You are on page 1of 70

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HẢI DƯƠNG

TRƯỜNG THPT NHỊ CHIỂU

BÁO CÁO

NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

ĐỀ TÀI
TRẦM CẢM Ở HS THPT: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

Lĩnh vực:

Khoa học xã hội hành vi

NHÓM THỰC HIỆN

1. Nhóm trưởng: Phùng Thị Xuân


2. Thành viên: Vũ Huyền Trang

Giáo viên hướng dẫn: Nguyễn Thị Đậu

HẢI DƯƠNG -2018

1
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
TÓM TẮT NỘI DUNG DỰ ÁN ………………………………………………….7
Phần I: Tổng quan vấn đề ……………………………………………………….8
1.1. Lí do chọn đề tài ………………………………………………………………8
1.2. Câu hỏi nghiên cứu …………………………………………………………..10
1.3. Cơ sở thực hiện đề tài…………………………………………………………10
1.3.1. Cơ sở khoa học………………………………………………….…………..10
1.3.2. Cơ sở thực tiễn……………………………………………………...………14
1.4. Mục tiêu nghiên cứu…………………………………………………………..17
1.5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn…………………………………………...……18
1.6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu………...……………………………………….18
1.7. Phương pháp nghiên cứu……………………………...………………………18
1.8. Tính sáng tạo của đề tài …………………………………...………………….19
Phần II: Kết quả và thảo luận…………………………………………………..20
2.1. Tỉ lệ học sinh mắc trầm cảm………………………...………………………..20
2.2. Mô tả về trầm cảm………………………………...…………………………..22
2.2.1. Diễn biến một ngày của trầm cảm đối với học sinh trung học phổ thông….22
2.2.2. Trầm cảm gây ra sự đau khổ cả về tinh thần lẫn thể xác.…….. ……… …..23
2.2.3. Trầm cảm khiến mọi thứ trở lên khó khăn và tồi tệ hơn.………………….. 23
2.2.4. Làm thay đổi quan điểm và suy nghĩ của chính mình………………..……..24
2.2.5. Không còn hứng thú với sở thích của mình ………………………….…….25
2.2.6. Những yếu tố cảm xúc cứ dồn nén tác động làm cho người bệnh trở nên vô
cảm…………………………………………………………………………….…..25

2
2.2.7. Sự tự ti, bi quan, thất bại trong suy nghĩ và hành động ………...…………..25
2.2.8. Sự khác nhau giữa trầm cảm và buồn bã.…………………… ……………..26
2.2.9. Sự khác nhau giữa trầm cảm và tự kỉ……………………………………….26
2.2.10. Sự khác biệt giới tính khi mắc bệnh ……………………………..………27
2.2.11. Biểu hiện nhận biết chung của trầm cảm ở học sinh THPT ………..……..29
2.3. Nguyên nhân dẫn tới căn bệnh trầm cảm……………………………….…….31
2.3.1. Bệnh lí…………………………………………..…………………………..31
2.3.2. Áp lực từ phía bên ngoài ………………………………….……………34
2.3.3. Áp lực do chính bản thân tạo nên…………………………………….…….42
2.4. Hậu quả của căn bệnh trầm cảm……………………………………….….45
2.4.1. Các bệnh liên quan tim mạch và não bộ………………………………..…46
2.4.2. Giảm sức mạnh của hệ miễn dịch………………………………………….47
2.4.3. Mất đi cảm giác ngon miệng và mất ngủ………………………………….48
2.4.4. Nhức đầu và đau lưng………………………………………………………48
2.4.5. Biến động trong áp lực máu………………………………………………..48
2.4.6. Mệt mỏi và kiệt sức……………………………………………………….48
2.4.7. Tự tử………………………………………………………………….…….48
2.5. Giải pháp giúp học sinh THPT vượt qua căn bệnh trầm cảm………………..49
2.5.1. Giải pháp thứ nhất: Loại trừ các tác động tiêu cực………………………..50
2.5.2. Giải pháp thứ hai: Tăng cường các hoạt động tích cực…………………….57
2.5.3. Giải pháp thứ ba: Bản thân tự điều chỉnh cảm xúc…………………………59
Phần III: Kết luận và khuyến nghị..................………………………………..64
3.1. Kết luận……………………………………………………………..............64
3.2. Khuyến nghị…………………………………………………………………64
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

3
DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT

Từ viết tắt Từ đầy đủ


THPT Trung học phổ thông
DANH MỤC CÁC HÌNH

Hình 2.1. Biểu đồ tỉ lệ học sinh THPT mắc bệnh trầm cảm

Hình 2.2. Kết quả khảo sát về biểu hiện rối loạn cảm xúc của các bạn học sinh.

Hình 2.3. Biểu hiện của trầm cảm nhẹ

Hình 2.4. Gen gây ra bệnh trầm cảm

Hình 2.5. Bố mẹ ơi đừng bắt con học

Hình 2.6. Bạo lực gia đình

Hình 2.7. Áp lực học tập, thành tích

Hình 2.8. Nỗi ám ảnh từ các môn học

Hình 2.9. Bị bạn bè bắt nạt

Hình 2.10. Tự tạo áp lực cho chính mình

Hình 2.11. Hậu quả của trầm cảm

Hình 2.12. Trầm cảm sát thủ giấu mặt trong xã hội hiện đại

Hình 2.13. Làm bạn với con

Hình 2.14. Kế hoạch GDTT đạo đức Hồ Chí Minh cho HS của THPT Nhị Chiểu

Hình 2.15. Các hoạt động ngoại khóa của trường THPT Nhị Chiểu.

4
Hình 2.16. Thanh niên TN THPT Nhị Chiểu tiếp sức mùa thi và giới thiệu sách

Hình 2.17. HĐ tuyên truyền phổ biến kiến thức về trầm cảm của học sinh lớp 11A.

Hình 2.18. Ngày hội thể thao.

5
LỜI CẢM ƠN

Nghiên cứu khoa học là một sân chơi vô cùng bổ ích cho học sinh trung học.
Đây là nơi tìm ra những bạn trẻ tài năng và sáng tạo, giúp các bạn học sinh có thể
thể hiện năng lực của bản thân. Chúng em vô cùng cảm ơn Sở giáo dục và đào tạo
Hải Dương đã tổ chức cuộc thi này để chúng em có thể được tham gia, thể hiện tư
duy của bản thân. Bên cạnh đó, trong quá trình nghiên cứu, chúng em đã nhận được
sự giúp đỡ của các cơ quan, đơn vị sau:

- Trường THPT Nhị Chiểu – huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương
- Trường THPT Kinh Môn II - huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương
- Trường THPT Trần Quang Khải - huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương
- Trung tâm giáo dục thường xuyên huyện Kinh Môn, Hải Dương
- Trường THPT Đông Triều, Quảng Ninh.
Nhóm tác giả chúng em xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu các nhà trường,
các thầy cô giáo và các bạn học sinh đã nhiệt tình giúp đỡ, tạo điều kiện cho chúng
em thực hiện đề tài này.

6
TÓM TẮT NỘI DUNG DỰ ÁN

“Trầm cảm ở học sinh THPT – Thực trạng và Giải pháp” là một đề tài
thuộc lĩnh vực xã hội và hành vi. Ý tưởng đề tài xuất phát từ một thực trạng đang
rất “nóng” hiện nay, khi mà cứ vài tháng, thậm chí vài tuần chúng ta lại nghe được
những thông tin đau lòng từ các phương tiện truyền thông về những vụ tự tử, mà
đối tượng lại là các bạn học sinh THPT. Tại sao lại có tình trạng như vậy? Sau một
thời gian tìm hiểu về vấn đề, chúng tôi đã tìm ra được một trong những nguyên
nhân dẫn đến tự tử đó chính là bệnh Trầm Cảm. Vậy chúng ta cần làm gì giúp cho
các bạn học sinh THPT vượt qua trầm cảm để những vụ việc đáng tiếc trên không
tiếp tục gia tăng trong xã hội hiện đại? Từ cơ sở khoa học, cơ sở thực tiễn và các
phương pháp nghiên cứu, đề tài hướng tới tìm ra thực trạng và giải pháp giúp các
bạn học sinh THPT giảm áp lực và suy nghĩ tích cực. Kết quả, đề tài đã chỉ ra tỉ lệ
học sinh mắc trầm cảm, tác hại của trầm cảm và phân tích được nguyên nhân trong
đó đặc biệt chú ý đến nguyên nhân do chính các bạn học sinh tự tạo áp lực cho
mình. Qua đó đã đề xuất được ba nhóm giải pháp khả thi có khả năng ứng dụng
trong thực tiễn. Đề tài thể hiện niềm đam mê nghiên cứu khoa học kĩ thuật và ý
thức trách nhiệm trước một căn bệnh đang làm ảnh hưởng tới chất lượng cuộc sống
của các bạn trẻ đặc biệt là các bạn học sinh THPT - những mầm xanh tương lai của
đất nước.

7
PHẦN I
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ

1.1. Lý do chọn đề tài


Tôi là ai? Mục đích sống của tôi là gì? đây có lẽ là một câu hỏi gây hoang
mang cho rất nhiều bạn học sinh trung học hiện nay. Có những ngày, tôi lang thang
trong mớ cảm xúc hỗn độn, đi tìm cái gọi là đam mê mà hàng ngàn hàng vạn bạn
trẻ đang tìm kiếm để rồi tôi thấy mình nhỏ bé và bất tài. Tôi mệt mỏi với đống bài
tập nhàm chán. Tôi hoang mang với kì thi THPT Quốc gia sắp diễn ra. Tôi bất lực
với mọi thứ, và đã có lúc tôi ước giá như mình chưa từng tồn tại. Tôi không hiểu
cảm giác đó là gì? Tôi bị kéo theo những suy nghĩ đó một cách ngu ngốc trong một
khoảng thời gian khá lâu. Cho đến một ngày, tôi đọc một bài báo nói về căn bệnh
trầm cảm. Lúc đó, khái niệm về trầm cảm của tôi rất mơ hồ và sự tò mò đã thôi
thúc tôi tìm hiểu về đề tài này.

Có lẽ rằng trong tất cả chúng ta đều có lúc cảm thấy buồn bã, u tối nhưng để
vượt qua cảm giác đó không phải là ai cũng có thể làm được. Yếu đuối ư? Không
hề. Trầm cảm giống như một sợi dây mà ta càng giãy thì càng bị siết chặt, càng cố
thoát khỏi thì càng đau đớn. Trước khi qua đời, nam ca sĩ Hàn Quốc Jonghuyn đã
viết một tâm thư gửi chị gái, trong đó có đoạn: Bên trong tôi mọi thứ đã vỡ vụn.
Căn bệnh trầm cảm gặm nhấm tôi một cách chậm rãi, cuối cùng cũng đã nuốt
chửng tôi. Và tôi không thể nào đánh bại được nó. Có thể thấy rằng, không phải là
họ không muốn thoát ra mà là không thể thoát ra được cái hố sâu vô hình ấy.

Một số người cho rằng: trầm cảm là một căn bệnh của người lớn. Nhưng hiện
nay, rất nhiều nghiên cứu cho rằng trầm cảm diễn ra ở cả trẻ em và đặc biệt là học
sinh trung học. Theo các chuyên gia y tế và giáo dục, ở độ tuổi học sinh, do những
thay đổi về hormone tăng trưởng trong giai đoạn dậy thì khiến khả năng kiềm chế
tâm lý rất kém. Và đối với các bạn học sinh do phải chịu áp lực từ nhiều phía, nhiều
sự thay đổi của đời sống nên gây ra rất nhiều biến đổi về mặt tâm, sinh lí. Đó là

8
một loạt các trạng thái khác nhau như lo âu, chán nản, buồn bã, mệt mỏi, vô vọng,
cô đơn… Không giống như tự sát, trầm cảm diễn ra không ngừng với cường độ
thấp. Tự tử là dấu chấm hết cho cuộc đời: chúng ta biết đến và nhìn thấy ngay lập
tức.

Ngày nay trầm cảm là một trong những rối loạn tâm thần phổ biến và gia tăng
thành xu hướng ở nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các nước đang phát triển.
Trầm cảm là một vấn đề lớn cần được quan tâm đặc biệt là công tác chăm sóc sức
khỏe cộng đồng. Trầm cảm chính là tiếng kêu khóc trong sự im lặng. Họ giằng xé,
cào cấu bản thân một cách bất lực. Có người cho rằng, trầm cảm cũng giống như bị
bóng đè. Mặc dù lí trí kêu gọi mình phải tỉnh táo nhưng cơ thể lại không thể cử
động, không thể chống đỡ được, cảm thấy mình như bị giam cầm trong cái xác của
chính mình. Những người bị trầm cảm sẽ không yêu cầu mọi người một cách trực
tiếp nhưng lại là người cần sự giúp đỡ nhất.

Như vậy, trầm cảm âm thầm bào mòn con người, âm thầm cướp đi bạn bè,
người thân và ảnh hưởng sâu sắc đến chất lượng cuộc sống như vui chơi và học tập
của các bạn học sinh trung học. Tuy nhiên, khi rơi vào tình trạng cô lập, ít ai cảm
nhận được dấu hiệu của chúng. Thật khó để biết cách đối phó với trầm cảm, đặc
biệt là khi nó kéo dài suốt một khoảng thời gian. Nên không phải ai cũng có sự
nhận thức đúng đắn về vấn đề này. Sự hiểu biết không đầy đủ về trầm cảm cũng có
nguy cơ tăng mạnh đối với những cá nhân có dấu hiệu hoặc nguy cơ mắc trầm cảm
từ trước đó. Học sinh có dấu hiệu trầm cảm nhưng không có hiểu biết về cách tự
mình giải quyết hay cố tình lảng tránh đều có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm
trọng. Vì vậy, chúng tôi quyết định nghiên cứu đề tài này nhằm đưa ra một số giải
pháp giúp học sinh trung học phổ thông thoát khỏi cái bóng của trầm cảm. Các bạn
là những người đặc biệt hơn người khác. Chúng tôi sẽ giúp bạn nhận ra được bạn
đặc biệt ở chỗ nào và từ đó đưa bạn ra khỏi bóng tối mà bạn nghĩ là sẽ không bao
giờ thoát khỏi được.

9
1.2. Câu hỏi nghiên cứu
Học sinh trung học phổ thông cần làm gì để thoát khỏi bệnh trầm cảm? Làm thế
nào để có cảm hứng sống: sống hết mình với nhiệt huyết tuổi trẻ, với hoài bão và
đam mê? Từ câu hỏi nghiên cứu chúng tôi đưa ra Slogan: “CHÁY HẾT MÌNH” và
nghiên cứu đề tài trên các khía cạnh:
- Thực trạng vấn đề: Tỉ lệ học sinh THPT mắc bệnh trầm cảm
- Nguyên nhân
- Hậu quả
- Giải pháp
1.3. Cơ sở thực hiện đề tài
1.3.1. Cơ sở khoa học

Để có được một nền y học phát triển như hiện nay, chúng ta không thể không kể
đến Hypocrate - người đặt nền móng cho nền y học hiện đại. Thuyết thể dịch - một
nghiên cứu vĩ đại của ông lần đầu tiên trong lịch sử đã cất tiếng gọi tên thuật ngữ
Trầm Cảm. Như vậy có thể nói con người đã biết đến trầm cảm từ hàng nghìn
năm trước. Ở thời Ai Cập cổ đại, đức vua Saul đã có các biểu hiện của trầm cảm
như trong sách kinh Cựu Ước đã viết. Nhưng trong thời kì này mọi người tin rằng
bệnh này do sự trừng phạt của Chúa trời nên các linh mục là những vị thuốc trị liệu
chính. Đến năm 120 -180 sau Công Nguyên, Aretaeus đưa ra khái niệm về trầm
cảm nội sinh và trầm cảm ngoại sinh. Vào thế kỷ thứ 19, trầm cảm được xem là
một sự yếu đuối về cá tính do sự di truyền học. Trong những thập niên 50-60, trầm
cảm được chia làm 2 loại, nội tại và thần kinh. Khi trầm cảm bắt nguồn từ bên
trong cơ thể, có thể do nguồn gốc từ gen hoặc vô căn thì được gọi là loại nội tại.
Còn trầm cảm do thần kinh là do các yếu tố ảnh hưởng từ thúc đẩy trực tiếp từ môi
trường như do bị ức chế tinh thần nặng.

Sang đến thập niên 70-80 các nhà nghiên cứu chuyển tập trung từ nguyên nhân
sang ảnh hưởng của rối loạn trầm cảm đến người bệnh. Điều đó có nghĩa là những

10
nghiên cứu về nguyên nhân và ảnh hưởng của trầm cảm của những nhà chuyên
môn là tương đối chính xác. Trên thực tế thì ngay từ hàng nghìn năm trước con
người và các nhà khoa học phần xác định được hướng đi và nhận định được tác hại
vô cùng khủng khiếp của trầm cảm. Nhận ra được vấn đề cấp bách này đến năm
1992, trầm cảm được các chuyên gia nghiên cứu hoàn thiện về khái niệm của căn
bệnh và phân loại trong Bảng phân loại bệnh Quốc tế lần thứ 10 của WHO. Mới
nhất là trong hướng dẫn chẩn đoán và thống kê các rối loạn tâm thần lần thứ 5 đã
chỉ rõ trầm cảm được phân vào nhóm rối loạn cảm xúc. Rối loạn cảm xúc được
chia làm hai loại thường gặp là hưng cảm (rối loạn lưỡng cực) và trầm cảm có
nghĩa là vui cực độ và buồn cực độ. Qua hàng loạt các nghiên cứu từ hàng nghìn
thế kỉ trước tuy vẫn có nhiều ý kiến tranh cãi khác nhau về mặt y khoa nhưng hầu
hết các nhà khoa học vẫn nhất trí đồng ý rằng: Rối loạn trầm cảm là một hội chứng
phản ánh tâm trạng buồn bã hoặc một nỗi khổ quá mức bình thường.

