You are on page 1of 20

GIẢNG DẠY MÔN VĂN HÓA VIỆT NAM TRONG SỰ

GẮN KẾT VỚI KIẾN THỨC CHUYÊN NGÀNH LUẬT


Thứ tư, 25 6 2014 09:55 | TS. Lê Thị Hồng Vân

1. Về sự cần thiết của việc gắn kết môn Văn hóa Việt Nam với nhiệm vụ đào tạo
chuyên ngành Luật

Hiện nay trong chương trình đào tạo các chuyên ngành khoa học xã hội và nhân văn
nói chung và chuyên ngành Luật nói riêng ở Việt Nam, môn Đại cương Văn hóa Việt
Nam là một môn học thuộc nhóm kiến thức cơ sở ngành, nhằm trang bị cho người học
những kiến thức cơ bản và có hệ thống về cơ sở hình thành, quá trình hình thành và các
đặc trưng bản sắc của văn hóa truyền thống Việt Nam – những yếu tố chi phối đến sự
hình thành thói quen, lối sống, phong tục, tập quán, cách tư duy và ứng xử của người Việt
xưa và nay. Vai trò “nền tảng” của môn học được thể hiện:

1.1. Đối với nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực, do đối tượng của các ngành khoa học
xã hội là con người trong các quan hệ xã hội nên việc trang bị cho người học những kiến
thức nền tảng về văn hóa nói chung và văn hóa Việt Nam nói riêng là không thể thiếu,
nhằm giúp người học nhận thức được vai trò của văn hóa trong sự phát triển toàn diện và
bền vững của xã hội, khi nhân tố quyết định của sự phát triển là con người, mà nội lực chi
phối mọi hành vi của con người lại là nhân cách văn hóa – nơi hội tụ của các năng lực trí
tuệ, đạo đức, tâm hồn, tình cảm của con người.

Xét trên phương diện này, trong việc đào tạo nguồn nhân lực cho ngành Luật, yếu tố
con người lại càng quan trọng, bởi họ phải gánh trọng trách, sứ mạng thiết lập và thực thi
công lý để xây dựng nề nếp, kỷ cương cho xã hội.

1.2. Xét về phương diện kiến thức chuyên môn, đối với các ngành đào tạo khoa học
xã hội nhân văn nói chung, các kiến thức, hiểu biết về văn hóa và văn hóa Việt Nam giúp
người học có thể phân tích, lý giải và đánh giá các sự kiện, các vấn đề văn hóa – xã hội
đã và đang diễn ra trong thực tiễn đời sống liên quan đến các lĩnh vực hoạt động chuyên
ngành. Đối với việc đào tạo chuyên ngành Luật lại càng có ý nghĩa thiết thực hơn, khi
giữa văn hóa và văn hóa pháp luật có một mối quan hệ máu thịt, hữu cơ. Bởi nếu văn hóa
là một phạm trù xã hội để chỉ phương thức sống đặc trưng của một cộng đồng, biểu hiện
thông qua thói quen ứng xử giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội, thì văn
hóa pháp luật là tổng thể các hành vi thể hiện thói quen ứng xử của con người trong môi
trường điều chỉnh của pháp luật, là sự hiện thực hóa năng lực tinh thần và ý thức của con
người trong các hoạt động pháp luật. Do đó, văn hóa pháp luật là một lĩnh vực biểu hiện
của văn hóa, là một bộ phận cấu thành hữu cơ và là sản phẩm tất yếu và trực tiếp của một
nền văn hóa - tức chịu sự chi phối của các đặc trưng văn hóa - lối sống, thói quen tư duy
và ứng xử của mỗi cộng đồng trong những môi trường sinh thái và nhân văn cụ thể.

Vì những lẽ trên, trong việc giảng dạy môn Văn hóa Việt Nam cho sinh viên ở
trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, chúng tôi luôn ý thức và quán triệt sâu sắc việc
gắn kết các kiến thức văn hóa Việt Nam với kiến thức chuyên ngành Luật để:

a) Tạo sự gắn kết giữa một môn học thuộc khối kiến thức cơ sở ngành với kiến thức
chuyên ngành Luật, để việc giảng dạy môn Đại cương Văn hóa Việt Nam thể hiện đặc
thù riêng của trường Luật, qua đó nhằm nâng cao tính ứng dụng thực tiễn của môn học.
Cụ thể là:

- Trang bị cho sinh viên những tri thức về văn hóa ứng xử với pháp luật cũng như ý
thức một cách sâu sắc về vai trò của văn hóa pháp luật trong việc xây dựng nhà nước
pháp quyền ở nước ta hiện nay.

- Giúp người học ý thức được mối quan hệ bản chất giữa văn hóa với văn hóa pháp
luật và lý giải được thực trạng văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay từ sự chi phối của
nền tảng văn hóa truyền thống, qua đó nhằm gắn kết những kiến thức cơ sở ngành với các
tri thức chuyên ngành; giúp sinh viên biết vận dụng những kiến thức về văn hóa Việt
Nam vào việc lý giải những vấn đề trong thực tiễn ứng xử với pháp luật của cá nhân và
cộng đồng.

b) Việc bổ sung những kiến thức về văn hóa pháp luật còn nhằm góp phần nâng cao
chất lượng đào tạo nguồn nhân lực cho ngành Luật một cách toàn diện, vừa “hồng”, vừa
“chuyên”, bởi những tri thức chuyên sâu về pháp luật không đồng nghĩa với chất lượng
văn hóa trong thái độ và hành vi ứng xử với pháp luật.

Khi người làm luật được chính thức trao quyền áp đặt khuôn mẫu xử sự lên toàn xã
hội thì họ cũng chính là tấm gương mẫu mực để các chủ thể quan hệ xã hội noi theo. Và
cũng chính nhân cách, phẩm chất và cách hành xử của những người thực thi pháp luật là
tiêu chí đầu tiên để đo lường chất lượng của một nền văn hóa pháp luật. Nếu văn hóa ứng
xử của người thực thi pháp luật không chuẩn mực thì pháp luật sẽ có nguy cơ bị lạm
dụng, và thay vì để tổ chức hành vi của chủ thể trong đời sống pháp lý, nó sẽ trở thành
công cụ để chống lại pháp luật. Ngay ở các nước có nền văn hóa pháp luật lâu đời, có
tinh thần thượng tôn pháp luật cao, người ta vẫn ý thức rằng, muốn pháp luật được tôn
trọng một cách phổ biến, nghĩa là bằng ý thức công dân tự giác, thì trước hết nhà chức
trách công phải nêu gương.

Do đó, trong nhiệm vụ và mục tiêu đào tạo của trường Đại học Luật, cùng với việc
truyền thụ kiến thức chuyên môn, không nên coi nhẹ việc trang bị cho sinh viên mảng
kiến thức này. Việc giáo dục văn hóa ứng xử với pháp luật cho sinh viên Luật nhằm nâng
cao chất lượng văn hóa trong hành xử pháp lý cho những người hành nghề Luật, để khi ra
trường họ biết thực hiện các công việc chuyên môn một cách có văn hóa, có đạo đức
nghề nghiệp và trách nhiệm xã hội; để họ không chỉ trở thành những nhân tố đại diện cho
văn hóa ứng xử tích cực đối với pháp luật, mà còn có vai trò giáo dục, nêu gương,
“hướng đạo”, có ý thức và trách nhiệm trong việc xây dựng một xã hội có nền văn hóa
pháp luật tích cực, lành mạnh, góp phần xây dựng một xã hội thượng tôn pháp luật như
mục đích của công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền.

