Thành_phố_Hồ_Chí_Minh

20. Tuổi trẻ online (2016). Môi trường giảng dạy và học tập chất lượng cao, https://tuoitre.vn/moi-truong-giang-day-va-hoc-tap-chat-luong-
cao-1085377.htm

You might also like