Theo tổ chức y tế thế giới WHO thì trầm cảm được biết đến là một chứng rối
loạn sắc khí trong tâm thần học. Do hoạt động của bộ não rối loạn nên tạo nên bất
thường trong hành vi và suy nghĩ. Cũng có thể hiểu theo một khái niệm tương tự thì
trầm cảm là một biểu hiện của trạng thái ức chế trong tất cả các hoạt động của tâm
thần và cả thể chất. Đó chính là một trạng thái bị đè nén, kìm hãm do sự tiềm tàng
phẫn uất ở trong lòng rất lâu không được giải phóng của tất các hoạt động tâm thần
và thể chất. Gây ra những cảm giác buồn phiền, căng thẳng và mất hứng kéo dài
dai dẳng. Do sự kìm nén ấy nên những người mắc bệnh luôn luôn cảm thấy buồn
rầu và mệt mỏi, cáu gắt vô cớ, luôn có những suy nghĩ tiêu cực về cuộc sống, chán
ghét mọi thứ. Tình trạng này không gây ảnh hưởng nhỏ đến cuộc sống mà còn
khiến cho cuộc sống của người bệnh trở nên vô nghĩa chỉ muốn thoát khỏi đi tìm
cái chết để cứu bản thân mình. Cuộc sống của họ chỉ mang một màu trầm buồn,
những cảm xúc tiêu cực mà trầm cảm gây ra như đám dây leo, bám rễ thật sâu vào

11
tâm hồn đang dần héo úa và hút cạn nguồn sinh lực cuối cùng họ. Nỗi buồn, sự thất
vọng và chán nản cứ bám lấy, bủa vây họ mỗi ngày, mỗi giờ.

Xã hội ngày càng phát triển khiến cho những vấn đề bệnh lí còn nguy hiểm hơn
cả. Suốt một năm 2017 dư luận xã hội đã dấy lên một hồi chuông báo động nguy
cấp về tình trạng trầm cảm gia tăng và có xu hướng trẻ hóa. Dựa vào những nguyên
nhân, hình thức và nguyên lí gây bệnh thì theo tổ chức y tế thế giới trầm cảm chia
làm nhiều loại khác nhau: trầm cảm nặng, trầm cảm nhẹ, trầm cảm xuất hiện từng
giai đoạn, trầm cảm tái diễn, trầm cảm nặng và tái diễn, trầm cảm mức độ nhẹ liên
tục, trầm cảm di chứng của rối loạn khí sắc trầm cảm, rối loạn phân liệt cảm xúc.

Trầm cảm nặng được phân chia thành 2 loại đó là không loạn thần với biểu hiện
buồn thảm, ủ rũ, bi quan, chán nản và loạn thần với những biểu hiện như hoang
tưởng, ảo giác, ảo thanh xui khiến như: tự tử, giết người, không ăn, bỏ nhà và nhảy
lầu là nguy hiểm nhất.

Khác với trầm cảm nặng, trầm cảm nhẹ xuất hiện đơn độc về mức độ, không
gây nên sự đau buồn và trở ngại đối với hoạt động hàng ngày, thường kéo dài ít
nhất 2 tuần, không có hiện tượng hoang tưởng, ảo giác.

Trầm cảm xuất hiện từng giai đoạn: tái diễn nhiều đợt và có thể xen kẽ với giai
đoạn hưng cảm. Giữa các giai đoạn trầm cảm và hưng cảm là thời kỳ khí sắc bình
ổn hoàn toàn. Loại trầm cảm này còn được gọi là bệnh loạn thần hưng trầm cảm. Tỉ
lệ mắc bệnh ở nam nữ gần như nhau, sau tuổi trung niên thì giai đoạn trầm cảm
thường xuất hiện nhiều hơn giai đoạn hưng cảm và kéo dài hơn.

Trầm cảm tái diễn  biểu hiện giống như loại trầm cảm nặng và trầm cảm nhẹ đã
nêu trên nhưng không xuất hiện đơn độc mà tái diễn nhiều đợt trong đời người.
Giai đoạn trầm cảm kéo dài từ 3 - 12 tháng, trung bình 6 tháng. Bệnh thường khởi
phát chậm, thường gặp ở độ tuổi từ 50. Phần lớn bệnh được phục hồi hoàn toàn và
tỉ lệ mắc bệnh trầm cảm loại này ở nữ ghi nhận gấp đôi nam.

12
Trầm cảm nặng và tái diễn gần giống như các bệnh trước kia gọi là trầm cảm,
trầm uất, loạn thần hưng trầm cảm, trầm cảm sinh thể, trầm cảm nội sinh. Trong
đời, con người ít nhất thường có hai giai đoạn trầm cảm nặng hay nhẹ tái diễn, mỗi
giai đoạn thường kéo dài trên 2 tuần, giữa hai giai đoạn trầm cảm phải có một thời
kỳ lành bệnh ít nhất 6 tháng.

Trầm cảm mức độ nhẹ  liên tục biểu hiện, đơn độc nhưng kéo dài, có khi gần hết
tuổi thanh niên, gây nên sự đau buồn và trở ngại cho sinh hoạt lao động, làm việc
và học tập của người bệnh. Bệnh có thể nặng lên và tiến triển như rối loạn trầm
cảm tái diễn hay xen kẽ với các giai đoạn hưng cảm. Nếu các giai đoạn trầm cảm
và hưng cảm xen kẽ nhau được gọi là khí sắc tuần hoàn; nếu mức độ khí sắc trầm,
nhẹ, kéo dài thì gọi là loạn khí sắc.

Trầm cảm di chứng của các rối loạn khí sắc trầm cảm: biểu hiện đơn độc hoặc
tái diễn nhưng mức độ nhẹ, không kéo dài gồm các trạng thái hỗn hợp trầm cảm và
hưng cảm, trầm cảm ẩn, rối loạn xúc cảm khác không liên quan đến nghiện rượu,
nghiện ma túy, rối loạn nội tiết hay rối loạn tâm thần thực tổn.

Phân liệt cảm xúc: biểu hiện các triệu chứng phân liệt và triệu chứng cảm xúc
xuất hiện đồng thời, nổi bật như nhau. Lưu ý thể trầm cảm xuất hiện sau cơn loạn
thần cấp tính của bệnh tâm thần phân liệt không xếp vào loại trầm cảm này. Các
triệu chứng trầm cảm biểu hiện như đã nêu ở trên. Các triệu chứng phân liệt ở bệnh
nhân biểu hiện ý nghĩ vang lên thành tiếng nói ở trong đầu, bị những lực lượng xa
lạ nào đó điều khiển, mưu hại; nghe thấy những tiếng nói gièm pha, buộc tội mà
thực tế không có... Phần lớn bệnh nhân được phục hồi hoàn toàn sau điều trị, một
số ít trường hợp tiến triển thành thiếu sót phân liệt như thờ ơ với ngoại cảnh, có
hành vi kỳ dị...

Trầm cảm có thể kéo dài hoặc tái phát nhiều lần, làm suy giảm đáng kể khả
năng làm việc, khả năng tương tác đương đầu với cuộc sống. Trường hợp nặng nhất
có thể dẫn tới tự tử. Ở mức độ nhẹ, bệnh có thể chữa trị bằng nhiều cơ chế điều trị

13
về tâm lí, dinh dưỡng …mà không cần dùng thuốc. Với mức độ vừa và nặng thì có
người bệnh có thể kết hợp nhiều phương pháp vào cùng trị liệu như kết hợp điều trị
tâm lí khoa học và điều trị bằng thuốc.

Như vậy căn bệnh trầm cảm trên thực tế có nhiều loại khác nhau nên rất khó để
người bệnh có thể phát hiện và nhận thức được các triệu chứng mình mắc phải có
liên quan gì đến trầm cảm không. Dù cho mắc bệnh trầm cảm ở mức độ nào đi
chăng nữa thì trong cơn bộc phát sẽ dẫn tới các hệ lụy vô cùng tàn khốc và tồi tệ có
thể là tự tử hay sát hại người khác. Theo như công bố của Mỹ thì cứ 40 giây trôi
qua lại một sinh mạng kết thúc do chính suy nghĩ và hành vi của mình dồn nén.
Trầm cảm nó đáng sợ hơn ta tưởng. Theo như phát biểu của bác sĩ Tô Thanh
Phương (Phó giám đốc Bệnh viện Tâm thần Trung ương I) thì “ Không có gì đau
đớn bằng căn bệnh trầm cảm. Người bị bệnh trầm cảm chỉ muốn tìm đến cái chết.
Thậm chí đau đớn như bệnh ung thư con người còn chịu đựng được chứ trầm cảm
thì khó ai chịu đựng được nó”

1.3.2. Cơ sở thực tiễn


Theo thông báo của tổ chức Y tế thế giới WHO thì tính đến năm 2020 trầm cảm
là căn bệnh đứng thứ hai trong số những căn bệnh phổ biến của thế giới và sẽ là
gánh nặng bệnh tật hàng đầu vào năm 2030. Hiện nay trung bình hàng năm thế giới
có khoảng trên 200 triệu người bị mắc bệnh trầm cảm, nghĩa là mỗi quốc gia có từ
3-5% dân số mắc phải, ở Việt Nam con số này là 2,8%. Trầm cảm là một trong
những nguyên nhân chính dẫn đến tự sát 45% - 70% người tự sát do mắc bệnh trầm
cảm và 15% người tử vong khi thực hiện hành vi tự sát đó. Theo số liệu thống kê ở
Nhật Bản vào năm 2014 trung bình một ngày ở Nhật có 70 người tự sát trong đó
1/3 trong số đó bị trầm cảm. Ở Việt Nam khoảng 4000 người tự sát mỗi năm do
mắc bệnh trầm cảm. Trầm cảm có thể gặp ở nhiều dân tộc, nhiều nơi tùy thuộc vào
nhiều yếu tố như độ tuổi, nghề nghiệp, giới tính, trình độ, tính cách, môi trường xã
hội xung quanh…. Tỉ lệ trầm cảm ở trẻ em là từ 0,45% - 2,5%, tỉ lệ này còn rõ ràng

14
hơn khi với trẻ vị thành niên là 0,4% - 8,3% trong đó có từ 15% - 20% là bị trầm
cảm nặng. Ở độ tuổi vị thành niên đặc biệt là các bạn đang học THPT thì đây chính
là thời cơ thuận lợi cho bệnh phát triển. Do ở trong độ tuổi này có nhiều biến đổi về
thể chất và tinh thần, nên có nhiều biểu hiện lệch lạc trong hành vi và cách suy nghĩ
mà chiếm đa số là suy nghĩ tiêu cực – trầm cảm. Nếu không phát hiện sớm và kịp
thời chữa trị thì sẽ làm ảnh hưởng lớn đến chất lượng học tập, đến sức khỏe, giao
tiếp và sự phát triển của về thể chất tinh thần, tính cách của người mắc bệnh.

Ở Nhật Bản, Kashani và Sherman (1998) nghiên cứu và nhận thấy tần suất mắc
trầm cảm từ 1-2% ở trẻ tiền dậy thì, từ 2-5% ở trẻ vị thành niên (Fleming và Offort,
1990). Ở Đức, Essau và cộng sự nghiên cứu 1035 học sinh từ độ tuổi từ 12-17 thì
17,9% bị trầm cảm. Còn ở Mĩ, đối với Jackson và Lurie (2006) thì theo nghiên cứu
ở tuổi vị thành niên có 20-25% bạn mắc ít nhất một giai đoạn của trầm cảm. Một số
nghiên cứu khác còn cho thấy tần xuất mắc trầm cảm ở bạn gái từ 13-17 tuổi cao
hơn các bạn nam. Nhưng khi các bạn nam mắc phải trầm cảm thì có nguy cơ tự sát
cao hơn các bạn nữ. Nguyên nhân ban đầu được các nhà tâm lí học cho rằng các
bạn nam không dám chia sẻ, tâm sự, thể hiện nỗi buồn, sự mệt mỏi chán nản của
mình với ai khác do định kiến “phái mạnh” thì phải mạnh mẽ luôn kiểm soát được
cảm xúc của mình nên đã khiến cho các bạn nam giấu mình đi và để cho trầm cảm
gặm nhấm suy nghĩ của mình.
Tại Việt Nam, theo tiến sĩ bác sĩ Hoàng Cẩm Tú đã tiến hành nghiên cứu về
chứng rối loạn hành vi, cảm xúc của trẻ em và trẻ vị thành niên ở một số tỉnh ở Hà
Nội cho thấy 2,2% trẻ em và trẻ vị thành niên từ 4-18 tuổi mắc chứng lo âu và trầm
cảm. Giáo sư tiến sĩ Nguyễn Bá Đạt nghiên cứu về rối loạn trầm cảm và một số
hành vi tâm lí xã hội liên quan đến học sinh trung học phổ thông ở khu vực Hà Nội
cho biết là 18,8% là biểu hiện rối loạn trầm cảm, 9,9% khẳng định là bị trầm cảm.
Kết quả nghiên cứu của BV tâm thần ban ngày (Hà Nội) với trên 1.200 học sinh ở
Hà Nội (bậc tiểu học và THCS), có gần 19,4% học sinh có vấn đề sức khỏe tâm
thần chung, trong số các ca tự sát có 10% ở lứa tuổi từ 10 đến 17.

15
Theo cách nhìn tổng quan qua các thí nghiệm khảo sát thực tế ở một số địa bàn
như trên cho thấy: các nhà khoa học, bác sĩ tiến sĩ khoa tâm lí đã đưa ra những
đánh giá về tỉ lệ mắc bệnh trầm cảm nhưng chưa đưa ra được con số cụ thể chính
xác về số ca mắc trầm cảm ở tuổi vị thành niên. Vì điều kiện về địa điểm, công cụ
và tiêu chí đánh giá khai thác thực tế khác nhau nên giữa các con số có xuất hiện sự
chênh lệch. Nhưng đó chính là cơ sở nền tảng để xây dựng nên những tiêu chí đánh
giá cụ thể và chính xác hơn.

Qua hàng loạt những con số chắc hẳn đã gợi ra cho mỗi người những suy nghĩ
và phần nào nhận thức được sự nguy hại của căn bệnh ghê gớm này. Tuy nhiên
thực tế hiện nay có thể trả lời rằng hiểu biết của mọi người trong xã hội, của nhà
trường và các bậc phụ huynh nhất là ở nông thôn còn hạn chế. Thậm chí mọi người
còn tỏ ra rất thờ ơ coi thường căn bệnh, cho rằng đây là một bệnh không vấn đề gì,
cỏn con có thể chữa triệt để bằng thuốc nên không cần lo lắng hay biết về chứng rối
loạn trầm cảm. Có thể nói đây là một vấn đề vô cùng nguy hiểm đến chính bản thân
người mắc bệnh và cả chính những người xung quanh khi mọi người “quá hạn hẹp”
về kiến thức trầm cảm. Ví dụ như ở thành phố Hồ Chí Minh có một gia đình khi
con bị trầm cảm giai đoạn cuối dẫn đến có hành vi tự tử mới phát hiện và đưa con
đi chữa trị. Theo lời kể của người mẹ thì gia đình làm kinh doanh buôn bán nên đa
số không có thời gian dành cho con và cũng không có mấy khi tìm hiểu hay để tâm
đọc báo về trầm cảm. Nên khi con nói thường xuyên đau đầu, mệt mỏi, mất ngủ…
cũng không để tâm lắm, coi đó là một chuyện bình thường. Những câu chuyện bi
thương do trầm cảm gây ra như giết hại những người thân trong gia đình hoặc phá
hại của cải… không phảo là hiếm trong xã hội hiện nay. Bao nhiêu câu chuyện do
bế tắc trong cuộc sống khiến bản thân người mắc bệnh đi tìm con đường kết thúc
đời mình để buông xuôi giải tỏa mọi thứ bởi không phả ai cũng có thể tự mình vượt
qua.

16
Thực tế đó đã thôi thúc chúng tôi tiến hành điều tra, khảo sát và trực tiếp phỏng
vấn các bạn học sinh THPT nhất là trong khu vực tỉnh Hải Dương để tìm hiểu học
sinh THPT có bị trầm cảm hay không? (Dựa trên phân loại các biểu hiện trầm cảm
của tổ chức y thế giới). Mắc bệnh ở mức độ nào?... Để từ đó đưa ra những cảnh báo
sớm và cung cấp những kiến thức cơ bản về trầm cảm để giúp cho mọi người trong
xã hội hiểu biết hơn về căn bệnh trầm cảm, đặc biệt các bạn học sinh THPT tự
mình điều chỉnh cảm xúc để vượt qua căn bệnh trầm cảm bởi các nhà khoa học đã
khẳng định trầm cảm có thể chữa khỏi nếu được phát hiện sớm.

1.4. Mục tiêu nghiên cứu

Xuất phát từ chính bản thân: Chính mình cũng cảm thấy chông chênh, bất an,
cảm thấy bất lực khi bước vào tuổi mới lớn, phải chọn lựa lối đi cho riêng mình.
Bản thân cũng chưa kiểm soát được cảm xúc, hành vi của mình. Đôi khi chính
mình đang tự gây nên áp lực cho mình.

Xuất phát từ thực tế: Nhìn lại bản thân và nhìn ra cuộc sống, thấy rất nhiều bạn
trẻ hiện nay sống còn chưa thoáng. Đôi lúc còn suy nghĩ tiêu cực, luôn cho rằng
sống là một việc rất khó khăn. Những áp lực được gọi là “áp lực tự áp đặt” của các
bạn học sinh là một điều khiến chúng tôi suy ngẫm.

Mục đích nghiên cứu của dự án: Tìm ra các giải pháp thiết thực, có tính khả thi
nhằm giúp các bạn học sinh THPT giảm bớt những căng thẳng khi bị mọi người
trong xã hội, bản thân mình tự áp đặt cho mình. Từ đó giúp các bạn sống đúng với
độ tuổi và kiểm soát hành vi của mình, sống hết mình với tuổi trẻ, với đam mê. Đặc
biệt là các bạn học sinh bị trầm cảm nhẹ có thể điều chỉnh cảm xúc để không bị
trầm cảm tái phát. Các bạn bị trầm cảm nặng cải thiện được tình trạng của mình để
không dẫn đến hậu quả đáng tiếc.

1.5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn

17
Đề tài nhằm cung cấp những kiến thức cơ bản về căn bệnh trầm cảm, giúp
cho mọi người trong xã hội có những hiểu biết về căn bệnh trầm cảm. Chúng tôi
coi đây là một tài liệu khoa học phổ cập nhằm tuyên truyền phổ biến những kiến
thức về trầm cảm hướng tới nhiều đối tượng trong xã hội vì dễ tiếp cận hơn so với
các tài liệu khoa học chuyên sâu của các nhà khoa học thuộc các lĩnh vực y học và
tâm lý học.

Đề tài nhằm đóng góp giải pháp nâng cao chất lượng các môn học, mở ra các
phòng tham vấn học đường, các trang mạng xã hội để tâm sự giữa các bạn học sinh,
góp phần xây dựng một thế hệ học sinh Việt hòa đồng, sôi nổi, có lối sống văn
minh, lành mạnh, giảm thiểu những suy nghĩ tiêu cực không đáng có.