Vấn đề càng có ý nghĩa thiết thực và cấp bách hơn khi trong bối cảnh hiện nay, văn
hóa ứng xử với pháp luật trong xã hội ta còn nhiều tiêu cực, biểu hiện ở thói quen không
tuân thủ pháp luật, coi thường pháp luật, lách luật, lối ứng xử tùy tiện với pháp luật…
đang tồn tại khá phổ biến và biểu hiện dưới nhiều hình thức đa dạng, phức tạp, không chỉ
từ phía người dân mà ngay cả đối với một bộ phận cán bộ, công chức trong các cơ quan
công quyền, thậm chí, cả với những người đang nắm giữ cán cân công lý. Theo đó là sự
gia tăng đến mức báo động các hành vi vi phạm pháp luật, coi thường kỷ cương phép
nước. Đó cũng chính là những biểu hiện của một nền văn hóa pháp luật không lành
mạnh, một thái độ ứng xử văn hóa không thượng tôn pháp luật. Thực trạng ấy đang ngày
càng làm suy giảm lòng tin của người dân đối với tính hiệu lực của pháp luật và sức
mạnh của bộ máy công quyền.

Trong bối cảnh ấy, để công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta sớm trở
thành hiện thực, cần phải coi việc xây dựng một nền văn hóa pháp luật tích cực, lành
mạnh như một nhiệm vụ có tính cấp bách, cần được đưa lên vị trí ưu tiên trong chiến lược
phát triển.
2. Các nội dung cụ thể của môn học cần gắn kết với kiến thức chuyên ngành
Luật

Trong khi truyền thụ kiến thức môn học, chúng tôi đã thực hiện sự liên hệ, gắn kết
với kiến thức chuyên ngành Luật trên những vấn đề cơ bản sau đây:

2.1. Làm rõ những vấn đề có tính phương pháp luận về mối quan hệ giữa văn
hóa với pháp luật và văn hóa pháp luật

Trong bài Nhập môn, khi làm rõ khái niệm về văn hóa và các phạm trù có liên quan,
chúng tôi cũng đồng thời làm rõ mối quan hệ giữa văn hóa với pháp luật cũng như mối
quan hệ giữa văn hóa với văn hóa pháp luật.

a) Về mối quan hệ giữa văn hóa với pháp luật

Trong cuộc sống, cả văn hóa và pháp luật đều có chức năng điều chỉnh hành vi của
con người, bởi vì, mọi tổ chức xã hội đều chỉ có thể duy trì được sự tồn tại trên cơ sở của
sự thỏa thuận giữa các thành viên trong cộng đồng. Sự thỏa thuận này được thể hiện dưới
hai hình thức: luật thành văn - đó là luật pháp, và luật bất thành văn – đó là các qui tắc
cộng đồng biểu hiện dưới dạng phong tục, tập quán, lối sống, thói quen…, được mọi
người tuân thủ một cách tự giác đến mức tự nhiên, thậm chí như là vô thức - đó là văn
hóa. Trong mối quan hệ này, “văn hóa có một ảnh hưởng không thể phủ nhận đối với
pháp luật. Văn hóa chính là cuộc sống, do đó, việc xây dựng pháp luật, theo lẽ tự nhiên,
phải dựa trên những kinh nghiệm văn hóa, tức là pháp luật phải có khả năng biến thành
văn hóa để điều chỉnh cuộc sống” (Nguyễn Trần Bạt). Chính vì vậy, thói quen văn hóa là
cơ sở, là nền tảng quan trọng để xây dựng pháp luật.

Đồng thời, cũng chính trong lĩnh vực hoạt động pháp luật, văn hóa có khả năng hiện
thực hóa những năng lực nhân tính, phát huy vai trò và tăng cường hiệu quả của pháp luật
trong xã hội. Đến lượt mình, tính hiệu quả của pháp luật trong xã hội là chỉ số, là thước
đo chất lượng Chân – Thiện – Mỹ của một nền văn hóa. Do đó, để hiểu pháp luật thì
trước hết phải hiểu thực tiễn xã hội của pháp luật. Hiểu thực tiễn xã hội của pháp luật
cũng tức là phải hiểu nền tảng văn hóa của xã hội nơi có sự hiện hữu của pháp luật.

b) Về mối quan hệ giữa văn hóa với văn hóa pháp luật
Nếu “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người
sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người
với môi trường tự nhiên và xã hội”[1] thì “Văn hóa pháp luật là sự ứng xử của con người
trong môi trường những điều chỉnh của pháp luật, bao gồm tri thức, tư tưởng, quan điểm,
thái độ, kinh nghiệm và thói quen, được tích lũy trong quá trình xây dựng và thực thi
pháp luật, được biểu hiện qua hệ thống các văn bản pháp luật, hệ thống các thiết chế
thực thi pháp luật và hành vi ứng xử với pháp luật”[2].

Xét về mặt kết cấu, văn hóa pháp luật là bộ phận cấu thành của một nền văn hóa.
Nếu các đặc trưng văn hóa của một dân tộc được biểu hiện qua các sản phẩm vật chất,
các sản phẩm tinh thần, các thói quen trong lối sống và hành vi ứng xử, thì cũng có thể
nhận diện văn hóa pháp luật qua các phương diện biểu hiện cụ thể như: ý thức pháp luật,
hệ thống và các thiết chế pháp luật, lối sống và hành vi ứng xử với pháp luật.

Về quan hệ, văn hóa pháp luật vừa là một lĩnh vực biểu hiện của văn hóa xã hội,
nhưng cũng đồng thời là sản phẩm của văn hóa xã hội, chịu sự tác động của các yếu tố xã
hội như phương thức sản xuất, các hệ tư tưởng, đạo đức, thói quen, lối sống, phong tục
tập quán… Sự hình thành văn hóa pháp luật của một quốc gia, do vậy, không thể không
bị chi phối bởi những đặc trưng văn hóa truyền thống. Nói cách khác, quá trình hình
thành nên một nền văn hóa pháp luật của một cộng đồng có thể tìm thấy nguyên nhân sâu
xa trong tập quán sản xuất, nếp sống, phong tục và những thói quen sinh hoạt của đời
sống hàng ngày của cộng đồng ấy.

2.2. Nhận diện các biểu hiện của văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay trong sự
kết nối với các đặc trưng văn hóa truyền thống

Học xưa để hiểu nay là nguyên tắc luôn được chúng tôi quán triệt khi cung cấp cho
sinh viên những hiểu biết về các đặc trưng bản sắc của văn hóa truyền thống trong sự liên
hệ, kết nối với thực tiễn văn hóa Việt Nam trong bối cảnh hiện nay, trong đó dành sự
quan tâm đặc biệt hơn đối với lĩnh vực văn hóa ứng xử với pháp luật. Cụ thể là, qua các
bằng chứng thực tế giúp người học nhận thức được một thực trạng đáng báo động là văn
hóa pháp luật Việt Nam hiện nay đang bộc lộ nhiều tiêu cực, từ ý thức đến hành vi. Cách
hành xử không thượng tôn pháp luật đang diễn ra hàng ngày, ở mọi nơi, mọi lúc, với mọi
đối tượng, dưới nhiều hình thức biểu hiện đa dạng và phức tạp. Tình trạng vi phạm pháp
luật, coi thường pháp luật, lách luật… không chỉ diễn ra đối với một bộ phận không nhỏ
người dân, mà cả các cơ quan công quyền, trong đó các cơ quan bảo vệ và thực thi pháp
luật cũng không phải là ngoại lệ.

Lý giải nguyên nhân của thực trạng văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay, không
khó để nhận thấy các nguyên nhân trực tiếp như: do năng lực của các thiết chế thực thi
pháp luật và hệ thống pháp luật còn nhiều hạn chế, bất cập khiến pháp luật không được
thực thi một cách hiệu quả; do phần đông người Việt Nam hiện nay vẫn chưa thực sự
hình thành thói quen, lối sống và nguyên tắc ứng xử thượng tôn pháp luật… Tuy nhiên,
đằng sau các nguyên nhân trực tiếp ấy là sự chi phối của những căn nguyên sâu xa từ nền
tảng văn hóa truyền thống với sự cộng hưởng bởi ba yếu tố hạt nhân, đó là: văn hóa nông
nghiệp lúa nước, Nho giáo và Phật giáo. Bầu khí quyển văn hóa đậm đặc chất phương
Đông này đã tồn tại hàng ngàn năm, thẩm thấu trong mọi lĩnh vực của cuộc sống, từ kinh
tế, chính trị, tư tưởng, đến đạo đức, lối sống, thói quen, tâm lý, tình cảm, cách tư duy,
ứng xử của nhiều thế hệ cha ông cho đến tận ngày nay, trong đó không chỉ bao gồm
những phẩm chất tinh hoa mà còn cả những cặn bã cần phải tẩy chay, loại trừ khi nó
không còn phù hợp với bối cảnh xã hội hiện đại. Do đó, bên cạnh những giá trị tốt đẹp
của truyền thống hiện đang phát huy sức mạnh trong công cuộc hiện đại hóa đất nước thì
lại cũng còn đó không ít những căn tính tiểu nông, những nhược điểm của truyền thống
đang di căn sâu sắc trong tâm lý cộng đồng dưới dạng những thói quen, tập quán, những
nếp suy nghĩ, những lề thói làm ăn, những cách ứng xử… Đó chính là những trở lực tạo
nên sự trì níu nặng nề cho công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay
nói riêng và công cuộc đổi mới để phát triển đất nước nói chung.

Bởi vậy, khi phân tích những đặc trưng của văn hóa truyền thống, cần phải giúp
người học liên hệ, kết nối, tìm ra cái mạch ngầm chi phối từ nền tảng văn hóa truyền
thống đến văn hóa ứng xử với pháp luật của người Việt hiện nay trên cả hai mặt tích cực
và tiêu cực. Đó cũng là cơ sở cho việc đề xuất những giải pháp có tính nền tảng để có thể
từng bước chữa trị từ gốc cho những căn bệnh xã hội của cả cộng đồng mà xem ra lúc
này đã đến hồi báo động.

a) Sự tác động của văn hóa nông nghiệp lúa nước đến văn hóa ứng xử với pháp luật
của người Việt xưa và nay

Việt Nam đang xây dựng Nhà nước pháp quyền trên nền tảng của một xã hội nông
nghiệp cổ truyền với sự chi phối của nhân tố gốc là phương thức sản xuất nông nghiệp
lúa nước, theo đó, thành phần cư dân tuyệt đại bộ phận là nông dân, sinh sống trong
không gian làng xã. Điều kiện đặc thù này đã tồn tại hàng ngàn năm, đã tạo nên nền tảng
văn hóa của dân tộc Việt với thói quen, lối sống của cư dân nông nghiệp lúa nước, được
bảo lưu, làm thành mạch ngầm xuyên suốt chiều dài không gian và thời gian của dân tộc
Việt. Diện mạo của nền văn hóa nông nghiệp lúa nước Việt Nam biểu hiện qua những
đặc trưng có tính trội như: tính cộng đồng và ứng xử trọng tình; lối sống tự trị khép kín
và thói quen ứng xử “phép vua thua lệ làng”; tư duy tiểu nông chủ quan, cảm tính và lối
ứng xử mềm dẻo, linh hoạt, tùy tiện,… Tất cả đã để lại những dấu ấn sâu sắc trong các
lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng, đạo đức, tạo nên lối sống, thói quen, tâm lý, tình
cảm, cách tư duy, ứng xử của nhiều thế hệ người Việt Nam. Những đặc trưng này của
văn hóa truyền thống hàm chứa cả mặt tích cực và tiêu cực trong sự tác động đối với sự
phát triển hiện nay của đất nước, trong đó có văn hóa ứng xử với pháp luật.

Trước hết, nói đến văn hóa Việt Nam là nói đến văn hóa làng xã, với đặc trưng nổi
trội là tính gắn kết cộng đồng vô cùng bền chặt, được hình thành trên nền tảng của hai
mối quan hệ: huyết thống (Một giọt máu đào hơn ao nước lã) và láng giềng (Bán anh em
xa mua láng giềng gần). Tính cộng đồng đã in đậm dấu ấn trong tâm lý, tính cách, trong
bản sắc văn hóa Việt Nam, chi phối đến đời sống và các quan hệ ứng xử của người Việt
xưa và nay với cả hai mặt tích cực và tiêu cực.

Không thể phủ nhận mặt tích cực của tính cộng đồng khi nó tạo nên truyền thống
ứng xử tốt đẹp của dân tộc ta, đó là tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái, là sự gắn bó,
sẻ chia lúc khó khăn hoạn nạn. Tuy nhiên, trong bối cảnh quá độ để chuyển sang một xã
hội đô thị và công nghiệp, từ góc nhìn của văn hóa ứng xử với pháp luật, tính cộng đồng
lại là tác nhân gây nên nhiều hệ lụy tiêu cực nhiều hơn là tích cực.

Có thể thấy, mặt trái của tính cộng đồng trước hết là sự phủ nhận, ức chế sự phát
triển cá tính, kìm hãm vai trò cá nhân. Ý thức về quyền cá nhân vì vậy không được phát
triển, thay vào đó là sự phụ thuộc, sự phục tùng của cá nhân vào cộng đồng. Chính sự lệ
thuộc của cá nhân vào cộng đồng làm cho con người trở nên thụ động trong các quan hệ,
không dám khẳng định bản lĩnh và nhân cách cá nhân, không dám nhân danh cá nhân để
đòi hỏi những quyền lợi chính đáng cho mình.

Sự hạn chế phát triển ý thức cá nhân do lối sống đề cao tính cộng đồng vẫn còn để
lại dư vị nặng nề trong xã hội hiện đại và gây khó khăn đáng kể cho việc xây dựng Nhà
nước pháp quyền, khi mục đích của Nhà nước pháp quyền sinh ra để trước hết và trên hết
nhằm đảm bảo các quyền và tự do của cá nhân. Xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt
Nam vì vậy đã gặp phải lực cản từ những đặc điểm của một nền tảng văn hóa mà ở đó
con người bị ràng buộc vào vô vàn các nghĩa vụ, không có chỗ cho sự khẳng định các
quyền cá nhân. Đó là nguyên do giải thích vì sao người Việt Nam hiện nay vẫn chưa thực
sự tự giác và chủ động trong việc sử dụng các quyền cá nhân của mình trong ứng xử với
các quan hệ xã hội và quan hệ pháp luật, mặc dù đã được hiến pháp và pháp luật qui định.

Cũng chính từ lối sống đề cao tính cộng đồng và hạ thấp vai trò cá nhân là nguyên
nhân làm cho con người trở nên thụ động trong các quan hệ, ít dám làm và cũng từ đó
cũng không dám chịu trách nhiệm trước cộng đồng và người khác, từ đó hình thành tâm
lý và thói quen dựa dẫm, ỉ lại. Tâm lý và thói quen ứng xử này được đúc kết và lưu
truyền trong dân gian qua các câu thành ngữ quen thuộc như: Nó lú có chú nó khôn; Sẩy
cha có chú, sẩy mẹ bú dì; Con dại cái mang…

Tâm lý dựa dẫm, ỉ lại được nâng lên một bước cao hơn là lợi dụng các mối quan hệ
thân quen, họ hàng để tìm kiếm sự che chở, nâng đỡ, mưu cầu lợi ích cá nhân. Tư tưởng
“Một người làm quan, cả họ được nhờ”, “Nhất thân nhì quen tam thần tứ thế” trở thành
một thói quen ứng xử rất phổ biến ở thời kỳ phong kiến, trong xã hội truyền thống Việt
Nam. Hiện nay, mặc dù quan niệm trên đã bị hạn chế bởi một số điều luật (Luật Công
chức) nhưng trên thực tế, tư tưởng này vẫn còn tồn tại rất phổ biến trong suy nghĩ và
hành vi của xã hội như một căn bệnh trầm kha. Thực trạng “con ông cháu cha”, nạn “ô
dù”, “chủ nghĩa thân quen”, sự kéo bè kết cánh dựa trên mối quan hệ huyết thống, bà con,
đồng hương… tuy không tồn tại một cách chính thống và công khai nhưng ai cũng có thể
thấy căn bệnh này đã và đang là một vấn nạn xã hội, hàng ngày đang âm thầm, âm ỉ tác
động tiêu cực, làm suy giảm sức mạnh của hệ thống công quyền, gây nên nhiều bức xúc
trong xã hội.