Đề tài giúp cho các bạn học sinh THPT cảm thấy thích thú, yêu thích việc
đến trường, việc được đi học và trân trọng cơ hội được sống của bản thân. Qua đó,
đưa ra một số đề xuất cho các bậc phụ huynh, các trường THPT… quan tâm, giúp
đỡ, uốn nắn cũng như phát hiện sớm được những thay đổi hằng ngày của các bạn
học sinh để không xảy ra những sự việc hay hậu quả đáng tiếc do trầm cảm gây ra.

1.6. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu

Với khả năng của độ tuổi, nhóm tác giả chúng tôi chỉ tập nghiên cứu thực
trạng bị trầm cảm của các bạn học sinh THPT, khoảng từ 15 đến 18 tuổi- những
bạn cùng lứa tuổi với chúng tôi.

1.7. Phương pháp nghiên cứu

Để nghiên cứu đề tài, nhóm tác giả đã sử dụng những phương pháp chủ yếu sau:

 Thu thập thông tin (qua quan sát thực tiễn và lấy tư liệu thông tin cùng hình
ảnh trên các phương tiện thông tin đại chúng).
 Điều tra, thăm dò ý kiến, lấy số liệu.
 Thống kê số liệu, đối chiếu, phân tích.

18
1.8. Tính sáng tạo của đề tài

Trầm cảm có thể nói là đề tài chưa bao giờ cũ. Bởi cho dù có rất nhiều công
trình nghiên cứu, các liệu pháp tâm lý, các loại thuốc của những nhà khoa học
thuộc lĩnh vực y học, tâm lý học…dùng để chữa trị bệnh đã có hiệu quả. Nhưng số
người mắc bệnh, độ tuổi mắc bệnh vẫn tiếp tục gia tăng và trẻ hóa. Chính vì vậy
chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài này trong phạm vi hẹp đó là trầm cảm ở
học sinh THPT độ tuổi từ 15 đến 18 tuổi. Hướng tiếp cận, lý giải và đề xuất giải
pháp của một nhóm tác giả có cùng độ tuổi với đối tượng nghiên cứu.

Một điều đặc biệt nữa của dự án chính là chúng tôi đi sâu tìm hiểu một
nguyên nhân gây ra căn bệnh trầm cảm chính là do bản thân các bạn học sinh tự tạo
áp lực cho chính mình. Chúng ta thường cho rằng trầm cảm là do những yếu tố bên
ngoài tác động như: áp lực từ sự kì vọng của gia đình, bạn bè, áp lực học tập thi
cử ,… Thế nhưng ít ai để ý rằng áp lực lớn nhất tác động lên lại là chính bản thân.
Trong mỗi chúng ta dù là tôi hay là bạn đều lấp ló trong mình sự đố kỵ với người
khác, sự nghi ngờ khả năng của bản thân cho rằng mình bất tài, mình không thể
làm được... Những suy nghĩ đó đang điều khiển chúng ta khiến chúng ta quay
cuồng nhưng chúng ta lại không thử làm, không dám làm và không hành động....
Chúng tôi muốn thông qua vấn đề tâm lí học đường này để các bạn học sinh THPT
thay đổi quan niệm sống để sống có trách nhiệm với chính mình và ý nghĩa với
cuộc đời.

19
PHẦN II

KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

2.1. Tỉ lệ học sinh mắc trầm cảm

Qua khảo sát thực tế ở hơn 1000 học sinh trung học phổ thông ở khu vực Kinh
Môn- Hải Dương, khu vực Mạo Khê- Quảng Ninh bao gồm: Trường THPT Nhị
Chiểu, trường THPT Quang Khải và trường THPT Kinh môn II và Trung tâm giáo
dục thường xuyên Kinh Môn, THPT Đông Triều- Quảng Ninh ở các khối lớp 10,
11 và 12 về vấn đề biến đổi tâm lí trong tuổi dậy thì. Nhóm thực hiện chúng tôi đã
rất bất ngờ về con số những bạn đã và đang mắc trầm cảm lên tới gần 31,65%. Số
những bạn không mắc trầm cảm là 69,35%. Điều đáng ngại ở đây là con số này sẽ
ngày càng có xu hướng tăng nhanh.

31,65%

Đã và đang bị trầm cảm


Chưa bị trầm cảm

69,35%

Hình 2.1: Biểu đồ tỉ lệ học sinh THPT mắc bệnh trầm cảm

20
Khi được hỏi về trầm cảm thì có tới 68,97% học sinh không có hiểu biết về
trầm cảm? Có những bạn lại cho rằng mình bị trầm cảm nhưng thực tế thì đó là
trạng thái tâm lý buồn do một sự việc nào đó xảy ra. Sau một khoảng thời gian
ngắn mọi thứ lại trở lại bình thường. Có những bạn bị trầm cảm thì giấu diếm
không muốn bạn bè và gia đình biết, cứ âm thầm chịu đựng. Con đường từ trầm
cảm đến cái chết là khoảng cách rất gần. Đặc biệt là các bạn học sinh THPT thì
khoảng cách ấy lại càng ngắn lại. Thuật ngữ “trầm cảm” cũng không còn xa lạ với
các bạn học sinh. Khi thấy bạn bè của mình không hòa đồng, buồn bã các bạn vẫn
hay trêu: “Cậu bị trầm cảm à?” nhưng thực chất, trong tiềm thức của các bạn vẫn
chưa có một định nghĩa chính xác về trầm cảm.

Khi được hỏi: Bạn thường xuyên gặp phải trạng thái tâm lý nào? (có thể chọn
nhiều phương án). Chúng tôi rất bất ngờ về kết quả:

Buồn chán, mệt mỏi 19,15%

Căng thẳng 14,7%

Hay cáu gắt 14,4%

Cảm thấy cô đơn 10,01%

Mất hứng thú với học tập 14,7%

Tự ti, bi quan 7,77%

Không muốn làm gì 13,74%

Đã từng nghĩ tới tự tử 4,93%

Hình 2.2. Kết quả khảo sát về trạng thái tâm lý của các bạn HS THPT

Qua bảng số liệu chúng ta thấy rằng cảm giác buồn chán, mệt mỏi chiếm tỉ lệ khá
cao 19,15% tức là trong 1000 phiếu điều tra có tới 191 bạn thường xuyên rơi vào

21
trạng thái này. Ngoài buồn chán, mệt mỏi các bạn còn có biểu hiện khác như hay
cáu gắt 14,4%, không muốn làm gì 13,74%, thậm chí đã có ý định tự tử 4,93% (tức
49 bạn có ý định tự tử). Theo các nhà khoa học thì trầm cảm là rối loạn cảm xúc.
Nếu người nào đó cảm thấy buồn chán, mệt mỏi, hay cáu gắt…kéo dài trên hai tuần
thì người đó có dấu hiệu của trầm cảm.

Như vậy không thể phủ nhận rằng trầm cảm đã và đang diễn ra ở lứa tuổi trung học
phổ thông. Một lứa tuổi nhiều hoài bão, nhiều ước mơ nhưng cũng nhiều trăn trở
suy tư khó nắm bắt. Một lứa tuổi có tính chất bước ngoặt với những cột mốc lịch sử
trong cuộc đời khi phải vượt qua những kì thi quan trọng, khi phải lựa chọn nghề
nghiệp cho tương lai, khi phải chuẩn bị tự lập, khi còn nhiều mâu thuẫn khó giải
quyết trong tình bạn tình yêu. Những khó khăn ấy rất cần sự sẻ chia của gia đình,
thầy cô, bạn bè… Nếu không tự giải quyết được thì rất dễ bị trầm cảm.

2.2. Mô tả về trầm cảm

2.2.1. Diễn biến một ngày của trầm cảm

Đối với một người bị trầm cảm nói chung và học sinh trung học nói riêng thì
việc trải qua một ngày là vô cùng khó khăn bởi những cơn sợ hãi cứ nối tiếp nhau,
nó dài dằng dặc, cảm giác một ngày trôi qua thật nặng nề, mệt mỏi đến khiếp sợ.
Điều đặc trưng của căn bệnh này là vào thời điểm cuối ngày, con người mệt mỏi
đến rã rời sau một ngày học tập không ngừng nghỉ nhất là các bạn đang học lớp 12
sắp phải thi THPT quốc gia, áp lực việc học hành quá lớn, tối đến lại phải tự học
nên các bạn ấy cảm thấy mệt mỏi chán nản không muốn chuẩn bị bài cho ngày hôm
sau. Thậm chí khi chìm vào trong giấc ngủ – nhưng cũng không yên giấc, có khi
gặp ác mộng bị thầy cô gọi lên bảng hay bạn bè xa lánh, bắt nạt… những tình
huống đáng sợ nhất liên tục hiện ra hoặc tỉnh dậy bất chợt trong đêm nơm nớp lo sợ
về ngày mai mình chưa làm bài tập, mình bị mọi người nói xấu…và thức tới sáng.
Sáng ra lòng nặng trĩu, không muốn bước xuống giường, không muốn dậy đi học

22
để hòa nhập với cuộc sống. Họ né tránh tất cả, cảm thấy bên ngoài cuộc sống thật
đáng sợ nên chỉ có việc ra khỏi giường đã là một nhiệm vụ vô cùng khó khăn. Tuy
nhiên có những trường hợp, sau khi xảy ra hiện tượng trên thì họ như có một nguồn
năng lượng tích cực tràn đến, nguồn năng lượng này giúp họ hoàn thành được rất
nhiều công việc cho đến chừng nào năng lượng vẫn còn. Rất tiếc là sau sự bùng nổ
năng lượng đó khoảng vài giờ hoặc vài ngày thì mọi thứ lại quay lại cảm giác như
ban đầu lại vẫn lo âu, căng thẳng, mệt mỏi, bấn loạn. Họ cố gắng ngày hôm nay
nhưng rồi nhiều việc ập đến, bản thân đã cố gắng vẫy vùng nhưng càng cố lại càng
có nhiều thứ đè nén. Và cho đến một lúc, đã vượt quá giới hạn chịu đựng, họ gục
ngã hoàn toàn.

2.2.2. Trầm cảm gây ra sự đau khổ cả về tinh thần lẫn thể xác

Điều đặc biệt của căn bệnh trầm cảm là người bị bệnh họ luôn cảm thấy mệt
mỏi, đau đớn, đầu óc u mê căng thẳng nhưng lại không rõ ở bộ phận cụ thể nào
và cũng không thể xác định được nguyên nhân. Thực tế cho thấy, đôi khi rất khó
để chẩn đoán bệnh trầm cảm vì có những triệu chứng khác thường về mặt thể
xác. Không chỉ vậy, trầm cảm còn khiến cho người bệnh luôn đau khổ vì thường
xuyên xuất hiện những cơn đau đớn, dai dẳng ở nhiều bộ phận khác nhau. Chính
vì vậy có rất nhiều trường hợp bệnh nhân bị trầm cảm đi khám nhầm, thay vì đi
đến khoa thần kinh thì họ lại đi khám ở các khoa khác. Tạo lối mòn cho trầm
cảm tiếp tục hành hạ người bệnh. Hay ở một số trường hợp khác, có một số
người biết là mình có thể đã bị trầm cảm song do tâm lí ngại đến khoa thần kinh
vì trong tư tưởng họ luôn nghĩ rằng cứ đến khoa thần kinh là bị điên, suy nghĩ đó
càng làm cho trầm cảm trở nên tồi tệ hơn.

2.2.3. Trầm cảm khiến mọi thứ trở nên khó khăn và tồi tệ

Trầm cảm được ví như một tên trộm thời gian, được đem ra so sánh như
bóng ma học đường luôn ẩn núp sau con người bạn. Nó không giết đi chính bạn

23
ngay lập tức mà nó từ từ hút cạn đi sức lực, hút cạn đi tư duy học tập và làm việc
của bạn. Từ một người luôn năng động, một người có thành tích học tập đáng nể
hay một người có phong độ tự tin bậc nhất cũng có thể bị bóng ma trầm cảm đè bẹp
mà không còn đủ sức cưỡng dậy chống chọi. Đối với người bị trầm cảm mà nhất là
trẻ vị thành niên trong độ tuổi từ 15-18 thì đây là một giấc mộng kinh hoàng. Bạn
trở nên lười biếng, kiệt quệ kể cả những việc là nhu cầu thiết yếu của cơ thể. Ngay
cả việc thức dậy cũng phải đấu tranh, việc tắm rửa cũng khiến cơ thể mệt mỏi. Bất
kể làm việc gì dù lớn hay nhỏ thì họ cũng cần phải nghỉ ngơi một chút. Có đôi khi
họ nhận thức được và buông xuôi suy nghĩ của mình gắng gượng tìm kiếm những
niềm vui nhưng dường như bộ óc họ không để tâm, quan tâm và cũng chẳng biết
bản thân mình đang nghĩ gì, muốn gì. Vì với người mắc bệnh trầm cảm trong đầu
họ hoàn toàn trống rỗng, cô đơn lạnh lẽo.

2.2.4. Làm thay đổi quan điểm và suy nghĩ của chính mình

Có một chuyên gia tâm lí từng nói: “ Khi trầm cảm kéo đến là khiến cho thế
giới của bạn trở nên tối sầm lại khiến cho mây đen kéo đến che lấp đi ánh sáng rực
rỡ của cuộc đời bạn.” Đúng thật vậy, theo các triệu chứng thường thấy thì trầm
cảm chỉ đơn giản là căng thẳng mệt mỏi, buồn ngủ mất ăn,… Nhưng thực tế cho
thấy nó không chỉ dừng lại ở đó. Khi bị mắc chứng rối loạn trầm cảm các bạn học
sinh THPT sẽ cảm thấy chán nán, mọi thứ thật tầm thường và tẻ nhạt. Đối với họ
mọi thứ trở nên vô vị, cuộc sống không có ý nghĩa gì ảm đạm tăm tối. Họ nhìn
nhận mọi thứ xung quanh một cách lạnh lẽo, vô cảm. Theo ngôn ngữ của tâm lí học
thì đây là hiện tượng “Chủ nghĩa hiện thực trầm cảm”. Họ nhìn thế giới xung
quanh, bản thân mình bằng một ánh mắt khác không phải lạc quan yêu đời mà là sự
kì thị, trốn tránh. Những ngày tăm tối càng trở nên ảm đảm hơn, và những buổi
sáng không còn đem lại cảm giác tươi mới và thú vị bất ngờ. Họ chẳng tin cuộc
sống, chẳng tin vào người thân thậm chí còn nghi ngờ với chính bản thân mình.

2.2.5. Không còn hứng thú với sở thích của mình

24
Đây gọi là hiện tượng mất khả năng trải nghiệm niềm vui. Những gì mà
chúng ta đã từng yêu thích, trân trọng và mong mỏi nhất giờ cũng hóa nhàm chán.
Bạn là một người yêu thiên nhiên cây cỏ, yêu động vật. Nhưng khi trải qua cuộc
chiến tranh tâm lí thì tất cả hoa không còn thơm, cây không còn đẹp, những chú
chó thật phiền phức. Tiệc tùng, hát hò cũng trở nên vô vị nhạt nhẽo, chẳng thể nào
xoa dịu tâm trạng của bạn. Mọi thứ như bao trùm trong chiếc khăn đen xì kín mít.
Nói chung cuộc sống của họ chìm nghỉm dưới đáy mà không biết bao giờ có thể
ngoi lên được.

2.2.6. Những yếu tố cảm xúc cứ dồn nén tác động làm cho người bệnh trở nên
vô cảm

Trầm cảm được coi như một kẻ không mời mà đến, nó không chỉ là một cơn
buồn thoáng qua, mà nó tác động mạnh mẽ đến tâm lí con người. Vì bị trầm cảm
nên người bệnh dễ bị tác động bởi các yếu tố bên ngoài. Khi bất cứ một chuyện gì
xảy ra họ luôn tự nhận do bản thân mình đã gây ra. Trầm cảm như một nỗi đau
khủng khiếp khó có thể diễn tả thành lời, đau nhưng lại không biết đau ở chỗ nào,
sợ nhưng không biết mình sợ cái gì và tệ hại hơn là không muốn giãi bày với ai. Có
lúc họ khác không ngừng, có lúc họ thấy cô đơn nhưng lại không muốn người khác
lại gần mình. Người mắc chứng rối loạn họ luôn tìm cách khép mình vào, mang nỗi
cô đơn sự tuyệt vọng về cuộc sống. Họ như bị chai lì với cảm xúc của chính mình,
vô cảm với mọi thứ xung quanh.

2.2.7. Sự tự ti, bi quan, thất bại trong suy nghĩ và hành động

“Không phải tôi không thích mọi người, mà tôi chắc chắn rằng họ không
chịu đựng được tôi”, tuy ở mỗi người biểu hiện trầm cảm là khác nhau nhưng khi bị
mắc trầm cảm họ luôn cô đơn nhưng họ lại tự cho rằng người khác không thích
mình nên mình cần phải xa lánh họ. Họ luôn cho rằng bản thân họ luôn tồi tệ thất
bại trong mọi việc. Trốn tránh thực tại là giải pháp tốt nhất, họ trốn tánh bằng cách

25
tìm đến cái chết - con đường mà đối với họ là giải pháp tốt nhất. Nỗi đau mà trầm
cảm mang lại nó dai dẳng như thiêu cháy đi tâm hồn bé nhỏ trong sáng. Chỉ có cái
chết mới có thể giúp họ mất đi sự cô đơn, mệt mỏi, đau đớn. Với họ cuộc sống
không còn ý nghĩa nữa chi bằng chết còn hơn.

2.2.8. Sự khác nhau giữa trầm cảm và buồn bã

Khi nói về trầm cảm người ta thường mặc định là buồn bã. Trong thực tế có rất
nhiều trường hợp bị mắc kẹt trong trầm cảm nhưng lại nghĩ mình đơn giản chỉ là
buồn. Ngược lại có trường hợp buồn lại nghĩ, lo sợ bản thân mình bị trầm cảm.
Trầm cảm cơ bản là có những dấu hiệu buồn bã, mệt mỏi, chán nản. Nên nhiều
người còn không phân biệt được giữa trầm cảm và buồn bã, trường hợp như trên
diễn ra khá phổ biến. Việc nhầm lẫn này là một mối nguy hại vô cùng to lớn, là sai
lầm nghiêm trọng khiến cho người bệnh (trầm cảm) không kịp thời chữa trị mặt
khác lại quá thái hóa với trạng thái cảm xúc bình thường (buồn bã).