Chính các mối quan hệ “con ông cháu cha”, “gia đình trị”, “thân quen”, “thần thế”
này đã góp phần làm vô hiệu hóa pháp luật khi người ta kết bè cánh để thực hiện những
hành vi tham nhũng, tiêu cực, thậm chí vi phạm pháp luật ở ngay chính những người
nhân danh bảo vệ và thực thi pháp luật. Khi tiêu cực bị phát hiện thì người ta lại tìm cách
che chắn cho nhau vì sợ “rút dây động rừng”, bởi vậy các hành vi sai phạm, tiêu cực
không bị tố giác, không bị truy cứu trách nhiệm đến nơi đến chốn, không được xử lý
nghiêm theo luật pháp, để rồi kết quả cuối cùng cũng chỉ là “hòa cả làng”.
Tính cộng đồng cũng là căn nguyên sâu xa để lý giải về một thực tế hiện đang diễn
ra rất phổ biến trong các lĩnh vực của đời sống xã hội ta hiện nay. Đó là tình trạng ứng xử
kiểu “cha chung không ai khóc”, “lắm sãi không ai đóng cửa chùa”, được biểu hiện rất
phổ biến trong các hành vi ứng xử hàng ngày, mà biểu hiện cụ thể là sự thờ ơ, chối bỏ,
đùn đẩy trách nhiệm, lãng phí của công…

Có thể nói, trách nhiệm cá nhân có một vai trò quan trọng trong việc thực hiện
quyền và nghĩa vụ pháp lý trong các quan hệ pháp luật. Tuy nhiên, trong đời sống pháp
luật ở Việt Nam hiện nay, tính chịu trách nhiệm cá nhân xét cả từ hai phía người dân và
các cơ quan công quyền còn rất thấp, mà nguyên nhân trực tiếp là do chủ nghĩa bình quân
tập thể của cơ chế cũ để lại, nhưng nguyên nhân sâu xa là do sự cản trở từ lối sống cộng
đồng và các hệ lụy của nó trong văn hóa nông nghiệp truyền thống.

Mặt khác, cũng từ tính gắn kết cộng đồng cao đã tạo ra lối ứng xử nặng tình nhẹ lý –
một hệ lụy tiêu cực trong ứng xử với pháp luật.

Cuộc sống cộng đồng ở làng xã đã tạo ra sự đoàn kết gắn bó, yêu thương đùm bọc
lẫn nhau, đó là ngọn nguồn của nếp sống “trọng tình” trong truyền thống ứng xử của
người Việt, đó cũng là một nét nổi trội trong đặc trưng văn hóa truyền thống Việt Nam.
Cả cuộc đời và qua nhiều đời, người dân quê Việt Nam chỉ làm ăn, sinh sống ở làng, mọi
người hiểu nhau rành rẽ, thân quen, gắn bó với nhau từ tấm bé với hai mối quan hệ giằng
chéo bền chặt là huyết thống và láng giềng “Hàng xóm láng giềng tối lửa tắt đèn có
nhau”. Yếu tố duy tình - lối sống giàu tình cảm, trọng tình nghĩa là một nét đẹp trong
truyền thống của dân tộc. Truyền thống đó tạo ra cuộc sống hoà thuận, lấy tình nghĩa làm
đầu; tình cảm trở thành thước đo giá trị trong mọi hành vi ứng xử của con người. Cũng
do lối sống nông nghiệp quần cư, khép kín sau lũy tre làng dựa trên các mối quan hệ thân
tộc, láng giềng cùng với nền sản xuất nhỏ tự cung tự cấp khiến cho các quan hệ xã hội
thuần nhất, có tính ổn định cao. Các quan hệ ứng xử cũng như các giao dịch dân sự chủ
yếu dựa trên cơ sở của các chuẩn mực đạo đức, tình cảm và lòng tin mà không cần đến
các bằng chứng có tính pháp lý.

Vì quan hệ trong làng như một đại gia đình, ở đó lợi ích của một người gắn với lợi
ích của cộng đồng, “phúc cùng hưởng, họa cùng chịu” nên khi có điều gì không hay xảy
ra người ta không muốn “vạch áo cho người xem lưng” để khỏi “xấu chàng hổ ai”, từ đó
đã hình thành nguyên tắc ứng xử tất yếu là phải che chắn, bảo vệ, “đóng cửa bảo nhau”,
“tốt khoe, xấu che”, kể cả việc dung túng cho lỗi lầm. Nếu có mâu thuẫn, tranh chấp với
nhau thì được giải quyết bằng con đường hòa giải hơn là kiện tụng, trên tinh thần nhường
nhịn, cảm thông, “chín bỏ làm mười”, “dĩ hòa vi quí”. Sống trong môi trường mà tình
cảm được coi là tiêu chí, là chuẩn mực ứng xử nên lâu dần hình thành lối ứng xử nửa vời,
cả nể, thiếu tính quyết đoán, dễ dàng thỏa hiệp (Sư nói cũng phải, vãi nói cũng hay;
Tháng ba cũng ừ, tháng tư cũng gật; Gió chiều nào theo chiều ấy).

Lối ứng xử trọng tình nhẹ lý trở thành nguyên tắc cơ bản chi phối, điều tiết các mối
quan hệ cũng khiến cho việc hành xử thường nặng tính chủ quan, tùy tiện, thiếu tính
nguyên tắc. Đặc điểm này cũng được đúc kết và lưu truyền trong dân gian qua các câu
thành ngữ quen thuộc như: Một bồ cái lý không bằng một tí cái tình; Yêu nhau cau sáu bổ
ba, ghét nhau cau sáu bổ ra làm mười; Yêu nhau mọi việc chẳng nề, dẫu trăm chỗ lệch
cũng kê cho bằng; Yêu nhau củ ấu cũng tròn, ghét nhau quả bồ hòn cũng méo…

Việc xử lý các quan hệ theo tình cảm sẽ dẫn đến thiếu tôn trọng tính nguyên tắc, tùy
tiện là một điều tất yếu. Truyền thống duy tình đã làm cho người ta có thể có nhiều cách
xử sự khác nhau trong cùng một hoàn cảnh, trong khi đó pháp luật lại phải là chuẩn mực
chung để điều tiết các mối quan hệ một cách nghiêm khắc dựa trên tiêu chí khách quan và
thống nhất. Bởi vậy, lối sống trọng tình khiến người ta dễ dị ứng với pháp luật, chỉ coi
pháp luật là một giải pháp “cực chẳng đã”. Đó là một lý do khiến cho pháp luật bị vô hiệu
hóa ngay từ trong suy nghĩ của mỗi cá nhân cho đến hành vi ứng xử phổ biến của cộng
đồng trong xã hội Việt Nam truyền thống.

Xét về mặt tích cực, nguyên tắc ứng xử này giúp bảo vệ các mối quan hệ xã hội thân
thuộc, củng cố tính cộng đồng và tinh thần đoàn kết, ít xảy ra các tranh chấp dân sự, duy
trì sự ổn định của xã hội. Tuy nhiên, hệ quả tiêu cực là pháp luật không còn uy lực khi cái
lý bị đẩy xuống hàng thứ yếu so với cái tình.