Buồn là một cảm xúc bình thường của con người. Mỗi chúng ta đều đã từng
trải qua cảm giác này thậm chí nó còn lặp đi lặp lại nhiều lần. Nỗi buồn thường
được hình thành từ một sự việc trong đời sống hay một thử thách khó khăn trong
đời khiến chúng ta thất vọng hoặc những tổn thương mất mát. Điều này cũng có
nghĩa khi nỗi đau chúng ta mờ đi, mọi việc đã ổn thỏa, khi chúng ta cân bằng và
vượt qua nó thì nỗi đau tự nhiên sẽ biến mất.

Đối với trầm cảm thì đây không là một dạng buồn bã thông thường. Đôi khi
bạn chẳng cảm thấy gì cả. Thay vào đó, chúng ta cần phải phân biệt được rõ giữa
buồn và trầm cảm, trầm cảm bao gồm:

 Nhìn nhận cuộc sống một cách bi quan và thường xuyên cảm thấy bi
quan chán nản.
 Mất hứng thú với niềm vui trong cuộc sống. Những gì từng khiến người
bệnh hứng thú đều không còn ý nghĩa gì.

26
 Những người mắc bệnh giảm hoặc tăng 5% so với cân nặng bình thường
trong một khoảng thời gian ngắn.
 Mất ngủ hoặc ngủ quá nhiều
 Có thái độ dễ nổi giận, luôn tỏ ra khó chịu hoặc dễ bị kích động.
 Luôn uể oải và lờ đờ, không hoàn thành những nhiệm vụ đơn giản nhất.
 Luôn có cảm giác tội lỗi, luôn dằn vặt, quở trách và tự đổ lỗi cho bản
thân mình.
 Có những hành vi liều lĩnh. Luôn suy nghĩ đến cái chết và cho đó là sự
giải thoát tốt nhất.

Các nhà khoa học đã nghiên cứu và đưa ra kết luận rằng: Chứng rối loạn cảm
xúc buồn bã, chán nản, mệt mỏi…kéo dài trên hai tuần thì phải nghĩ ngay đến trầm
cảm và có hướng can thiệp kịp thời, nếu tình trạng này kéo dài thì rất nguy hiểm.

2.2.9. Sự khác nhau giữa trầm cảm và tự kỉ

Tự kỉ được hiểu gần như là chứng bệnh bẩm sinh rối loạn về nhận thức và
hành vi. Bệnh chủ yếu xảy ra đối với trẻ em khiến cho cơ thể bị chậm phát triển,
não phát triển không ổn định. Những người bị tự kỉ thường có sự khác biệt hay
chính là sự khép kín trong giao tiếp, trong các mối quan hệ trong xã hội bình
thường. Biểu hiện chính của trẻ tự kỉ là họ thường bị giảm về khả năng hòa nhập
với xã hội, luôn sống thu mình, ngại giao tiếp bằng ngôn ngữ hay cử chỉ. Đa số
những người tự kỉ thì hành vi của họ rất rõ ràng nên mọi người có thể nhận biết
ngay rất sớm. Tính đến hiện tại thì Tự kỉ vẫn chưa có thuốc chữa, những nếu không
được điều trị kịp thời thì có thể sẽ diễn ra cả đời.

Dấu hiệu nhận biết tự kỉ:

 Không hoặc ít khi giao tiếp với người khác kể cả gia đình
 Không hoặc ít khi cười với gia đình, bạn bè…

27
 Trầm hẳn đi, không cười không nói
 Không quan tâm hay để ý đến người khác mà cũng không bao giờ để người
khác chú ý
 Chậm nói hoặc có dấu hiệu loạn ngôn
 Khả năng tiếp thu chậm lại. khả năng phát triển kém, thành tích giảm sút…
 Có dấu hiệu phát triển không bình thường so với trước đây
 Khả năng tiếp xúc, nói chuyện không còn
 Có những phản ứng quá đà hay giật mình khi nghe nhạc
 Có những hành động tự làm mình đau như cào, cấu, cắn, xé….bản thân
Như vậy về cơ bản giữa trầm cảm cũng có vài nét giống nhau nên khiến
nhiều người dễ bị nhầm lẫn. Tự kỉ và trầm cảm đều là căn bệnh liên quan đến hệ
thần kinh và đều có lối sống thu mình ngại giao tiếp. Chính vì vậy, chúng ta nên
cần cung cấp cho bản thân kiến thức đầy đủ, chính xác nhất để kịp thời nhận thức
được vấn đề và nhanh chóng khắc phục tình trạng trầm cảm.

2.2.10. Sự khác biệt giới tính khi mắc bệnh

Theo thống kê thì tỉ lệ mắc bệnh trầm cảm ở học sinh nữ trong độ tuổi vị thành
niên nhiều hơn các bạn nam. Do giữa 2 giới tính có nhiều điểm khác nhau về thể
chất, suy nghĩ.

Đối với các bạn nữ khi bị bệnh thì có biểu hiện vô cùng rõ rệt, họ luôn tỏ ra lo
lắng, buồn rầu, mệt mỏi. Thường thường các bạn nữ dễ bộc lộ cảm xúc tâm trạng
của mình hơn các bạn nam. Như thể bạn chẳng cần thiết gì đến xinh đẹp, bạn chẳng
cần các mối quan hệ xung quanh, bạn muốn buông xuôi tất cả. Nguyên nhân có thể
là do gia đình từng có người bị trầm cảm, sự biến đổi tâm lí trong ở độ tuổi dậy thì
hoặc gia đình gặp biến cố lớn, áp lực từ nhiều phía quá lớn hoặc cũng có thể là mẫu
thần tượng lí tưởng mà giới truyền thông tô vẽ… Ngoài ra cũng có thể là do áp lực
tâm lí từ xã hội gây nên như định kiến xã hội, phong tục cổ hủ hay lo lắng do mình

28
không xinh đẹp nên các bạn không chơi cùng…. sức chịu đựng của con người cũng
có hạn nên với tính cách “thảo mai” yếu đuối của các bạn nữ thì thường sẽ nghĩ đến
việc tự sát cao hơn các bạn nam.

Ở các bạn nam thì có đôi phần khác, họ luôn tìm cách giấu đi cảm xúc, con
người của họ. Luôn luôn tỏ ra cáu gắt, bực bội hoặc phàn nàn về chuyện nhỏ nhặt
hay không có hứng thú với các hoạt động giao tiếp vui chơi với bạn bè. Có một
trường hợp một bạn nam từ con người hiền lành ngoan ngoãn, sau khi bị ảnh hưởng
quá mạnh mẽ từ game online nên đã bị trầm cảm nặng. Cậu ta sống với nhân vật
trong game, mất ăn mất ngủ, gầy sút cân nhanh chóng, luôn cáu gắt nổi giận với bố
mẹ, có lúc còn đe dọa uy hiếp gia đình phải đưa tiền cho. Như vậy đối với các bạn
nam có thể biểu hiện khác biệt hơn các bạn nữ, các bạn nam sẽ dễ sa vào tệ nạn xã
hội hơn đồng thời cũng dễ là người tìm đến cái chết hoặc làm tổn thương người
khác hơn. Mặc dù tỉ lệ mắc trầm cảm ở nữ giới gấp 3 lần nam giới nhưng tỉ lệ tự tử
do trầm cảm ở nam giới lại cao hơn nữ giới 2 lần.

2.2.11. Biểu hiện nhận biết chung của trầm cảm ở học sinh THPT

Mặc dù trầm cảm không bị xã hội xa lánh như các chứng bệnh tâm thần khác
nhưng mức độ ảnh hưởng của nó còn lớn hơn nhiều lần. Đã có nhiều trường hợp
giết người rồi tự tử, mà nguyên nhân là do trầm cảm. Do tiếng vang qua lớn từ các
vụ việc các nam sinh, nữ sinh tự tử do áp lực học tập, gia đình nhà trường…dẫn
đến tự tử. Nên chúng tôi đã khảo sát và tìm hiểu đươc những biểu biện bệnh lý nào
là biểu hiện nhận biết của trầm cảm của các bạn học sinh THPT.

 Do việc học hành quá tải nên khiến cho các bạn trở nên chán nản, mệt mỏi
với mọi thứ. Vì vậy họ thường dễ cáu gắt, tức giận vô căn cứ, có xu hướng
nóng tính bằng cách la hét hoặc động chân động tay.
 Cơ thể bắt đầu gặp sự cố như đau đầu, đau dạ dày, dị ứng da, cắn móng tay,
tóc khô sơ dễ rụng, đau vai hoặc lưng…

29
 Khi đã quá mệt mỏi với việc chạy đua cho các cuộc thi mà vẫn luôn thất bại
thì đây chính là lúc các bạn ấy hoàn toàn không tin vào cái mà gọi là “ cố sẽ
được”. Dần dần mất niềm tin vào cuộc sống, luôn kêu than mình vô dụng,
chẳng làm được tích sự gì và không muốn cố gắng trong bất kì việc gì nữa.
 Luôn ảm đạm trầm lắng mà không có lí do. Xuất hiện với tần xuất ngày
càng nhiều hơn.
 Sự thay đổi trong thói quen ngủ, có thể là quá ít hoặc quá nhiều nhưng lại
không ngon giấc.
 Mất hứng thú với công việc, học tập. Tình trạng học sa sút trông thấy.
 Thích ở một mình, cảm thấy mọi người xung quanh quá phiền phức khiến
bạn luôn đau đầu, mệt mỏi, xa lánh bạn bè. Thu mình lại và ngại giao tiếp,
ngại làm, ngại ăn và ngại tất cả mọi thứ.
 Có thái độ nổi loạn, cãi lại cha mẹ hơn ngày thường. Trở thành kẻ thù của
người thân, bạn bè. Tránh xa tất cả mọi người luôn xảy ra những trận chiến
hoặc bắt đầu sử dụng chất kích thích, sa vào tệ nạn xã hội.
 Luôn miệng nói những điều tiêu cực, bi quan về cuộc sống hay chán không
muốn sống. Khẳng định chết là chuyện quá bình thường ngược lại còn là sự
vui vẻ.

30
Hình 2.3 – Biểu hiện của trầm cảm (nguồn internet)

Trầm cảm là một nỗi đau rất lớn không chỉ về thể xác mà còn đau về cả tinh
thần. Nó tiến thẳng vào con người bạn một cách thầm lặng. Nó bắt đầu gây ra cuộc
chiến dữ dội, tàn sát trong đầu bạn. Ban đầu nó chiến đấu từ những suy nghĩ hành
động nhỏ nhặt nhất, sau đó ngày càng lớn dần và trở lên đáng sợ hơn bao giờ hết.
Nỗi đau mà trầm cảm gây ra nó không đau thấu tim mà nó chà sát tâm can mỗi
người. Chính vì vậy, để bảo vệ cho chính bạn và người thân mình thì mỗi chúng ta
cần phải nhận biết được những biểu hiện cơ bản nhất của trầm cảm để giúp chính
mình và người thân phòng tránh và thoát khỏi vòng luẩn quẩn của trầm cảm, thoát
khỏi sự rằng buộc của tâm can, suy nghĩ của chính mình không để trầm cảm làm
chủ bạn.

2.3. Nguyên nhân dẫn tới căn bệnh trầm cảm

2.3.1. Bệnh lí

31
2.3.1.1. Do sang chấn tâm lí

Sang chấn tâm lí (hay còn gọi là stress) thường đến từ những tác động bên
ngoài như: mâu thuẫn gia đình, bạn bè, công việc, tình yêu,... hoặc cũng có thể là
do tác động từ những yếu tố bên trong như: bị bện nan y hay phải chịu một cú sốc
lớn về tinh thần,... Đây là một nguyên nhân thường gặp gây trầm cảm.

Mức độ đánh giá ảnh hưởng của những stress này khi chẩn đoán cần xem xét
yếu tố ấy đã đủ gây ra trầm cảm như những stress nặng, kéo dài trường kì tạo nên
sức ép trong một khoảng thời gian quá dài,... Tuy nhiên có những stress không đủ
gây ra trầm cảm mà chỉ là yếu tố góp thêm, là giọt nước làm tràn ly, làm cho những
nhân tố đã có sẵn (rối loạn tâm thần tiềm ẩn có trước) có dịp bùng phát.

Tỉ lệ trầm cảm thường thấy tương đối cao ở người nghèo, dân tộc thiểu số hay
những vùng sâu vùng xa. Do những người này có thể bị xã hội coi thường, khinh
miệt gây nên những tổn thương về mặt tâm lí, tự ti, mặc cảm và lâu dần sẽ gây nên
trầm cảm.

Những chẩn đoán về sang chấn tâm lí sẽ rất có ích đối với các bác sĩ tâm lí
trong việc điều trị trầm cảm.

2.3.1.2. Do thực thể ở não

Khi suy nghĩ tiêu cực và căng thẳng, bạn sẽ dựa vào một phần não bộ làm
cho việc lưu thông trong não kém, gây mệt mỏi, cáu gắt. Các hormone mà não sản
xuất để đói phó với áp lực còn ảnh hưởng tới cấu trúc vật lí của não. Một loại
hormone được gọi là cortisol, có thể làm teo não và khiến não chúng ta không thể
sản sinh thêm các nơ-ron thần kinh mới. Điều này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc
ghi nhớ, điều khiển cảm xúc và khả năng học tập của chúng ta.

Do một số tai nạn gây nên chấn thương sọ não, bệnh viêm não, u não, chấn
thương não bộ cũng là một nguyên nhân gây bệnh trầm cảm. Những rối loạn và tổn

32
thương này có thể rút ngắn ngưỡng chịu đựng stress của cơ thể, chỉ cần một chút
stress có thể gây ra rối loạn cảm xúc, đặc biệt là trầm cảm.

2.3.1.3. Do sử dụng các chất gây nghiện hoặc các chất tác động tâm thần

Một số chất kích thích như: heroin, amphetamine (thuốc lắc), rượu, thuốc lá,
cà phê,… cũng là một nguyên nhân gây bệnh trầm cảm. Đặc điểm chung của những
chất này là tạo cho con người khoái cảm, kích thích, hưng phấn nên khi buồn chán,
bế tắc chúng ta thường tìm đến những loại chất kích thích như trên nhưng sau đó lại
rơi vào trạng thái u mê, mệt mỏi, uể oải, giảm sút và ức chế các hoạt động tâm
thần. Như vậy chất kích thích không chỉ không giúp cho ta thoải mái mà còn làm ta
buồn thêm, trầm cảm thêm.

2.3.1.4. Do yếu tố di truyền

Trong một nghiên cứu mới nhất của các nhà khoa học mới công bố, họ vừa
tìm thấy hai biến thể gen có liên quan đến trầm cảm. Chúng có tên là SIRT và
LHPP. Nghiên cứu do các nhà khoa học ở Mỹ, Anh và Trung Quốc thực hiện,
theo Daily Mail. Nhiễm sắc thể 3p25-26 đã được tìm thấy trong hơn 800 gia đình
có trầm cảm tái phát. Các nhà khoa học tin rằng nhiều như 40% những người bị
trầm cảm có thể liên quan đến gen. Nghiên cứu được chỉ ra một người nếu trong
một gia đình có bố mẹ, anh chị em ruột bị mắc trầm cảm thì sẽ có nguy cơ bị trầm
cảm cao gấp 3 lần.

Hình 2.4. Gen gây trầm cảm (nguồn internet)

33
Như vậy, theo các nhà khoa học, yếu tố di truyền có ảnh hưởng đến trầm cảm.
Tuy nhiên, một gen đơn lẻ không liên quan đến việc một người nào đó có bị trầm
cảm hay không, mà sự rối loạn đó là do sự kết hợp của nhiều gen khác nhau. Bởi
vậy, những người có người thân bị trầm cảm không cần quá lo lắng vì không chỉ
một yếu tố mà còn rất nhiều yếu tố khác ảnh hưởng.

2.3.2. Áp lực từ phía bên ngoài


2.3.2.1. Áp lực từ phía gia đình

Sự thật là có rất nhiều phụ huynh có suy nghĩ rằng: Con cái chỉ có mỗi ăn với
học thì có áp lực gì? Đây chính là sai lầm lớn nhất trong cách suy nghĩ của phụ
huynh Việt Nam. Việc học vất vả hay không chính là phụ thuộc vào trạng thái tư
tưởng của học sinh, khi bạn vui thì học trở nên dễ dàng nhưng khi buồn chán, căng
thẳng mệt mỏi thì việc học là một hòn đá khá nặng. Xuất phát từ sự kì vọng, bố mẹ
lúc nào cũng muốn con cái mình phải thành đạt, phải xuất sắc hơn những người
khác. Đem con mình ra so sánh với con nhà người ta là câu nói chung của đa số
phụ huynh hiện nay. Nhưng cũng không có ai biết rằng câu nói ấy vô hình chung
đâm vào chính con bạn. Tâm lí chung của các bậc phụ huynh là muốn con mình
phải giỏi nhất, hoàn hảo nhất trong tất cả mọi việc từ học tập đến kĩ năng mềm,
năng khiếu bản thân. Bố mẹ thường xuyên ép con học, rồi đăng kí rất nhiều lớp học
thêm, học nhóm, luôn luôn nói với con là phải học, học thật tốt. Nhưng chưa bao
giờ lại hỏi ước mơ của con là gì? Con muốn chia sẽ với bố mẹ thật nhiều, nhưng
con lại sợ, sợ bố mẹ nói rằng trẻ con mà lắm chuyện! Và những áp lực đó đã biến
con thành một đứa trẻ trầm hơn, lúc nào cũng mệt mỏi,… Và con bị trầm cảm!

34
Hình 2.5. Bố mẹ ơi đừng bắt con học (Nguồn: Internet)
Đặc biệt là với xã hội hiện nay, mô hình đại gia đình không còn nữa, đa số bố
mẹ đều tự nuôi con không phụ thuộc vào ông bà nên không thể san sẻ việc chăm lo
con cái. Với sự thúc ép của xã hội theo xu hướng toàn cầu hóa thì việc định hướng
nghề nghiệp tương lai cho các con là vấn đề chính gây sức ép đến các phụ huynh và
đó cũng đồng thời là áp lực tác động nên các bạn học sinh. Nhất là các bạn học sinh
THPT đặc biệt là lớp 12 thì việc này là việc khiến cho tất cả phải căng thẳng. Bố
mẹ thì lo cho tương lai các con nên ép con phải học theo môn này môn kia, trường
này trường kia để gia trường gia đình có thể lo việc làm cho. Nhưng bản thân con
thì lại không muốn học theo sự ép buộc của bố mẹ, con muốn được học môn mình
thích, thi vào trường mình yêu và sau này ra làm nghề mà mình mơ ước. Học
trường mình thích, làm việc mình yêu, điều đó khó lắm sao?

Cuộc sống muôn màu muôn vẻ, mỗi gia đình là một mảnh ghép tạo nên cuộc
sống. Nhưng mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh. Và có rất nhiều bạn sinh ra trong
gia đình mà bố mẹ mâu thuẫn, bạo lực gia đình. Đây cũng là một trong số những
nguyên nhân gây ảnh hưởng vô cùng lớn đến tâm lí các bạn tuổi teen. Một đứa trẻ
hằng ngày phải nghe những lời cãi vã, đánh đập bạo lực của bố mẹ của hàng xóm
xung quanh sẽ dần dần có khuynh hướng bạo lực, hoặc sẽ mắc các bệnh về tâm lí.

35
Những hành động đó của người lớn tác động vô cùng lớn tới tâm lí bởi chính các
bạn được nhìn và nghe trực tiếp, ảnh hưởng trực tiếp và dần là người thực hiện
hành vi bạo lực đó trước tiên. Không khó để tìm những minh chứng cụ thể những
bạn học sinh bị mắc bệnh trầm cảm do gia đình không hạnh phúc.

Hình 2.6. Bạo lực gia đình (nguồn internet)

Trong cuộc sống bộn bề lo toan, các bậc phụ huynh còn mải mê kiếm tiền gồng
gánh nuôi cả gia đình, cho con ăn học…bản thân họ cũng đang chịu những áp lực
rất lớn. Họ không có thời gian dành cho con, quan tâm đến những thay đổi trong
tâm lý của con, chia sẻ động viên con những lúc khó khăn…Con chỉ thu mình lại
chịu đựng. Con không tìm được chỗ dựa từ cha mẹ và con bị trầm cảm.

2.3.2.2. Áp lực học tập, thành tích, thi cử

Hiện nay, có rất nhiều bài báo than phiền về áp lực học tập gây nên trầm cảm
rồi dẫn đến tự tử ở học sinh. Theo một nghiên cứu từ Bộ Nội vụ Ấn Độ thì chỉ
trong vòng 3 năm từ 2014 - 2017, có hơn 26.000 học sinh đã tự tử tại quốc gia này.
Riêng năm 2016 có tới 9.473 em, tương đương mỗi 55 phút lại có một trường hợp
xảy ra. Ở Việt Nam theo kết quả y tế trường học giai đoạn 2011-2015 do Bộ Y tế
và Bộ GD&ĐT công bố, số học sinh có ý định tự tử ngày càng tăng cao, cứ 5 em

36
học sinh lại có một em có ý định tự tử. Mỗi năm, Bệnh viện Nhi Đồng 1 tiếp nhận
20 trường hợp trẻ em uống thuốc độc tự tử. Tại Việt Nam, tự tử là nguyên nhân thứ
2 gây tử vong ở người trẻ tuổi, xếp sau nhóm nguyên nhân do tai nạn giao thông

Hình 2.7: Áp lực học tập, thành tích (Nguồn: Internet)

Đây là một con số thật đáng sợ. Một học sinh THPT chia sẻ một ngày phải
học từ 7h sáng đến 10h đêm mới được về. Lịch trình là cứ sáng học chính khóa đến
11h30, chiều lại học phụ đạo trên trường đến 4h chiều. Tối lại đi học thêm 2 ca đến
10 giờ mới về nhưng chưa dừng lại ở đó về nhà lại tiếp tục làm biết bao nhiêu bài
tập ở lớp chính khóa, ở lớp học thêm, ở nhóm. Chưa kể đến có những bạn còn tham
gia các khóa học online hoặc một số bạn đi học năng khiếu. Các bạn ấy không có
thời gian để cân bằng não bộ và nghĩ ngơi đúng và phù hợp với lứa tuổi của mình.
Ngày nào cũng như thế thì thử hỏi thời gian đâu cho các bạn tham gia các hoạt
động xã hội, thư giãn? Cuộc sống ngày nào cũng quay cuồng như một con robot
được lập trình sẵn, và dần dần cứ như thế, các bạn liên tục chịu áp lực trong một
khoảng thời gian dài và dẫn đến trầm cảm.

37
Hình 2.8. Nỗi ám ảnh từ các môn học (nguồn internet)

Liệu giáo dục ở Việt Nam có quá khắt khe, có đang quá chú trọng về mặt thi
cử trên lí thuyết và có thể nói là xa rời thực tế? Tính ra thì hiện tại có 13 môn học
mà các bạn học sinh THPT phải hoàn thành. Trong chương trình giáo dục thì có
đến một nửa là môn xã hội với khối lượng kiến thức lý thuyết đồ sộ, hàn lâm, một
nửa số môn học là môn tự nhiên với những bài quá khó, một môn hoạt động ngoài
trời rèn luyện sức khỏe là môn thể dục. Có rất nhiều học sinh chia sẻ học những
môn lí thuyết thật sự rất buồn ngủ chán nản vì kiến thức không phải khó mà kiến
thức quá dài và khó nhớ, còn học những môn tự nhiên thì lại quá khó rất đau đầu vì
phải tư duy tối đa bộ óc của mình. Ngược lại những tiết học về kĩ năng sống lại
không có, những tiết học nhằm cho học sinh sáng tạo lại chiếm con số nhỏ mà hầu
như không có. Các chuyên gia nước ngoài đã đánh giá khách quan về vấn đề này
cho rằng Việt Nam nói riêng các nước châu Á Thái Bình Dương nói chung là khu
vực có nền giáo dục nặng nề về lí thuyết mà không đi sâu về thực tế. Nhưng thực tế
không chỉ áp dụng mỗi kiến thức lí thuyết trên lớp mà học sinh phải kết hợp những
yếu tố như: giao tiếp, ứng xử, sức khỏe,… thì mới có thể thành công. Việc nhồi

38
nhét quá độ những kiến thức sáo rỗng chỉ làm cho áp lực lại chồng chất áp lực, đè
nặng lên đôi vai của các bạn học sinh. Đây cũng là một trong những nguyên nhân
gây nên tình trạng căng thẳng. Tình trạng này kéo dài thì nguy cơ bị mắc trầm cảm
là rất cao.

Bên cạnh đó việc thi đua đạt thành tích trong nhà trường là một vấn đề đã và
đang được xã hội nhắc đến. Trên các phương tiện truyền thông đã đưa tin về một cô
giáo khi học sinh mắc lỗi đã phạt học sinh bằng 231 cái tát, thậm chí còn ép những
học sinh khác phải tát bạn trong khi bản thân các em đó không muốn làm. Áp lực
thành tích, thi đua, sự kì vọng của các thầy cô, nhà trường đối với học trò là rất lớn.
Đặc biệt là đối với các trường chuyên lớp chọn, sự kì vọng của các thầy cô là rất
lớn, luôn muốn học sinh phải vượt trội hơn. Đôi khi những sự kì vọng đó đã tạo
nên những áp lực vô hình cho học sinh và khiến cho việc học đã căng thẳng lại
càng căng thẳng gây ra trầm cảm ở học sinh THPT

2.3.2.3. Áp lực từ các mối quan hệ xã hội

Cho dù ở đâu, cho dù sống trong hoàn cảnh nào mỗi cá nhân chúng ta cũng
chịu sự chi phối của các mối quan hệ trong xã hội. Những mối quan hệ ấy có thể
giúp ta vượt qua những khó khăn trong cuộc sống nhưng cũng có những mối quan
hệ khiến ta bị áp lực. Mất đoàn kết trong lớp, chia bè phái, tẩy chay,… là áp lực của
bạn bè gây nên. Có những bạn thật sự rất mệt mỏi, mỗi ngày tới trường tới lớp là
căng thẳng, là lo lắng, là “khó thở”…

39
Hình 2. 9. Bị bạn bè bắt nạt, tẩy chay (nguồn internet)

Khi xã hội ngày càng phát triển, đời sống vật chất càng đầy đủ thì một thực
tế không thể phủ nhận đó là tỉ lệ phát dục sớm. Tình yêu tuổi học trò là một mối
quan hệ không thể phủ nhận. Có nhiều bài nghiên cứu về vấn đề này và hơn hết
trong thực tế ta cũng thấy nhiều vụ đánh ghen, mang thai ngoài ý muốn, tình yêu
tan vỡ dẫn đến hành vi dại dột của các bạn học sinh THPT. Tất cả điều đó đều ảnh
hưởng đến chất lượng cuộc sống, tác động trực tiếp đến tâm lí của các bạn học sinh
và gây ra tình trạng rối loạn cảm xúc, cụ thể là trầm cảm.

Mặt khác định kiến xã hội, sự kì thị và nhận thức chưa đúng đắn của đại đa
số mọi người trong xã hội cũng là một trở ngại khiến cho bệnh trầm cảm càng gia
tăng. Bởi khi chưa nhận thức đầy đủ về căn bệnh trầm cảm thì họ cho rằng những
người có biểu hiện mệt mỏi, chán nản, ủ ê buồn bã…là bị điên, bị thần kinh hoặc bị
ma nhập…nên họ xa lánh hoặc có thái độ không đúng, nói những lời lẽ khiến cho
những người bị trầm cảm càng thêm đau lòng, bế tắc và bệnh càng nặng hơn.

2.3.2.4. Áp lực từ mạng xã hội, game và thần tượng

Mạng xã hội: Ngày nay, các bạn trẻ dường như đang làm nô lệ của mạng xã hội,
đặc biệt là facebook. Nhiều bạn trẻ hiện nay, nếu một ngày không dùng facebook là
sẽ cảm thấy khó chịu, bức bách không yên. Các bạn đang bị mắc “hội chứng
facebook” giam mình trong một xã hội ảo, không sống thật với bản thân. Chúng ta
có thể thấy rõ nhất một hiện tượng phổ biến hiện nay là đến 90% các bạn học sinh

40
bị cận. Lí do là các bạn sử dụng tối đa thời gian của mình vào máy tính hoặc điện
thoại. Sự phát triển của công nghệ đòi hỏi con người phải kết nối với nhau, phụ
thuộc vào nhau để phát triển nhưng nó cũng là mầm mống gây ra trầm cảm ở nhiều
cá nhân mà tiêu biểu là các bạn học sinh THPT. Việc sử dụng quá nhiều những vật
dụng công nghệ này làm thay đổi lượng hoocmôn trong cơ thể các bạn học sinh,
nhất là lứa tuổi này đang trong giai đoạn phát triển thay đổi nhiều về nội tiết nên có
nguy cơ cao gây nên trầm cảm. Không chỉ có vậy, có nhiều bạn còn dùng mạng xã
hội để nhắn tin chia sẻ, giãi bày cảm xúc nhưng lại ngại tiếp xúc giao tiếp ở ngoài
đời thường. Trên facebook nơi các bạn được giải tỏa tâm sự, tuy nhiên có trường
hợp giải tỏa bằng cách đăng những dòng status buồn để cho những con người vô
cảm ngoài xã hội vào công kích gây ra những câu chuyện bi thương. Điều đó làm
cho nỗi buồn không thể được giải tỏa mà thêm ức chế hoặc dẫn đến hành vi xấu
hơn.

Một số trang mạng có nội dung tiêu cực: Hiện nay theo thuật ngữ của các
bạn trẻ thì “ chị Google” cái gì cũng có. Ngay cả khi ta lên mạng tìm với thuật ngữ
“cách tự tử” thì hàng loạt những bài viết hiện ra, hướng dẫn chi tiết về cách chết
như thế nào? Hoặc có những trò chơi thách thức bản thân phải chết mà các bạn trẻ
mê muội làm theo. Như vậy, ta có thể thấy rằng mạng xã hội có mặt tích cực nhưng
cũng tiềm ẩn nhiều tiêu cực, thậm chí có khi đẩy con người ta vào chỗ chết nếu các
bạn trẻ không biết kiểm soát. Những trang mạng có nội dung như: Làm thế nào để
tự tử? Các cách để tự tử mà không đau đớn,… Chính điều đó đã khiến cho những
suy nghĩ trong chúng ta tiêu cực hơn đặc biệt đối với những người trầm cảm vì họ
đang bị rối loạn cảm xúc và từ đó dẫn đến hành vi tự sát.

Game, truyện tranh: Có lẽ, những vụ con giết bố mẹ vì không cho tiền chơi
game hay anh giết em vì không xin được tiền…đã không còn xa lạ với chúng ta
trong thời đại hiện nay. Bạn từ một người ngoan ngoãn nghe lời thầy cô bố mẹ
nhưng khi tiếp xúc với game thì tất cả mọi thứ sẽ thay đổi. Bạn trở lên hoang dại,

41
hư đốn, bạo lực với người thân thậm chí là giết để có tiền chơi game. Nó khiến thế
giới của bạn trở nên lu mờ dần và chìm sâu vào bóng tối. Các bạn trẻ, đặc biệt là
bạn nam khi bị đắm chìm trong game, các bạn cho rằng thế giới bên ngoài là một
thế giới giả tạo chỉ có những nhân vật trong game mới sống thật với các mình, mới
đối xử tốt với các bạn ấy. Những nhân vật ảo đó luôn nghe lời và làm theo những gì
mình muốn mà không cãi chống đối một câu nào. Nó khiến các bạn cảm thấy sống
trong game hoặc truyện tranh là tuyệt vời nhất. Thế giới bên ngoài toàn ganh đua,
bon chen và quá mệt mỏi. Và các bạn chọn cho mình một cuộc sống không phụ
thuộc vào ai, không bị ai làm phiền, rồi dần dần không dứt ra được, bị ảo giác, bạo
lực và gây nên một số bệnh về thần kinh, trong đó trầm cảm cũng chiếm một tỉ lệ
đáng kể.

Thần tượng: Hâm mộ các thần tượng xưa nay vẫn luôn là một trào lưu mà đa
số diễn ra ở các bạn trẻ. Nếu hâm mộ ở một mức độ hợp lí có thể giúp ích rất nhiều
cho các bạn như động lực giúp các bạn học tập hay được truyền cảm hứng thực
hiện ước mơ. Tuy nhiên, thần tượng thái quá lại chính là một thảm họa. Có nhiều
trường hợp thần tượng thái quá gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng về sức khỏe,
tâm lí…Khi ngôi sao của mình kết hôn hoặc xảy ra sự cố thì nhiều bạn trẻ bị khủng
hoảng tâm lí trầm trọng, có bạn thì tự nhốt mình khóc không nói chuyện với ai chỉ
muốn gặp idol của mình hoặc có bạn thì tự tử kết liễu đời mình. Đó chính là một
trong những dấu hiệu của trầm cảm vì vậy chúng ta cần hạn chế giảm nhẹ việc hâm
mộ idol nếu không thì bạn sẽ dần đánh mất đi bản thân và sẽ ảnh hưởng rất lớn đến
thời gian học tập và vui chơi lành mạnh.

2.3.3. Áp lực do chính bản thân tạo nên


Một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến trầm cảm mà chúng
ta không thể không nhắc tới đó chính là việc các bạn học sinh tự tạo áp lực cho bản
thân. Tự tạo áp lực để bản thân cố gắng và hoàn thành được mục tiêu mình đã đề ra
là một điều không xấu. Bởi chỉ trong thử thách, trong khó khăn con người mới

42
chứng tỏ được khả năng của mình. Áp lực để đạt được mục tiêu được gọi là áp lực
tích cực. Thế nhưng, có loại áp lực lại hoàn toàn ngược lại. Theo TS Dương Minh
Tâm – Trưởng phòng điều trị stress (Viện sức khỏe tâm thần) cho biết, giới trẻ hiện
nay mắc một chứng bệnh đó là “tự hành xác”. Tự tạo áp lực cho mình buộc mình
phải học, phải cố gắng, phải đạt được mục tiêu bằng mọi cách, luôn đứng ở vị trí số
1 trong mọi mặt. Áp lực đó là áp lực tiêu cực khi tự đặt mục tiêu cao quá so với khả
năng và luôn cố gắng, thậm chí không cho mình một phút giây nghĩ ngơi, cân bằng
cơ thể. Khi không đạt được điều mình mong muốn thì suy sụp, mất phương
hướng…Đây là một điều rất nguy hiểm và cũng là một nguyên nhân gây ra căn
bệnh trầm cảm ở lứa tuổi học sinh THPT. Sở dĩ chúng tôi khẳng định được điều
này bởi qua điều tra khảo sát nhiều bạn cho rằng nguyên nhân gây ra tình trạng
căng thẳng mệt mỏi cho mình không phải là do bố mẹ hay thầy cô bạn bè mà do
chính mình không đạt được mục tiêu, cảm thấy thua kém bạn bè, cảm thấy mình
bất tài… Đặt mục tiêu cho chính mình đúng là điều mà mỗi người chúng ta cần và
nên làm để dự định, định hướng cho tương lai. Nhưng cũng không vì đặt mục tiêu
cho mình mà gây ra những áp lực tổn thương đến chính người bản thân. Đôi khi
bản thân đặt ra mục tiêu quá lớn dẫn đến bi kịch trong lòng mình, biến ước mơ
thành tham vọng, biến bạn thành con bệnh trầm cảm vì chính tham vọng mà mình
tạo ra.

Hình 2.10. Tự tạo áp lực cho chính mình (nguồn internet)

43
Không chỉ có vậy việc tự tạo áp lực cho chính bản thân mình còn là việc tự
tạo áp lực, tự tạo sự đố kỵ thù địch cho bản thân. Dù cho bạn có dùng nụ cười của
mình để che đậy cảm xúc của mình nhưng chắc gì trong lòng bạn đang vui, lòng đố
kỵ vẫn còn đó. Giả sử khi bạn thấy người khác hơn bạn về mọi mặt thì tự nhiên
trong lòng hình thành một phản xạ ghen ghét người khác. Hay khi bị phê phán, chê
bai về một vấn đề của mình thì bạn thấy xấu hổ và cho rằng mọi người quá nhiều
chuyện, mọi người không có quyền gì phán xét mình. Nhiều bạn có thể hiện thái độ
bực tức, gắt gỏng. Điều đặc trưng của sự đố kỵ chính là mình tự tạo ra và mình
luôn biến mọi thứ trở nên phức tạp. Bạn luôn đặt cái tôi cá nhân lên đầu và luôn lấy
mình ra so sánh, luôn tự cho mình ra là mục tiêu chỉ trích của mọi người, Bạn nghĩ
mọi thứ quá lên khiến trong lòng luôn thổn thức lo âu. Vậy trầm cảm không phải từ
đâu mà có từ ngoại cảnh tác động mà đôi khi thành bệnh từ chính lòng đố kỵ mà
mình tạo ra.
Một điều đáng nói nữa là giới trẻ hiện nay đang bị cuốn theo “hiệu ứng đám
đông”, nghĩa là tự cho mình bị trầm cảm. Điều này thật sự rất nguy hiểm đối với xã
hội. Một xã hội mà ai cũng cho rằng mình bị trầm cảm thì sẽ ra sao?