Không thể phủ nhận rằng, công lý trước hết và trên hết phải xuất phát từ nền tảng là
lòng yêu thương, cho nên hiển nhiên là cái lý không thể đặt trong thế đối lập với cái tình.
Tuy nhiên, trong một xã hội mà nếu cái tình ở vị trí được ưu tiên hơn, thậm chí lấn át cái
lý thì pháp luật tất yếu sẽ không được coi là một công cụ quan trọng để điều tiết các quan
hệ xã hội. Lối ứng xử ấy đối lập hoàn toàn với tinh thần "thượng tôn pháp luật", một đòi
hỏi tất yếu của xã hội văn minh, hiện đại. Nhưng trong xã hội Việt Nam cổ truyền, cái
truyền thống trọng tình hơn lý đã khiến cho pháp luật không phải là một cách giải quyết
tranh chấp được ưa chuộng. Câu thành ngữ “vô phúc đáo tụng đình” thể hiện thái độ của
người dân coi chuyện ra toà là một cái gì đó ghê gớm, làm tổn hại thanh danh và sứt mẻ
tình cảm vì “một đời kiện, chín đời thù”. Do vậy, các hành vi tố giác tội phạm gần như
không diễn ra khi người ta sợ dư luận hơn cả hình phạt. Một khi cái tình được đặt cao
hơn cái lý thì nhu cầu sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền lợi cho mình không trở thành
một thói quen ứng xử phổ biến của người dân từ trong nhận thức cho đến hành vi. Đây
cũng là một nguyên nhân dẫn đến tâm lý thờ ơ, né tránh pháp luật, không xem pháp luật
là cách giải quyết được ưu tiên, là công cụ bảo vệ quyền lợi cho mình. Cho đến ngày nay,
người Việt vẫn chưa có thói quen tìm đến pháp luật khi xảy ra các tranh chấp dân sự như
một hành vi ứng xử phổ biến ở các nước có nền văn hóa pháp luật tích cực.

Trong bối cảnh hiện nay, văn hóa ứng xử "lấy cảm tình làm bản vị" của người Việt
đang là một thách đố gay gắt khi đất nước đang bước vào tiến trình hội nhập quốc tế mà
tinh thần "thượng tôn pháp luật" là điểm tựa của việc thực hiện những cam kết quốc tế. Ý
thức tôn trọng pháp luật và tính chủ động sử dụng pháp luật với tính cách là yếu tố của
văn hóa pháp luật có vai trò cực kỳ quan trọng đối với cơ chế hành vi của các chủ thể,
nhưng đây lại là một trong những điểm yếu lớn nhất được nhận thấy trong thực tiễn pháp
lý ở nước ta hiện nay. Bằng chứng là, đối với người dân và doanh nghiệp, việc giải quyết
các tranh chấp dân sự, kinh tế không cần đến pháp luật vẫn còn tồn tại ở một bộ phận
không nhỏ, bởi số đông người dân vẫn e dè khi nói đến việc kiện tụng, giải quyết tranh
chấp bằng luật pháp... Rất ít doanh nghiệp có luật sư, chuyên viên pháp chế chuyên trách
làm công tác pháp lý, dự báo các vấn đề pháp lý nảy sinh (ngoại trừ doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài). Luật sư Trần Đình Triển, trưởng Văn phòng Luật sư Vì dân nhận xét:
“… giới doanh nhân Việt Nam ít có thói quen sử dụng luật sư. Các doanh nghiệp có thói
quen vướng đâu thì “chạy” bằng phong bì, mạnh hơn nhau bằng cái đó, chứ không phải
đưa nhau lên trên bàn để giải quyết đúng - sai bằng luật pháp, nên các doanh nghiệp
không cần thiết phải có bộ phận pháp chế để làm cố vấn cho họ. Điều này trái ngược hẳn
với giới doanh nhân quốc tế”.

Cùng với tính cộng đồng, tính tự trị khép kín - một đặc trưng nổi trội khác của văn
hóa truyền thống – sản phẩm của phương thức sản xuất nông nghiệp lúa nước cũng là
nguyên nhân tạo nên lối sống trọng lệ hơn luật và thói quen ứng xử “phép vua thua lệ
làng” mà hiện nay vẫn còn diễn ra rất phổ biến ở mọi nơi, mọi lúc trong xã hội.
Để phù hợp với phương thức sản xuất nông nghiệp lúa nước, người Việt sống quần
tụ trong không gian làng quê, bao quanh làng là lũy tre và cổng làng, khiến cho làng nào
biết làng ấy. Về kinh tế, mỗi làng tồn tại như một đơn vị kinh tế độc lập, khép kín, có khả
năng tự túc tự cấp nên không có nhu cầu quan hệ giao thương với bên ngoài. Về tình
cảm, các thành viên trong làng đều có quan hệ họ hàng, nên quan hệ giao lưu tình cảm
cũng tự đầy đủ, khép kín trong phạm vi làng. Về phong tục, mỗi làng có luật tục (lệ làng,
hương ước) riêng. Về mặt hành chính, mỗi làng có bộ máy hành chính tự quản, có vai trò
và chức năng giải quyết mọi việc trong làng. Sự độc lập về không gian địa lý, về kinh tế,
về bộ máy hành chính, về tình cảm, phong tục đã khiến cho mỗi làng tồn tại như một
“tiểu vương quốc”, độc lập trong quan hệ với làng khác và tự quản trong quan hệ với
quốc gia. Chính từ đây đã hình thành lối sống tự trị, khép kín, hướng nội như là một đặc
trưng tiêu biểu của văn hóa làng Việt. Nếu như tính cộng đồng có chức năng liên kết các
thành viên trong cùng một làng (hướng ngoại), thì tính tự trị lại xác định sự tồn tại độc
lập, khép kín giữa làng này với làng khác và tính tự quản của làng so với chính quyền
trung ương (hướng nội). Tính tự túc tự cấp của nền kinh tế tiểu nông cùng với bộ máy
hành chính tự quản đã khiến cho làng luôn có xu hướng “ly tâm” với chính quyền trung
ương.

Cùng với đó, hương ước - luật tục - lệ làng có vai trò như luật pháp. Trong suốt cả
ngàn năm xây dựng quốc gia tự chủ, mặc dù các triều đại phong kiến đã xây dựng và thực
thi nhiều bộ luật, song bên cạnh đó vẫn duy trì và tôn trọng các hương ước, lệ làng. Trong
hương ước của đa số các làng đều khẳng định: “… nước có luật nước, làng có hương ước
riêng…”. Bởi vậy, trong xã hội truyền thống Việt Nam, từ hàng ngàn năm, hương ước -
luật tục - lệ làng đã tồn tại song song với luật pháp của nhà nước (Lệ làng/ phép nước), là
công cụ để duy trì bộ máy tự quản trong tổ chức cộng đồng làng xã. Hương ước được xây
dựng trên cơ sở phong tục, tập quán của làng xã, được “qui phạm hóa” dưới hình thức
văn bản, được nhà nước thừa nhận như những văn bản pháp lý để trở thành qui tắc xử sự
chung của mỗi làng, phản ánh tâm lý, phong tục, tập quán, nếp sống đã ăn sâu vào tiềm
thức của mỗi cư dân trong làng, tạo nên một áp lực tinh thần bất khả kháng của “lệ làng”,
ràng buộc mỗi thành viên trong làng vào một nề nếp, qui củ, tạo thành nếp sống chung ổn
định trong không gian khép kín của mỗi làng. Do đó, hương ước thực chất là một dạng
tồn tại của pháp luật rất đặc thù trong chế độ làng xã tự trị của xã hội Việt Nam truyền
thống. Trong khi người dân trong làng ít hiểu về luật pháp của nhà nước thì lại rất am
hiểu lệ làng và tuân thủ lệ làng một cách nghiêm ngặt, thậm chí còn coi “Phép vua thua lệ
làng”.

Việc quản lý xã hội bằng hương ước - lệ làng đã dẫn đến hệ quả là, cư dân làng xã
đã từ bao đời quen sống với luật tục mà không quen sống theo luật pháp. Trong tâm thức
người dân, “phép nước” là những gì còn xa lạ, trong khi hằng ngày, hằng giờ họ chỉ đối
mặt với lệ làng, với những bổn phận mà lệ làng đặt ra cho họ. Lâu dần từ đây tạo ra tâm
lý, thói quen trọng lệ hơn luật.