Theo như nhiều nghiên cứu trước kia thì trầm cảm thường xảy ra ở người.
già. Nguyên nhân là khi con người già đi thì các bộ phận và đặc biệt là não bộ bị
lão hóa cộng thêm cả những áp lực mà tuổi già mắc phải. Nhưng câu hỏi khiến
chúng tôi trăn trở rất nhiều đó là: Người già bị trầm cảm do cơ thể, não bộ bị lão
hóa nhưng các bạn trẻ lại cũng bị trầm cảm, trong khi cơ thể ở các bạn trẻ lại khỏe
mạnh hơn?. Do xã hội phát triển khiến các bạn trẻ mắc một hiện tượng đó là “sống
ảo” các bạn chìm vào trong một thế giới khác, một thế giới toàn những sự hoàn
hảo, một thế giới thượng lưu. Nơi đó các bạn có thể post tất cả những gì mình có.
Có những bạn khi bị mắc bệnh trầm cảm, bạn ấy cố tỏ ra là mình ổn ngụy trang lên
bản thân một lớp áo. Khi ra ngoài bạn là một người vui vẻ, cá tính, luôn thể hiện
một đẳng cấp riêng. Nhưng kì lạ là khi về đến nhà bạn ấy mới sống được chính con
người thật của mình. Bạn lại ngồi một mình khóc lại một mình suy nghĩ tự đào bới

44
ra những sự kiện trong cuộc sống rồi biến nó thành vấn đề phức tạp ép bản thân
phải suy nghĩ. Cứ như thế nỗi buồn tích tụ lại lâu ngày tạo thành một sự ức chế cảm
xúc dẫn đến những suy nghĩ tiêu cực

Trong cuộc đời mỗi con người chúng ta lứa tuổi từ 15 đến 18 tuổi là một cột
mốc đáng nhớ. Cột mốc với nhiều sự kiện trọng đại buộc con người phải vượt
thắng. Đó là việc lựa chọn nghề nghiệp cho tương lai. Một lứa tuổi với tâm sinh lý
phức tạp nhưng lại phải đưa ra những quyết định có tính chất bước ngoặt trong
cuộc đời. Các bạn học sinh THPT vừa phải trải qua một kì thi căng thẳng để đỗ vào
trường THPT mình mong muốn. Khi vừa làm quen với ngôi trường mới thì lại
chuẩn bị thi THPT Quốc gia- một kì thi quan trọng. Chọn hướng nào cho cuộc đời
của mình? Chọn trường nào nghề nào cho phù hợp với khả năng và kinh tế của gia
đình…. Áp lực về vấn đề này cũng là nguyên nhân quan trọng ảnh hưởng đến thần
kinh của các bạn học sinh THPT. Và định hướng nghề nghiệp cho tương lai có lẽ là
vấn đề đau đầu nhất. Bởi sự biến động không ngừng của xã hội, tình trạng chảy
máu chất xám, hay việc áp dụng công nghệ kĩ thuật cao vào làm việc... khiến cho
các bạn học sinh THPT lo lắng, chọn nghề gì, ngành gì để có việc làm sau khi ra
trường. Học giỏi nhưng ra trường có xin được việc phù hợp không?...Những suy
nghĩ tiêu cực đó đã tác động không nhỏ đến cảm xúc của các bạn học sinh THPT..

Một điều đáng buồn hơn nữa là các bạn trẻ đang mắc phải chứng thiếu tự tin
và không tin vào khả năng của bản thân. Càng ngày cứ như thế, các bạn dần mất đi
kĩ năng nói ra suy nghĩ của mình, hoặc nghiêm trọng hơn là mất đi khả năng biểu lộ
cảm xúc. Điều này chính là một chất xúc tác làm cho các bạn thu mình lại hơn với
xã hội, sống một cuộc sống cô đơn và buồn chán.
2.4. Hậu quả của căn bệnh trầm cảm
Hiện thực gần đây cho thấy trầm cảm đang ngày trở nên đáng sợ hơn bao giờ
hết. Rất nhiều các bạn trẻ hiện nay không làm chủ được bản thân nên đã tự kết liễu
cuộc đời mình. Nếu như trước kia, tỉ lệ mắc trầm cảm ở người cao tuổi cao hơn thì

45
bây giờ trầm cảm lại có xu hướng trẻ hóa. Theo nghiên cứu của tổ chức Y tế thế
giới trên thế giới có tới 100 triệu người bị mắc trầm cảm thì gần 1 triệu người tự
sát, trong số đó có 70% là trẻ vị thành niên. Tính ra cứ 100 phút lại có 1 bạn trẻ tuổi
teen tìm đến cái chết. Tự sát do trầm cảm cũng là một trong 3 nguyên nhân chính
gây đến cái chết tăng đột biến ở các bạn trẻ độ tuổi từ 15 – 24 tuổi. Không chỉ vậy,
nghiên cứu còn chỉ ra một con số đáng sợ hơn tỉ lệ mắc trầm cảm ở nữ giới cao gấp
3 lần nam giới nhưng tỉ lệ tự sát ở nam giới lại cao hơn ở nữ giới. Ở ngay tại Việt
Nam trong vòng 1 năm, số người tử vong do tai nạn giao thông khoảng 10.000-
13.000 người, trong khi số người tự tử lên đến 36.000-40.000 người, gấp tới 3-4
lần. Như vậy những số liệu trên phần nào cũng đã phản ánh được hậu quả vô cùng
đáng sợ của căn bệnh này.

Hình 2.11. Hậu quả của căn bệnh trầm cảm (nguồn internet)
Cũng theo Tổ chức y tế thế giới WHO, trầm cảm chính là gánh nặng bệnh tật
hàng đầu vào năm 2030. Trầm cảm gây ra nhiều bệnh nên người ta rất dễ nhầm lẫn
với các bệnh tật khác. Theo PGS. Trần Hữu Bình- nguyên viện trưởng viện tâm
thần quốc gia thì một số người bị trầm cảm nhưng họ lai có biểu hiện đi tiểu nhiều
lần trong ngày. Vì vậy thay vì đến khoa thần kinh thăm khám thì họ lại đến khoa
tiết niệu. Một số trường hợp khác đi khám các bác sĩ chuyên khoa cũng không tìm
ra bệnh mặc dù có biểu hiện đau đầu, chóng mặt… Dưới đây là một số căn bệnh do
hậu quả của trầm cảm:
2.4.1. Các bệnh liên quan tim mạch và não bộ

46
Theo nghiên cứu mới nhất của tổ chức y tế Hoa Kì thì trầm cảm có nguy cơ
mắc tim mạch tương đương với béo phì và lượng cholesteron xấu. Người mắc bệnh
trầm cảm thường cảm thấy chán nản, mệt mỏi khiến cho cơ tim dễ bị viêm do thiếu
oxi nên dẫn đến đau tim. Khi bạn cảm thấy chán nản cũng có nghĩa cơ thể của bạn
tự nhiên phát hành hormone stress như cortisol và epinephrine. Những hormone
căng thẳng này có thể ảnh hưởng đến huyết áp và nhịp tim, làm cho động mạch của
bạn bị yếu đi. Điều này dẫn đến việc hình thành các mảng bám trong động mạch,
ngăn chặn lưu lượng máu và cuối cùng gây ra các cơn đau tim và đột quỵ. Đặc biệt
là những người có tiền sử về bệnh tim thì hậu quả ngày càng nặng nề hơn.
Não bộ cũng là một trong những cơ quan bị trầm cảm ảnh hưởng nghiêm
trọng. Nhất là đối với học sinh THPT khi mà não bộ đang phát triển mà gặp phải sự
cố về thần kinh như vấn đề trầm cảm thì lẽ đương nhiên sự mất cân bằng não bộ
xảy ra. Não bộ sẽ nhanh chóng lão hóa hơn người bình thường, xảy ra các triệu
chứng như sa sút trí tuệ, suy giảm trí nhớ, khả năng nhận thức kém dần đi ở tuổi
trưởng thành, bắt đầu có những suy nghĩ tiêu cực, căng thẳng. Những biểu hiện
sinh học này là do quá trình lưu thông máu lên não kém dần nên người bệnh dễ cáu
gắt, mệt mỏi. Các hormone trong não bị gián đoạn làm thay đổi về chức năng và
cấu trúc vật lí của não bộ. Cortisol tiếp tục sản sinh gây ra hiện tượng teo não và
khiến não chúng ta không thể hình thành ra các nơtron thần kinh mới. Điều này làm
cho bệnh nhân mất khả năng ghi nhớ, điều khiển cảm xúc, khả năng học tập và làm
việc.
2.4.2. Giảm sức mạnh của hệ miễn dịch

Theo như tất cả các phương pháp điều trị cũ thì họ vẫn tập trung nghiên cứu
về hóa chất để khắc phục não bộ của người bị trầm cảm. Nhưng trong những năm
gần đây, các nhà khoa học đã tập trung nghiên cứu và cho rằng đây là tình trạng
viêm toàn cơ thể do hệ miễn dịch đã bị suy yếu, làm việc quá mức. Khi chứng viêm
lan rộng cũng đồng nghĩa là các hệ miễn dịch đang phải phát huy hết khả năng để
chống lại các siêu vi khuẩn. Như vậy, khi hệ thống miễn dịch suy yếu dần sẽ khiến

47
người bị mắc bệnh trầm cảm dễ bị cảm lạnh và cảm cúm hơn. Cũng theo nghiên
cứu y khoa của thế giới thì hệ thống suy giảm miễn dịch còn do hormone gây stress
được sản sinh và tồn đọng lâu trong cơ thể. Những điều trên cũng đã giải thích rõ
ràng hơn cho chúng ta: Tại sao bị mắc bệnh trầm cảm lại bị cảm cúm hoặc mệt mỏi
chán nản?

2.4.3. Mất đi cảm giác ngon miệng và mất ngủ


Khi bị trầm cảm nhẹ thì đa số bệnh nhân sẽ có tình trạng ăn nhiều, ngủ
nhiều. Đến khi bị trầm cảm nặng thì lại ăn ít hoặc ngủ ít, ngủ không ngon giấc. Có
những trường hợp người bệnh ăn rất ít thậm chí không ăn. Nguyên nhân là do hệ
thần kinh bị căng thẳng quá mức dẫn tới suy nhược tần kinh, hệ thần kinh bị tổn
thương nặng nề gây ra các hiện tượng mất ổn định về thói quen hay bản năng sẵn
có. Chính vì vậy, khi mắc bệnh bạn sẽ bị thay đổi tất cả các thói quen ăn uống và
ngủ nghỉ. Điều này dẫn đến thay đổi về cơ chế trao đổi chất nên khiến bạn tăng cân
hoặc sút cân nhanh chóng. Không chỉ vậy trầm cảm còn gây cho bạn cảm giác mất
ngủ, giấc ngủ bị gián đoạn thường xuyên gặp ác mộng, tâm trí không bình tĩnh luôn
suy nghĩ linh tinh.
2.4.4. Nhức đầu và đau lưng
Theo Trung tâm Y tế Dự phòng ở Taipei, Đài Loan đã chứng minh mối liên
hệ giữa lo lắng trầm cảm và chứng đau nửa đầu. Một nghiên cứu cho thấy những
người trầm cảm nặng bị chứng đau đầu gấp ba lần người bình thường. Đau lưng
mãn tính có thể gây ra trầm cảm, ngược lại trầm cảm cũng có thể gây ra đau lưng.
Những người đang chán nản có khả năng đau lưng đau cổ hoặc hông cử động được
gấp 4 lần người bình thường. Nguyên nhân chính vẫn là do hệ thần kinh bị tổn
thương vì căng thẳng, mệt mỏi.
2.4.5. Mệt mỏi và kiệt sức
Trầm cảm và mệt mỏi là hai tình trạng có tính tương tác qua lại với nhau.
Lúc này người bệnh không chỉ thấy mệt ở thể xác mà còn thấy mệt ở trong chính
suy nghĩ hành vi của mình. Họ sẽ không muốn làm bất cứ việc gì kể cả những việc

48
mà họ luôn có hứng thú. Khi bị trầm cảm bạn sẽ cảm thấy cơ thể chán nản mệt mỏi
không muốn làm gì hay nói chính xác là mất hoàn toàn năng lượng cơ thể. Bạn
không đủ sức để thực hiện các hoạt động đơn giản. Tuy nhiên, mệt mỏi cũng có thể
là do thiếu ngủ hoặc hay đau nhức đầu.
2.4.6. Tự tử
Đa số tâm lí chung của những người bị trầm cảm thì họ luôn cảm thấy mệt
mỏi và day dứt trong lòng. Họ suy nghĩ về nhiều điều rồi họ trở lên điên dại vì cắn
dứt lương tâm, luôn nghĩ tại mình mà mọi chuyện mới như vậy tất cả đều tại mình.
Họ nghĩ bản thân họ thật tồi tệ, chẳng làm được gì mà còn bị nhiều người khác ghét
bỏ, xa lánh. Những người bị trầm cảm họ luôn thấy bản thân mình thật cô đơn, thấy
trong đầu luôn căng thẳng nên chuyện nghĩ tới cái chết cũng không có gì lạ. Vì hầu
hết các bệnh nhân khi rơi vào căn bệnh tự tử mà đặc biệt là học sinh thì chuyện
nghĩ đến tự tử là điều chắc chắn. Có thể khẳng định một điều là trầm cảm căn bệnh
dễ chưa nhưng không kịp thời chữa trị thì người bệnh các chắn sẽ nghĩ đến cái chết.
Khi họ đã vô cùng mệt mỏi, đau khổ và luôn tự cho rằng mọi chuyện đều tại mình
mà ra nên cách duy nhất chỉ có tự tử. Vì theo suy nghĩ của người mắc bệnh trầm
cảm thì tự tử là cách tốt nhất và duy nhất để giải thoát, khi chết rồi họ mới không
biết đau là thế nào, khổ là ra sao.

Hình 2.12. Trầm cảm sát thủ giấu mặt trong xã hội hiện đạt (nguồn internet)

2.5. Giải pháp giúp học sinh THPT vượt qua căn bệnh trầm cảm

49
Khi nhìn vào hậu quả của căn bệnh trầm cảm này và cả trong thực tế tôi, bạn
bè tôi đã từng bị trầm cảm đe dọa. Chúng tôi ý thức rằng mình phải hành động,
phải tìm hiểu, phải lên tiếng để cho mọi người trong xã hội hiểu hơn về những nguy
hại của trầm cảm. Từ mong muốn đó chúng tôi xin đề xuất một số giải pháp có tính
khả thi và đã được áp dụng bước đầu đã đạt được hiệu quả ở trường THPT Nhị
Chiểu- ngôi trường chúng tôi đang theo học. Các giải pháp đó là: Loại trừ các tác
động tiêu cực; Tăng cường các hoạt động tích cực và Bản thân những bạn học sinh
tự điều chỉnh cảm xúc để những bạn đã bị trầm cảm nhẹ sẽ không bao giờ bị trầm
cảm tái phát, những bạn bị trầm cảm nặng sẽ cải thiện được tình trạng của mình
không dẫn đến hành vi tiêu cực và đặc biệt là giúp đỡ những bạn có nguy cơ bị
trầm cảm sẽ không bao giờ biết đến căn bệnh trầm cảm là gì?
Với giải pháp Loại trừ các tác động tiêu cực, chúng tôi quan tâm đến việc
tuyên truyền cho mọi người trong xã hội hiểu về căn bệnh trầm cảm để gia đình
luôn là điểm tựa vững chắc cho con cái, để nhà trường không chỉ quan tâm đến dạy
kiến thức mà còn tạo sân chơi lành mạnh, rèn kĩ năng, tạo niềm tin cho học sinh và
mỗi ngày đến trường là một ngày vui với các bạn học sinh THPT. Đặc biệt khi mọi
người trong xã hội đã hiểu về trầm cảm thì họ sẽ không có cái nhìn kì thị với những
người mắc bệnh, người bệnh sẽ vượt qua những cú sốc tinh thần để vững vàng hơn
trong cuộc sống sau này. Tuy nhiên với căn bệnh trầm cảm dù bạn có được giúp
đỡ, quan tâm của mọi người nhưng chính bạn mới là người quyết định được cuộc
đời của mình. Vì vậy bạn phải tăng cường các hoạt động tích cực và tự điều chỉnh
cảm xúc của bản thân. Với các giải pháp cụ thể đó, chúng tôi mong muốn mang lại
cho tất cả những bạn trẻ- những người bạn cũng trang lứa một cuộc sống vui tươi,
yêu đời lạc quan, sống đúng lứa tuổi của mình và mang trong mình ngọn lửa đam
mê với slogan: “CHÁY HẾT MÌNH”.
2.5.1. Giải pháp thứ nhất: Loại trừ các tác động tiêu cực
2.5.1.1. Gia đình làm điểm tựa

50
Khi cả thế giới chuyển mình bước sang một kỉ nguyên mới, thời đại mới
cũng là một thách thức yêu cầu và đòi hỏi mỗi người chúng ta cần phải nhanh
chóng thay đổi để hòa nhập, thích nghi với cuộc sống chung. Điều đó làm cho
khoảng cách giữa bố mẹ và con cái trở lên dài hơn. Nhất là khi con cái đang ở tuổi
mới lớn, khi mà bộ não đang phát triển chưa hoàn thiện nên nhiều suy nghĩ của con
còn non dại, chưa đủ chín chắn thì bố mẹ chính là người để điều chỉnh lại tất cả
hành vi suy nghĩ của con. Và chỉ có bố mẹ mới có thể làm được việc này.

Trước hết các ông bố mà mẹ phải là người kiên nhẫn và “chấp nhận cái sai
đầu đời của con”. Nếu đem ra so sánh thì bộ óc của bố mẹ đã hình thành qua rất
nhiều năm, qua rất nhiều thăng trầm mới có thể đúc kết ra được những suy nghĩ
đúng đắn nhất. Ngược lại, bộ óc của các con trên thực tế là chưa hoàn thiện hết nên
tâm lí ở giai đoạn tuổi dậy thì có nhiều bất biến khó hiểu, làm những chuyện sai
trái. “Chấp nhận” ở đây không có nghĩa là làm lơ mà bố mẹ cần phải điều chỉnh
lại suy nghĩ hành vi con một cách đúng đắn nhất. Bố mẹ nên đem những câu
chuyện của chính bản thân mình hoặc những câu chuyện trên sách báo để kể
chuyện cho con để giúp con nhận ra và hiểu được vấn đề. Con trẻ đang bước vào
cái tuổi mới lớn, cái tôi cá nhân rất cao, vậy nên bố mẹ đừng trách mắng con, đặc
biệt càng không được so sánh con với những đứa trẻ khác, điều đó sẽ khiến cho con
cảm thấy bị xúc phạm. Và những đứa trẻ không được cha mẹ “chấp nhận” như
vậy sẽ rất dễ bị trầm cảm. Vậy nên, điều bố mẹ phải là hãy tha thứ vào tạo niềm tin,
động lực cho con cố gắng phấn đấu hơn nữa.

Không chỉ các bạn học sinh khác mà ngay cả chính bản thân mỗi chúng tôi
cũng cho rằng “thà bị bố mẹ đánh còn hơn là nghe mắng” hay “thà đi học một ngày
còn hơn ở nhà với bố mẹ”. Câu hỏi đặt ra là “Tại sao các bạn học sinh lại không
muốn gần bố mẹ?”. Câu trả lời cũng không quá khó nhưng thứ mà các bạn ấy
mong muốn với bố mẹ đơn giản chỉ là “ Làm ơn hãy lắng nghe và tin tưởng con
nhiều hơn, nhưng đừng chỉ trích con ba mẹ nhé!”. Câu trả lời trên không chỉ là

51
lời tâm sự mà còn là lời mong mỏi của hơn ai hết lại chính là các con. Chính vì vậy
bố mẹ nên học cách để hiểu con mình hơn, học cách để làm bạn với con, học cách
tin tưởng lắng nghe những điều con nói. Làm như vậy các con sẽ thấy mình không
cô đơn, mình vẫn luôn có chỗ dựa, vẫn luôn có người bạn cùng đồng hành với mình
trên mọi chặng đường. Hãy là người đồng cảm với con trong mọi câu chuyện mà
con gặp phải. Bố mẹ thật sự nên quan tâm đến cảm xúc của con. Nếu như con bạn
đã từng nói muốn tự tử thì đừng bao giờ cho qua chuyện đó, điều đó ít nhiều đã
chứng minh rằng con bạn đã từng có suy nghĩ tiêu cực đó, và hãy dẹp bỏ chúng
trước khi mọi thứ quá muộn. Hãy để ý đến từng thay đổi nhỏ trong cả suy nghĩ
cũng như hành động của con. Để làm được điều đó, bố mẹ phải thật gần gũi với
con, nói chuyện với con mỗi ngày và “Hãy làm bạn với con”.

Hình 2.13: Làm bạn với con (Nguồn: Internet)

Đối với những bạn bị trầm cảm thì sự phát giác sớm của gia đình là vô cùng
quan trọng. Những người bị trầm cảm họ thường có những dấu hiệu đặc biệt khác
từ việc thay đổi thói quen ăn uống, thay đổi thói quen ngủ nghỉ hoặc có những lời
nói tiêu cực. Chính vì vậy ba mẹ cần và thường xuyên theo dõi và quan sát con mọi
lúc mọi nơi để nhận ra và sớm chữa trị nếu con bị trầm cảm. Hãy là người cùng con
tham gia các hoạt động xã hội bên ngoài để con được mạnh dạn hơn. Đưa con đến
các buổi từ thiện để con nhận thức được bản thân mình đã may mắn hơn người
khác rất nhiều để biết trân trọng những gì mình có, trân trọng cuộc sống của mình
hơn. Gia đình luôn tạo cho con không khí vui tươi, náo nhiệt để gắn kết tất cả mọi
thành viên trong gia đình với nhau. Hãy cố gắng giành chút thời gian để quan tâm

52
giúp đỡ, lắng nghe những tâm tư nỗi lòng của con nhưng đừng vội trách móc và bố
mẹ hãy trở thành những nhà tâm lí hiểu con nhất, thuốc chữa trầm cảm tốt nhất cho
con.
Là bố mẹ, ai cũng kì vọng vào con, ai cũng muốn tốt cho con. Nhưng bố mẹ
cũng không nên kì vọng quá vào con vì đôi khi sự kì vọng đó chính là tạo áp lực
cho con. Bố mẹ đừng ép con phải học giỏi môn toán trong khi con thích học văn,
đừng ép con phải đứng đầu lớp trong khi con không thể làm được. Điều đó làm con
rất mệt mỏi, càng làm cho con thấy chán ghét việc học hơn. Thật sự con rất mệt.
Hơn nữa bố mẹ đừng lấy người khác ra làm chuẩn mực để con phải làm theo, bắt
con là bản sao của một bạn nào đó. Bố mẹ hãy cho con chơi các môn thể thao mà
con thích như đá bóng, bơi lội, hay cho con tham gia các lớp học năng khiếu,… Bố
mẹ thay vì tạo sức ép thì hãy luôn tin tưởng con, đứng về phía con, hãy cho con
thấy được thế giới bên ngoài chứ không chỉ riêng mỗi việc học : “Đừng bắt con
học giỏi”. Hãy cho con sự tự do và cho con được thoải mái với đam mê của chính
mình. Điều này không đồng nghĩa với việc bố mẹ dễ dãi đồng ý tất cả những đòi
hỏi vô lí của con mà bố mẹ chỉ đang tạo cho con một môi trường phát triển lành
mạnh, tốt nhất cho con.
Tính cách của một đứa trẻ được hình thành từ việc nuôi dạy của bố mẹ. Mỗi
gia đình, mỗi hoàn cảnh sẽ tạo nên những nhân cách khác nhau. Vậy nên, bố mẹ
nên quan tâm hơn đến cách dạy dỗ trẻ sao cho hợp lí. Đặc biệt nên quan tâm đến
những thay đổi nhỏ của con, từng lời nói cũng như hành động tưởng như vô thưởng
vô phạt lại là những biến động lớn trong tâm lí của con. Hãy tâm sự, trò chuyện
cũng như chia sẻ cùng con để phát hiện ra những biểu hiện sớm nhất, giúp con vượt
lên những áp lực và sống ý nghĩa.
Con cái là tài sản vô giá, là của để dành mà bất cứ ông bố, bà mẹ nào cũng
trân quý. Chúng tôi tin rằng tất cả những điều mà chúng tôi đề xuất bất cứ người
làm cha làm mẹ nào cũng làm được. Vì duy chỉ có gia đình người ta mới tìm được
chốn nương thân để chống lại tai ương của số phận (Euripides).

53
2.5.1.2. Nhà trường tạo niềm tin

Đối với mỗi học sinh, mái trường chính là ngôi nhà thứ hai. Vậy nên, không
chỉ có gia đình làm điểm tựa mà các bạn cũng rất cần sự quan tâm của nhà trường.
Thầy cô, đặc biệt là thầy cô chủ nhiệm nên gần gũi, trò chuyện với học sinh nhiều
hơn. Học sinh sẽ cảm thấy có hứng thú hơn với môn học khi được giáo viên ghi
nhận và quan tâm. Đừng nghĩ rằng chiều trẻ là hư, mà hãy biết cách chiều, tạo một
tâm thế thoải mái nhất khi học. Một ví dụ điển hình là, nếu một học sinh đang gặp
rắc rối nhưng nhận thấy mình được bạn quan tâm và chú ý thì điều này sẽ tạo động
lực cho bạn đó học tập chăm chỉ hơn. Nếu một học sinh nghĩ rằng thầy, cô của
mình chẳng quan tâm đến mức độ học hành chăm chỉ hay cảm xúc của mình thì
bạn đó cũng sẽ cố gắng ít hơn. “Các thầy cô hãy quan tâm, gần gũi học sinh
hơn”. Một minh chứng rõ nhất là ở tại trường THPT Nhị Chiểu chúng em cũng
luôn được các thầy cô chủ nhiệm quan tâm. Nhà trường đã có kế hoạch từ đầu năm
về giáo dục kĩ năng sống cho học sinh, giáo dục tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
trong các tiết sinh hoạt cuối tuần. Những tiết sinh hoạt không chỉ dành thời gian
cho việc sơ kết cuối tuần, triển khai công việc tuần mới, phê bình, khen thưởng mà
chúng em còn được học những kĩ năng như kĩ năng thuyết trình, kĩ năng ứng xử,…

Hình 2.14. Kế hoạch giáo dục tư tưởng đạo đức cho học sinh của trường
THPT Nhị Chiểu (Ảnh chụp ngày 21/10/2018)

54
Là một người giáo viên, các thầy cô cũng muốn cho các học sinh của mình
trong tương lai sẽ thành đạt, sẽ trở thành người có ích cho xã hội. Nhưng dù sao,
các thầy cô cũng đừng nên tạo áp lực quá nên học sinh bằng cách ép các bạn học
quá nhiều hay giao bài tập quá khó khiến các bạn nản chí. Thay vì giao các nhiều
bài tập thông thường thì hãy giao cho học sinh những đề bài mang tính sáng tạo,
đưa các bài học thực tế, hình ảnh qua đó giúp học sinh tích cực hơn, giảm nhẹ áp
lực và thay bằng hăng say với việc học. “Hãy tạo hứng thú thay vì tạo áp lực”.
Xã hội hiện nay, tất cả các bạn học sinh THPT đều quan tâm đến vấn đề tìm
việc làm sau khi tốt nghiệp. Các bạn đều rất băn khoăn giữa việc mình thích hay
việc có tiềm năng. Từ đó xảy ra rất nhiều mâu thuẫn. Những nỗi băn khoăn, trăn trở
đó rất cần được các thầy cô định hướng, khuyên bảo để các bạn có thể tìm một
công việc phù hợp nhất với bản thân.
Trường học nên mở các phòng tâm lí học đường – nơi giúp các bạn có thể
chia sẻ những tâm tư, những mệt mỏi, áp lực, bế tắc trong cuộc sống để xin lời
khuyên từ các thầy cô – những người đi trước, qua đó sẽ giúp cho các bạn giải tỏa
bớt phần nào tâm tư trong lòng. Đây cũng là một cơ hội giúp cho các bạn và thầy
cô gần gũi hơn. “Tham vấn học đường – giải tỏa áp lực”. Hoặc mở các buổi giao
lưu cho mọi người được gắn kết với nhau, cho học sinh được tha hồ mà sáng tạo
hoặc hãy tạo áp lực nhưng là áp lực tích cực bằng cách tổ chức các hoạt động ngoại
khóa theo chủ đề để học sinh vừa rèn kĩ năng vừa kích thích khả năng sáng tạo của
não bộ.

55
Hình 2.15: Các hoạt động ngoại khóa của trường THPT Nhị Chiểu (ảnh chụp)
Quan tâm hơn đến học sinh, tuyên truyền mở các lớp kĩ năng sống truyền
cảm hứng, xây dựng thư viện sách ngay tại lớp học để nâng cao văn hóa đọc cũng
như tăng cường vốn sống, vốn hiểu biết cho học sinh, các câu lạc bộ với nội dung
sinh hoạt phong phú theo chủ đề nhằm cung cấp cho các bạn những kiến thức về
tâm lí tuổi dậy thì, đặc biệt là trầm cảm cho học sinh

56
Hình 2.16: Thanh niên tình nguyện THPT Nhị Chiểu tiếp sức mùa thi, giới thiệu
sách tại thư viện nhỏ của lớp ( ảnh chụp ngày 22/6/2017 và 16/11/2018)
Nhà trường sẽ là nơi tạo niềm tin cho học sinh để mỗi ngày đến trường là
một ngày vui. THPT là bước ngoặt lớn, là dấu mốc trong cuộc đời mỗi học sinh.
Giai đoạn này học sinh cần phải vượt thắng để đạt được mục tiêu, lựa chọn cuộc
sống cho tương lai. Nếu học sing không chuẩn bị một tâm lí sẵn sàng thì sẽ rất dễ
gục ngã. Vì vậy nên đây là giai đoạn rất cần sự quan tâm từ thầy cô, mái trường.
Bằng những hoạt động cụ thể đã nêu trên, trường THPT Nhị Chiểu đã thực hiện có
hiệu quả việc giáo dục ý thức học tập cũng như kĩ năng sống cho học sinh, tạo nên
những sân chơi bổ ích giúp học sinh vượt qua những khó khăn trong học tập cũng
như trong cuộc sống đặc biệt là căn bệnh trầm cảm một căn bệnh đang phổ biến
trong lứa tuổi học sinh THPT hiện nay.
Dưới đây là một số ảnh chụp một buổi Tuyên truyền về trầm cảm do học
sinh 11A trường THPT Nhị Chiểu tổ chức:

57
Hình 2.17: Hoạt động tuyên truyền phổ biến kiến thức về căn bệnh trầm cảm của
học sinh lớp 11A (ảnh chụp ngày 14.9.2018)

2.5.1.3. Xã hội chung tay

Vì một xã hội tươi đẹp, chúng ta “Hãy ngừng lại việc phán xét, chỉ trích”
người khác. Bạn không biết rằng chỉ vì một lời chỉ trích “nho nhỏ” của bạn thôi có
thể khiến người khác rơi vào chỗ chết. Vốn dĩ, học sinh trung học phổ thông tâm lí
đã “mong manh”, lại thêm những lời chỉ trích chỉ càng khiến cho các bạn áp lực
hơn, càng làm cho các bạn cảm thấy mệt mỏi và mất hứng thú hơn với cuộc sống.
Hãy thay đó là những lời động viên, an ủi, giúp các bạn có niềm tin vào cuộc sống.
Trầm cảm là một căn bệnh cần điều trị khẩn trương bởi kéo dài dai dảng sẽ
dẫn đến tự sát. Vì vậy, mong muốn của chúng tôi là làm cho xã hội, cộng đồng hiểu
được căn bệnh trầm cảm, nhận thức những nguy hại của trầm cảm để từ đó chung
tay giúp người trầm cảm vượt qua khó khăn. Bởi hơn ai hết, những người bị tràm
cảm thật sự cần người giúp đỡ. Qua điều tra khảo sát, chúng tôi thấy rằng có tới
90% nói rằng khi bị trầm cảm thì mong muốn người khác tâm sự, giúp đỡ mình.
Trầm cảm không phải căn bệnh của riêng ai nên chúng ta hãy cùng nhau chung tay
bảo vệ cộng đồng cũng là bảo vệ chính chúng ta.

2.5.2. Giải pháp thứ hai: Tăng cường các hoạt động tích cực

58
“Hãy bỏ điện thoại xuống và nhìn ra thế giới bên ngoài”, đừng chỉ nhìn
chăm chăm vào chiếc điện thoại nữa, thử nhìn ra cuộc sống ngoài kia, sẽ có nhiều
thứ hấp dẫn hơn nhiều và những điều đó còn giúp bạn rất nhiều thứ.
Thường xuyên tập thể dục thể thao để giải phóng năng lượng tiêu cực.
Giảm được stress, làm cho giấc ngủ ngon hơn. Tiếp xúc với ánh áng mặt trời là
phương thuốc đơn giản mà lại vô cùng hữu hiệu. Việc tắm nắng này sẽ giúp cho cơ
thể tạo ra hormone giúp giảm căng thẳng và tạo cảm giác hạnh phúc. Ngoài ra còn
khiến tâm trạng thoải mái, dễ chịu hơn, làm cho giấc ngủ trở nên ngon hơn và sâu
hơn. Hoặc viết nhật kí để giải tỏa được những áp lực những tâm tư mình đang giấu
kín mà muốn nói ra trong lòng từ lâu. Hay tạo ra cho mình một không gian thoáng
đãng để đọc báo, nghe nhạc thư giãn với thiên nhiên. Ăn nhiều thực phẩm có
vitamin, chất xơ,…Đặc biệt ăn nhiều sữa chua và uống trà xanh để hạn chế căng
thẳng và trầm cảm. Hạn chế ăn các thức ăn đồ uống có chứa các chất kích thích
như rượu, bia…Không chỉ với những người bị trầm cảm mà với những người bình
thường thì những phương pháp trên vô cùng cần thiết để làm cho bản thân sảng
khoái, hào hứng hơn trong một ngày mới. Bản thân sẽ không còn cảm giác mệt
mỏi, căng thẳng và vui vẻ hơn, yêu đời hơn. Và đây chính là những chất vô cùng
quý giá để hủy diệt đi căn bệnh nguy hiểm này.

Hình 2.18: Ngày hội thể thao của trường THPT Nhị Chiểu
( ảnh chụp ngày 26/3/ 2017)

59
2.5.3. Giải pháp thứ ba: Bản thân tự điều chỉnh cảm xúc

Tinh thần của các bạn học sinh là một “bãi chiến trường” mà trên đó, tất cả
các “thế lực” xã hội tác động lên. Điều đó làm cho các bạn mất kiểm soát, chật vật
trong suy nghĩ và cảm xúc cá nhân. Các bạn thấy khó khăn khi tâm sự, nói ra nỗi
lòng với người khác hay tự ti không dám thể hiện quan điểm của mình. Điều đó,
các bạn phải điều chỉnh ngay lập tức “Hãy ngừng chịu đựng trong im lặng”. Các
bạn nhớ rằng mình không hề cô độc, hãy chọn ra cho mình một người mà mình tin
tưởng nhất, có thể giúp đỡ bạn mà không phán xét gì cả. Hãy luôn luôn nhớ rằng,
bạn rất mạnh mẽ, bạn có thể phá bỏ rào cản và nhận sự giúp đỡ nghĩa là bạn sẽ
không phải chịu đựng trong im lặng nữa.
Khi bạn phát hiện ra bản thân mình đã bị trầm cảm, thì điều đầu tiên bạn phải
làm không phải là ngồi khóc lóc, đau khổ mà “Hãy học cách đối mặt với trầm
cảm”. Bạn hãy tìm đến các chuyên gia tâm lí để được tư vấn, bạn sẽ nhận được
những lời khuyên về tâm lí cũng như sử dụng thuốc (nếu cần thiết). Bạn nên học
cách suy nghĩ tích cực, hãy nghĩ rằng chỉ cần nghe theo lời khuyên của bác sĩ thì
mình sẽ khỏi bệnh. Hãy xây dựng một cuộc sống vàng bằng cách: tập thể dục
thường xuyên sẽ làm giảm các triệu chứng trầm cảm; ăn uống điều độ, ăn nhiều rau
xanh và các loại thức ăn chưa nhiều vitamin; ngủ đủ giấc giúp cho bạn có một tinh
thần thoải mái hơn; đi ra ngoài tìm kiếm sự mới mẻ giúp cho bạn không bị nhàm
chán.
Tự ti sẽ làm cho các bạn trở nên tách biệt với thế giới, vậy nên lời khuyên
tiếp theo là “Hãy tự mình vượt qua sự tự ti”. Hãy viết ra những nỗi sợ của bạn ra
một tờ giấy rồi dán tại nơi mà bạn dễ nhìn thấy nhất, mỗi một ngày hãy cố gắng thử
làm một việc trái ngược lại nỗi sợ đó, dần dần bạn sẽ cảm thấy bản thân tự tin hơn
trong cuộc sống. Hãy nghĩ đến những ưu điểm của mình để phát triển nó. Bạn có
một chất giọng tốt, hãy thử thuyết trình trước đám đông; bạn đam mê thanh nhạc,
hãy thử hát một lần,… Điều đó, lâu dần sẽ tạo thành thói quen và giúp bạn tự tin
hơn.