Lối sống trọng lệ hơn luật và thói quen không tuân thủ pháp luật của người Việt
truyền thống đã để lại những di hại vô cùng nặng nề cho hôm nay. Biểu hiện rõ nhất của
tư duy “Phép vua thua lệ làng”, của lối sống trọng lệ hơn luật hiện nay đó là tư tưởng cục
bộ địa phương, là hiện tượng bè phái, cấu kết, bao che để bênh vực, bảo vệ quyền lợi cho
nhau; đó là tư tưởng chỉ vì lợi ích cục bộ của cái cộng đồng nhỏ mà không quan tâm đến
lợi ích của số đông, của quốc gia đại cục. Những tư tưởng và hành vi ứng xử này đang
tồn tại rất phổ biến trong xã hội ta, mà biểu hiện cụ thể là:

- Nếu ngày xưa coi trọng lệ làng hơn phép nước thì ngày nay hiện tượng “trên bảo
dưới không nghe”, những hành vi ứng xử coi thường pháp luật, bất chấp pháp luật vẫn
đang diễn ra vô cùng phổ biến trong xã hội ta với rất nhiều những hình thức biểu hiện
khác nhau, không chỉ từ phía người dân mà cả các cơ quan công quyền. Trong thực tế,
nhiều cơ quan nhà nước tự đặt ra các qui tắc riêng, trên danh nghĩa là cụ thể hóa pháp luật
nhưng về thực chất là ngược lại với tinh thần của pháp luật, hoặc vi phạm pháp luật, gây
khó khăn cho công dân trong việc thực hiện các quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
PGS. TS Nguyễn Đăng Dung gọi đó là “lệ làng thời hiện đại”[3].

- Ảnh hưởng của tư tưởng cục bộ, hẹp hòi, bè phái, của “chủ nghĩa thân quen” còn
thể hiện rõ trong các quan hệ quyền lực. Việc tuyển chọn và bố trí nhân sự trong bộ máy
công quyền không ít khi còn bị chi phối bởi “chủ nghĩa thân quen” và quan niệm “con
ông cháu cha”, “Một người làm quan cả họ được nhờ”[4]. Sự kéo bè, kéo cánh, đưa anh
em, họ hàng và những người thân quen vào cơ quan nhà nước; lập bè phái, phe nhóm ở
địa phương... là những biểu hiện của tư duy cục bộ, hẹp hòi, làm suy giảm sức mạnh của
bộ máy công quyền, làm hạn chế vai trò của pháp luật, làm ảnh hưởng không nhỏ đến lợi
ích chung vì sự phát triển của xã hội, của đất nước.
Nếu trong nền sản xuất nhỏ tự cung tự cấp, tư tưởng này hình thành như là một sự
thích nghi tối ưu và tất yếu thì ngày nay, khi đất nước bước vào quá trình hội nhập,
chuyển sang mô hình xã hội đô thị và công nghiệp thì những lối sống, thói quen tư duy ấy
của truyền thống đã không còn thích hợp. Không những không còn thích hợp, nó còn như
những tảng đá lớn đang cản đường đi lên của đất nước và là nguyên nhân gây nên những
hành vi ứng xử tiêu cực. Bởi vậy, để hội nhập và phát triển cần phải thoát ra khỏi những
hạn chế của văn hóa làng xã trên tinh thần “gạn đục khơi trong”.

Cùng với tính cộng đồng và tính tự trị, tư duy tiểu nông tùy tiện, chủ quan, cảm tính
và thói quen ứng xử mềm dẻo, linh hoạt cũng là một đặc trưng của văn hóa nông nghiệp
đã chi phối không ít đến cách hành xử với pháp luật của người Việt xưa và nay.

Cuộc sống nông nghiệp ở định cư đã đặt con người trong nhiều mối quan hệ phải
ứng xử, từ tự nhiên đến xã hội. Trong quan hệ với tự nhiên, công việc sản xuất nông
nghiệp lúa nước phụ thuộc cùng lúc vào nhiều yếu tố như đất đai, nguồn nước, thời tiết,
khí hậu... những yếu tố vốn thay đổi rất thất thường, “sớm nắng chiều mưa” buộc con
người phải biết ứng phó linh hoạt mới có thể tồn tại. Thêm nữa, do tính chất thời vụ của
công việc nhà nông nên thời gian và nhịp sống nông nghiệp không ổn định và nề nếp, quy
củ như lối sống công nghiệp. Lúc mùa vụ thì căng thẳng, khẩn trương, không giờ giấc;
ngược lại, lúc nông nhàn thì lại rỗi rãi, dư thừa thời gian, từ đó tạo nên lối sống tùy tiện,
không theo một nguyên tắc, nề nếp, qui trình có sẵn.

Trong ứng xử xã hội, cuộc sống cộng đồng lại ràng buộc con người trong nhiều mối
quan hệ “dây mơ rễ má” đan bện chằng chịt, từ anh em, họ hàng, thông gia đến láng
giềng… cũng đòi hỏi con người phải biết ứng xử khéo léo cho phù hợp trong từng mối
quan hệ. “Về nhận thức, cuộc sống nông nghiệp luôn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác
nhau đã khiến con người phải chú trọng tới các mối quan hệ giữa chúng, dẫn tới lối tư
duy biện chứng”[5]. Đó là cơ sở hình thành kiểu tư duy tổng hợp – biện chứng và thói
quen ứng xử mềm dẻo, linh hoạt của người Việt, là những lý do khiến cho “văn hóa Việt
Nam chứa đựng sự kết hợp kỳ diệu của cái ổn định và cái linh hoạt” (Trần Ngọc Thêm).
Trong cuốn Việt Nam văn hóa sử cương, nhà nghiên cứu Ðào Duy Anh cũng từng nhận
xét rằng, người Việt “bắt chước, thích ứng và dung hòa (...) rất tài”[6]. Còn nhà nghiên
cứu Cao Xuân Huy thì cho rằng người Việt “có cái đặc tính mềm mại, uyển chuyển, linh
hoạt, lưu động, như nước. (...) Đó là cái khả năng thích ứng vô hạn của nó (...). Chính cái
khả năng thích ứng (...) là cái tính ưu việt, cái bí quyết sinh tồn của dân tộc ta"[7].
Tư duy biện chứng và thói quen ứng xử mềm dẻo, linh hoạt, “tùy cơ ứng biến” hiển
nhiên là có nhiều lợi thế cho sự thích nghi với mọi tình huống xã hội và ứng phó với tự
nhiên trong điều kiện của cuộc sống nông nghiệp khiến con người luôn phải ở trong tình
thế bị động. Tuy nhiên, cũng chính từ đây đã sản sinh ra nhiều hệ lụy tiêu cực trong thói
quen, lối sống và các hành vi ứng xử của người Việt truyền thống, mà trước hết, và cũng
dễ nhận thấy nhất, đó là lối sống tùy tiện, thiếu tính kỉ luật, vô nguyên tắc, từ đó dẫn tới
tính tư biện trong nhận thức và tuỳ tiện trong hành động. Đặc điểm này hiển nhiên là
không thích hợp với điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường và nhu cầu hội nhập kinh
tế hiện nay. Thói quen ứng xử tùy tiện, thiếu tính kỷ luật, vô nguyên tắc lại càng không
thể chấp nhận trong một xã hội có tổ chức, nề nếp, kỷ cương với nguyên tắc thượng tôn
pháp luật, trong khi những căn tính tiểu nông này đang di căn rất nặng nề trong một bộ
phận không nhỏ người Việt Nam hiện nay cũng như đang tác động tiêu cực đến thái độ
và hành vi ứng xử với pháp luật. Do việc người ta đã quen với nhiều cách ứng xử khác
nhau trong cùng một hoàn cảnh, nên dẫn đến thói quen “lách luật” mà hiện đang tồn tại
phổ biến với nhiều dạng biến tướng khác nhau như: làm ăn gian dối, tệ nạn hối lộ, đi cửa
sau để giải quyết công việc, chạy chức chạy quyền, chạy án… Đây thực chất là biểu hiện
của lối sống coi thường pháp luật, thậm chí vô hiệu hóa pháp luật ngay từ trong suy nghĩ
và hành vi của mỗi người.

Cũng từ lối sống nông nghiệp với tư duy nặng về kinh nghiệm chủ quan, cảm tính,
thói quen tùy tiện, lối sống thiển cận “nước đến chân mới nhảy” nên đã hình thành ở
người Việt kiểu tư duy manh mún, nhỏ lẻ, thiếu tư duy lý luận, không có tính chiến lược
và tầm nhìn xa. Đặc điểm này của văn hóa tiểu nông đã và đang hiện diện rõ nét trong
lĩnh vực hoạch định chính sách pháp luật, soạn thảo, ban hành các văn bản pháp luật và
thực thi pháp luật; sự tùy tiện, chủ quan, cảm tính, sự thiếu đồng bộ và nhất quán trong
việc soạn thảo, ban hành các văn bản pháp luật cũng như việc tổ chức và thực thi pháp
luật đang là những hạn chế rất lớn, gây nên nhiều tác động tiêu cực đối với đời sống xã
hội, làm gia tăng thói quen hành xử không thượng tôn pháp luật, suy giảm niềm tin vào
tính hiệu lực của pháp luật. Đó là nguyên nhân trực tiếp khiến cho lời tuyên truyền, kêu
gọi “Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật” hiện chỉ đang là khẩu hiệu chứ chưa
trở thành một thói quen trong văn hóa ứng xử.

Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong điều kiện phát triển nền
kinh tế thị trường và đẩy mạnh hội nhập quốc tế trước hết đòi hỏi hệ thống pháp luật phải
được xây dựng đồng bộ, thống nhất, hoàn thiện mới có thể hòa nhập bình đẳng trong sân
chơi quốc tế. Vì vậy, khi cái chất tiểu nông với thói quen, lối sống tùy tiện, vô kỷ luật,
với kiểu tư duy manh mún, nhỏ lẻ, thiếu tầm nhìn chiến lược đang có sức sống tiềm tàng
trong tâm thức mỗi người Việt Nam, từ nông thôn đến thành thị, từ nông dân đến trí thức,
từ thường dân đến quan chức… thì đó không chỉ là những thủ phạm đang níu kéo, cản trở
công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền mà còn là một rào cản rất lớn đối với đất nước
trong quá trình hội nhập để phát triển.

Cùng với những đặc trưng văn hóa nông nghiệp lúa nước với thói quen, lối sống
cộng đồng, trọng tình nhẹ lí, trọng lệ hơn luật vốn đã rất nặng nề thì Nho giáo và Phật
giáo, vốn là những yếu tố văn hóa ngoại sinh nhưng đã hòa nhập, thẩm thấu vào tầng sâu
của bản sắc văn hóa Việt Nam cũng góp phần củng cố thêm thái độ ứng xử tiêu cực với
pháp luật của người Việt. Bởi vậy, khi giảng về tư tưởng, giáo lý của Nho giáo và Phật
giáo, cần chỉ ra ảnh hưởng của nó đến văn hóa ứng xử với pháp luật của người Việt xưa
và nay.

b) Ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo đến văn hóa ứng xử với pháp luật

Hơn 1.000 năm du nhập vào Việt Nam, Nho giáo Trung Hoa để lại dấu ấn sâu đậm
trong lòng văn hóa Việt để từ đó tác động sâu sắc và toàn diện đến tư tưởng lối sống,
cách tư duy và hành vi ứng xử của người Việt, trong đó tư tưởng trong đạo lý hơn pháp lý
và tính tôn ti, thứ bậc trong chuẩn mực ứng xử của Nho giáo đã có những ảnh hưởng
không ít đến văn hóa ứng xử với pháp luật của người Việt.

Nho giáo là hệ tư tưởng đề cao vai trò của đạo đức và lễ giáo trong quản lý xã hội,
trong đó, Tam cương, Ngũ thường và thuyết Chính danh được coi là những nguyên lý
thường hằng, bất biến, là các chuẩn mực đạo đức làm cơ sở để đánh giá hành vi xử sự của
con người theo đúng vị thế xã hội của mình, và đó cũng là nền tảng để xây dựng xã hội
thái bình, trật tự và ổn định. Mặc dù không phủ nhận vai trò của pháp luật, nhưng theo
Khổng Tử: “Cai trị dân mà dùng mệnh lệnh, đưa dân vào khuôn phép mà dùng hình phạt
thì dân có thể tránh được tội lỗi nhưng không biết liêm sỉ. Cai trị dân mà dùng đạo đức,
đưa dân vào khuôn phép mà dùng lễ thì dân sẽ biết liêm sỉ và thuận lòng quy phục”[8].
Khổng Tử quan niệm rằng, pháp luật chỉ khiến người ta vì sợ mà không dám làm điều ác.
Khi có thể giấu, có thể tránh được sự trừng phạt thì những kẻ xấu vẫn cứ làm điều ác.
Đức trị thì khác. Khi chuẩn mực đạo đức thành hành vi tự nguyện của dân thì họ không
phạm tội nữa. Mặt khác, Khổng tử cũng cho rằng: “Dùng lễ có lợi hơn pháp luật, có thể
ngăn cấm được việc chưa xẩy ra, còn dùng pháp luật thì chỉ để trị cái việc đã rồi, bởi vậy
thánh nhân chỉ trọng lễ chứ không trọng hình”[9]. Đó là lý do giải thích vì sao trong kho
tàng lý luận của mình, Nho giáo ít bàn đến luật pháp và cũng không coi trọng vai trò của
luật pháp trong việc trị nước.

Khi xã hội được tổ chức theo triết lý đức trị, lấy sự tự giáo dục theo “nhân, nghĩa, lễ
trí, tín” để làm nguyên tắc “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” thì pháp luật bị đẩy
xuống hàng thứ yếu là lẽ hiển nhiên. Cả ngàn năm tồn tại của thể chế nhà nước phong
kiến trên nền tảng của tư tưởng Nho giáo cũng đủ để ăn sâu vào tâm thức người Việt tư
tưởng “trọng đức” hơn “trọng pháp”.

Ngoài ra, quan niệm coi trọng tính tôn ti thứ bậc, sự phân biệt bất bình đẳng và sự
phục tùng tuyệt đối trong các mối quan hệ từ trong gia đình đến ngoài xã hội (Quân xử
thần tử, thần bất tử bất trung; Phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu; Muốn nói oan làm
quan mà nói; Muốn nói ngoa làm cha mà nói), Nho giáo đã đào luyện cho con người thói
quen phục tùng, tiết chế tối đa tư tưởng và hành vi phản kháng, chống đối, kiện tụng. Đó
cũng là cách để Nho giáo khuyến khích “vô tụng”; việc sử dụng pháp đình vì vậy không
được coi trọng, như Khổng Tử từng nói: “Xét xử việc kiện tụng, ta cũng như người. Tất
phải làm cho dân không có việc kiện tụng”[10].

Tư tưởng, giáo lí của Nho giáo dung hợp với văn hóa nông nghiệp lúa nước đã hình
thành những tư tưởng ăn sâu trong tư duy và cách ứng xử của người Việt truyền thống và
hiện vẫn còn di căn rất rõ nét trong tâm lý xã hội, từ hành vi của người dân cho đến cách
hành xử của các cơ quan công quyền. Bằng chứng là, người Việt Nam hiện nay đa phần
vẫn chưa có thói quen tìm đến tòa án để được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình[11]. Ngay cả doanh nghiệp là nơi có nhu cầu cao về pháp luật nhưng vẫn chưa có
thói quen làm việc với luật sư trong việc hoạch định các chính sách, tìm kiếm đối tác hay
đảm bảo tính pháp lý trong các quyết định kinh doanh của mình. Khi có tranh chấp xảy ra
thì việc giải quyết bằng con đường phi tư pháp, thậm chí là phi pháp được coi trọng hơn
là tìm đến tòa án, bởi trong ý thức và thói quen hành xử phổ biến của người Việt hiện
nay, việc khởi kiện tại tòa chỉ là một giải pháp bất đắc dĩ trong nhiều con đường giải
quyết tranh chấp khác.
Tóm lại, được nảy sinh và nuôi dưỡng trong môi trường văn hóa nông nghiệp tiểu
nông cùng với tư tưởng Nho giáo và thể chế chính trị của nhà nước quân chủ quan liêu
nên lối sống trọng lệ hơn luật, trọng đức hơn trọng pháp được bảo lưu lâu bền trong suốt
cả hàng ngàn năm phong kiến, ăn sâu vào tâm lý, tư duy, ứng xử của xã hội, trở thành lực
cản không nhỏ đối với mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay ở nước ta nói
riêng cũng như công cuộc hiện đại hóa đất nước nói chung.

c) Ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo đến văn hóa ứng xử với pháp luật

Khác với Nho giáo, Phật giáo du nhập vào nước ta bằng con đường hòa bình nên đã
nhanh chóng bén rễ ngay từ thời Bắc thuộc, để rồi cộng sinh và thẩm thấu trong văn hóa
Việt ở tầng sâu nhất của triết lí sống từ ngàn năm nay. Ngay từ khi du nhập vào Việt
Nam, những giáo lý cơ bản của đạo Phật như “từ bi hỉ xả”, “cứu khổ cứu nạn”, “phổ độ
chúng sinh”, với các triết lý sống hiếu hòa, nhân ái, vị tha, bao dung đã sớm được cư dân
Việt chấp nhận rộng rãi và đã nhanh chóng có được chỗ đứng quan trọng trong đời sống
văn hóa tinh thần của người Việt. Tư tưởng khoan dung, nhân ái của Phật giáo đã cộng
hưởng rất đồng điệu với văn hóa trọng tình của người Việt, được kết tinh ở tầng sâu nhất
của triết lý sống đã góp phần quan trọng trong việc điều chỉnh suy nghĩ, quan điểm nhận
thức về cuộc sống cũng như hành động hằng ngày của con người, góp phần đem lại sự
bình yên cho cuộc sống.

Tuy nhiên, từ góc nhìn của văn hóa ứng xử với pháp luật thì Phật giáo lại cũng
không tránh khỏi việc tạo nên sự tác động tiêu cực. Bởi trong khi đề cao những giá trị
sống tốt đẹp, nhân văn để tạo lập sự bình yên, hòa mục cho xã hội thì lại cũng chính tư
tưởng từ bi bác ái của Phật giáo đã góp phần làm hạn chế, thui chột khả năng hành động
và đấu tranh của con người khi cần phải bảo vệ công lý, lẽ phải. Với thuyết “luân hồi”,
“quả báo”, Phật giáo khuyên con người tự tiết chế các hành vi của mình bằng thái độ
nhường nhịn, cam chịu, thậm chí cả nhẫn nhục. Điều này lý giải vì sao khi quyền lợi của
mình bị xâm hại, người Việt Nam thường không đấu tranh đến cùng mà chọn phương
pháp im lặng và trông chờ nhiều vào quả báo, tin vào sự trừng phạt của lương tâm, của
luật Trời hơn là luật pháp.

Trên đây là một số nội dung cơ bản cho thấy sự gắn kết giữa kiến thức môn Văn hóa
Việt Nam với kiến thức chuyên ngành Luật mà chúng tôi đã thực hiện trong quá trình
thực hiện bài giảng thông qua việc lý giải về văn hóa ứng xử với pháp luật của người Việt
từ sự chi phối của nền tảng văn hóa truyền thống. Ngoài ra, trong quá trình giảng dạy,
còn nhiều vấn đề cụ thể khác cũng có thể thực hiện sự liên hệ, gắn kết nhưng trong khuôn
khổ bài viết này không cho phép trình bày nhiều hơn.

3. Kết luận

3.1. Việc chỉ ra những tác động của văn hóa truyền thống đối với văn hóa pháp luật
Việt Nam hiện nay nhằm giúp người học có một cái nhìn trong chiều sâu của sự kết nối
có tính nền tảng giữa truyền thống với hiện đại, cũng như thấy được mối quan hệ máu
thịt, hữu cơ giữa văn hóa với văn hóa pháp luật và lý giải được thực trạng văn hóa pháp
luật Việt Nam hiện nay từ sự chi phối của nền tảng văn hóa truyền thống là một việc làm
cần thiết để nâng cao tính thực tiễn của môn học cũng như thể hiện tính đặc thù của việc
giảng dạy môn Văn hóa Việt Nam cho sinh viên chuyên ngành Luật.

3.2. Qua sự gắn kết này sẽ giúp sinh viên ý thức được rằng, mục tiêu xây dựng nhà
nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay còn gặp nhiều khó khăn hơn là thuận lợi, khi nó
được xây dựng trên nền tảng của một nền văn hóa đậm chất phương Đông, với sự tích
hợp giữa lối sống nông nghiệp và tư tưởng Nho giáo, Phật giáo, trong khi không phải tất
cả những gì thuộc di sản truyền thống đều là “nguyên liệu” tốt cho việc xây dựng một
nền văn hóa pháp luật tích cực, khi mà trong truyền thống văn hóa Việt Nam (cũng như
văn hóa của mỗi dân tộc nói chung) thường không chỉ có những phẩm chất tinh hoa, mà
còn có những lực cản trên con đường mà mỗi dân tộc tiến tới văn minh. Truyền thống
văn hóa ấy được tạo dựng trong cả nghìn năm nên không dễ dàng thay đổi trong xã hội
hiện đại, bởi văn hóa luôn có một sức sống lâu dài cũng như một sức mạnh tiềm tàng
không thể xem nhẹ, khi con người luôn hành động theo tập quán, theo thói quen, theo
những kinh nghiệm văn hóa, do đó văn hóa thậm chí còn có sức mạnh hơn cả pháp luật
trong việc điều chỉnh hành vi của con người.

3.3. Từ thực tế đó để gợi mở những vấn đề khiến người học phải suy nghĩ, đó
là:Làm thế nào để có thể xây dựng một nền văn hóa pháp luật tích cực, lành mạnh? Làm
thế nào để các hành vi ứng xử tích cực với pháp luật có thể đi vào cuộc sống một cách tự
nhiên và tự nguyện như là hành vi văn hóa? Cũng tức là làm thế nào để pháp luật có khả
năng “làm cho người cầm quyền tăng thêm được tri thức về những việc họ phải quản lý
và làm cho người thừa hành thêm hứng thú khi họ tuân lệnh”[12]?
3.4. Và trên hết, trong việc gắn kết kiến thức văn hóa Việt Nam với kiến thức văn
hóa pháp luật, cần coi trọng mục tiêu giáo dục văn hóa ứng xử với pháp luật cho sinh
viên, nhằm nâng cao chất lượng văn hóa trong hành xử pháp lý cho những người hành
nghề Luật tương lai, để khi ra trường họ có ý thức thực hiện các công việc chuyên môn
một cách có văn hóa, có đạo đức nghề nghiệp và trách nhiệm xã hội, góp phần tích cực
trong việc cải thiện tình trạng tiêu cực của văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay.

3.5. Trong quá trình giảng dạy, việc gắn kết các kiến thức văn hóa Việt Nam với
kiến thức chuyên ngành Luật cần được thực hiện linh hoạt cho phù hợp với từng đối
tượng người học theo từng hệ đào tạo (chính qui/ VLVH). Đối với hệ đào tạo VLVH, tùy
theo từng nhóm đối tượng người học với các công việc đặc thù của họ (công an/ cán bộ
phường xã/ doanh nghiệp…) để có những liên hệ phù hợp thì mới tạo được hiệu quả thiết
thực.

3.5. Để thực hiện có hiệu quả việc gắn kết giữa môn Văn hóa Việt Nam (cũng như
các môn khoa học cơ bản nói chung) với kiến thức chuyên ngành Luật, đòi hỏi giáo viên
phải tự trang bị cho mình những kiến thức cơ bản về pháp luật đại cương cũng như phải
tích cực tham dự các hội thảo, tọa đàm khoa học về các vấn đề chuyên ngành được các
khoa Luật và nhà trường tổ chức để bổ sung kiến thức pháp luật cũng như phải cập nhật
thường xuyên các thông tin về thực tiễn hoạt động pháp luật trên báo chí và các phương
tiện thông tin đại chúng để làm cho các nội dung giảng dạy được phong phú, sinh động,
có tính thực tiễn và sức thuyết phục cao.

You might also like