60
Đôi khi, chúng ta cảm thấy bất lực và như bị mắc kẹt trong một cái hộp, làm
đi làm lại cùng một việc, lo lắng người khác sẽ nghĩ gì về chúng ta và những việc
chúng ta làm. Hãy thoát khỏi chiếc hộp đó và sống thoải mái lên. Hãy đừng quan
tâm những gì người khác nghĩ về mình vì mình sinh ra đâu phải để làm người khác
hài lòng, hãy sống một cuộc sống mình mơ ước chứ không phải do người khác sắp
đặt. Hãy mỉm cười chấp nhận mọi chuyện thay vì nổi cáu, điều đó sẽ giúp bạn bớt
mệt mỏi hơn đó. Hãy đặt ra một mục tiêu cho bản thân và trao thưởng cho mình khi
đạt được điều đó. Bạn nên tạo động lực cho bản thân mỗi ngày và dừng lại việc
sợ hãi. Hãy tự tin tiến về phía trước chứ không phải tỏ ra mệt mỏi hay kiệt sức. Tự
tạo động lực giúp cho bản thân ngày càng mạnh mẽ và tự tin hơn trong cuộc sống.
Đời người mênh mông vô tận nhưng có mấy khi được bằng phẳng. Mọi
người thường nói đời là bể khổ, nhưng khổ ở đây là như thế nào? Khổ ở đây không
phải là để cho chúng ta mặc đời mà chìm xuống mà khổ ở đây là động lực để vươn
lên. Thử hỏi có ai mà chưa từng khóc vì bị một câu chỉ trích, có ai mà chưa từng
tuyệt vọng hay xấu hổ về bản thân mình. Vậy sự sắp đặt một cuộc đời bi kịch, một
số phận hẩm hiu hay những vấp ngã đường đời được tạo ra để làm gì? Mọi thứ luôn
có cái giá của nó và những vật cản ấy được tạo ra là để rèn giũa mỗi chúng ta. Có
những người khi gặp khó khăn thì lùi mình, chùn bước. Họ sợ hãi đẩy mình ra xa
khỏi cuộc sống vì họ sợ, họ không dám đối mặt, họ sợ phải đấu tranh, sợ phải chết.
Thế nhưng họ đâu biết chính cái bước lùi của họ là vũ khí để giết họ một cách tàn
bạo nhất. Sự nhút nhát lé tránh có thể giết đi chính bạn nhưng ngược lại mạnh mẽ
là vũ khí duy nhất có thể cứu vãn. Mỗi chúng ta, chính là chìa khóa để ngăn chặn
trầm cảm, mình phải “tự kiểm soát được cảm xúc, tự mình phải vươn lên, dùng ý
chí đánh lại cái nhút nhát của chính mình”.
 Như Victor Frankl đã từng có câu: Những người đã từng sống trong các trại
tập trung vẫn nhớ hình ảnh những con người đi qua các túp lều để an ủi người
khác, cho đi mẩu bánh mì cuối cùng mà họ có. Số người này tuy không nhiều,
nhưng họ là bằng chứng cho chúng ta thấy rằng một người có thể bị tước đi tất cả

61
trừ một thứ: quyền tự do – quyền lựa chọn thái độ và hành vi trước bất kỳ tình
huống nào xảy ra. Chính vì vậy, khi bạn ở trong bất cứ tình huống nào đi chăng
nữa thì hãy luôn “lạc quan yêu đời”.
So sánh bản thân mình với người khác có thể giúp con người ta tốt lên, như
một chiếc “đòn bẩy” giúp người ta cố gắng nhưng cũng có thể khiến con người ta
trở nên ám ảnh với những khuyết điểm của bản thân. So sánh bản thân mình với
người khác càng khiến bản thân cảm thấy tồi tệ hơn. Vậy nên, “hãy ngừng lại việc
so sánh bản thân với người khác” vì bạn nên biết rằng, mọi sự so sánh trên đời
này đều khập khiễng, để mà lí tưởng hóa là không thể, cái gì cũng chỉ mang tính
chất tương đối, nên bản thân cùng đừng tạo ra áp lực cho bản thân thêm nữa mà
hãy trân trọng những gì bản thân đang có và tiếp tục cố gắng phấn đấu hoàn thiện
tốt bản thân mình hơn.
Chúng ta hãy sống và cháy hết mình với đam mê. Chúng ta cần phải học
cách quên đi quá khứ, quên đi những gì không hay của cuộc đời. Biến nó thành
động lực để tiếp tục phấn đấu cố gắng. Sống trong quá khứ chỉ tạo ra sự nhu nhược
trong chính cuộc đời mình. Nó giam bạn vào trong quá khứ, khiến bạn trở nên mê
muội và quên đi hiện tại. Nếu quá khứ là câu chuyện buồn thì bạn tự nhốt mình
trong sự thương nhớ, trong tội lỗi, trong cô đơn. Hủy hoại đi cuộc sống, tương lai
của chính mình. Dồn nén bạn vào bi thương trong quá khứ, dần dần khi quá đau
khổ chì chính bạn sẽ chết dần chết mòn đi vì sự cô quạnh ấy. Vì vậy thứ mà tất cả
mọi người cần phải làm và nhận thức được đó chính là từ bỏ quá khứ mà hãy nhìn
về tương lai, đừng để bản thân mình phải chịu đựng đau đớn của quá khứ.
“Hãy sắp xếp cho mình một thời gian biểu hợp lí”, điều này sẽ giúp các bạn
dung hòa được giữa việc học và vui chơi, nghỉ ngơi, thư giãn. Cụ thể, hãy ghi
những việc bạn cần làm ra rồi lần lượt giải quyết nó và từ đó hãy cố gắng dành thời
gian cho việc giải lao. Điều này sẽ giúp các bạn bớt căng thẳng hơn khi có những
lịch học dày đặc.

62
“Hãy theo đuổi đam mê, rồi thành công sẽ theo đuổi bạn” đây là câu nói
khá nổi tiếng của nhà văn Rosie Nguyễn. Mỗi chúng ta có một lần để sống, một lần
để ngắm nhìn cuộc đời thì hãy sống trọn vẹn. Dĩ nhiên, nếu có đam mê mà không
có sự kiên trì cố gắng thì đam mê cũng sẽ trở thành bọt biển tan nhanh vào trong
nước. Nhưng chúng ta có quyền được đam mê, quyền được thực hiện. Thanh xuân
của chúng ta nó giống như cơn mưa rào, nắm mộng ước trên trời cao. Vì vậy, hãy
sống một cách nhiệt huyết và đam mê cháy bỏng. Để tạo ra một chiếc bánh thành
công thì đam mê là nguyên liệu ban đầu. Nhưng ý chí và nghị lực vượt khó, sự kiên
trì của bản thân là gia vị quan trọng để hoàn thành chiếc bánh. Và khi chiếc bánh ấy
ra đời thì thành quả tuyệt vời ấy chính là món quà to lớn và ý nhất trong cuộc đời
chúng ta. Có một lần được tồn tại thì hãy cháy hết mình với đam mê, với mơ ước
để không hoang phí một cuộc đời.
Chạm đến ước mơ của chính mình không phải là điều dễ dàng. Mỗi người
chúng ta là cá thể khác biệt, mỗi người có điểm mạnh và điểm yếu riêng. Điều quan
trọng là mình hiểu được mình, biết được ưu và nhược điểm của bản thân để từ đó
tuân theo mà mài rũa chính mình. Để bắt đầu tìm hiểu chính mình thì việc bạn cần
làm là ngừng so sánh bản thân mình với người khác, ngừng suy nghĩ tiêu cực về
bản thân, học cách lắng nghe và yêu thương chính mình. Hiểu mình chính là bước
đầu tiên để có một ước mơ cho cuộc đời, nhưng sau đó nó lại mở ra cho bạn một
chặng đường dài. Đi hết hay không thì chính là dựa vào đa mê, nhiệt huyết, nỗ lực
và sự mạnh mẽ vượt qua quá khứ, vượt qua nội tâm của chính bản thân mình. Đừng
để cho bản thân mình hối tiếc vì không chớp lấy cơ hội, vì đã trải qua những tháng
ngày nhạt nhẽo bên nhưng gì mình không thích. Cho nên, hãy làm những điều bạn
thích, hãy đi theo tiếng chỉ đường của tim mình, hãy sống theo cách mình thích.
Đừng để bản thân hối hận khi dang dở ước mơ vì căn bệnh trầm cảm.
Khi bạn đã cố gắng làm tất cả nhưng không đem lại hiệu quả thì có nghĩa bạn
đã bị trầm cảm nặng, liệu pháp tâm lý của chúng tôi đã không còn phù hợp. Một lời
khuyên chân thành dành cho bạn là đừng giấu giếm bệnh tật của mình, đừng chịu

63
đựng nó một mình mà hãy nói với gia đình đưa đến các bệnh viện gặp các bác sĩ
chuyên khoa để được thăm khám và điều trị kịp thời. Đừng chần chừ bạn nhé. Cuộc
sống là của bạn và bạn hãy cứu lấy mình trước khi quá muộn.

Từ 7000 năm trước, phương pháp giải phẫu thần kinh truyền thống đã được
áp dụng vào con người. Tại Mỹ thời kì này người ta thường sử dụng phương pháp
giải phẫu thần kinh để chữa trị cho những người có vấn đề về tâm thần. Mặc dù vậy
những họ vẫn luôn cho rằng các bệnh liên quan đến thần kinh là do linh hồn quỷ
ám. Họ cho rằng vấn đề này để chữa trị thì cần tác động lên não bộ để đuổi quỷ đi.
Họ đã đục hộp sọ ra một lỗ để xua đuổi ma quỷ đi. Như vậy ngay từ hàng nghìn
năm trước phương pháp trị liệu các bệnh tâm thần bằng việc tác động vào hệ thần
kinh đã được áp dụng. Về cơ bản thì đây chính là cái mới cái tiên bộ của thời kì
này. Qua cơ sở này, các nhà khoa đã áp dụng vào để giải phẫu cấy ghép điện cực
vào não người bị trầm cảm. Hiện nay, tuy có nhiều biện pháp trị liệu bằng thuốc,
tâm lí thậm trí là sốc điện thì đều có tác dụng phụ của nó. Nhưng phương pháp cấy
ghép điện cực đang là biện pháp thành công nhất, khả năng khỏi là hoàn toàn. Tuy
nhiên chi phí cho phương pháp này cũng không rẻ.
Thuốc luôn là thứ cần thiết mà mọi người luôn nhắc đến mỗi khi bị trầm
cảm. Đa số mọi người cho rằng, trầm cảm có thuốc chữa rồi nên không cần lo lắng.
Đúng là hiện nay đã có thuốc chữa trầm cảm nhưng dùng như thế nào? Dùng bao
lâu là khỏi bệnh? Khi dừng thuốc liệu bệnh có tái phát không? Câu trả lời cũng
được các nhà khoa học chỉ rõ thuốc cũng giống như liều thuốc an thần chỉ được
một thời gian rồi lại thôi. Nó giúp cho cơ não chúng ta thư giãn ra, ngủ ngon giấc
hơn. Cho dù thế nào thì thuốc cũng chỉ giúp chúng ta được một phần của căn bệnh.
Vì vậy phải biết phối hợp các phương pháp cả dùng thuốc cũng như tâm lý trị liệu
với những người bị trầm cảm nặng vì chúng ta biết trầm cảm là căn bệnh liên quan
đến thần kinh, là chứng rối loạn tâm lý nên phương pháp trị liệu bằng tâm lý có xác
suất khỏi bệnh cao.

64
PHẦN III
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
3.1 Kết luận
Xuất phát từ sự tò mò của bản thân cũng như thực trạng vấn đề số người mắc
bệnh trầm cảm có xu hướng gia tăng và trẻ hóa. Chúng tôi đã tiến hành điều tra
khảo sát thực tế, sau khi thống kê và thảo luận nhóm tác giả đã tìm hiểu được tỉ lệ
học sinh THPT mắc bệnh trầm cảm, nguyên nhân gây ra căn bệnh, đặc biệt là hậu
quả của căn bệnh gây ra làm ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống như thế nào. Từ
đó nhóm tác giả đã đề xuất một số giải pháp và kiểm chứng được hiệu quả của các
giải pháp trên một số phương diện.
Việc đối mặt với thế giới đáng sợ bên ngoài và thế giới nội tâm hỗn độn bên
trong thường dẫn đến hậu quả là các bạn học sinh THPT bị choáng ngợp và bối rối.
Tâm lí ở độ tuổi này rất dễ xảy ra các cuộc nội chiến nội tâm mạnh mẽ, và nếu như
không phát hiện kịp thời thì sẽ khiến cho các bạn bị trầm cảm. Trầm cảm thật sự rất
đáng sợ, nó khiến các bạn đang là một quả bóng to bị xẹp xuống chẳng còn tí hơi
nào. “Trầm cảm ở học sinh THPT – Thực trạng và Giải pháp” là một đề tài
mang tính khoa học và thực tiễn cao trong cuộc sống. Đề tài của chúng tôi không
chỉ giúp nhà trường, các bậc phụ huynh, mọi người trong xã hội có cái nhìn khái
quát về trầm cảm từ đó đưa ra những giải pháp thiết thực trong đó chú trọng đến
giải pháp tự bản thân điều chỉnh cảm xúc để vượt lên trầm cảm. Những giải pháp
mà chúng tôi đưa ra đều có thể áp dụng vào cuộc sống thường nhật. Hi vọng rằng
nghiên cứu của chúng tôi có thể giúp ích phần nào cho các bạn để các bạn cảm thấy
yêu cuộc sống hơn, cháy hết mình với tuổi trẻ và giúp giảm thiểu tối đa tình trạng
các bạn học sinh tự tử vì trầm cảm.
3.2. Khuyến nghị
Đề tài áp dụng hiệu quả cho những bạn bị trầm cảm nhẹ và chủ yếu khai thác các
yếu tố nội sinh từ bản thân mỗi cá nhân: khi bản thân tự tạo áp lực cho mình thì giải
pháp cũng chính là bản thân tự điều chỉnh cảm xúc và hành động của mình. Bên

65
cạnh sự hỗ trợ của mọi người thì chính mình mới là người giúp mình vượt qua trầm
cảm. Cá nhân mỗi bạn học sinh THPT phải có ý thức đối với sức khỏe của chính
bản thân mình.

66
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Tailieu.vn : Bệnh trầm cảm thời đại hiện nay.

2. Sách “Đừng để trầm cảm tấn công bạn” – Bác sĩ David D.Burns.

3. Kho tri thức số bệnh viện nhi trung ương


4. Báo cáo khoa học 2014 của bác sĩ khoa nhi Trần Thị Hải Vân

67
PHỤ LỤC

PHIẾU KHẢO SÁT

Chào bạn!

Chúng tôi là nhóm học sinh đến từ trường THPT Nhị Chiểu. Như chúng ta đã biết,
học sinh THPT có rất nhiều biến động trong tâm lí. Đây có lẽ là giai đoạn nhạy
cảm cũng như cần sự quan tâm nhiều nhất. Qua đó, chúng tôi làm phiếu khảo sát
này với mong muốn giúp các bạn vượt qua những khó khăn, áp lực để chúng ta
được sống thật ý nghĩa!

Xin chân thành cảm ơn!

1. Bạn có thường xuyên gặp phải trạng thái tâm lý nào? (có thể chọn nhiều phương
án)

 Buồn chán, mệt mỏi Mất hứng thú với học tập
 Căng thẳng  Tự ti, bi quan
 Hay cáu gắt  Không muốn làm gì
 Cảm thấy cô đơn  Đã từng nghĩ tới tự tử
2. Nguyên nhân nào khiến bạn rơi vào trạng thái đó?

Áp lực từ gia đình


Áp lực từ chính bản thân ( so sánh mình với người khác, ép bản thân phải
đạt được điểm cao, tự chỉ trích phê phán mình…)
Áp lực từ các mối quan hệ xã hội ( tình bạn, tình yêu,…)
Áp lực từ nhà trường
3. Bạn sẽ hành xử như thế nào khi bị người khác phê phán hoặc chê bai?

…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………

68
…………………………………………………………………………………
………………………
4. Bạn sẽ cảm thấy thế nào khi bạn thân hoặc anh/ chị/ em ruột trong nhà hơn bạn
về mọi mặt ?

…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
………………………
5. Bạn có bao giờ suy nghĩ hay đau đầu, lo lắng về đánh giá của người khác về
mình không? Vì sao?

…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
6. Bạn đã bị trầm cảm bao giờ chưa? Bạn đã từng nghĩ bản thân mình sẽ bị trầm
cảm không? Nếu bị rơi vào trạng thái đó bạn sẽ làm gì? Khi đó bạn muốn gì từ
những người xung quanh?
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
7. Bạn có đề xuất giải pháp nào để khắc phục tình trạng này không? Và có mong
muốn gì để khiến bạn giải tỏa được áp lực nhiều phía?

…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………

69
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
8. Bạn chọn cách sống nào? Lý giải cho sự lựa chọn của bạn?

………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………

CHÁY HẾT MÌNH !

70

You might also like